Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

CHÙA BÀ NGÔ

Theo cuốn Thăng Long cổ tích khảo thì chùa được xây dựng vào thời vua Lý Thần Tông (1127 – 1128). Cũng theo sách này, vào thời Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngô Khách). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm như 1863, 1864, 1865…


Vào năm Ất Hợi (đời vua Bảo Đại, tức 1934), chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): “Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa, Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành”.

Sự tích kể rằng: có một lần Lê Thánh Tông thăm chùa, thấy trên gác chuông có bóng người đẹp ngâm 2 câu thơ:

Ở đây mến cảnh mến thầy

Tuy vui đạo Phật chưa khuây lòng người.

Cũng có thuyết nói rằng nhà vua thấy một thiếu nữ xinh tươi cầm một cành mẫu đơn ngâm mấy câu như sau:


Bà Ngô Phong cảnh xinh thay

Đố ai cắt mối sầu này cho xong

Bao giờ về tới ngự cung

Thì ta sẽ dải tấm lòng cho hay



Vua bèn gặp hỏi chuyện và muốn cùng nàng xướng họa. Nàng nhường vua làm trước, lấy đề bằng 2 câu thơ nàng vừa ngâm. Vua làm bài thơ Đường Luật 8 câu trong đó có 2 câu:

Chày kình mấy khắc tan niềm tục

Hồn bướm năm canh lẩn sự đời


Nàng xin phép sửa lại là:

Gió xuân đưa kệ tan niềm tục

Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời

Vua rất phục, mời nàng lên kiệu về cung, nhưng đến cửa Đại Hưng thì nàng biến mất. Vua cho là tiên giáng trần, dựng lầu Vọng Tiên ở đó để tưởng nhớ. Lầu Vọng Tiên bị dỡ khi phá thành Thăng Long xây lại và được chuyển về số 120B phố Hàng Bông thành đền Vọng Tiên.

Một đêm nhà vua nằm mơ thấy Tiên hiện tới tự tình và nói ở nơi kinh thành lâu nay thường xảy ra tai dịch là bởi có con Thạch tinh ở dưới cái ao ngay trước quán , đã hóa ra một con gà bay đi tác quái khắp Kinh thành, phải kịp trừ ngay mới khỏi sinh tra hậu họa lớn.

Khi tỉnh dậy, nhà vua cho đào ngay ở giữa ao trước quán sâu tới 3 thước, đất đỏ như máu, thấy một một hòn đá, bèn đập vỡ tan, vứt ra ngoài sông rồi lấp phẳng ao đi. Từ đó kinh thành rất yên ổn

Tam quan của chùa là gác chuông 2 tầng, 8 mái với 8 góc đao cong. Một quả chuông đồng đúc năm Canh Dần Thành Thái thứ 2 (1887) được treo ở giữa tam quan có dòng chữ Ngọc Hồ tự chung. Phật điện gồm tiền đường và hậu cung làm theo kiểu chữ Đinh. Hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn mở rộng bằng một vì vỏ cua, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Hậu cung 4 gian có nhiều của võng. Nhà Tổ, ngoài 2 ban thờ các sư tổ Bồ Đề đạt ma, các sư tổ của chùa đã viên tịch, còn có bàn thờ đức Văn Xương

Điện Mẫu thờ các Mẫu, Ngọc Hoàng và vua Lê Thánh Tông ngồi trong ngai rồng. Hai bên thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. Tượng trong chùa hiện có 35 pho được sắp xếp dọc Phật điện. Ngoài những pho như Tam thế, A di Đà tam tôn, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Ngọc hoàng Thượng đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, còn có 10 vị Diêm Vương và tượng Bà Ngô trang phục gần như tượng Mẫu. Tượng Tổ mang nhiều nét chân dung của sư nữ…

Đặc biệt, trước hai bên cổng chính của chùa là một câu đối chữ Nôm, điều rất hiếm gặp tại các chùa ở Hà Nội.

Chùa Bà Ngô được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá năm 1993.


(sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét