Thứ Tư, 6 tháng 4, 2011

Huyền sử Phú Quốc

PHÚ QUỐC QUA HÌNH ẢNH
Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 575km2, chiều dài 50km, nơi rộng nhất phía bắc đảo 25km, nơi cao nhất 603 m tại núi Chúa. 
Đảo Phú Quốc là một huyện hành chánh thuộc tỉnh Kiên Giang, thị trấn Dương Đông, cùng với 22 đảo nhỏ khác nằm trong vịnh Thái Lan.


This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 2401x3449 and weights 1422KB.


Bãi biển Phú Quốc







Suối Tranh


This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1500x1125 and weights 577KB.


Dinh Cậu
Người xưa kể rằng một mũi đá tự nhiên nổi lên gần bờ biển, được nhân dân lập miếu thờ. Đường lên Dinh Cậu là 29 bậc thang bằng đá, trên đường lên Dinh có Miếu Thổ Thần nhỏ và một hàng rào bê tông rất vững chắc bao quanh Dinh. Trong chánh điện có khánh thờ Chúa Ngọc Nương Nương và khánh thờ Cậu. Dinh Cậu được tin rất linh thiêng, ngư dân thường dâng hương, cầu nguyện trước khi ra khơi đánh cá. Hàng năm có hàng trăm ngàn du khách phương xa đến viếng Dinh Cậu.



Chợ Dương Đông
Chợ có tất cả hải sản tươi sống mà trên đất liền khó có dịp thưởng thức. 



Nước mắm Phú Quốc
Là một loại nước mắm nổi tiếng ở Việt Nam và được biết ở nhiều nước trên khắp thế giới. Nước mắm Phú Quốc được sản xuất từ nguyên liệu cá cơm Phú Quốc, có truyền thống trên 200 năm.


This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1279x935 and weights 402KB.


Cây tiêu Phú Quốc
Tiêu Phú Quốc có vị thơm, cay nồng, hương vị đặc trưng phân biệt với những vùng miền khác. Tiêu Phú Quốc thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, phân thành ba loại: tiêu sọ, tiêu đen và đặc biệt là tiêu đỏ. Tiêu Phú Quốc được canh tác với khoảng 500ha, năng suất trung bình mỗi hecta đạt 2,5 tấn mang lại nguốn lợi xuất khẩu quan trọng cho Phú Quốc. 


LỜI GIỚI THIỆU

Như chúng ta được biết, cô Nguyễn Thị Lạc, một nông dân trình độ biết đọc biết viết, đã nhận được thông tin vũ trụ để viết nên những Vần Thơ Ngoại Cảm, đã được giới thiệu trên trang TGVH. 


Nhờ khả năng đặc biệt, cô Nguyễn Thị Lạc giao tiếp được với những nhân vật lịch sử, những người trong cuộc, để kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện dã sử dưới dạng thơ, có vần có điệu. Khi đối chiếu các sự kiện, nhân vật với lịch sử chính thống hầu như trùng khớp đến từng chi tiết.

Suốt 50 năm qua, cô đã thu nhận và ghi chép hàng ngàn tập thơ, gồm thơ tiên, truyện thơ dã sử. Mặc dù không phải tác phẩm do chính cô sáng tác, nhưng với công sức và thời gian dành cho sự nghiệp này, cô xứng đáng được công nhận như một tác giả thật sự. Trong một lần xuống cơ cho một nhà ngoại cảm phía Bắc, các bậc vô hình nhắc đến những Vần Thơ Ngoại Cảm của cô Nguyễn Thị Lạc, với tên gọi Thơ Oanh Vàng.

Nhân chuyến đi công tác Miền Tây, NNC Nguyễn Tuấn Thanh được cô Nguyễn Thị Lạc trao cho tập thơ, với tên gọi là Tình Sử Nàng Hạng Thế Châu. Khi chuẩn bị nội dung, chúng tôi thật bất ngờ, câu chuyện tình nàng Hạng Thế Châu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển hòn đảo Phú Quốc của chúng ta. Xét thấy ý nghĩa cao cả Nợ Nước trên Tình Nhà, chúng tôi mạn phép đặt cho loạt bài này là Huyền Sử Phú Quốc.

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu tập thơ với bạn đọc TGVH.
Bản quyền thuộc Tác giả Oanh Vàng.
Thông qua người đại diện NNC Nguyễn Tuấn Thanh.
Mọi trích dẫn xin ghi rõ nguồn TGVH.
HUYỀN SỬ PHÚ QUỐC
hay TÌNH SỬ HẠNG THẾ CHÂU

-------------------------------------------------------------

LỜI GIAO ƯỚC VỚI CHẾ MẬT ĐA

Có người ở nước Xiêm la (1)
Làm quan thừa tướng tên là Đồ công
Võ văn thao lược lão thông
Sánh đôi Đoàn thị cũng dòng trâm anh
Không trai nối hậu lưu danh
Sớm sanh một gái hiền lành đoan trang.
Xiêm vương ngồi ngự ngai vàng
Truyền đòi thừa tướng nghị bàn việc công,
Chữ truyền phải đến sân rồng
Đồ ông nghe nói trong lòng ngại nghi
Hậu đường bàn với thế nhi:
Vua đòi chẳng biết việc gì rủi may!
Đoàn thị bà mới thưa rằng:
Thiếp nay đã biết chuyện nay bất thường
Con mình là gái má hường
Thân danh đã gọi Đồ nương lấy chồng,
Sớm mai nó nói như vầy:
Trăng còn khi khuyết khi đầy khi vơi
Thân con ắt có đổi đời
Vơi vơi trời nước giữa đời nhân gian
Người sanh trong cõi trần hoàn
Biết làm sao khỏi tai nàn về sau
Nên lòng con trẻ xót đau
Ắt là việc nước xáo xào rồi đây,
Mẹ nên thưa lại với cha
Ải ngoài nếu mất nước nhà chẳng yên,
Có quan Nguyên soái đương quyền
Đem quân trấn thủ cho yên cõi bờ
Sợ người chém tướng đoạt cờ
Nếu không họ Chế biết nhờ cậy ai
Con đà đoán trước chẳng sai
Xin cha tâu quyết bệ giai chữ truyền
Đại Nam (2) sắp lấn giang biên
Địa đầu Tam trấn giao quyền Soái gia,
Nếu Vua có hỏi ý cha
Cha tâu để Chế Mật Đa (3) thủ thành.
Con mình nó nói đã rành
Chắc là bàn việc giữ thành chớ chi.
Đồ công liền mới nói thì:
Con mình sao nói lạ kì dữ a
Vua đòi lão đến trào ca
Chuyện cần là chuyện quốc gia chắc rồi
Vua đòi chẳng khó lôi thôi
Tới trào sẽ liệu để tôi tấu trình.
Nói rồi vào chốn triều đình
Vua liền phán hỏi việc binh ải ngoài:
Quan triều Nam đế quyền oai
Đem binh đoạt ải biết ai thủ thành
Nước ta có đủ báo lành
Biết ai anh dũng giữ thành giang biên?
Đồ công đặt gối tâu liền
Muôn tâu bệ hạ chỉ truyền Mật Đa
Chàng là một kẻ tài ba
Sai chàng giữ ải ắt là vẹn an.
Xiêm vương phán trước ngai vàng:
Mật Đa vốn thiệt một chàng trai tơ
Chỉn e (4) chẳng rõ thời cơ
Tuy làm Nguyên soái nhưng khờ lắm thay!
Thủ thành chọn kẻ tài hay
Võ văn đều phải gồm tài mới xong
Mật Đa trẫm chẳng bằng lòng
Tuổi còn quá trẻ chắc không được rồi,
Chọn ai biết cách thu hồi
Thì là bệ ngọc Trẫm ngồi mới yên
Những người trấn giữ giang biên
Tùy cơ lợi hại như nhiên mới là,
Chớ còn Nguyên soái Mật Đa
Võ thì đủ võ, văn đà thiếu văn
Làm sao đất nước an bằng
Phải thông đảm lược võ văn gồm tài.
Đồ công quì xuống thưa rằng:
Hạ thần đây đã biết tài Mật Đa
Cúi xin Bệ hạ truyền ra
Bắt chàng trấn thủ ắt là bình yên.
Vua nghe sắc chỉ ban liền
Mật Đa phải trấn giang biên giặc loàn.
Mật Đa được lịnh Bệ vàng
Tới trào lãnh lịnh Thánh hoàng ra binh
Đồ công xem thấy tướng hình
Đường đường một vị cầm binh anh hào
Nên ông mến chuộng tài cao
Muốn cho con trẻ đặng trao duyên hài
Rõ ràng lẫm liệt râu mày
Con ta mà gặp hẹn ngày sánh đôi.
Hỡi nầy Nguyên soái ngài ôi!
Nước nhà nay đã gặp hồi lâm nguy
Ngài đem quân giữ biên thùy
Chúc ngài đắc thắng đến kỳ khải ca
Đỡ nâng xã tắc sơn hà
Ra tài gìn giữ nước nhà an khang,
Tôi xin hứa trước trào đàng
Đủ đều văn võ hai hàng oai nghi
Có Vua đang ngự đơn trì
Nếu ngài dẹp giặc biên thùy bình khương
Tôi đây sẽ gả Đồ nương
Cho ngài kết đạo tào khương vợ chồng.
Vua nghe liền mới phán hồng:
Nói ra lòng giữ lấy lòng mới hay
Võ văn hãy khá nhớ rày
Khải ca trẫm sẽ chọn ngày hoa đăng.
Mật Đa liền mới tâu rằng:
Muôn tâu bệ hạ làm bằng cho tôi
Hứa rồi chắc chắn là rồi
Xin đừng nói trụt nói trồi về sau
Bây giờ tôi phải mau mau
Trước lo việc mước rồi sau việc nhà.
Nói rồi chàng kéo binh ra
Biên thùy trấn thủ giặc đà phủ vây.
CHÚ THÍCH
----------------------------
(1) Xiêm La: là tên Hán Việt của Vương quốc Ayutthaya, từ giữa thế kỷ XIV tại vùng đất Thái Lan ngày nay.

(2) Đại Nam: ý nói đến nước Đại Việt, tên gọi từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Sang đầu thế kỷ XIX Nhà Nguyễn đổi tên thành nước Việt Nam.

Dựa vào chi tiết (1) và (2) có thể suy đoán bối cảnh câu chuyện Huyền sử Phú Quốc xảy ra vào thời kỳ Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi xuống phía Nam, khoảng giữa thế kỷ XVI.

(3) Chế Mật Đa: tên phiên âm Hán Việt của vị tướng trẻ Vương quốc Xiêm La.

(4) Chỉn e: từ cổ, từ đệm, có nghĩa như: rằng.


ĐỒ NƯƠNG NUÔI CHÍ QUÂN TỬ

Nhắc qua Đồ thị lúc nầy
Lòng càng áo náo chẳng khuây cõi lòng
Cha đà hứa trước Ngai rồng
Có Vua làm chứng thiệt không dễ gì
Ngẫm ta là phận nữ nhi
Khó câu phu xướng phụ tùy (1) dữ a
Dù cho Nguyên soái Mật Đa
Sánh duyên tơ tóc với ta cũng mầu,
Ngặt ta đa cảm đa sầu
Làm vợ Nguyên soái thì đâu được nhàn.
Nói rồi ra trước công đàng
Thưa cha con trẻ chẳng an trong lòng
Biết rằng gái phải lấy chồng
Riêng con thì muốn thong dong một mình
Vui cùng gió mát trăng xinh
Nước non phủ chí thỏa tình nữ nhi,
Còn câu phu xướng phụ tùy
Chồng kêu vợ dạ có gì vui đâu
Còn e thêm thảm thêm sầu
Nguồi nguồi nhớ lại thâm bâu (2) cha à,
Tài chi ngài Chế Mật Đa
Phụ thân lại vội gả mà con đây!
Đồ công mới nói như vầy:
Con lo chi cái chuyện nầy vậy con
Tuy là hứa trước bệ son
Nhưng mà lời nói sẽ mòn sẽ phai
Người đi ra trấn ải ngoài
Mượn con cậy tướng ra tài nam nhi,
Không con tướng giữ biên thùy
Nào ai hết dạ phù trì giang san
Cậy con là gái dung nhan
Đặng cha gạt tướng giữ yên cõi bờ,
Tại con còn nhỏ dại khờ
Lo chi cái chuyện hứa sơ với người.
Đồ nương nghe nói liền cười:
Cha nói với người lời nói quá to
Nên con phải sợ phải lo
Đưa tay xuống biển để mò được kim
Con e lời nói khó tìm
Đắc nhơn nhứt ngữ thắng kim (3) là thường
Cha làm thừa tướng trào đường
Những lời cha nói phải thường sao cha!
Một lời mình đã thốt ra
Dù sanh dù tử cũng là phải cam
Con e miệng thế luận đàm
Chức làm Thừa tướng đành cam số phần,
Dùng mưu gạt tướng vô ân
Người liều sanh tử đem thân chiến trường
Rủi mà đứt cổ bỏ xương
Còn chi anh dũng đảm đương kiệt hào,
Cha làm Thừa tướng chức cao
Thốt ra lời nói có nào mất đâu
Cha ơi cha hãy nhớ câu
Người đời sống có bao lâu cha à
Tục rằng hùm chết để da
Người chết để tiếng có mà nào sai,
Con tuy là gái nhi hài
Lòng con ái ngại đắng cay lo sầu
Dù cho biển hóa nương dâu (4)
Lời hứa nào có mất đâu vẫn còn
Tưởng cha chọn tướng cho con
Mượn con gạt tướng thì còn tội thêm
Con e họ Chế thù heàm
Thì là nội loạn lại thêm giặc nhà.
Đồ công ông mới nói ra:
Nếu con ưng Chế Mật Đa làm chồng
Thì là đẹp phận cưỡi rồng
Nếu con mà chẳng bằng lòng sánh duyên
Thì là cha tính cũng yên
Hơi nào mà tủi mà phiền mà lo,
Con hay suy nghĩ đắn đo
Dễ lường rún biển khôn dò đáy sông
Tuy là hứa trước Bệ rồng
Không chi làm chắc con hồng biết chăng,
Nào đâu có vật làm bằng
Phải chi có vật chắc rằng không phai
Nói ra như gió thổi ngoài
Nói rồi thì mất còn hoài hay sao!
Đồ nương nàng mới nói mau:
Cha nói như vầy có nào mà xong
Nói ra lòng giữ lấy lòng
Có Vua làm chứng thì không phải thường
Con tuy là gái nhiễu nhương
Nhưng mà cái tính cang cường cha ơi
Nói ra lời phải giữ lời
Dù sao cũng chẳng ñoåi dời lợt phai,
Cha làm quan lớn Bệ giai
Nói ra dù đến ngàn ngày còn nguyên
Con xin thân phụ đừng phiền
Lời cha nói đó còn nguyên mất nào.
Đồ công ông mới nói mau:
Đồ nương con chớ hỗn hào với cha
Phước dư tổ phụ ông bà
Nên con mới gặp Mật Đa anh tài
Thiệt là cao quý lắm thay
Con còn nói nữa cha rày tâu Vua,
Thiệt con là kẻ quê mùa
Nếu con mà bị Đức Vua mời hầu
Làm cho cha mẹ thêm rầu
Chức làm Hoàng hậu long lâu con à,
Một năm mới đặng về nhà
Viếng an sức khỏe mẹ cha một kỳ
Bao quanh mỹ nữ cung phi
Mà đâu nào có vui gì đâu con.
Đồ nương nghe nói khóc ngon:
Cha mà nói vậy ý con thêm phiền
Muốn sao thanh tịnh như tiên
Vui chung tám cõi xuân riêng bốn mùa
Nào màng chồng Tướng chồng Vua
Cúi lòn dưới trướng chịu thua râu mày
Nói rồi nàng mới lui hài
CHÚ THÍCH
----------------------------

(1) Phu xướng phụ tùy: chồng bảo phải nghe lời, cha mẹ đặt đâu ngồi đó

(2) Thâm bâu: từ cổ, tình cảm tha thiết.

(3) Biển hóa nương dâu: nói tắt là bể dâu, những sự biến đổi tình thế.

(4) Đắc nhơn nhứt ngữ thắng kim: (trại âm) đắc nhân nhất ngữ thắng kim, người quân tử một lời như đinh đóng cột.
 ĐỒ NƯƠNG TỪ BỎ GIAO ƯỚC
SUY TÍNH CHUYỆN THOÁT LY
Mật Đa đắc thắng ñeán ngày khải ca
Về triều tâu với Vua cha
Hôm nay yên giặc Mật Đa hồi triều.
Vua liền khen gã tài cao
Truyền cho văn võ cùng nhau đến mừng
Triều thần vui tựa ngày xuân
Truyền hàng phụ nữ đến mừng Soái gia,
Từ quan văn võ trong tòa
Đến hàng tam cấp các nhà văn ban
Tiểu thơ các cấp các hàng
Đến mừng chuùa tướng khải hoàn ban mai.
Đồ nương nghe lịnh châu maøy
Mai nầy thì đã đến ngày rồi đa
Đến mừng Nguyên soái Mật Đa
Phải chi riêng một mình ta nói gì
Nầy là cả bọn nữ nhi
Ai ai cũng phải ra đi đến Triều
Nói rồi nàng mới đi mau
Đi đến giữa Triều tâu với Xiêm vương:
Tôi đây vốn thiệt Đồ nương
Đến mừng Nguyên soái biên cương mới về.
Xiêm vương nghe nói cười hề:
Trẫm đà ban chiếu chỉ phê đã rồi
Nàng cùng Nguyên soái sánh đôi
Trai tài gái sắc đứng ngồi rất xinh.
Mật Đa xem thấy đẹp tình
Cám ơn Xiêm chúa Triều đình sắc ban
Nhìn nàng tuyệt đẹp dung nhan
Tâu vua cưới gấp hiệp đàng nhơn duyên.
Đồ nương nghe tấu về liền
Về nhà hết sức than phiền vào ra,
Đoàn thị xem thấy hỏi qua:
Con đi mừng Chế Mật Đa trở về
Cớ sao mặt ủ mày ê
Nói cho mẹ biết có hề chi chăng!
Đồ nương liền mới thưa rằng:
Cha con định nghĩa xích thằng (1) cho con
Nên con lòng dạ héo hon
Đời con như thế biết còn nói sao
Làm người nặng nợ trần lao
Ngẫm con phận gái biết sao bây giờ
Con tuy làm vị tiểu thơ
Lòng con phiền não ngẩn ngơ mẹ à
Cha con tâu giữa Trào ca
Gởi con cho Chế Mật Đa đã rồi
Tuy làm Nguyên soái cao ngôi
Nhưng mà giết tướng ôi thôi là nhiều,
Nên con mới có buồn hiu
Nghiệp người càng tạo càng nhiều nhơn duyên!
Bà rằng con trẻ đừng phiền
Mật Đa có đủ binh quyền con ơi
Thốt ra một tiếng tức thì
Hằng muôn kẻ dưới nghe lời đó con
Xin con đừng có héo hon
Làm vợ Nguyên soái thì còn ai qua.
Đồ nương nghe nói thở ra:
Thế thì cả mẹ cả cha bằng lòng
Có chồng rạng mặt tổ tông
Nếu mà đặng vậy má hồng nào chê
Thôi thì con cũng xuoâi bề
Để cha với mẹ định bề nghi gia
Làm con nào dám caõi cha
Sợ sau gã Chế Mật Đa phụ phàng
Nhưng mà có lịnh phụ hoàng
Chắc là con cũng thân an sau nầy
Con xin trở lại lầu tây
Học thêm văn võ sau nầy phòng thân.
Nói rồi nàng mới lui chân
Về phòng bàn tính xa gần thâm bâu.
Đồ nương có bốn con hầu
Võ văn gom đủ có đâu thua nàng
Cũng vì bạc mạng hồng nhan
Nên đành hầu hạ phò nàng Đồ nương
Thấy nàng tuôn đổ mắt hường
Bốn nàng liền mới bày tường sạ duyên (2):
Tiểu thơ sao lại tủi phiền
Chúng tôi xem thấy chẳng yên trong lòng
Hay là có việc bất đồng
Tiểu thơ mới có phiền lòng hay chăng?
Đồ nương liền mới nói rằng:
Vốn ta có việc trọc trằn tâm can
Cha đà định nghĩa tào khang (3)
Duyên ta phải kết cùng chàng Mật Đa
Quyền binh thống lãnh san hà
Trừ gian dẹp loạn cũng là nên danh,
Thế mà ta chẳng lòng đành
Biết rằng họ Chế tài lành không ai
Trăm năm khó gặp trai tài
Cũng là đẹp mặt đẹp mày nữ lưu,
Nhưng ta mãi mãi lo ưu
Muốn sao danh rạng nữ lưu chói lòa
Nếu về với Chế Mật Đa
Sau lên nhứt phẩm gọi là phu nhân
Cúi lòn võ tướng thêm hờn
Muốn sao danh rạng cho hơn mới mầu,
Làm vợ nào khác làm hầu
Gặp chồng dạ dạ cúi đầu hết hơi
Suốt đời làm mãi vật chơi
Của trang nam tử ở nơi khuê phòng,
Lỡ sanh ra mặt má hồng
Khó chen vai với đàn ông quá chừng
Muốn sao vượt biển lên rừng
Cầm cương lên ngựa ra quân dẹp loàn
Muốn sao đem chí đảm đang
Một mình một cõi chẳng màng phục ai,
Nếu mà tôi gặp duyên hài
Làm sao cho khỏi bàn tay bế bồng
Dày vò nơi chốn khuê phòng
Không ra khỏi ngõ thử lòng buồn chăng
Muốn sao lưng túi gió trăng (4)
Năm thành đạp đổ cho bằng mới âu,
Xưa người ở đất Giao châu (5)
Vốn dân Giao chỉ (6) báu mầu biết bao
Trưng vương là gái má đào
Đánh quân nhà Hán có nào thua ai
Làm gái đừng để thua trai
Muốn ra sức gái đủ tài võ văn!
Bốn cô tỷ tất thưa rằng:
Tiểu thơ mà chẳng có bằng lòng ưng
Thì là vượt biển băng rừng
Có hòn hải đảo lối chừng xa xa
Muốn không ưng Chế Mật Đa
Tiểu thơ vượt biển sang qua hòn nầy,
Chung quanh thì đá với cây
Dưới thì nước biển trên mây của Trời
Giữa dòng biển bạc khơi khơi
Có hòn hải đảo (7) tuyệt vời như tranh
Mình đi đến đó lập thành
Một ngôi Nữ chúa truyền danh cô à,
Cô là một gái tài ba
Lẽ nào khuất phục Mật Đa làm gì
Chúng tôi tuy bọn thị tỳ
Cũng là biết việc thạnh suy cõi trần
Kém gì cái bọn nam nhân
Mà đi lòn cúi hiến thân cho người
Xét ra cũng thấy hổ ngươi
Tôi mọi cho người hổ mặt thuyền quyên!
Đồ nương nghe mới hỏi liền:
Đây ra hải đảo đi thuyền phải không
Ắt là đi chẳng có xong
Ta đây từ bé vốn không biết chèo
Đi buoàm không biết kéo neo
Làm sao coi lái hạ lèo <8> mà đi,
Cứ theo địa thế mà suy
Hải đảo thuộc đất của thì nước ta.
Thị nữ liền mới thưa qua:
Ấy nước Chân Lạp (9) cô mà biết đâu
Đất mình hải khẩu Vua thâu
Đến hòn hải đảo có đâu mà gần
Nếu mình mà muốn ẩn thân
Đến hòn hải đảo có phần phước duyên
Khác nào là một cảnh tiên
Ra tài thục nữ đón thuyền thương buôn (10)
Sẽ vui hết có phiền buồn
Mai mà làm đặng nên tuồng Nữ vương
Tạo ra tướng mạnh binh cường
Thì là chừng đó hết nhường nam nhi.
Đồ nương liền mới hỏi thì:
Nếu Vua Chân lạp chuyện ni hãng toàn
Người đem binh đến muôn ngàn
Thì ta khó nỗi thân an sau nầy.
Nữ tì mới nói như vầy:
Cô chưa thấu hiểu tôi đây hãng toàn
Đó là một cái đảo hoang
Của Vua Chân Lạp ai màng mà chi,
Nào đâu mà có báu gì
Xưa bên Trung Quốc tướng thì nhà Minh
Ấy thời chia reõ hai kinh
Nhà Thanh lại với nhà Minh tranh giành
Tướng Minh thua tướng nhà Thanh
Đem binh vượt biển ghé thành Qui Nhơn (11),
Vua Nam xem thấy lòng hờn
Bảo ra hải đảo tạm chân ngụ đình
Đoàn bố liền mới đem binh
Ra hòn Phú Quốc tạm đình nghỉ ngơi
Ít lâu coi lại thời trời
Đem binh đoạt thổ khắp nơi biên thùy (12),
Vua nhà Chân Lạp kinh nguy
Vua Nam sai tướng đánh thì quân Minh
Chúa ta cũng tiếp cứu binh
Đoàn bố thảm hại bỏ mình vong thân.
Hiện giờ có một số dân
Sống nghề săn bắn dấn thân đảo nầy
Nhưng nhiều dòng máu lắm thay
Nếu cô muốn biết sang ngay thì tường,
Từ đây đến đó xa đường
Mất nửa tháng trường mới đến tận nơi
Thế nên tôi mới bày lời
Cho cô nghe rõ tùy thời ý cô
Nếu cô muốn lập qui mô
Thì ra đến đó cơ đồ dựng xây,
Thế Châu đổi lại tên nầy
Cải là họ Hạng tạo gầy giang san
Chúng tôi thì cũng cải trang
Mặc đồ nam giới băng ngàn mới xong
Mình nên làm mặt đàn ông
Cho người lạ mặt khỏi phòng phá trinh.
Đồ nương nghe nói làm thinh
Hồi lâu nàng mới sự tình phân qua:
Ta người ở nước Xiêm la
Lẽ nào cải họ xét ra cũng kỳ,
Xưa người ở đất Cao ly (13)
Vốn làm Nữ chúa trị vì thần dân
Mà không biết xét biết phân
Không suy không nghĩ nghĩa ân trọn niềm
Nàng tên là Hạng Nam Kim (14)
Gái nhà Trung quốc nỗi niềm lý nhân,
Còn ta là gái hồng quần
Nếu theo họ Hạng thần dân phê bình
Thiếu chi là họ lịch xinh
Cái họ của mình thiệt cũng đẹp thay.
Thị tỳ liền mới thưa rằng:
Sợ là tôi sợ người hay mà tầm
Muốn đi biệt tích biệt tăm
Cải tên cải họ ai tầm cho ra.
Đồ nương mới nói: hay a
Như vầy thì tiện cho ta vô hồi
Thế nên như vậy xong rồi
Còn câu hiếu thảo ai bồi cho ta,
Làm con caõi mẹ caõi cha
Chỉnh khôn thế sự chẳng ra con người
Lưu danh cho hậu thế cười
Làm người để lỗi đạo người hay sao
Nào ơn chín chữ cù lao (15)
Tam niên ngũ bộ (16) biết bao công trình
Ngày nào ta có thân hình
Cũng nhờ mẫu huyết phụ tinh mà thành
Làm sao cho rạng thanh danh
Đền ơn cha mẹ sanh thành thuở xưa.
Nữ tỳ xúm lại liền thưa:
Cô mà nói vậy cũng chưa có rồi
Làm người thiệt khó lắm ôi
Luận điều hiếu nghĩa khó rồi lắm đa
Làm con muốn trả thảo ba (17)
Có nhiều tư cách cô mà biết chăng
Nếu theo luân lý đạo hằng
Thì là cô hãy xích thằng nên duyên,
Còn câu ngộ biến phải quyền
Chấp kinh lúc thạnh <18> thánh hiền có phân,
Cô cùng Nguyên soái thành thân
Mà cô không khứng châu trần kết đôi
Lòng cô mãi mãi than ôi
Sanh ra bịnh hoạn nhiều hồi lắm đa
Chầy ngày (19) cô phải ra ma
Chết đi bỏ mẹ bỏ cha cõi trần
Con mà chết trước song thân
Thì là báo nghĩa báo ân chỗ nào,
Cha già tuổi hạt càng cao
Nuôi con thì cậy nhờ sau về già
Làm người muốn vẹn thảo ba
Giữ sao cho đến mẹ cha maõn phần
Mà còn mạnh khỏe tấm thân
Ấy là báo bổ công ơn sanh thành,
Nếu cô mà muốn nghe rành
Tôi xin nói hết ngọn ngành cô hay,
Cô là một gái anh tài
Lẽ nào bó gối khoanh tay suốt đời
Đến ngày quỷ bắt ma mời
Xương tàn cốt rụi có thời ra chi,
Luận điều trái phải mà suy
Nếu cô nghe phải thì đi lúc nầy.
Đồ nương mới nói như vầy:
Thôi thì sửa soạn mai nầy ra đi
Đem theo một mớ xiêm y
Bạc vàng lương thực mang đi cho nhiều,
Mai nầy vào lúc buổi chiều
Hóa trang nam nữ đồng đều thẳng xông
Bốn con thị nữ bằng lòng
Sửa sang hành lý rồi đồng ra đi
CHÚ THÍCH
----------------------------

(1) Nghĩa xích thằng: chỉ thắm tơ hồng, theo tích ông Tơ, bà Nguyệt xe chỉ kết duyên vợ chồng.

(2) Sạ duyên: duyên cớ sự tình.

(3) Nghĩa tào khang: tào là bã rượu, khang là vỏ trấu. Ý nói tình nghĩa chung thuỷ vợ chồng.

Tích xưa: Tống Hoằng làm quan dưới thời Quang Vũ Đế (Đông Hán) bên Trung Hoa. Vợ Tống Hoằng bệnh, bị mù và ông đích thân chăm sóc cho vợ. Chị vua khi ấy đang góa chồng, rất ái mộ Tống Hoằng. Vua biết ý ướm lời hỏi dò Tống Hoằng: Quý dịch giao, phú dịch thê, hữu chư? (Sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có vậy chăng?).
Tống Hoằng đáp: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường (Bạn bè chơi từ thuở nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ hắt hủi).
Hiểu Tống Hoằng một lòng chung thủy, vua bỏ ý định tác hợp cho chị mình.

(4) Lưng túi gió trăng: bán nang phong nguyệt, sự tự do.

(5), (6): Giao Châu, Giao Chỉ: tên gọi vùng đất, con người Việt Nam thời kỳ phụ thuộc nhà Hán Trung Hoa.

(7) Hải đảo: đảo Phú Quốc.

<8> lèo: dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm hứng gió.

(9) Chân Lạp: một vương quốc ở trung tâm bán đảo Đông Dương, tiền thân của nước Campuchia ngày nay.

(10) Đảo Phú Quốc nằm trên trục đường biển, con đường buôn bán rất sầm uất nối liền Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu.

(11), (12): xảy ra khoảng thời gian từ năm 1644 đến 1648, chưa cập nhật tư liệu chi tiết.

(13) Cao ly: âm Hán Việt của Korea, bán đảo Triều Tiên ngày nay.

(14) Hạng Nam Kim: con gái Hạng Long, người huyện Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, có nét mặt giống Mạnh Lệ Quân, và thông minh tài trí, nên đóng giả Mạnh Lệ Quân để vào cung, sau bị phát hiện, nhưng được ân xá. Về sau Hạng Nam Kim cũng được Hoàng tử xứ Triều Tiên phong làm thứ phi.

(15) Chín chữ cù lao: Sinh, cúc, dục, phủ, súc, trưởng, cố, phục, phúc. Công lao khó nhọc của người mẹ nuôi con, đó là: sinh nở, nâng đỡ, dạy dỗ, vỗ về, cho bú, nuôi lớn, trông nom, ôm ấp, che chở.

(16) Tam niên ngũ bộ:

(17) Thảo ba: hiếu thảo.

<18> Nguyên câu:
Xử thường chấp kinh (Bình thường theo gia đạo)
Ngộ biến tòng quyền (Gặp binh biến tuỳ cơ ứng phó)

(19) Chầy ngày: lâu ngày.
VƯỢT BIỂN RA PHÚ QUỐC
NGŨ PHỤNG XƯNG VƯƠNG LẬP QUỐC


Vợ chồng Đồ lão hay chi
Một năm có lẻ mới thì hay ra,
Đồ nương từ bữa bôn ba
Theo đường thủy đạo băng hà ra khơi
Năm nàng cứ việc chèo bơi
Vượt dòng hải lý tới nơi đảo nầy
Mắt nhìn non nước trời mây
Chim kêu vượn hú cỏ cây mịt mù
Đây đà giữa lúc trăng thu (1)
Nước non phẳng lặng mịt mù không ai.
Nàng cùng bốn ả ra tay
Cùng nhau dẹp phá gốc gai bịt bùng
Vẫn đi mé biển giáp vòng
Nhìn xem phong cảnh thấy lòng chứa chan
Nghĩ mình một cửa con quan
Hôm nay vượt biển băng ngàn tới đây
Một thân tròi trọi chốn nầy
Bơ vơ rừng núi cỏ cây không nhà
Như vầy thiệt khổ dữ a
Lấy chi sanh sống cho qua tháng ngày
Ắt là chết hết chẳng sai
Tại vì thị nữ mà bày đặt ra,
Bây người không mẹ không cha
Xúi tao bỏ cửa bỏ nhà vong ân
Cha sanh mẹ đẻ không cần
Tam trùng lỗi đạo vong ân tổ đường
Rõ ràng bây kẻ bất lương
Ắt là tao phải bỏ xương đất người.
Nữ tỳ cả bọn đều cười:
Chúng tôi đây tưởng cô người liệt oanh
Bấy lâu lòn cúi đã đành
Hầu sau nương dựa thanh danh gái già
Nay nghe cô nói mới hay
Thì ra cô có trí tài mà chi!
Thấy cơn thắt ngặt lâm nguy
Lấy tâm can đảm mới thì an thân
Nơi nầy đất quý vô ngần
Phải nơi nữ sĩ ẩn thân chiêu hiền
Muốn cho rạng mặt thuyền quyên
Lâm nguy chớ thói than phiền rầu lo,
Dù cho muôn việc gay go
Sống trong cái đói mới cho rằng tài
Không tường nếm mật nằm gai
Vào các ra đài (2) là lẽ tự nhiên,
Sống trong cái cảnh uy quyền
Thì là hổ mặt thuyền quyên thay là
Hãy nên can đảm cô à
Sống trong cái chết mới là quý cao,
Thú rừng chẳng biết là bao
Cây rừng có thiếu thứ nào ở đâu
Lựu, lê, bình bát, mãng cầu
Cây rừng trái núi có đâu thiếu gì
Khoai lang, khoai chuối, khoai mì
Xiêm, đào, mít, ổi cô thì thấy chăng
Chúng ta mặc sức mà ăn
Một rừng hoa quả lại săn thỏ, mèo
Lại còn các loại hùm, beo
Höôu nai còn lại cọp beo có bầy,
Dung thân nữ kiệt đất nầy
Chiêu binh mãi mã dầy dầy hùng anh
Đất lành có mặt gái lành
Thiếu chi là kẻ bộ hành lại qua.
Đồ nương liền mới nói qua:
Nơi nầy chẳng có người ta đi đường
Lời nàng nói thiệt phi thường
Chiêu binh mãi mã thì lương phải nhiều
Xem tường cảnh núi buồn hiu
Thú rừng nó xé cũng tiêu bọn mình
Nói gì mãi mã chiêu binh
Ta nghe nàng nói bất bình lắm thay!
Thị nữ liền mới nói rằng:
Thế nên cô chẳng biết tài bọn tôi
Vậy thì cô chớ than ôi
Làm thinh cứ việc mà ngồi làm sư
Tôi trông có một tiếng ừ
Tự cô xuất khẩu thì dư cô à,
Cô nên ngồi một nơi à
Chuyện gì thì để bọn a hườn (3) làm
Cô là một kẻ siêu phàm
Chúng tôi phò hộ đã cam bấy chầy
Tướng cô số mạng sau nầy
Sẽ làm Nữ chúa đủ đầy dinh cơ
Tôi đà soạn trước bao giờ
Đã thêu sẵn một hiệu cờ rồi âu,
Nữ vương là Hạng Thế Châu
Có bốn quan hầu họ Hạng đồng tông
Thế Kim, Thế Thủy quan trong,
Thế Ngân, Thế Ngọc hai ông quan ngoài,
Quốc kỳ màu đỏ lâu phai
Thêu năm con phụng vốn rày màu xanh (4),
Bốn tôi là gái tài lành
Ngặt vì ít phước phải đành phò cô
Lúc nầy mình tạo cơ đồ
Nếu cô không chịu đưa cô trở về
Nhưng mà nay đã lỡ bề
Cô muốn trở về cũng chẳng biết bay
Chiếc thuyền đi tự hoâm rày
Vốn thuyền bằng giấy do tài bốn tôi,
Cô con thừa tướng cao ngôi
Đức thì có đức, tài thôi vô tài
Bọn tôi là kẻ tay sai
Vốn không có đức mà tài phép cao
Chúng tôi đã muốn từ nào
Ngặt cô ham của phú hào mẹ cha
Suốt đời lẩn quẩn xó nhà
Buộc ràng dưới gối mẹ cha làm gì!
Đồ nương nàng mới nói thì:
Hôm nay bốn ả thị tỳ đảm đang
Nếu mà trổ phép hồng nhan
Làm sao cho vẹn đôi đàng ta nghe
Đừng làm lỡ đậu, lỡ mè
Lỡ cháo, lỡ chè thiệt khó mà ăn
Bốn nàng thì có tài năng
Cải tên cải họ ta bằng lòng thay,
Bây giờ hãy khá làm ngay
Đem cờ Nữ chúa treo ngay bây giờ
Mắt nhìn gió thổi phất phơ
Màu cờ hồng đỏ hiện giờ đẹp xinh,
Từ đây ngôi thứ phân minh
Đồ nương cứ việc một mình thảnh thơi
Đổi tên đổi họ tức thì
Thế Châu Nữ chúa tuyệt vời phương phi
Thế Ngân, Thế Thủy tức thì
Hai bên tả hữu hai vì hầu xem,
Thế Kim, Thế Ngọc chị em
Săn höôu bắn nhạn mà đem đi về.
Một hôm đang lúc chỉnh tề
Bốn bà hầu cận cười hề vui say
Ngồi trong bàn thạch thẳng ngay
Bốn cây đại thọ che ngoài mát thân
Phúc đâu hằng mấy trăm dân
Từ xa đi đến đằng xa cúi quỳ,
Thế Châu xem thấy lạ kỳ
Người đâu mà lại cúi quỳ quá đông
Lạ thay ta chẳng rõ thông
Cửa nhà không có người đông quá chừng
Hay là gặp bọn ma rừng
Đến đây giả ngộ ta đừng có tin
Nghĩ suy nàng cứ làm thinh
Đăm đăm hai mắt cứ nhìn không thôi.
Thế Thủy mới nói: cô ôi
Sao không miễn lễ cho rồi để chi
Họ đà cúi mọp bái quỳ
Chịu không miễn lễ họ thì bình thân.
Thế Châu nghe nói mới phân:
Nữ vương miễn lễ chúng dân khỏi quỳ.
Thế Kim, Thế Ngọc nói thì:
Chúng dân hải đảo lạ kỳ lắm đa
Trời sanh năm vị tiên nga
Hạ sang Phú Quốc cũng là đã lâu
Cớ sao người chẳng đến hầu
Tại sao di mạng trễ âu thế nầy!
Chúng dân quỳ tấu như vầy:
Nào hay có vị tiên cô xuống trần
Mới vừa sửa soạn đi mần
Nương theo hang đá dung thân núi rừng
Chúng tôi là kẻ trầm luân
Tội đày hoang đảo biết chừng nào tha (5),
Mới đây nhìn thấy xa xa
Ngọn cờ lồng lộng chói lòa nơi đây
Rủ nhau đi đến chỗ nầy
Thấy tiên giáng thế tôi đây bái quỳ
Chớ nào đâu có biết chi
Hôm nay bị quở oan thì biết bao!
Thế Châu liền mới nói mau:
Đảo nầy tất cả có bao nhiêu người?
Thế Kim nghe hỏi liền cười:
Nữ vương muốn biết số người bao nhiêu
Nơi đây chẳng đặng có nhiều
Thiệt thì chả có bao nhiêu cô à
Tính trong trai gái trẻ già
Sáu trăm người đủ lẻ ba người nầy,
Tính luôn cả bọn mình đây
Sáu trăm tám mạng đảo nầy dung thân (6)
Bây giờ tất cả chúng dân
Tiên nga Nữ chúa hạ thân xuống phàm,
Các ngươi quốc tịch Đại Nam (7)
Sanh phường deät cöûi mà làm áo khaên,
Dân Nùng (8) thì giỏi nghề săn
Hãy lo săn bắn kiếm ăn hàng ngày,
Còn người Chân Lạp (9) hôm nay
Hãy lo xây cất điện đài cho cao,
Các ngươi tự thuở hồi nào
Ở theo kẹt đá lại đào làm hang
Không tìm điện ngọc cung vàng
Cửa nhà không có rừng hoang nương mình
Bây giờ lập phủ cất dinh
Phá rừng xây đá tận tình cho xong
Tạo ra một cảnh đền rồng
Cho ta đặng ở nơi hồng quý cao
Vậy thì hãy khá mau mau
Làm cho kiếp kiếp ta nào ở yên.
Chúng dân nghe nói làm liền
Thế Kim, Thế Ngọc coi quyền đốc công
Cửa thành bốn hướng tây đông
Đỉnh cao lồng lộng xây trong cung lầu
Phá rừng xây cất cũng lâu
Vách thì bằng đá lầu thì bằng cây
Có vườn thượng uyển đủ đầy
Có hồ bán nguyệt có cây bá tòng,
Đền Vua trổ cửa hướng đông
Thành cao nhờ có đá chồng bốn bên
Nào hang thạch động điện đền
Nữ vương cứ việc ngồi trên ngôi Trời,
Trăng soi mặt nước rạng ngời
Làm người do chữ vận thời mà ra.
CHÚ THÍCH
--------------------------------

(1) Trăng thu: khoảng tháng 8 – 9.

(2) Các, đài: các là nhà lầu, đài là nhà cao, ý nói nơi sang trọng, quyền quý

(3) A hườn: (trại âm) a hoàn, người giúp việc.

(4) Tài liệu Lịch sử Quốc kỳ Thế giới cho biết Xiêm La có quốc kỳ từ rất sớm, từ năm 1656, thay đổi nhiều lần nhưng tất cả có nền màu đỏ, điều này trùng khớp với thơ ngoại cảm.

Tham khảo Lịch sử quốc kỳ Thái Lan tại đây:
[Chỉ thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng ký...

(5) Do vị trí cách đất liền 45km, Phú Quốc được dùng làm nơi giam giữ, cách ly phạm nhân.

(6) Tại thời điểm đó dân số của Phú Quốc chỉ có 608 người. Trước năm 1975 dân số trên đảo hơn 5.000 người. Đến năm 2003, theo thống kê của tỉnh Kiên Giang dân cư sinh sống trên đảo đã lên đến trên 79.800 người,

(7) Đại Nam : nước Đại Việt, nay là Việt Nam

<8> Nùng: dân tộc miền núi khu vực Lào, Tây Nguyên và phia Bắc Campuchia ngày nay

(9) Chân Lạp: tiền thân nước Campuchia ngày nay
Có người thương mãi phương xa
Đi ngang Phú quốc xem qua vui lòng
Phúc đâu trời nổi gió dông
Thuyền buôn liền tấp vào trong đảo nầy,
Nữ vương mới phán như vầy:
Thuyền buôn lại ghé vào đây làm gì
Thế Kim nàng hãy mau đi
Xem coi thuyền đến làm gì đảo ta.
Thế Kim nghe lịnh đi ra
Tới nơi thấy có một bà ngồi trong
Gần bên lại có một ông
Xem ra vốn thiệt vợ chồng chẳng sai.
Thế Kim cất tiếng hỏi rằng:
Ông bà mua bán gian ngay nói rành
Nơi đây là cửa hoàng thành
Nữ vương thống trị không rành hay sao!
Thuyền đâu mà lại tấp vào
Ông bà hãy khá nói mau coi là.
Vợ chồng cụ lão thưa qua:
Vốn tôi tóc bạc tuổi già răng long
Tháng ngày mua bán thong dong
Vượt đường hải lý tôi không quản gì
Nào đâu có ngại lâm nguy
Có ông thuyền trưởng vẫn đi đó là
Ông nầy thôi đã quá già
Dẫn tôi đi biển ái hà chỉnh ghê!
Ông rằng vượt khỏi sông mê
Lần đi bến giác mà về cảnh tiên,
Tôi nghe ông nói linh thiêng
Theo ông chồng vợ xuống thuyền mà đi
Nào hay giông gió bất kỳ
Thuyền đà vào bến tôi đi lên bờ
Nhìn lên thấy rõ ngọn cờ
Cụ già đâu mất tôi chờ đã lâu
Mà không biết cụ đi đâu
Vợ chồng của lão chờ âu quá chầy.
Thế Kim mới nói như vầy:
Cụ lão vắng mặt là Thầy phải không
Thế sao lại một trận giông
Cụ đà vắng mặt để ông ngồi chờ
Nghe qua tôi cũng ngẩn ngơ
Ông bà chờ đợi hồi giờ đã lâu
Mà không biết cụ đi đâu
Chắc là cụ đã về chầu Cung Ly
Thôi thôi chờ đợi mà chi
Thuyền đà cập bến thì đi cho rồi
Phải cơn soùng gió dập dồi
Cho nên cụ lão mới thôi đi thuyền
Ông về tọa vị Cõi tiên
Ông bà xin chớ lo phiền chờ trông
Đến đây thì đã thong dong
Có Vua, có Chúa xin ông khuôn phò.
Ông già nghe nói buồn xo
Nên ông làm bộ giả đò không nghe.
Bà liền mới nói nè nè
Cô nầy nói vậy ông nghe chăng là
Xưa mình gặp một cụ già
Dẫn mình đi đến Ma ha Niết bàn
Nửa chừng gặp phải tai nàn
Cho nên Thầy tớ lạc đàng rồi đây
Ngày nay xa cách mặt Thầy
May mà mình đến chốn nầy cũng nên
Vậy phiền ông hãy đi lên
Ngày nay mình đã ngồi bên Nữ hoàng.
Ông già nghe nói thở than:
Nữ hoàng ở giữa rừng hoang bà à
Có ngày ắt phải ra ma
Lấy chi độ nhựt cho qua tháng ngày
Sợ con ma đói ra tay
Thì là nữ chủ nằm ngay một mình,
Làm Vua không có quân binh
Trơ trơ trọi trọi một mình quạnh hiu
Thế mà tôi bắt chín chiều
Sớm hôm hiu quạnh chim kêu não nùng
Áo cơm thì cũng là không
Làm Vua mà lại trong lòng trống trơn!
Bà già mới nói thiệt hơn:
Xin ông nghe rõ nguồn cơn thử nào
Tuy mình chẳng đặng phú hào
Nhưng mà của cải cũng giàu rồi đa
Dưới thuyền có đủ ngọc ngà
Lại thêm lương thực cũng là nhiều thay
Cơ thời tuy rủi mà may
Giông to mà đặng tấp ngay hoàng thành
Biết bao là kẻ bất lành
Chìm thuyền giữa biển đã đành mạng vong
Mình nhờ hồng phước tổ tông
Nên còn sống sót mà không chìm thoàn (1)
Nữ vương ở giữa đảo hoang
Không lương nuôi sống cho an mạng người
Mình ra của có mấy người
Mà nuôi đặng một mạng người cao nhân
Cũng là Bồ tát xác trần
Cho nên mới có xuất thân chốn nầy.
Ông già mới nói như vầy:
Bà nói như vậy tôi rầy bà đa
Mai sau gặp lại cụ già
Ông rầy mình quấy biết là nói sao
Vậy bà hãy khá mau mau
Xuống thuyền đi tới động đào hoa liên
Ở đây đeo đắm trần duyên
Danh danh, lợi lợi, tước quyền bợn nhơ.
Thế Kim nghe nói ngẩn ngơ:
Vợ chồng cụ lão còn khờ lắm thay
Cho nên không biết không hay
Thầy ông bị gió thổi bay đã rồi
Bây giờ ông chẳng nghe tôi
Xuống thuyền sóng dập gió dồi ngoài khơi
Thì là ông phải chơi vơi
Không bờ không bến không nơi dựa vào
Thì là ông biết làm sao
Ắt ông phải chết có nào sống đâu,
Sao ông không rõ nhiệm mầu
Thả thuyền giữa biển phải sầu đó ông
Gần đây đến tiết đông phong
Trời cho gió lớn chắc ông quên rồi
Tuy là Nữ chúa của tôi
Khai hoang bán đảo chỗ ngồi mới yên
Dù cho dông bão khắp miền
Nơi nầy Nữ chúa trị yên ông à,
Nghèo mà sống với rừng già
Trời nuôi tôi xét cũng qua tai nàn
Lập xong các ngọc, đài vàng
Thiếu chi của báu, muôn ngàn tướng binh
Lúc nầy chỉ có một mình
Cơn buồn thì để mắt nhìn trời mây
Nào ai mà có ở đây
Phần nhiều là đá với cây núi rừng.
Bà già nghe nói vui mừng:
Ông ơi ông hỡi xin đừng cãi tôi
Mình đây công đức nhiều rồi
Còn một hồi nữa thì rồi đó ông
Nếu mà mình chẳng có xong
Lẽ nào mà lại bỏ công những ngày
Lúc nầy Nữ chúa mở khai
Mình nên phù hộ giúp rày Nữ vương
Chừng nào đến lúc thịnh đường
Thì tên lịch sử đầu trương là mình
Hội nầy mà chẳng tận tình
Thì sao công quả của mình bao lâu
Xin ông hãy khá tận tâm
Giúp cho Nữ chúa khai lâm lập thành
Ra công tôi sẽ để dành
Lương tiền trợ giúp sau thành quý cao
Của trần quý báu là bao
Nếu trần có phước hồn vào cung mây,
Nếu không làm phước kiếp nầy
Kiếp sau ắt khó gặp Thầy đó ông.
Ông già nghe nói bằng lòng
Giúp thì cả của lẫn công đó bà
Nói rồi chồng vợ bôn ba
Thế Kim mới dẫn đến tòa Nữ vương
Thế Châu liền mới phân tường:
Ông bà quê ở hà phương mới vào?
Bà già liền mới nói mau:
Hôm nay chồng vợ mụ vào nơi đây
Nữ vương đến ở nơi nầy
Làm Vua với đá với cây chăng là
Lấy chi độ nhựt cho qua
Thế nên mụ phải đến mà giúp vô
Mai sau nên nghiệp cơ đồ
Thì tên của mụ sẽ vô bảng vàng.
Nữ vương liền mới phân toàn:
Bà đưa tôi đặng dậm tràng ấy chăng
Dù sao phước chỉ lai tăng
Tôi đây vẫn nhớ gốc căn trước ngày
Làm ơn bà hãy trở quay
Về bên Xiêm quốc kiếm trai tật nguyền
Bà đem chúng nó xuống thuyền
Đến đây tôi có chỉ truyền bà nghe
Bà coi sau trước vắng hoe
Nghe dân Chân lạp do de nói cười
Ở đây ba bốn giống người
Ai nói ai cười khó hiểu tiếng nhau.
Bà già nghe mới nói mau:
Làm Vua mà lại trước sau một mình
Như vầy ai có nhận mình
Dù cho tài trí thông minh mặc dầu
Nào ai có phục mình đâu
Phục là người phục Công hầu Vua cha
Phục nguời tiền bạc hằng hà
Cờ cao lồng lộng mà bà tay không
Để tôi xin lãnh đầu công
Thì tên lịch sử vốn không mất phần.
Thế Kim liền mới phân trần:
Nữ vương tôi chẳng có cần dân đông
Tánh người vui cảnh núi sông
Một người vui thú tâm tòng sơn khê
Không ham vui cảnh phu thê
Uy quyền, chức tước chẳng hề lưu tâm
Tôi e bà phải lạc lầm
Nên tôi mới nói bà tầm bà coi,
Nếu ham giàu có hẳn hòi
Thì theo họ Chế (2) quyền coi binh tình
Đứng đầu trong việc cơ binh
Chức làm Nguyên soái triều đình Xiêm bang
Mà cô tôi chẳng có màng
Vui bầu Trời Đất thanh nhàn biết bao
Phải chi ham cảnh có giàu
Thì bà có việc ở trào Vua cha,
Tôi xin nói rõ với bà
Cô tôi là kẻ lánh xa tước quyền
Vái trời sóng lặng gió yên
Mây tan mưa tạnh mặt tiên lộ hình
Người vui non nước phủ tình
Tỳ bà đờn bản chén huỳnh (3) đêm xuân
Lòng phàm nghe đến dửng dưng
Người say, say mãi biết chừng nào thôi.
Bà già nghe nói hỡi ôi
Tôi đây tôi nghĩ phận tôi cũng sầu
Nghe rằng bà Hạng Thế Châu
Có cây đờn quý để thâu nhân tài
Từ lâu cho đến ngày nay
Trông giữ trông hoài nào có đờn đâu?
Thế Kim nghe nói lắc đầu:
Chừng nào biển hóa nương dâu (4) mới đờn
Biết bao kẻ tủi người hờn
Bà phổ tiếng đờn non nước bằng an
Có đâu gây cảnh tóc tang
Xem người tương xác tương tàn với nhau
Thấy mà tôi cũng ngán ngao
Nói ra thì sợ Ngôi cao quở rầy
Võ văn bà có đủ đầy
Nhưng mà đang giữa buổi nầy loạn ly
Một mình một cõi biên thùy
Không nên dõng tướng cũng vì tiên cô
Còn phần tạo lập cơ đồ
Bốn tôi chí quyết bảo cô phải làm
Thật thì cô chẳng có ham
Vật chất của phàm hứa chẳng đắm say
Bà thì có của xoay xài
Bà nên ủng hộ đến ngày chung qui.
Bà già liền mới nói thì:
Trường đồ mã lực mới tri đó là
Tôi thì tuổi lớn sức già
Muốn tên lưu hậu nhờ bà mai sau
Nếu tôi mà có công cao
Hứa rằng tên sẽ làu làu sử xanh
Ra công dựng lũy xây thành
Tiếp tay Nữ chúa để dành phước duyên.
Thế Châu bà mới phán liền:
Khó mà kiếm kẻ lương hiền trung can
Từ tôi lìa nước Xiêm bang
Băng rừng vượt biển tìm đường tới đây
Chỉ là có một người nầy
Là người trung nghĩa đủ đầy lòng nhân
Vậy thì bà khá ra ân
Cùng tôi lo việc xa gần cho xong
Đĩa nghiên lại với bút long
Tờ biên lịch sử ghi công cho bà.
Bà già dạ dạ lui ra
Xuống thuyền về nước Xiêm la nội ngày
Lo tìm lương thực đủ xài
Lo chiêu binh mộ, chọn tài sĩ nho
Ông bà ra sức toan lo
  
CHÚ THÍCH
----------------------------

(1) Thoàn: (trại âm) thuyền

(2) Họ Chế: ý nói Chế Mật Đa, tướng tài của nước Xiêm.

(3) Chén huỳnh: chén quỳnh tương, chén rượu.

(4) Biển hóa nương dâu: thế cuộc thay đổi.

THẦY HỘ MỆNH VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN TIỀN KIẾP

Thế Châu đêm vắng nhỏ to luận bàn
Tuy là ta đặng thân an
Còn lo một nỗi gian nan sau nầy
Kiếp người không sớm thì chầy
Bề nào cũng phải bỏ thây một lần
Người sanh trong cõi thế trần
Làm gì cũng chịu một lần tử ly
Nay ta nhớ lại những khi
Hiện giờ là cảnh sanh ly não nồng
Nhớ cha nhớ mẹ mủi lòng
Một năm đăng đẳng đợi trông mỏi mòn
Đã đành lỗi đạo làm con
Ta muốn về nước cho tròn thủy chung
Ở đây non núi lạ lùng
Biết rằng người có phục tùng hay chăng!
Chỉn e có kẻ làm nhăng
Thì là nhiều đoạn khó khăn gặp hồi.
Thế Kim mới nói bà ôi
Làm Vua như vậy có rồi đâu đâu
Tên bà là Hạng Thế Châu
Một vì Nữ chúa đứng đầu chúng tôi
Mà bà vọng cảm lôi thôi
Làm sao dìu dắt chúng tôi đó là
Thử xem thiên hạ bao la
Mãi quỳ dưới gối mẹ cha ngày ngày
Có người nào đặng thành tài
Tình thương nhỏ mọn phô bày chúng chê
Làm sao khỏi tiếng nhún trề
Đừng cho người thế thị chê mới là.
Thế Châu liền mới nói ra:
Cơn buồn gặp lúc nhớ nhà thở than
Hồi nào trướng gấm màn loan
Tiểu thơ các ngọc con quan đại thần
Nay đành xa cách song thân
Bơ vơ non nước chịu phần đắng cay.
Thế Kim nghe nói thưa rằng:
Xin bà đừng có đắng cay bà à
Sống làm một kiếp người ta
Ai ai cũng có lúc hòa, lúc ly
Nghĩ nào than thở mà chi
Dẹp nguồn nhớ tưởng hãy đi tìm Thầy.
Sách ghi ở cái đảo nầy
Thường năm xuất hiện bóng Thầy Kỳ Hương (1)
Ông nầy có đủ văn chương
Dạy người nhân thế đủ đường cao siêu
Lúc nầy gặp cảnh buồn hiu
Nên tìm ông ấy học nhiều phép hay.
Phúc đâu Thế Ngọc thưa rày:
Có ông cụ lão ở ngoài bước vô
Bảo rằng đến nhận hai cô
Nhập môn học Đạo Nam Mô cho rành
Nếu cô mà muốn tu hành
Quy y với cụ sẽ thành Tiên nga.
Thế Châu liền mới nói ra:
Vậy thì mời quyết cụ già vào đây
Ta xin nhận cụ làm thầy
Nhờ cụ răn dạy những điều phép Tiên.
Thế Ngọc nàng mới thưa liền:
Muốn đi mộ đạo Thần Tiên tu hành
Thì bà phải có lòng thành
Ra mà rước cụ mới đành lòng cho
Chớ mình là đạo học trò
Lẽ nào phán lịnh truyền cho đi vào.
Thế Châu nghe nói đi mau:
Thỉnh ông cụ lão đi vào cung son
Tới nơi cụ gọi hỡi con
Trần là cõi tạm con còn nhớ không,
Đã sanh phận gái má hồng
Làm cho danh rạng núi sông mới là
Các con là gái màu hoa
Nghe lời ông dạy mới là thành danh
Nói cho con đặng rõ rành
Các con cần phải tu hành thẳng ngay,
Trần là cõi tạm chẳng sai
Mình mang thân xác đợi ngày lâm chung
Một mai số mạng đã cùng
Linh hồn có đặng rỗi dung chăng là
Hay con phải chịu đọa sa
Do phần xác thịt tạo ra tội tình
Muốn không mang nghiệp chúng sinh
Con nghe thầy dạy giữ gìn hiếu cha
Thầy người đi dạo ta bà
Thấy con hiền đức Thầy mà tới đây (2)
Con còn có một kiếp nầy
Về nơi tiên cảnh cung mây thanh nhàn
Khuyên con đừng tạo nghiệp oan
Tạo rồi phải máng phải mang con à
Làm sao thoát khỏi ái hà
Nghiệp người càng tạo càng sa âm tỳ
Con là phận gái nữ nhi
Bỏ cha mẹ đẻ mà đi xa đàng
Lấy ai dạy khéo dạy ngoan
Lấy ai xem xét chu toàn cho con
Nếu con mà muốn vẹn tròn
Cha sanh không có thì còn cha nuôi
Song thân thì ở xa xôi
Thì con hầu hạ cha nuôi cũng là
Cha nào cũng vậy con à
Dù nuôi hay đẻ cũng cha của mình
Nếu con mà có nhận nhìn
Thì ông đây sẽ hết tình khuyên răn,
Dạy con biết đủ đạo hằng
Dạy con thấu rõ gốc căn tuần hoàn
Dạy con biết rõ nguồn cơn
Thầy đây là Phật Bửu Sơn con à.
Thế Châu nàng mới thưa qua:
Con xin nhận cụ làm cha phụng thờ
Xác phàm con quá dại khờ
Khéo khôn muôn việc con nhờ phụ thân
Nặng mang xác thịt cõi trần
Bơ vơ bể thẳm biết lần đi đâu
Ngụy danh là Hạng Thế Châu
Cõi trần sao quá thảm sầu tư lương
Thân danh Quận chúa Đồ nương
Con người quốc tịch Xiêm vương bấy chầy,
Hôm nay đi đến đảo nầy
Dốc lòng cơ nghiệp dựng gầy hậu lai
Quyết sao gái chẳng thua trai
Tự như lòng muốn đổi thay trở về
Ngặt vì công khó nặng nề
Bốn cô thị nữ chẳng hề muốn đi,
Con là Quận chúa cao kỳ
Nghe lời bốn ả thị tỳ mà ra
Nay đà xa mẹ xa cha
Nên con rất đỗi nhớ nhà từ thân,
Xin cha dụng một phép thần
Cho con trở lại hiệp gần cội nguyên
Nơi nầy non nước lạ miền
Tuy làm Nữ chúa lòng phiền lắm thay
Lo trong rồi lại lo ngoài
Mắc công đội mão thắt đai thếp vàng,
Lên rừng còn mắc cải trang
Giả làm nam tử một chàng thư sinh
Đi ra nào ngựa nào binh
Gồm bao nhiêu chuyện bực mình cha ôi,
Lâm trào đến buổi ngồi ngôi
Thì quan tả hữu lại ngồi hai bên
Nếu con một tiếng nói lên
Thì hàng văn võ hai bên cúi đầu
Uy quyền của Hạng Thế Châu
Phán ra tiếng lịnh thì đầu người rơi,
Hôm qua con trẻ lỡ lời
Ăn năn đã muộn tội trời phải mang
Có người Chân lạp đi ngang
Người nầy trai trẻ chưa toàn lễ nghi
Con truyền võ sĩ tức thì
Chém đầu cho rảnh để chi bận lòng
Lời con nói mới vừa xong
Tự nhiên nghe tiếng thinh không dạ rền
Đầu người Chân lạp rớt bên
Máu ra lai láng trước đền mà ghê
Bốn con thị nữ cười hề
Như vầy Ngôi chúa ắt về Thế Châu
Cho nên Thần Thánh đồng chầu
Vô vi võ tướng chém đầu chàng trai
Cùng nhau bọn nó cười dày
Thấy mà con bắt châu mày cha ôi,
Như vầy chẳng có xong rồi
Làm Vua con chắc tội thôi chất chồng
Con đây hết sức não nồng
Nói lời như vậy con không nói mà
Ngày nay con trẻ gặp cha
Xin cho con trở lại nhà từ thân,
Trước là trọn đạo vi thần
Hai là con trẻ báo ân tổ đường
Ở đây mang hiệu Nữ vương
Mai sau cha chết lửa hương ai thờ
Tuy con là gái đào thơ
Vô nam dụng nữ phụng thờ song thân
Mai sau cha mẹ lìa trần
Có con kiến tạo mộ phần mẹ cha,
Nghĩ suy con nhớ quê nhà
Làm người có mẹ có cha có mình
Sanh nhờ mẫu huyết phụ tinh
Tạo ra xác thịt nuôi mình lớn khôn
Trời ban cho có linh hồn
Sống trong vũ trụ càn khôn một bầu.
Thế Ngân, Thế Ngọc lắc đầu
Nữ vương nói vậy thì đâu có rồi
Cụ giùm xét lại khúc nôi
Chúng con là đạo làm tôi thuở giờ
Bấy lâu hầu hạ tiểu thơ
Khi không cô bảo theo thờ Nữ vương
Chúng con là kẻ nhiễu nhương
Nào đâu có biết có từ nguyên nhân
Cô là con của đại thần
Bảo sao thì bọn con mần cho y
Đạo làm tỷ tất phải tùy
Bảo đâu hay đó dám thì cãi sao
Hôm nay cô muốn ngồi cao
Quy mô Nữ chúa tạo đào nơi đây
Tự cô đi đến chốn nầy
Đổ thừa cho bọn tôi đây lắm lời
Cô là Quận chúa tuyệt vời
Ngôi cao mà nói nghe lời tùy nhi
Nói sao quá lạ quá kỳ
Cụ dùm xét lại coi thì tại ai,
Hôm qua chết một cậu trai
Tại cô xuống lệnh chém ngay mạng người
Chúng tôi chưa kịp vâng lời
Tự nhiên đầu gãy lại rơi khỏi mình
Lời cô quả thật là linh
Một tay sát tướng thần binh cụ à!
Gái thường dù có nói ra
Làm sao đứt cổ người ta như vầy
Lạ lùng cho cái cô nầy
Gái Xiêm nhiều gái sắc tài đoan trang
Sao không có vẻ Nữ hoàng
Bị trai trêu ghẹo phải mang tâm tình
Ít lâu kiết tử trong mình
Cúi lòn dưới trướng vui tình phu thê,
Còn cô khác hẳn mỗi bề
Mật Đa chúa tướng còn chê không đành
Gái nầy là gái liệt oanh
Thần binh ủng hộ xây thành đã xong
Chúng tôi xin bẩm với ông
Xử sao ông xử cho xong vụ nầy
Chớ còn cả bọn tôi đây
Theo hầu dưới trướng bị rầy luôn luôn
E khi máu nóng hận buồn
Ắt ngôi Nữ chúa thêm tuồng cấn gay.
Bửu Sơn nghe mới nói rày:
Những lời nói đó cả hai cũng là
Thế Châu con hãy nghe cha
Số con thì phải xa nhà từ thân
Trời sai con xuống cõi trần
Xa nhà thì mới lập thân sau nầy
Con nên nghe dạy làm khuây
Hôm nay con đã có Thầy giáo khuyên
Chừng nào bỏ xác thuyền quyên
Linh hồn thong thả về miền tây phan (3)
Lúc nầy xác thịt còn mang
Nhớ là con chớ lịnh tràng giết ai
Vì con có lịnh Trời sai
Chư thần ủng hộ hơn hai ngàn người (4)
Luôn luôn vui vẻ tươi cười
Không nên buồn bã để người phải lo
Dù bao nhiêu kẻ dại dò
Thì con ngậm miệng phú cho Đất Trời
Con đừng giận dữ con ơi
Nói ra một tiếng lỡ lời khó a
Nếu con mà cứ nhớ nhà
Hôm nay con đã có cha đây nầy
Cha xin con hãy làm khuây
Vui lòng con ở chốn nầy cho an,
Hằng ngày đức hạnh giồi trang
Thuần lương mới đặng nhẹ nhàng hồn linh
Mai sau vương vấn chữ tình
Thầy khuyên con chớ liều mình con ơi,
Chữ rằng họa phước do Trời
Nói đây Thầy nói để đời hậu lai
Sau nầy có một cậu trai
Từ bên Trung Quốc lạc loài đến đây
Oan gia kiếp trước tạo gầy
Với con thì gã kiếp nầy hoàn nguyên
Đã là sanh phận thuyền quyên
Xin con phải trả cho yên mới rồi (5),
Số con với gã nên đôi
Mười lăm năm chẵn mới rồi đó con
Ví dầu có lộn vòng tròn
Đi vòng mé biển vẫn còn cù lao
Mai sau biến sự thế nào
Khư khư oanh liệt má đào đảm đang,
Trả rồi một sợi dây oan
Thì con phải máng, phải mang sau nầy
Nếu con mà chẳng nghe thầy
Chỉ không tránh khỏi sợi dây oan tình
Ấy là mình buộc lấy mình
Thầy đà nói trước tận tình con nghe
Sau nầy nhiều chuyện éo le
Dù sao con hãy dặt dè con ơi
Chớ con có Mạng Lệnh Trời
Đừng bia miệng thế người đời con a,
Nói cho con rõ gần xa
Chuyện cần thứ nhất con mà phải vâng
Gặp vui con chớ nên mừng
Gặp cơn đau khổ cũng đừng thở than
Lúc nào cũng cứ nghiêm trang
Tỏ ra oanh liệt Nữ hoàng oai nghiêm
Nói cho con biết con tìm
Nói cho con rõ những điềm xa xôi
Nghe lời cha dạy con ơi
Con nghe cha dạy gặp hồi thảnh thơi,
Bèn con mà chẳng nghe lời
Hồn con sau bị Lệnh Trời đọa xa
Cõi trần là cõi thiết tha
Đọa con phải khổ đến già trăm năm
Kiếp này con đã khổ thầm
Nhưng quyền cao cả ăn nằm xuê sang
Nhỏ thì Quận chúa con quan
Lớn thì càng quý Nữ hoàng có ngôi
Mười lăm năm chẳng mấy hồi
Chữ tình trả phứt cho rồi con ơi,
Hồi con còn ở Cõi trời (6)
Trời sai xuống thế lập đời Nữ vương
Làm gương bọn gái má hường
Noi theo chí đó đảm đương sau này
Con đi ra khỏi đài mây
Thấy tên quạt gió ôm cây đại hồng
Con liền kêu gọi hỡi ông
Quạt cho tôi đặng mát lòng ra đi
Nay tôi lìa cõi Cung Ly
Xuống phàm chuyển kiếp xiết chi não nề
Ngày tôi mãn hạn trở về
Ơn ông quạt mát chẳng hề quên ơn,
Tại con nói thiệt nói hơn
Nên tên quạt gió nổi cơn xung đình
Hẹn nhau xuống thế lai sinh
Mười lăm hôm chẳng thỏa tình hàn huyên
Dù sao cũng nhớ lời nguyền
Làm gì cũng phải kết duyên con à (7),
Sau này có Chế Mật Đa
Gây thêm đạo lý đổi ra lộn cuồn
Dù con có giận có buồn
Nhớ lời Thầy dạy thì suôn trăm chiều
Thương con Thầy mới nói nhiều
Tuy là duyên trước nhưng nhiều trái ngang,
Ráng làm cho đặng vẹn toàn
Thầy cho con một cây đàn con a
Tên kêu vốn thiệt tỳ bà
Bằng đá ngọc thạch sanh ra đờn này
Đờn này vốn của Cung mây
Truyền cho con trẻ sau này đàn chơi
Gặp khi rối rắm cuộc đời
Đàn qua một chặp vơi vơi lòng sầu.
Thế Châu nghe nói cúi đầu
Đàn tiên là phép báu màu Thầy ban
Riêng con cũng có cây đàn
Giống như đàn của Thầy ban như là
Cũng kêu tên tộc tỳ bà
Hai cây nhập một xem mà như nhau
Nhưng mà nó thiệt hai màu
Đội ơn Thầy đã truyền giao đàn này.
Bửu Sơn mới nói như vầy:
Còn một chuyện nữa nay Thầy nói luôn
Ước mong con trẻ nên tuồng
Một sông nước chảy nhiều nguồn con ơi
Làm người sống giữa Đất Trời
Con nên định trí nhớ lời Thầy phân
Sống sanh người đứng cõi trần
Ai ai cũng có duyên phần khác nhau
Con thì đức cả tài cao
Đạo làm thục nữ một màu như nhiên
Sau này mới chứng Quả Tiên
Giữ lòng thanh tịnh cho yên cõi lòng
Nay Thầy xuống cõi trần hoàn
Dạy con rõ phép lục thông rồi về
Cõi trần là cõi bể mê
Thầy thường lai đáo đi về dạy con
Rồi Thầy trở lại Bệ son
Vì mang xác tục sợ con lạc lầm
Nên Thầy xuống thế khuyên thầm
Dạy cho con trẻ truy tầm lý sâu
Duyên con sắp tới chẳng lâu
Dù sao biến sự con đâu mất phần
Con là một vị Thiên Thần
Nặng mang nghiệp cả cõi trần cao thâm
Có chồng chẳng có bao lăm
Năm trần tính đủ mười lăm năm dài
Dù cho trăm đắng ngàn cay
Tính cho đủ tháng đủ ngày mới nên
Lời Thầy con chớ vội quên
Nếu không như vậy cõi trên khó về
Thôi thì Thầy phải chỉ phê
Nhớ lời Thầy dạy đủ bề nghe con
Việc gì phân phán cho tròn
Từ trong thành nội, ngoài còn thứ dân
Ba hôm điền điệp một lần
Đặng qua dân chúng ân cần hay chăng
Hóa trang rồi sẽ đi săn
Học thêm thao lược cho bằng nam nhi
Thầy cho con học khoa y
Làm thầy độ bệnh cho thì các quan
Nơi này nhiều thuốc trị an
Ngoại khoa, nội trị xem toàn thuốc linh
Thầy ban phép báu trong mình
Lâm nguy cũng có cứu tinh đỡ đầu
Từ rày con hãy nhớ câu
Giận ai đừng phán chém đầu nghe chưa
Người phàm nói chửa kịp thưa
Âm Thần nói dứt thì vừa mạng vong
Thầy khuyên con hãy nhớ làm
Giận ai chém nấy chất chồng tội cao
Thấy con không rõ trước sau
Nên Thầy mới tỏ âm hao con tường
Thôi Thầy trở lại Tòa chương
Con nên giữ chức Nữ vương con à
Nói rồi ông mới bước ra
Thế Châu níu lại thưa qua như vầy
Con xin hỏi thiệt với Thầy
Số con hết đọa còn chầy hay không
Chừng nào con đặng thong dong
Chừng nào bỏ xác xin ông tỏ bày
Nghe Thầy con trẻ ngày ngày
Trao dồi nết hạnh thành tài mới mau
Còn cha còn mẹ thì sao
Còn vua Xiêm quốc ngự trào Xiêm bang
Sợ e người xuống chỉ tràng
Bắt con về nước Xiêm bang mới là
Khó mong tránh khỏi Mật Đa
Bị người ràng buộc biết là sao đây
Nên con thưa rõ việc này
Mong ơn đức cả của Thầy xét phân,
Còn Anh Quạt gió xuống trần
Hiện giờ anh ấy ở gần hay xa?
Bửu Sơn ông mới nói ra:
Chuyện gì nó tới, tới mà không ngưng
Dặn lòng, lòng giữ như bưng
Đóng ngăn cửa miệng xin đừng hở môi
Giã con Thầy sẽ phản hồi
Nói rồi biến mất nàng ngồi láo lơ.
  
CHÚ THÍCH
----------------------------------

1. Thầy Kỳ Hương: Thầy Bửu Sơn Kỳ Hương trong tiền kiếp.

2. Thầy đi tìm trò truyền đạo. Bởi vì Thầy mới “nhìn” được trò nào có căn, có thhie6n mệnh, xứng đáng được truyền dạy. Trong thực tế trò đi tìm Thầy chỉ theo cảm tính mà thôi.

3. Tây phan: tây phương cực lạc

4. Theo quan niệm tâm linh, một người có thiên mệnh, sẽ có chư thần, hộ pháp, thiên binh, thiên tướng phù độ, hộ mệnh.

5. Theo quan niệm tâm linh, nhân duyên do tiền định, theo Luật Nhân quả. Dù hai người ở chân trời góc bể cũng sẽ tìm đến với nhau. Theo quan niệm như vậy, việc tự ý ly hôn là phạm Luật Nhân quả, sẽ gặp quả báo về sau.

6. Câu chuyện tiền kiếp, chuyện kiếp trước.

7. Mắc nợ nhau lời hứa, nên phải kết duyên tiền định, trả nợ theo Luật Nhân quả.
   DUYÊN TIỀN ĐỊNH HẠNG THẾ CHÂU GẶP SỬ VĂN
Thế Châu lòng ngẩn dạ ngơ
Thầy ta mới đó bây giờ đi đâu
Như vầy thiệt khó lắm âu
Mất Thầy ta biết đi đâu tìm Thầy.
Thế Kim mới nói như vầy:
Mất Thầy cứ nhớ lời Thầy thì xong
Người thì có phép lục thông
Xa Thầy cứ nắm lòng trong được rồi
Hơi nào rầu rĩ bà ôi
Vắng Thầy bà cứ mãi ngồi hay sao?
Chuyện gì nhờ lệnh Trời cao
Trời phân, Trời định có nào mất đâu
Lời Thầy mình nhớ từ câu
Mặt Thầy tuy vắng mình đâu xa Thầy
Theo Thầy như gió như mây
Gần Thầy mà chẳng nghe Thầy gần chi
Xa Thầy mà giữ y y
Chuyện làm đừng sái một ly lời truyền.
Thế Ngân nàng mới nói liền:
Tiên Hiền chỉ dạy Hậu Hiền xin nghe
Nhìn sau ngó trước vắng ngoe
Thế Ngân rỉ rả tiếng ve kêu sầu
Sang canh quân điểm trống lầu
Lời Thầy truyền dạy nhiệm màu lắm thay
Tôi e Thầy nói hậu lai
Tới đâu hay đó bàn hoài hao hơi
Tuy là mình vẫn nhớ lời
Ngẫm ra trong thế ngoài đời ai tin.
Thế Châu nàng mới tỏ tình
Ta đi săn bắn một mình đặng chăng!
Thế Kim liền mới thưa rằng:
Như bà mà muốn đi săn đặng nào
Thú rừng chẳng biết là bao
E cho thú dữ nó nào kể chi
Bà đi tiện thiếp cũng đi
Phòng cơn nghèo ngặt tôi thì tiếp tay.
Nói rồi hai ả giả trai
Thế Châu Nữ chúa cũng thay đồ vào
Ba người cưỡi ngựa đi mau
Hai nàng ở lại giữ trào Nữ vương.
Càng đi càng muốn buông cương
Đi săn đặng một quãng đường xa xa
Phúc đâu gặp lũ nai chà
Thế Châu theo đuổi chạy a vào rừng
Thế Kim, Thế Ngọc ngó chừng
Phen này Nữ chúa vô rừng quá sâu
Trông hoài chẳng thấy bà đâu
Về đền mới nổi trống chầu liên thinh
Truyền cho dân chúng hay tin
Nữ vương điền điệp một mình đi xa.
Thế Ngân, Thế Thủy thở ra:
Theo bà sao để cho bà đi đâu
Nếu mà lạc chốn rừng sâu
Nguy cho Nữ chúa Thế Châu hay là
Hai nàng chẳng có tài ba
Cho nên mới bị nai chà dẫn đi
Lúc này mới thiệt lâm nguy
Chúng ta phò tá chẳng thì có xong.
Cùng nhau bốn ả khóc ròng
Mất Vua thì chiếc Ngai rồng không ai
Chúng ta có đủ đức tài
Cớ sao có chuyện ngày nay như vầy
Tại bà hay tại ta đây
E cho bà gặp thú bầy nhai xương
Còn chi ngôi vị Nữ vương
Ắt bà trong sổ đoạn trường có tên
Cơ đồ vừa mới dựng nên
Xã tắc xây đền chưa vững lại xa,
Cùng nhau thiết thiết tha tha
Phúc đâu Cụ lão hiện ra nói rằng:
Các con người có kiếp căn
Thế nên sinh hiệp một lòng như mao
Nhưng mà bụng hỡi khác màu
Thử xem ai mới nêu cao tinh thần
Ai người trọn đạo quân ân
Thử coi cho biết vi thần vi vương,
Tuy là Nữ chúa lạc đường
Nhưng mà còn có người thương đỡ đần
Sau nầy nàng Hạng Thế Ngân
Phản nàng Nữ chúa nhiều lần lắm đa
Cho nên chuyện mới xảy ra
Thế Châu sau chết tại mà Thế Ngân.
Bốn nàng xúm lại phân trần:
Xin Thầy hãy nói gần gần tôi nghe
Bọn tôi nào có mà dè
Xin Thầy nói rõ con nghe cho rành
Chớ con là gái trung thành
Vì sao mà lại lòng đành phản nhau.
Bửu Sơn (1) ông mới nói mau
Lão nay nói trước ngày sau mới tường
Bây giờ lão có phô trương
Khác nào là chuyện hoang đường ai tin
Lá lai có một chữ tình
Mà tôi trung nghĩa chẳng nhìn rõ ra
Nói phản thì quá nặng à
Tại vì trung quá thành ra nghịch thần
Đây là lời lão cạn phân
Các con hãy khá ân cần sửa sang
Làm người thiệt chí trung can
Phơi gan bảy lá như trang anh hùng
Dù chết cũng giữ chữ trung
Phật Trời che chở nữ hùng vẹn an
Nói cho con biết rõ ràng
Đến ngày bỏ xác nhẹ nhàng còn xa
Biết bao chuyện khổ con a
Xác nầy muốn bỏ cho Bà Tinh Quân (2)
Thôi lo việc nước việc dân
Trung ngay đến chết hiển thần con ôi
Nữ vương đi đã xa rồi
Rạng đông nàng sẽ lại hồi chẳng sai
Nói rồi ông mới đi ngay
Bốn nàng ngồi ngó mặt mày buồn xo.
Tuồng đời sao quá quanh co
Truân chuyên lắm lúc thầy trò có nhau
Hôm nay không hiểu tại sao
Thầy trò ta lại xa nhau như vầy.
Nhắc qua Nữ chúa đoạn nầy
Lạc rừng tứ phía cỏ cây bịt bùng
Lắng nghe khỉ hú não nùng
Chim kêu lăng liếu chạnh lòng tư lương
Phúc đâu tìm gặp mối đường
Tay nâng hàm thiếc dây cương đi lần
Bỗng nhiên gặp một văn nhân
Ngồi bên cội lý xem gần mỏi hơi
Xem qua sắc phục chói ngời
Nếu không quan Trạng cũng thời Thám hoa (3)
Lại gần nàng mới hay a
Chàng trai tự trói chết đà đã lâu
Xem tường có ấn công hầu
Người bên Trung quốc đi đâu thế nầy
Lần hồi nàng mới mở dây
Để nằm ngay ngắn chân tay chỉnh tề
Xem tường quả thiệt đang mê
Rõ ràng chết giả chẳng hề chết luôn,
Người buồn gặp cảnh thêm buồn
Chắc là Trời sắp lớp tuồng trái ngang
Ta đi bỗng bị lạc đường
Một mình lạc giữa rừng hoang như vầy
Phúc đâu lại gặp gã nầy
Đi đâu mà đến nơi đây làm gì,
Rõ ràng diện mạo vương phi
Trăm năm biết có duyên gì với ta
Lại gần nàng mới tay chà
Mặt mày cho tới những là sau lưng
Khổ nầy thiệt khổ quá chừng
Thân lạc vào rừng gặp kẻ nằm mê
Nếu ta mà bỏ đi về
Người nầy ắt chết chẳng hề sống đâu
Người khổ gặp khổ thêm sầu
Nghĩ càng lụy ứa thâm bâu cõi lòng.
Nàng ngồi lại dựa vào hông
Trời đà chen lặng đói lòng lắm thay
Phúc đâu cậu nọ thở dài
Chống tay ngồi dậy mặt mày láo lơ
Nhìn nàng lòng ngẩn dạ ngơ
Người nầy là gái đào tơ rõ ràng
Cớ sao lại hóa nam trang
Nhìn đi nhìn lại rõ ràng nữ nhi
Như vầy cũng rất lạ kỳ
Mỹ nhân mà giả nam nhi chi cà
Hay là nàng muốn cứu ta
Giả trai mới dễ lân la lại gần
Mình là một kẻ thọ ân
Dù trai hay gái chẳng cần hỏi han
Cứ coi lớp áo hóa trang
Thôi thì ta hãy gọi nàng bằng anh,
Nghĩ rồi chàng mới thưa rành:
Thưa anh đây đến bờ gành bao xa?
Thế Châu nàng mới nói ra:
Đây ra bờ biển thì xa dặm dày
Chàng là nam tử râu mày
Đi đâu mà lại lạc loài đến đây
Xem ra không phải nước nầy
Đi đâu ngồi dựa cột cây rừng già?
Người trai liền mới nói ra:
Tôi người ở nước Trung hoa thiệt tình
Quê nhà ở xứ Nam kinh
Làm quan Học sĩ (4) triều đình chẳng sai
Vua ban ngự tửu thưởng tài
Trung thu ngoạn nguyệt đêm dài thưởng trăng
Nhơn sau sấm chớp một lằn
Mây che bóng nguyệt vầng trăng tối mò
Phát lên một trận gió to
Tỉnh ra tôi lại nằm co chốn nầy
Mắt nhìn những đá với cây
Tôi đà mòn mỏi chốn nầy ba hôm
Những là khát nước đói cơm
Chết vầy chết mỏi chết mòn còn chi
Chúng mình cũng bọn nam nhi
Lâm nguy bất cứu mạt phi anh hùng
Xin cho tôi đặng tháp tùng
Theo về hôm sớm sống cùng bên nhau
Ít ngày tôi sẽ hồi trào
Ơn đền nghĩa trả chẳng sao anh à.
Thế Châu liền mới nói ra
Đây về Trung Quốc đường xa quá chừng
Núi sông còn lại biển rừng
Nước non nguy hiểm trông chừng lai kinh
Tôi là một kẻ chân tình
Gặp ai anh sẽ đầu mình cách xa!
Vì anh người nước Trung Hoa
Tôi người Xiêm quốc (5) anh mà biết chăng
Còn đây không phải đất bằng
Vốn hòn Phú Quốc phủ vân giữa trời
Của dân Chân Lạp (6) vậy thời
Tôi thay mặt Chúa trị đời mới yên
Muốn về Trung Quốc sơn xuyên
Đi không nhờ cậy tàu thuyền khó đi
Con đường hải lý lâm nguy
Sao quan Học sĩ ngu si thế nầy,
Tôi người có Đạo có Thầy
Phải dân Chân Lạp anh đây đâu còn.
Cậu trai nghe nói cười dòn:
Xét ra tôi cũng vẫn còn phước duyên
Thời may gặp kẻ lương hiền
Phải gặp kẻ dữ về miền Diêm la
Cuồng phong thổi thiệt quá xa
Cách hai ba nước lại ra giữa trời
Thề trên chứng có Ông Trời
Tôi đây vốn thiệt tên thời Sử Văn
Quyết lòng kết nghĩa kim bằng (7)
Trăm năm xin giữ đạo hằng đệ huynh.
Thế Châu nghe nói làm thinh
Hồi lâu nàng mới sự tình tỏ phân
Anh tuy thọ phẩm hoàng ân
Đến đây chẳng khác là dân anh à
Quan là của nước Trung Hoa
Đến đây nước khác ai mà phục đâu,
Còn tôi tên thiệt Thế Châu
Là quan Thừa tướng công hầu danh vang
Đảo nầy có một Nữ hoàng
Trên Trời sa xuống trị an dân tình
Để tôi về tấu Triều đình
Đặng cho Nữ chúa phân minh thế nào,
Chớ anh là kẻ quan Tàu
Đem binh xâm lấn tôi nào có hay
Anh trai tôi cũng là trai
Lẽ nào tôi để kém tài nhịn thua
Đành rằng ai cũng vì Vua
Biết đâu mai một anh vùa dân anh
Còn tôi thất thủ kinh thành
Bất trung Nữ chúa tội đành xử phân,
Nói rồi vội vã dời chân
Sử Văn nắm lại phân trần nỉ năn:
Xin anh đừng vội đi phăng
Để tôi bày tỏ gốc căn sự tình
Tôi nay như kẻ phiêu linh
Chơi vơi trời biển biết mình về đâu
Cúi xin ông bạn Thế Châu
Cho theo đến phủ vào hầu Nữ vương
Như bà Nữ chúa không thương
Đem tôi ra chốn pháp trường cũng ưng
Nơi đây tôi chết giữa rừng
Linh hồn oan uổng biết chừng nào nguôi
Xin chàng hãy khá lòng vui,
Thế Châu nghe nói cũng xuôi thốt rằng:
Hỡi nầy kìa gã Sử Văn
Trời đà đã tối khó khăn về trào
Ở đây đâu có dễ nào
Hùm beo thú dữ nó vào xé thây
Vậy chàng uống đỡ thuốc nầy
Vốn là thuốc quý của Thầy mới cho
Đói lòng uống nó cũng no
Thuốc linh Sư trưởng ông cho tôi dùng
Hôm nay may gặp anh hùng
Thiệt là cảnh ngộ cùng chung một đàng
Tôi đây là kẻ lạc đường
Gặp cơn điền điệp dầy đoàn đi săn
Vì tôi là kẻ mê ăn
Gặp con nai tốt ruợt phăng bắt mồi
Tôi đi đâu đặng một hồi
Thì ra lạc mất Vua tôi đàng nào
Nữ vương có lẽ hồi trào
Còn tôi gió ngược lạc vào rừng hoang
Thôi thì chịu chết cho an
Chớ tôi cũng chẳng biết đàng mà đi
Nơi nầy rừng núi rậm ri
Muốn về không biết đường đi mà về
Lần theo dấu thỏ, chân dê
Sáng ngày mới có đường về Hoàng cung
Nếu anh thật đấng anh hùng
Lâm nguy chớ có ngại ngùng mà chi
Nay nguyền kết bạn cố tri
Anh quan Trung Quốc chức thì Hàn lâm
Cùng tôi kết bạn đồng tâm
Giữ tròn nhân nghĩa trăm năm mới là.
Sử Văn liền mới nói ra:
Tôi đang bụng đói sao mà lại no
Thuốc nầy thiệt của Trời cho
Đói lòng uống nó mà no ngộ kỳ
Nếu ta làm bạn cố tri
Phân vai huynh đệ phòng khi chuyện trò
Nếu theo phẩm tước mà so
Ngài làm Thừa tướng ai đo cho bằng
Còn theo hương đảng đạo hằng
Hễ ai lớn tuổi thì tăng thẩm quyền.
Thế Châu nàng mới nói liền:
Tôi làm Thừa tướng tước quyền tôi cao
Nói theo phép nước tại trào
Phẩm cao ngồi trước từ nào rồi a
Hương thôn thì trọng tuổi già
Thôi thì tôi nhượng người mà làm anh
Tôi còn niên thiếu xuân sanh
Mới mười tám tuổi phải đành nhỏ hơn
Tuy là lớn chức cao quyền
Nhắm mình tuổi tác nhỏ hơn quá nhiều.
Sử Văn rằng chẳng bao nhiêu
Lớn hơn sáu tuổi không nhiều bao lăm
Nếu mà kết bạn đồng tâm
Khi cờ khi rượu khi cầm, khi thi
Nói rồi nẻo thẳm lần đi
Hai người một ngựa quản chi núi rừng

CHÚ THÍCH:
----------------------------

1. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương sau này.

2. Bà Tinh Quân: Theo quan niệm mỗi người sinh ra có một ngôi sao chiếu mạng, sao Chủ Mệnh, một vị thần hộ mệnh.. Khi chết sẽ được vị thần ấy thu lại linh hồn.

3. Ba thứ hạng đậu cao nhất, nhì, ba của kỳ thi do triều đình tổ chức, theo thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.

4. Quan học sĩ: chức quan triều đình, trông coi giáo dục, văn hoá.

5. Xiêm quốc: Thái Lan ngày nay.

6. Chân Lạp: tiền thân Campuchia ngày nay.

7. Nghĩa kim bằng: tình bằng hữu, anh em.
SỬ VĂN BỊ TỐNG GIAM NGỤC THẤT VÌ TỘI TRINH SÁT
NỮ VƯƠNG THA MẠNG VÀ PHONG CHỨC CHO SỬ VĂN


Phút đâu binh ó vang lừng
Quân reo dậy đất trong rừng nghe vang
Sử Văn trong bụng chẳng an
Chắc là binh của Nữ hoàng phủ vây
Thế Châu mới thốt như vầy:
Nữ vương bà mới đến đây lập thành
Lập về binh mộ chưa rành
Hiện giờ chỉ ở trong thành mấy tên
Có đâu la ó nghe rền
Hay quân Chân lạp hiện lên giờ nầy
Mắt nhìn rừng núi cỏ cây
Cớ sao tiếng nói nghe rầy lỗ tai
Phúc đâu xuất hiện như tài
Bốn nàng thiếu nữ quì ngay giữa đường
Tung hô vạn tuế Nữ vương
Chúng tôi tìm khắp các đường mới ra
Mừng mừng tủi tủi thiết tha
Tưởng tôi mãi mãi chịu xa Nữ hoàng
Nào ngờ diễm phúc Trời ban
Chúng tôi xin rước Nữ hoàng hồi cung
Người nào mà lại đi chung
Trông xem quả thiệt anh hùng lắm thay!
Thế Châu liền mới phán rày:
Người bên Trung Quốc lạc loài tới đây.
Thế Kim mới nói như vầy:
Tôi xem hình dạng gã nầy dối gian
Nếu mà sự thật lạc đàng
Sao không có vẻ ngỡ ngàng ngại nghi
Chắc là có chuyện gian phi
Xin bà hãy chém phức đi cho rồi
Làm Vua bà quá lôi thôi
Gặp người nói mép nói môi bà lầm
Gã nầy kiêm chức Hàn lâm
Ở bên Trung Quốc mà tầm nước ta
Hầu sau nó kéo binh qua
Đoạt hòn Phú Quốc lập tòa đóng đô
Gã nầy trông đủ mưu mô
Dùng chước Phụng Sồ hay gã Khổng Minh (1)
Địa đồ lập trận đóng binh
Hòn nầy chiếm đặng nước mình phải nguy,
Nhất là Chân lạp trước khi
Sau là Xiêm quốc thành trì còn đâu
Nơi đây trấn thủ địa đầu
Thất cơ đại bại còn đâu sơn hà
Nguy luôn hai nước đó bà
Làm Vua bị gạt thiệt là quá quê
Khác nào là kẻ ngủ mê
Tôi không đến kịp rước về thì nguy
Bốn phương tám hướng thông tri
Làm Vua mình phải nghĩ suy chánh tà
Bà nghe những tiếng dối ma
Gã nầy thì đã biết bà giả trang
Bà không biết gã mưu gian
Lầm mưu của giặc Nữ hoàng chưa hay!
Thế Ngọc nàng mới thưa rày:
Muôn tâu Nữ chúa chém ngay cho rồi
Xin bà xét lại bà ôi
Mưu gian của gã chúng tôi đã rành
Đến đây đặng có dòm hành
Mưu mô nó tính đoạt thành chẳng ngoa.
Thế Châu nghe nói thở ra:
Như say mới tỉnh thật là giấc mơ
Mình đây còn lắm dại khờ
Nên không liệu trước bây giờ mới khôn
Hèn chi từ lúc hoàng hôn
Gã làm bộ chết thần hồn mê man
Hồi lâu ngồi dậy lẹ làng
Ta trao bột thuốc kim hoàn uổng thay
Thề non hẹn biển quá dày
Nếu truyền lệnh chém thì sai lời thề
Như vầy thiệt khó liệu bề
Bằng giữ lời thề thì mất giang san
Thiệt là khó tính khó toan
Trên đời có kẻ tà gian như vầy
Nghĩ mình còn quá dại ngây
Nghe chàng nói nọ nói nầy mê sa
Từ đây đến nước Trung Hoa
Đi đường hải lý thì xa quá chầy
Còn đi đường bộ sang đây
Cách miền Nam hải biển này làm sao
Đường biển đi rất là mau
Còn đi đường bộ có nào mà xong
Trách ta sao quá cuồng ngông
Lòng mình chưa chắc tinh lòng trăm năm
Miệng người ta lại lạc lầm
Nghĩ mà ta bắt hổ thầm cho ta.
Thế Kim nàng mới nói ra:
Cớ sao Nữ chúa lệ sa đôi hàng
Hay là đá biết tuổi vàng (2)
Cho nên bà mới chứa chan mủi lòng.
Thế Châu mới nói: Không! Không!
Vốn ta cùng gã chưa lòng chi chi
Xin nàng đừng có ngại nghi
E cho sanh chuyện lỗi nghì về sau.
Thế Ngọc nàng mới nói mau:
Nếu bà chẳng có quen nhau với chàng
Cứ theo phép nước mà bàn
Bắt đem giam lại ngục đàng hỏi tra
Còn bằng bà có bướm hoa
Giữ chàng chẳng có cho ra khỏi thành
Kinh quyền (3) phải biết thi hành
Tùng quyền phân nửa, nhưng đành chấp kinh
Xin bà đừng có động tình
Chúng tôi đã biết nửa kinh nửa quyền.
Nói rồi áp lại trói liền
Sử Văn chẳng chút than phiền âu lo
Lần theo nhiều nẻo quanh co
Kẻ lôi họ Sử người phò Nữ vương
Cùng nhau về đến triều đường
Trời vừa hừng sáng thái dương ửng hồng
Nữ vương vào chốn thư phòng
Sử Văn thì bị giam trong ngục hình,
Nghĩ suy hai chữ nhân tình
Buồn lòng nghĩ lại chuyện mình cũng hay
Khá khen cho gái anh tài
Thấy mình thì nó biết ngay chuyện mình
Thiệt tài bốn ả nên kinh
Nữ vương là gái chân tình thiệt tâm
Người thiệt tình thiệt mới lầm
Không tường dối ngụy đâu tầm mưu gian,
Bốn nàng thì quá khôn ngoan
Chắc là hay sắp mưu gian dối đời
Chuyện xưa người cổ để lời
Mạt cưa mướp đắng (4) lẽ thời tự nhiên,
Nữ vương rõ thiệt người hiền
Nói sao nghe vậy kinh quyền biết đâu
Dù ta mà có rơi đầu
Thì nào có phải oan đâu cho mình
Vua ta thì muốn cử binh
Cảnh hòn Chân Lạp gẫm tình rất hay
Đình binh cho khỏe ít ngày
Đánh quân Chân Lạp trở tay đặng nào
Để binh tạm nghỉ cù lao
Rồi đem binh đến loạn trào Xiêm bang
Thiệt là trận chiến dễ dàng
Nào hay xuất hiện Nữ hoàng nơi đây
Lại thêm có bốn ả này
Gái Xiêm mà giỏi như vầy khá khen
Nghĩ mình đức bạc thời đen
Phải đâu lực kém tài hèn hay sao
Nay mà ngồi chốn đề lao (5)
Địa đồ ta họa làm sao cho thành
Nay ta có chết cũng đành
Nghĩ thương Nữ chúa tài lành hiền lương
Ước gì muôn việc an khương
Ta nguyền cuới gấp Nữ vương đem về
Gái Xiêm vóc liễu mày huê (6)
So nguời Trung Quốc có hề kém chi
Gái Xiêm nhắm cũng phương phi
Nữ vương gẫm thiệt nhu mì lắm thay
Giả trai xem cũng giống trai
Nhìn rõ mặt mày là gái dung nhan
Như ta đã dự phẩm quan
Trung nguyên (7) hiếm gái hồng nhan mỹ miều
Nhưng ta chẳng biết thương yêu
Nay nhìn Nữ chúa lại xiêu anh hùng
Cớ sao nhiều chuyện lạ lùng
Đêm đêm tưởng tượng nhớ nhung nàng hoài,
Mặt mày không đẹp hơn ai
Oai nghiêm có vẻ trang đài mà thôi
Thở than này hỡi Trời ơi
Tôi làm quan lớn lại ngồi đề lao
Đường đường Trung Quốc anh hào
Nay bị má đào bắt trói chân tay
Ngửa than Đức cả <8> cao dày
Gái Xiêm sao có gái tài đảm đang
Bắt trai giam giữ buộc ràng
Chừng nào mới xử pháp trường nữa đây
Chết vì bọn gái phân thây
Thì là hổ mặt râu mày trượng phu
Danh nêu để lại ngàn thu
Anh hùng bị gái nữ lưu xử hình
Thở than, than thở một mình
Như ta có chết thương tình Thế Châu,
Ước chi ba tiếng trống đầu (9)
Pháp trường có Hạng Thế Châu thị trường
Dù chết còn nặng lòng thương
Thấy nàng ta biết má hường không sai
Dù nàng mặc áo giả trai
Tướng hình con gái lộ ngoài nhiễu nhương
Vốn không có chí cang cường
Nhìn ta hai giọt mắt hường nàng rơi
Chẳng qua khó thốt nên lời
Để bọn dưới trướng trói thời ta đây
Nhớ nàng ta khó lòng khuây
Ước chi gặp lại đôi giây chuyện trò.
Ban đêm than thở nhỏ to
Thế Ngân, Thế Thủy lần dò lại nghe
Gã nầy nào có mà dè
Cho nên đa cảm than nghe não nồng
Nữ vương là gái Tiên Rồng
Gã nầy ước đặng làm chồng Thế Châu
Thiệt là người quá cơ cầu
Sao không có sợ mình đầu hai nơi
Xét ra thiệt cũng lạ đời
Nữ vương bà hỡi bà thời nào hay
Nói rồi hai ả cười dày
Tiêu phòng trở lại luận bày cùng nhau.
Thế Châu lòng luống vào vào
Đêm đêm nước mắt tuôn trào lụy rơi
Sống sanh trong kiếp người đời
Nghĩ suy hai chữ vận thời thở than
Thiệt là trăm việc bất an
Ta đà yên phận thương chàng lâm nguy
Trời xui gặp gỡ làm chi
Cứu rồi lại giết cũng kỳ lắm đa
Nói rồi nàng mới lần ra
Một mình lén bước ngang qua ngục hình
Tên quan thủ ngục lộn thinh
Mắt mù nào có mà nhìn thấy ai
Nữ vương bà đến không hay
Mở then bẻ khóa bước ngay vô liền
Sử Văn xem thấy ngạc nhiên
Thế Châu nàng mới căn nguyên phân trần
Thiệt em có lỗi muôn phần
Sử huynh đừng có ngại ngần âu lo
Làm tôi xã tắc nưng phò
Ai binh chúa nấy giữ cho trọn nghì
Thương chàng gặp lúc lâm nguy
Đến đây tôi thả chàng đi trở về
Ấy là tôi giữ lời thề
Đạo làm bạn hữu là lề xưa nay
Nếu mà để đến sáng ngày
Ắt chàng phải chịu đầu bay pháp trường
Lòng tôi hay cảm hay thương
Để chàng ra chốn pháp trường hay sao
Thôi thì chàng hãy đi mau
Nếu chàng mà chết cũng đau lòng nầy.
Sử Văn mới nói như vầy
Muôn tâu Nữ chúa tôi đây ngại ngùng
Nếu bà mở đức nhiêu dung
Tha tôi về nước vô cùng đức ân
Chỉ e dư luận quần thần
E cho bốn ả phân vân như hà
Thà tôi chết dưới tay bà
Còn hơn dư luận như hà bà ơi
Bà làm Nữ chúa tuyệt vời
Uy quyền phải có trị vì mới an
Đã là một vị Nữ hoàng
Đường đường chánh chánh trào đàng chỉ phân
Sáng mai hội đủ quần thần
Truyền đem tôi đến trước sân bệ tiền
Rồi bà phán hỏi căn nguyên
Phán quan biên chép lấy liền khẩu cung
Không tội thì sẽ nhiêu dung
Có tội thì chém hoặc dùng đoái công (10)
Nghị theo phép nước mới xong
Làm Vua tha lén thiệt không uy quyền
Làm Vua bà quá nhu hiền
Để bọn thuộc hạ giữ quyền chỉ phê
Như vầy tôi chẳng có về
Thà tôi liều chết trọn bề ước giao
Tôi thì tuổi lớn tước cao
Làm anh thì phải chuyện nào cho xong
Em còn khờ dại bất thông
Làm Vua như vậy thiệt không có rồi
Giang san công kỷ đắp bồi
Lắm công lao khổ mới ngồi trị an.
Thế Châu nghe nói thở than
Nào ai có biết có toàn chuyện chi
Bỏ cha bỏ mẹ mà đi
Bốn con thế nữ nó thì xúi tôi
Đường trường non nước xa xôi
Nó xây ngôi báu bắt ngồi làm Vua
Thiệt là sái tiết sái mùa
Tôi nào có chịu chức Vua chàng à
Làm Vua bận trí lo xa
Hết lời từ chối có mà đặng đâu
Gái thì tứ đức giữ câu
Tam tòng là phận lẽ hầu xưa nay
Cầm kỳ thêu tiểu vá may
Gái nào mà lại ngồi ngay trị đời
Làm Vua khó lắm chàng ơi
Mà bọn thị nữ nó mời phải nghe
Nên tôi phép nước không dè
Chàng nào có rõ có le sự tình
Thiệt là tôi lắm bực mình
Nên tôi vào chốn ngục hình thở than
Lén tha cho được mạng chàng
Sợ là bọn nó quyết toan chém đầu
Chàng là một kẻ mưu sâu
Tội đà đáng tội phải đâu nhẹ nhàng.
Sử Văn liền mới phân tràng
Tuy tôi có tội lịnh nàng truyền ra
Nếu nàng một tiếng bảo tha
Nào ai dám chém nàng mà biết chăng
Đường đường phép nước cao thăng
Làm Vua ai có sánh bằng nàng đâu
Ta thương nàng lắm Thế Châu
Ta nguyền chỉ dạy từng câu luật triều
Có ta nàng sẽ biết nhiều
Mai nầy nàng cứ lâm triều truyền tha
Nữ vương một tiếng phán ra
Thần dân lớn bé trẻ già đều nghe
Nàng nào có biết có dè
Nên ta mới nói nàng nghe cho rành
Thương nàng là gái xuân xanh
Dốc lòng đắp lũy bồi thành Nữ vương.
Thế Châu nghe đã tỏ tường
Giã từ trở lại cung chương của mình
Ra ngoài đóng cửa ngục hình
Ngục quan đang ngủ giật mình la lên:
Hỡi nầy văn võ hai bên
Gian nhân nó đến nhiều tên quá rồi
Bớ bớ Nữ chúa bà ôi
Cửa ngục mở rồi tên giặc thoát ra!
Thế Châu liền phát cười xòa
Ngục quan người thiệt chả cha ngu đần
Tại sao người lại la rân
Ta là Nữ chúa đến gần đề lao
Làm Vua ngó trước xem sau
Giam người phải đến đề lao coi người
Rõ ràng người thiệt dễ ngươi
Có tài la hoảng khiến người kinh tâm
Một lần thứ nhất ngươi lầm
Nếu còn tái phạm phải nằm ngục muôn
Đặng cho ngươi có học khôn
Hết còn la hoảng la nôn hoài hoài.
Nói rồi nàng mới lui hài
Về phòng trâm dắt lược cài xông hương
Vội vàng khoác áo Nữ vương
Hội trào Nữ chúa đường đường trang nghiêm
Phán rằng thừa tướng Thế Kim
Quả nhân xem thấy một điềm rất hay
Chúng ta là gái nhi hài
Dù cao chí cả cũng rày nữ nhi
Bì so cho lại tu mi
Còn tên họ Sử tầm tri đại hình
Gã nầy ắt phải thông minh
Nên sang nước ngoại quyết tình đoạt thâu
Nếu không dũng cảm mưu mầu
Dám nào thám thính địa đầu nước ta
Vậy thì vào ngục dẫn ra
Cho ta xem hắn nên tha chăng rày
Nếu ta cần gã giúp tài
Thì nên tha lỏng còn hay hơn nhiều
Tùy cơ ứng biến theo chiều
Tính sao cho vẹn mỗi điều thì xong.
Thế Kim nàng cũng bằng lòng
Dẫn chàng ra trước sân rồng tung hô
Nữ vương xem thấy mới phô
Sử Văn thám thính địa đồ xong chưa?
Sử Văn nghe hỏi liền thưa
Muôn tâu Nữ chúa vốn chưa có rồi
Nếu bà mở lượng tha tôi
Tôi nguyền ra sức đắp bồi giang san
Cho bà Ngôi chúa trị an
Nếu sau tôi có phụ phàng điều chi
Thề rằng chịu chết lăng trì (11)
Nữ vương tha tội có gì là hơn
Bằng không tôi chẳng lòng hờn
Anh hùng cái chết chẳng sờn chẳng nao
Chết cho rạng mặt anh hào
Sống thì quyền quý chết vào sổ son
Ngàn năm công cả cũng còn
Nếu tôi có chết đã tròn lịnh Vua
Ngặt tôi ý muốn giúp vùa
Giúp cho Nữ chủ ngôi Vua thêm mầu.
Thế Kim tâu trước sân chầu:
Xin tha họ Sử và thâu gã nầy
Quyết lưu gã ở lại đây
Ngày ngày có bọn tôi đây canh chừng
Bao la thì biển với rừng
Vậy thì tha chém cầm chân lại liền.
Thế Ngọc nàng mới tâu liền:
Muôn tâu Nữ chúa hãy truyền lịnh tha.
Thế Thủy nàng mới nói ra
Các chị đàn bà nhẹ dạ lắm thay
Chúng ta là gái nhi hài
Không nên lưu trữ bọn trai anh hào
Nhất là cái bọn người Tào (12)
Miệng đường lưỡi mật má đào dễ siêu
Để cho chàng ở trong triều
E cho trong nước sanh nhiều trăng hoa
Bọn mình là gái quần thoa
Chàng đây là nước Trung Hoa mới vào
Các bà phải liệu làm sao
Chớ chứa trai Tào nội trướng chửa hoang
Chỉ e đêm vắng canh tràng
Cửa thành bị phá Nữ hoàng mất trinh
Thì là lỗi của chúng mình
Tùng quyền không đặng chấp kinh mới là
Tính cho yên nước lợi nhà
Phò Bà phải giữ cho Bà trung kiên
Mình là bọn gái thuyền quyên
Phải lo gìn giữ mối giềng cho nhau
Nếu Bà mà có thế nào
Trời sai mình giữ vườn đào Nữ vương
Nếu không lấp ngõ ngăn đường
Chỉ e khổ lụy oan ương sau nầy
Đành rằng chẳng dạ gió mây
Lâu ngày biết phải sau này chi chăng
Tốt hơn chém phứt Sử Văn
Sợi dây oan nghiệt dứt phăng cho rồi
Mấy bà thiệt quá lôi thôi
Để cho cỏ nội đâm chồi kết hoa.
Sử Văn liền mới nói ra
Lời nàng nói đó nghe ra lạ lùng
Tôi nguyền giữ dạ chí trung
Mặc tình Nữ chúa có dùng hay chê
Người trên chưa xuống chỉ phê
Nàng là kẻ dưới nhún trề sao nên
Nhỏ mà dám lấn quyền trên
Sân chầu lại dám nói lên vang vầy
Dù tôi có chết cũng khuây
Kiếp sau trở lại kiếp nầy báo oan
Để cho Nữ chúa lịnh tràng
Đạo làm thần tử phận nàng xong chi
To gan dám nói chuyện kỳ
Rõ ràng vô lễ thị tỳ nhích môi.
Thế Ngân mới nói: Thôi thôi!
Chuyện gì cũng có bọn tôi luận bàn
Xin người đừng có phàn nàn
Tôi xin Nữ chúa lịnh tràng phóng tha
Chữ trinh ta giữ lòng ta
Để trong khối óc mới là gái trinh
Chính chuyên mình giữ lấy mình
Đừng đem ngoài miệng người khinh ích gì
Ta là một bọn nữ nhi
Nếu không lơi lả nói gì trăng hoa
Nào ai dám phá bọn ta
Chính chuyên để bụng nói ra chẳng nhầm,
Trung thì mình biết trong tâm
Trung ngoài cửa miệng như tằm xấu dâu
Nói ra mình phải giữ câu
Đừng lời dối mị mày râu phê bình
Nếu chàng nhờ phước nhiêu sinh
Cũng trong quyền của bọn mình truyền cho
Hơi nào các chị sợ lo
Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu,
Sợ là sợ kẻ cơ cầu
Sợ người sớm đánh tối đầu khó a
Muôn tâu Nữ chúa xét ra
Truyền tha họ Sử thì là hay hơn
Phong làm Tham tước cao hoàng
Vào ra phò tá bệ đơn mình vàng
Nhưng mà chàng phải trung can
Nếu sau phản loạn mạng chàng phải vong.
Nữ vương phán giữa Ngai Rồng
Truyền tha họ Sử lập công sau nầy
Phong làm Tham tướng vui vầy
Cho vào ở cạnh lầu tây Nữ Hoàng
Sử Văn quỳ trước Bệ vàng
Cám ơn Nữ chúa mở đàng phóng sinh
Với cùng mấy ả rộng tình
Từ đây tôi sẽ hết mình giúp vô
Quyết đem mưu của Phụng Sồ
Giúp cho Nữ chúa cơ đồ vững yên
Nữ vương truyền đãi yến viên
Chúa tôi cộng lại mối giềng chung lo.
CHÚ THÍCH
-------------------------------

1. Phụng Sồ: Phượng Sồ, là đạo hiệu của Bàng Thống (178-213), một quân sư nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam quốc, thường được người đời sau so sánh tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông.

Khổng Minh: tên thật Gia Cát Lượng (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ, Nỏ Liên Châu bắn ra liên tục, Mộc ngưu Lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền ông còn là người phát minh ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Khổng Minh Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.

2. Đá biết tuổi vàng: muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, tốt hay xấu, người ta dùng đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Ý nói đã qua thử thách, trao đổi, hiểu biết và yêu thương nhau.

3. Kinh quyền: kinh văn (văn bản pháp luật) và uy quyền (sức mạnh quân sự). Ý nói tuân theo nguyên tắc, thể chế quốc gia.

4. Mạt cưa mướp đắng: chuyện cổ tích một người lấy mạt cưa giả làm cám đợi lúc nhá nhem tối đem ra chợ bán, gặp một người lấy mướp đắng giả làm dưa chuột ra chợ bán. Hai người mua bán với nhau, thế là cùng bị mắc lừa.

5. Chốn đề lao: tù ngục

6. Vóc liễu mày huê: dáng người mảnh mai như cành liễu, chân mày thanh và cong như cánh hoa.

7. Trung nguyên: Trung Hoa

8. Đức cả: Thượng đế

9. Ba tiếng trống đầu: trống canh ba, giờ pháp trường xử trảm, khi trời còn tối, trước khi mặt trời lên.

10. Đoái công: lập công chuộc tội

11. Lăng trì: tùng xẻo

12. Người Tào: người của Tào Tháo, ý nói người Trung Hoa.
HẠNG THẾ CHÂU TUYỂN MỘ QUÂN BINH
NHỮNG NGƯỜI OAN GIA NGHIỆP CHƯỚNG


Đoạn nầy nhắc chuyện Ông Đò
Giả làm thương khách đi lo lương tiền
Đủ đầy mỗi việc đã yên
Vợ chồng trở lại phúc liền tâu qua:
Từ tôi về nước Xiêm la
Chiêu binh mãi mã cũng là đã xong
Lương tiền đầy đủ niêm phong
Về tâu Nữ chúa rõ thông sự tình.
Nữ vương kiều diễm tướng binh
Tra lương đủ số đẹp tình lắm thay
Phán rằng: Hay thiệt là hay
Ông bà công đức cao dày lắm đa
Ghi công cao cả ông bà,
Sử Văn xem thấy tâu qua như vầy:
Nữ vương truyền mộ binh nầy
Trò cười thiên hạ làm nhây rõ ràng
Lính gì một số mắt làng
Làm sao thấy ngõ thấy đàng mà đi
Cùi đui nào có làm gì
Một giò một mắt làm chi quá nhiều
Phá cho lương lực mau tiêu
Phế nhân mà dụng chi nhiều dữ a!
Nữ vương liền mới phán ra:
Tham tướng chẳng biết ý ta như vầy
Số là cái bọn nầy đây
Sống trong xã hội đủ đầy gian nan
Ăn xin cùng xóm cuối làng
Sống đời vô vị buồn than vô cùng,
Ngủ thời không chiếu không mùng
Đầu đường xó chợ vô cùng chơ vơ
Đồng cam sông cảnh vật vờ
Cũng người nhân loại bơ vơ khổ sầu
Xét người có tệ gì đâu
Chẳng qua bị đọa đau sầu lắm thay
Sống trong cái kiếp ăn mày
Tháng vắn năm dài kẻ thị người khi
Nào ai mà có đoái gì
Nên tôi cảm mến từ bi thiện hòa
Cũng là số mạng người ta
Người giàu nhiều kẻ theo a rộ rần
Kẻ nghèo chẳng có ai cần
Dù cho là kẻ cao nhân mà nghèo
Cũng là sau trước quạnh hiu
Nghĩ trong nhân loại có nhiều gay go,
Nên tôi suy nghĩ đắn đo
Quyết làm cõi thế đặng cho hài lòng
Những người đức bạc cùi phong
Cùng là đui tối ngẫm lòng càng thương
Bọn cùi thì nó thấy đường
Phong quan Tuần phủ biên cương giữ gìn,
Kẻ mù không thấy bóng hình
Phong làm lính giữ dịch đình thì hay
Từ đây các bọn ăn mày
Sẽ là an nỗi trong ngày tàn hơi
Có quyền tra hỏi nơi nơi
Ai người lạ mặt nó mời hỏi han,
Mù thì giữ cửa môn quan
Cùi thì tuần phủ phải sang chăng là.
Sử Văn mới nói hay a
Ấy người bạc phước nhưng mà hồng ân
Nữ vương rõ thiệt lòng nhân
Muốn cho trong nước tôi dân vui vầy,
Đời bình nhờ có bọn nầy
Gặp khi nước loạn bỏ thây hằng hà
Nói rồi Tham tướng cười xòa
Hôm nay mới biết lính bà Nữ vương
Rặt ròng bọn chẳng thấy đường
Như vầy ngoại quốc xem thường xem khinh
Chính tôi cũng bắt bực mình
Mù lòa nào có mà nhìn thấy ai!
Nữ vương nàng mới thưa rằng:
Dùng người ai có dụng tài mà chi
Tôi đà suy nghĩ chuyện ni
Ai ai nào có khác chi đâu là
Người nào cũng có mẹ cha
Lửa hương phụng tự ông bà lưu lai
Chẳng qua đức bạc vô tài
Hạ mình làm phận tay sai của người
Cũng là lắm lúc hổ ngươi
Người ta ai cũng là người chàng ơi,
Tôi e mang tội với Trời
Bắt người phục dịch tội thời khó tha
Tôi nhìn các nước gần xa
Mấy ông Hoàng đế chẳng mà nghĩ suy
Muốn mình ngồi giữa đơn trì
Thần dân trong nước bái quỳ dạ vâng
Gặp khi ngoại quốc binh hưng
Đoạt thành phá ải lẫy lừng làm oai
Vua truyền chọn tuyển các trai
Phải ra điền lính cự rày ngoại bang
Gây thêm nhiều cảnh tương tàn
Con sông vô định máu tràn minh minh
Biết bao là kẻ lụy mình
Lấy ai phụng tự bàn linh tổ đường
Đem thân ra chốn chiến trường
Máu rơi thịt đổ bỏ xương trận tiền,
Làm Vua vui sướng uy quyền
Không thương dân chúng ưu phiền biết bao
Còn tôi là gái má đào
Làm Vua mà lại rất giàu đức nhân
Vẻ xinh vẻ đẹp không cần
Cho nên chọn kẻ phế nhân như vầy,
Nếu mình có đức đủ đầy
Lo gì binh giặc phủ vây đoạt thành (1)
Nếu mình mãi giữ đức lành
Nước ai nấy giữ tranh giành làm chi
Bọn người vô lại ích chi
Tánh tôi rất thiệt lạ kỳ lắm đa
Bọn nầy kẻ đạp người chà
Biết bao tủi nhục khổ mà thân sinh
Nay tôi truyền mộ bộ binh
Phát lương đầy đủ quy binh hằng hà.
Sử Văn liền mới nói ra:
Từ kim chí cổ có mà mấy ai
Ra binh cái bọn ăn mày
Tăng thêm phẩm giá quyền oai rất nhiều.
Thế Châu liền phán giữa triều:
Công người thương mãi quá nhiều uy linh
Phong làm Thượng phụ triều đình
Hầu lo trong nước giữ gìn thần dân.
Vợ chồng cụ lão tạ ân
Từ rày chồng vợ yên thân nơi nầy.
Thế Châu nghĩ nhớ bóng Thầy
Ngày nay như vậy mai đây thế nào
Nghĩ Thầy đã lắm công lao
Nói cho ta biết kẻ nào thịnh suy
Từ Thầy cất bước ra đi
Lòng ta ái ngại xiết chi lo lường
Phải chăng gặp thuở thịnh đường
Hay là gặp cảnh nhiễu nhương khó lòng
Ước gì gặp lại Sư Ông
Đặng ta hỏi rõ đục trong vận thời.
Phúc đâu Thầy đã tới nơi (2)
Thế Châu xem thấy liền mời vào trong
Từ ngày Thầy đã thẳng xông
Thân con lao lý nhiều vòng gian nan
Nay Thầy trở lại Triều đàng
Từ đây thân trẻ vững an nhờ Thầy.
Bửu Sơn (3) mới nói như vầy:
Con nay thạnh trị hội nầy khải ca
Trăm năm trong cõi người ta
Trước gìn chữ hiếu đạo nhà vẹn hai
Sau rồi mới đến việc ngoài
Nhất là Vua Chúa chớ quên lời truyền,
Chữ rằng hiếu nghĩa vi tiên
Đạo nhà phải giữ mối giềng nghe con
Nếu con hiếu nghĩa vẹn tròn
Thần dân sẽ quý mến con con à,
Cha nay tuổi lớn tác già
Đến ngày bỏ xác con mà làm sao.
Nữ vương liền mới thưa mau:
Thí xác dưỡng phụ đem vào Hoàng lăng
Đúng theo nghi thức đạo hằng
Lập nhà Thái miếu nghiêm lăng phụng thờ
Lẽ nào con lại làm ngơ
Phụ thân có chết con thờ thiên thu
Đem vào miễu võ sùng tu
Gọi là một chút đền bù công lao
Đền ơn nghĩa cả công cao
Dạy con biết chuyện trước sau rõ rành,
Thế thường dưỡng cũng như sanh
Làm Vua con cũng phải rành hiếu nhi.
Bửu Sơn ông mới nói thì:
Đem thờ miễu võ có gì lạ đâu
Người xưa còn phải giữ câu
Ba năm thọ chế (4) dám đâu đổi dời.
Thế Châu nàng mới nói thời:
Ơn cha nào khác biển trời minh minh
Con đây sẽ hội triều đình
Tam niên am quán giữ gìn miếu cha
Luận bàn rồi cũng bỏ qua
Bửu Sơn ông mới ra đi ra cõi ngoài.
CHÚ THÍCH
----------------------------------

1. Nguyên lý của Luật Nhân Quả

2. Tâm truyền Tâm bằng sóng tâm thức, không có không gian, không có thời gian.

3. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn.

4. Thọ chế: để tang, theo phong tục dân gian là 3 năm.
  
VUA XIÊM SAI CHẾ MẬT ĐA ĐI TÌM HẠNG THẾ CHÂU

Đoạn nầy nhắc chuyện Bệ giai
Xiêm vương truyền lịnh chọn ngày hoa đăng:
Này quan am hiểu thiên văn
Coi ngày đại yết xích thằng (1) giao duyên!
Có quan ngự sử (2) tâu liền:
Muôn tâu bệ hạ lịnh truyền chỉ phân
Ngày mai địa hội thiên thần
Ấy ngày huỳnh đạo hồng ân rỡ ràng
Năm nay Quý Mão mèo vàng
Nhằm ngày mồng sáu đúng hàng tháng giêng.
Vua nghe vội đã phán liền:
Võ văn lo thết yến viên đãi đằng,
Chiếu cho Thừa tướng hay rằng
Ngày mai trai gái hiệp lằng lửa hương.
Quân đem chiếu đến phủ đường
Đồ công bái mạng quân vương liền quỳ
Vừa nghe lịnh dạy phải y
Vua đà truyền dạy khó thì từ nan
Ông liền trở lại hậu đàng
Cho bà hay chuyện cho nàng biết tin
Chủ hôn là lịnh thánh minh
Cũng là hạnh phúc cho mình lắm thay,
A hoàn bây khá vào mau
Hãy đòi ái nữ hầu ngay bây giờ!
A hoàn vào trướng tiểu thơ
Buồn không phẳng lặng như tờ giấy phong
A hoàn ra trước bẩm ông:
Tiểu thơ vốn chẳng ở trong trướng huỳnh (3)
Đi đâu biền biệt bóng hình
Bốn cô tỷ tất biệt tin nơi nào
Thừa tướng nghe nói nghẹn ngào
Ông bà mới bước chân vào trướng loan
Bao quanh những nhện ven màn
Nữ tỳ cũng mất, mặt nàng cũng không.
Bà rằng cũng tại nơi ông
Không truyền quân lính canh phòng trang nghiêm!
Ông rằng: mụ hãy nín yên
Chuyện nầy nếu để im lìm đặng đâu
Con mình đã mất từ lâu
Mình không nói trước thì đầu phải rơi
Lịnh Vua phán giữa Ngôi Trời
Văn ban võ bá cũng thời đều hay
Tôi không cãi lịnh Bệ giai
Ngặt con đi mất lấy ai thế vào,
Bà không xét trước xem sau
Để con lén trốn hồi nào biết đâu!
Ông liền kêu gọi lính hầu
Sang dinh Nguyên soái thỉnh âu coi là,
Nói rằng vâng lịnh ông bà
Cúi xin nguyên soái Mật Đa (4) niệm tình
Phiền người chịu khó đến dinh
Ông tôi bàn chuyện gia đình tương lai.
Quân hầu nghe lịnh chạy mau
Giây lây nguyên soái đến ngay bổn đường
Mật Đa tỏ vẻ kính nhường
Đồ công ra trước bổn đường hỏi han:
Tôi mừng chúa tướng mới sang
Tôi mời ngài đến luận bàn xem sao
Tôi đây nước mắt tuôn trào
Biết ăn biết nói làm sao bây giờ!
Mật Đa nghe nói ngẩn ngơ
Lắng nghe mà lại nóng hơ trong lòng
Vua ban chiếu giữa đền rồng
Văn ban võ bá cũng đồng hay tin
Tiểu thơ bộ chẳng khứng (5) tình
Hay là nhạc mẫu còn đình điều chi
Tôi xin nhạc phụ nói đi
Mai đà đến bữa qui kỳ vua ban.
Vợ chồng thừa tướng lệ tràng:
Van ông nguyên soái bào màng tiểu thơ
Con tôi con cậy con nhờ
Tự nhiên vắng mặt bao giờ không hay
Lấy ai mà thế cho ngài
Gìa sanh một gái quý hay hơn vàng
Nào khi vào trướng ra màn
Hầu xem có bốn ả hoàn thông minh,
Già thì bận việc triều đình
Mụ nhà thời mắc tụng kinh di đà
Thấy con dâng nước dâng trà
Ngày ngày hầu hạ bên già thảm thương
Nên già liền mới phân tường
Lễ nghi hiếu kính là thường nhân gian
Thôi cha cho phép nghỉ an
Khỏi lo trà nước khỏi lo ứng hầu,
Từ ngày bãi lệ đã lâu
Gìa không thấy trẻ đến hầu già đây
Con già là gái thơ ngây
Kể ra vắng mặt cũng chầy (6) rồi đa
Ngỡ là nó ở phòng hoa
Nên không lưu ý mới là khổ âu,
Mai nầy lão phải vào chầu
Pháp tràng nếu đến thì đầu lão rơi
Khổ thân tôi quá trời ơi!
Mật Đa nghe nói rụng rời ngẩn ngơ
Lại bàn trang điểm tiểu thơ
Mật Đa xem thấy một tờ giấy phong
Mở ra xem thấy đục trong
Đủ lời khúc chiết tỏ lòng chia li
Đề ngày đề tháng ra đi
Mật Đa tính lại quá thì ba trăng (7)
Đi đâu có cớ làm bằng
Đến hòn Phú Quốc (8) tìm phăng coi là
Thôi tôi xin kiếu ông bà
Xem thơ đã rõ do hà nguyên nhân
Đi xa rồi lại về gần
Chắc là không nợ châu trần hay sao,
Phu nhân nhất phẩm cũng cao
Tiểu thơ không tưởng (9) tẩu đào (10) đi đâu?
Mật Đa sửa soạn đi chầu
Vào cung tâu rõ đuôi đầu vua hay
Xiêm vương nghe tấu chau mày:
Rõ đồ phản nghịch rõ loài vong ân
Cha thì làm chức đại thần
Ngày ngày đều có ở gần long nhan
Sanh con nhằm thứ hổ lang
Khi không mà lại tìm đường đi xa
Nó đà bỏ chúa bỏ cha
Huống chi nguyên soái Mật Đa là chồng,
Làm cha như lão Đồ công (11)
Dạy con chẳng đặng còn làm được chi
Đồ nương (12) là thứ vô nghì
Cha già mẹ yếu bỏ đi cho đành
Đem thân ra ở bờ gành (13)
Chiếc thân liễu yếu mỏng manh một mình,
Phu nhân Đoàn thị (14) bất minh
Con đà đi mất bóng hình không hay
Phải chi thẩm định xưa rày
Thì đâu có chuyện ngày nay như vầy!
Võ đao (15) nghe thửa lời nầy
Hãy đem thừa tướng phanh thây cho rồi
Làm quan mà quá lôi thôi
Việc nhà như vậy sao rồi việc chi!
Vua đang tức giận long quy
Mật Đa quỳ xuống năn nì tâu xin:
Muôn tâu bệ hạ niệm tình
Thần đây xét rõ phân minh như hà
Vợ chồng thừa tướng tuổi già
Tuổi thơ thì lại tuổi đà quá non
Thừa tướng thì lại cưng con
Cho nên tháng rụng ngày tròn hay đâu
Tiểu thơ được phép khỏi hầu
Tối ngày cứ ở ngọc hầu trướng loan
Người sang gặp phải cơn nhàn
Trong tâm hay có sanh đàng gió mây
Ví dầu không chút nọ nầy
Cũng là có lúc làm nhây làm xằng,
Muôn ơn Bệ hạ bao giăng
Chiếu tri tha chém công bằng lắm đa
Để thần chịu khó sang qua
Đến đảo Phú Quốc xét tra thể nào,
Tiểu thơ là gái má đào
Đảm đương xét chẳng mấy giàu bao lăm
Vua Xiêm nghe tấu cũng nhầm
Truyền cho Nguyên soái đi tầm Đồ nương
Một lời đã hứa cũng thương
Một lời cũng nghĩa tào khương vợ chồng
Vua truyền tha tội Đồ công
Thủy quân thuyền chuyến vua phong hằng hà
Ba quân cùng Chế Mật Đa
Sang nước Chân Lạp (16) kiếm mà tiểu thơ.
Lắng nghe Hoàng hậu ngẩn ngơ:
Muôn tâu Bệ hạ ban tờ gia ân
Tiểu thơ lại với thiếp thần
Chị em chú bác tình thân quá dày
Nay dầu di mạng bệ giai
Mong ân Bệ Hạ đoái hoài thiếp đây
Phóng tha ân xá tội nầy
Đồ nương mới dám về đây vào chầu.
Vua y lời tấu phán hầu
Gia phong Quận chúa (17) tội sâu tha liền
Mật Đa lãnh lịnh chiếu truyền
Bôn ba hải lý vượt miền biên giang
Quyết tìm cho gặp mặt nàng
Hỏi thăm cho rõ kẻo càng hoài nghi.
CHÚ THÍCH----------------------------------

1. Xích thằng: chỉ tơ hồng, ý nói quan hệ gắn bó, thủy chung.

2. Quan ngự sử: chức quan kề cận, quân sư của vua.

3: Trướng huỳnh: màn cửa.

4. Mật Đa: Chế Mật Đa, tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm.

5. Khứng: ưa thích, đồng ý.

6. Chầy: lâu ngày.

7. Ba trăng: ba tháng, ba kỳ trăng tròn.

8. Hòn Phú Quốc: đảo Phú Quốc.

9. Không tưởng: không nghĩ đến.

10. Tẩu đào: trốn đi.

11. Đồ công: cha Hạng Thế Châu, làm quan Thừa tướng triều vua Xiêm.

12. Đồ nương: Hạng Thế Châu.

13. Bờ gành: nơi bãi biển nhiều đá lởm chởm, hoang sơ.

14. Đoàn thị: vợ Đồ công, mẹ của Hạng Thế Châu.

15. Võ đao: quan chuyên coi việc tra tấn, hành hình thời xưa.

16. Chân Lạp: một vương quốc ở trung tâm bán đảo Đông Dương, kéo dài đến phía Nam, một phần nước Lào, Thái Lan và tiền thân của nước Campuchia ngày nay. Đảo Phú Quốc xưa thuộc Chân Lạp

17. Quận chúa: Hạng Thế Châu
TÌNH DUYÊN HẠNG THẾ CHÂU VÀ SỬ VĂN
Đoạn nầy nhắc chuyện đơn trì
Của Châu nữ chúa (1) năm vì mỹ nhân
Thế Châu ra hội trào thần
Sử Văn (2) thì đứng giữa sân long đền
Thế Kim, Thế Ngọc bước lên
Thế Ngân, Thế Thủy đồng lên sân chầu
Võ văn tam phẩm đều hầu
Sử Văn nhìn lén Thế Châu thể nào
May thay ta cũng hội trào
Để xem nữ chúa dường bao cho tường
Nhà Nguyên xưa có nữ vương
Đa tình đến nỗi làm đường trăng hoa
Nay mà nữ chúa ngó ta
Một điều thấy rõ là bà chẳng xong
Còn bà ngồi giữa ngai rồng
Tự nhiên thì ắt lòng trong hiền lành,
Cô nào đôi mắt long lanh
Là đồ lang chạ bẻ nhành trao tay,
Sử Văn chăm chú nhìn hoài
Thế Châu ngồi giữa trên ngai long sàng
Kim, Ngân thì lại ngồi ngang
Nhưng ngồi cẩm tọa thuộc hàng thứ hai
Thế Ngọc ngồi trước bên ngoài
Thế Thủy hầu cận đứng rày sau lưng
Xem ra oai thế lẫy lừng
Thế Ngân, Thế Ngọc ngó chừng Sử Văn
Bỗng nghe nữ chúa phán rằng:
Ngày nay trẫm hội võ văn triều thần
Trước là xem cuộc quốc dân
Sau là trẫm sẽ chỉ phân lời nầy
Võ văn xem cũng vui vầy
Thảy đều chưa có xe dây tơ hồng
Làm sao nước mạnh dân đông
Nếu ai xứng lứa vợ chồng với nhau
Thì là trẫm sẽ định vào
Kết duyên chồng vợ cùng nhau hiệp hòa
Hầu sau nối hậu quốc gia
Con giòng cháu giống một nhà mới xuê
Trẫm đà nhất định một bề
Đem Hạng Thế Thủy gã về Sử Văn
Hai khanh tua khá bằng lòng
Vì nàng Thế Thủy thiên văn thiệt tài
Âm dương đoán quẻ chẳng sai
Sử Văn thì cũng trai tài Trung Nguyên (3)
Hai người mà đặng kết duyên
Thì giang san trẫm vững yên trăm đàng.
Sử Văn liếc thử nữ vương
Rõ là lời phán của nàng thiệt tâm
Ta đây đoán trước nào lầm
Nàng nào có biết ta thầm mến yêu
Ngày nay nàng ngự giữa triều
Chỉ hồng xe lộn chỉ đều cho ta
Nghĩ suy chưa kịp thưa qua
Thế Thủy nàng lại trở ra liền quỳ:
Muôn tâu Chín Bệ xét tri
Giả ngài nam nhi đường hoàng
Hồi hôm thổn thức bất an
Thần coi thiên tượng rõ ràng chẳng sai
Tướng tinh chiếu mạng của ngài
Nguyên nhân nào lại chiếu ngay long đình
Muôn tâu nữ chúa xét minh
Thần đây tâu thiệt sự tình vua nghe
Tài thần đoán số nói khoe
Sợ vua bắt tội nên e rơi đầu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Pháp ty nữ tướng hãy tâu cho rành
Tội chi giấu quẩn giấu quanh
Trẫm nghe không rành tội ấy khó tha
Còn bằng khanh nói rõ ra
Dù có phạm tội cũng tha khanh rầy.
Thế Thủy đầu cúi thưa ngay:
Tướng tinh chiếu rày cung vua
Hạ thần lời nói quê mùa
Muôn tâu bệ hạ hơn thua xét rành
Hạ thần dù có tài lành
Nào đâu dám loạn lộng hành dây ta
Mai sau về việc nước nhà
Biết đâu họ Sử sẽ là quyền cao
Nay mà Bệ hạ định vào
Hạ thần cũng chẳng dám nào từ nan
Nhưng e phạm tội Ngọc Hoàng
Dây sắt mà vấn nhành vàng khó coi
Muôn tâu nữ chúa xét soi
Phận thân là kẻ giữ coi thiên đài
Sậy nào dám sánh trước mai
Mong ân trời biển cao dầy xin thôi
Sử Văn ngài muốn kết đôi
Xét trong trào nội vừa thôi cô nào
Còn tôi xin phép trời cao
Xin phò dám nào sánh duyên.
Thế Châu nữ chúa phán liền:
Pháp ty hay nói cơ huyền đâu đâu
Sử Văn khanh có nghe âu
Khanh nghe có rõ thì tâu coi là.
Sử Văn liếc mắt xem qua
Thử xem rõ hết năm bà trong trăng
Cô nào cũng tựa chị hằng
Thế Kim, Thế Ngọc hung hăng thị tài
Thế Ngân mắt biếc mày ngài
Cô này đảo nhãn nhìn trai là lề
Thế Thủy mặt liễu mày huê
Cô này sánh đạo phu thê cũng vừa
Ngặt tài cô thiệt quá thừa
Sắc thì xứng sắc, tài chưa xứng tài
Nữ vương chẳng đẹp hơn ai
Thơ ngây tính chất mê say lòng người
Tự nhiên nói nói cười cười
Mầu mè không biết ý người giả nhơn
Tánh tình dễ mến chẳng hờn
Làm vua mà chẳng thiệt hơn lạ kỳ
Ta đà nhìn trộm nhiều khi
Nữ vương chẳng để ý gì biết hay
Khác nào hình đá phượng ngai
Vốn không chú ý đến ai thương mình
Nếu ta mà đặng kết tình
Hoa hồng thêm vẻ tài mình mới cao
Cân đi nhắc lại trừ hao
Cô nào thì cũng má đào tuổi xuân
Xem sao mé biển ven rừng
Có cô nữ chúa tình xuân chưa tàn
Cô nào coi cũng khôn ngoan
Nhắm xem vẻ thắm thua nàng Thế Châu,
Nghĩ rồi Văn mới quì tâu:
Muôn tâu nữ chúa xét âu coi là
Tôi như con bướm đường xa
Bay nào đã giữa vườn hoa hương nồng
Bông nào ngó cũng là bông
Nhưng tôi nhìn rõ hoa hồng là hơn,
Nào là lan huệ mẫu đơn
Xương rồng ích mẫu kém hơn hoa lài
Còn thêm bông cúc bông mai
Hoa liên nguyệt bạch thêm loài phù dung
Quỳnh hoa nguời cũng hay dùng
Hướng dương hoa ấy thung dung hơn nhiều
Ngàn thông cọng liễu gió xiêu
Nhìn tường màu thắm tôi yêu hoa hồng,
Hồng là chúa các loại bông
Hoa nào cũng nhượng hoa hồng là trên
Thượng cầm là loại bay trên
Chim nào thì cũng quý tên phượng hoàng
Có con chim phượng trên ngàn
Chim nào cũng xấu phượng hoàng là xinh
Một vườn thượng uyển minh minh
Hoa hồng quý báu ai nhìn cũng mê
Trạng nguyên hoa ấy người chê
Bướm nào nó cũng mến mê hoa hồng
Muôn tâu nữ chúa xét lòng
Hồng là chúa các loại bông thưở nào
Những là hoa phượng hoa đào
Lòng tôi từ bấy có nào lưu tâm.
Thế Châu nghe tấu nghĩ thầm
Nhớ vườn thượng uyển truy tầm tên hoa
Sử Văn lời nói đã già
Ban đầu thì lại nói xa với nàng
Hồi lâu nhìn thẳng phượng nhan
Tùy hoa tùy bướm ngoài vòng viễn vông
Đòi mua cho được hoa hồng
Thì là mới thỏa dạ lòng ước ao,
Thế Châu nàng có hiểu nào
Truyền quân cận vệ hãy vào vườn hoa
Bông hồng màu thắm đem ra
Biếu cho khỏi mà đi mua
Trẫm đây là chúa là vua
Khanh làm ước mua hoa hồng
Trong vườn ngự uyển mênh mông
Biếu khanh một đóa hoa hồng đang hương.
Sử Văn tâu với nữ vương:
Đội ơn nữ chúa đã thương hại thần.
Nữ vương liền hỏi xa gần:
Khanh đem hoa ấy cúng thần hay tiên?
Sử Văn nghe hỏi ngạc nhiên
Những lời mình nói đưa duyên ướm tình
Nàng là một gái thông minh
Vì sao ngơ ngẩn chuyện tình dữ a
Nghĩ rồi chàng mới thốt ra:
Hoa hồng tôi để trướng hoa nệm quỳnh
Còn điều bệ hạ điều đình
Cho hàng văn võ kết tình cùng nhau
Thần xin hẹn lại năm sau
Thế Ngân nghe nói lệ trào long lanh
Lòng đà ngỏ ý ghét ganh
Truyền quân thúc dục trống canh bãi chầu.
Võ văn nào có hay đâu
Ai về dinh nấy đặng hầu nghỉ an.
Thế Kim phò hộ nữ hoàng
Vào cùng Kim mới luận bàn nhỏ to:
Cứ lời Tham tướng mà so
Tôi đây được phép nói cho rõ rành
Tham tướng còn nói quẹo quanh
Kim xin cắt nghĩa cho rành dạ xuyên
Nữ vương vốn có uy quyền
Lâm trào ngồi giữa bệ tuyền phóng ra
Đàn bà thì cũng như hoa
Bọn mình là gái một tòa rất đông,
Hoa hồng là chúa loài bông
Sử Văn ám chỉ mình rồng nữ vương
Chúng tôi đây thuộc hoa hường
Cho nên đều phải nhịn nhường đó thôi,
Lâm trào thì có thứ ngôi
Vào cung bàn luận thì tôi thiệt tình
Nhớ hồi thúc phụ (4) tại kinh
Làm quan thừa tướng triều đình Xiêm bang
Cha tôi thì lại nghèo nàn
Sinh tôi thì lại khôn ngoan sắc tài
Cha nghèo con chẳng cao bay
Lấy tình máu mủ luận bàn phôi phai
Nhắm trăm năm ả đàn bà
Có tôi lớn nhất phải ra tỏ tình.
Thế Châu nàng mới phân minh:
Ngoài là tôi chúa, trong tình chị em
Chuyện nào nhờ chị xét xem
Nếu mà chị bảo thì em vâng lời.
Thế Kim nàng mới nói thời:
Chị xem họ Sử không rời em đâu (5)
Nhìn em họ Sử gật đầu
Chị đà lưu ý từ lâu em à
Thân em lưu lạc nước xa
Dù làm nữ chúa cũng là đơn côi
Khó mà bổn quốc lai hoài (6)
Lỡ leo lưng cọp phải ngồi chớ sao,
Sử Văn gã muốn từ nào
Muốn em với gã tình giao em à.
Thế Châu nàng mới nói ra:
Chị hay nói bậy nghe mà nhàm tai
Thôi thôi chị chớ đặt bày
Chị còn nói nữa em rày không dung
Nói nghe sao giống người khùng
Làm quan như chị ai tùng chị ơi
Nói rồi nàng mới nghỉ ngơi,
Đêm về Kim phải khắp nơi canh tuần
Thương em phận chị coi chừng
Em say giấc ngủ chị tuần hoàng cung.

Đoạn này họ Sử thung dung
Lén vào đã tận hoàng cung nữ hoàng
Châu đang mộng điệp mơ màng
Sử Văn vào tận trướng loan màn rồng
Cung nhân đều thiếp giấc nồng
Sử Văn khấp khẩn mừng lòng biết bao,
Đặt lưng mới tựa mình vào
Thế Châu đang lúc chiêm bao như hà
Mơ màng thấy chế Mật Đa (7)
Giết chàng Tham tướng chết đà thảm thương
Nên nàng động mối tư lương
Đưa tay quơ chiếu quơ giường khóc than
Miệng kêu Tham tướng hỡi chàng
Sử Văn nghe rõ vội vàng ngồi xem,
Gió lay phút lại động rèm
Châu thì nước mắt ướt mem chan hòa
Vừa khóc vừa mắng Mật Đa
Lại kêu họ Sử sao ra nỗi này,
Sử Văn nghe đã quá chầy
Nên chàng khẽ gọi: Hỡi này Thế Châu!
Anh nào mà có chết đâu!
Thế Châu xô chiếc gối đầu ngồi ngang
Nhìn xem thấy rõ là chàng
Mộng hồn còn hỡi mơ màng chiêm bao
Lại ôm chàng Sử kêu gào:
Ngỡ chàng đã chết hay nào còn đây!
Sử Văn mới nói như vầy:
Thương nàng mới lén đến đây tâm tình
Sử ôm Châu cũng làm thinh
Ngỡ là nàng đã hứng tình trăm năm
Nên chàng tỏ ý mừng thầm
Bắt đầu nói chuyện trăm năm giao hòa,
Thế Châu đã tỉnh mộng ra
Mới hay phút chốc nàng đà mơ tiên
Hổ ngươi nàng phát lịnh truyền:
Ngự lâm quân hãy bắt xiềng Sử Văn
Tuồng chi mèo mả gió trăng
Sử Văn nghe lịnh làm nhăng thêm hoài.
Thế Kim rình trước cửa ngoài
Nàng liền cửa khóa then gài bỏ đi
Nhốt cho trai gái phải kỳ
Nữ vương dù có gọi gì ai hay. (8)
Thế Châu kêu ngự quân hoài
Tiếng nàng khó lọt ra ngoài cửa song
Sử Văn thấy khó nhủ lòng
Nên chàng định lại cửa phòng xô ra
Nào hay cửa khóa then hoa
Sử đành bạo dạn thốt ra lời nầy:
Nếu nàng chẳng khứng lòng khuây
Làm ơn lại mở cửa nầy cho tôi
Sáng nầy cựu quốc phản hồi
Hơi nào tôi phải đứng ngồi đây lâu!
Biết rằng phạm đến Thế Châu
Triều thần ngự án thì đầu phải rơi
Nghĩ coi trên cõi cung trời
Thần tiên thánh cũng trong đời tình chung
Tuy nàng ngồi giữa cửu trùng
Tình tôi không đáng sánh cùng hay sao?
Thế Châu nàng mới nói mau:
Thương thì lục lễ (9) dâng vào mẹ cha
Làm con phải trả thảo ba
Phải dâng chén rượu chén trà thảo thân
Mẹ cha cực khổ vô ngần
Tạo thân xác thịt trăm phần thảm thương
Nay mà chỉ vấn tơ vương
Không thưa cùng lịnh thung đường biết hay,
Chàng là nam tử làm trai
Sao điều quấy phải còn sai luân thường!
Sử Văn liền mới phân tường:
Nơi nầy chỉ có nữ vương đứng đầu
Tôi thì muốn cưới Thế Châu
Hỏi đem sáu lễ mà cầu với ai
Ai ra dám đứng làm mai
Nào ai dám gả vua rày hay sao
Nói thì muốn nói cho cao
Mà không xét kỹ chuyện nào hết đa
Nàng đây là mẹ là cha
Thương nàng chẳng lẽ bàn qua trào thần!
Thế Châu nghe nói liền phân:
Thôi thôi đừng nói dần lân thêm rầy
Ra mau đừng có ở đây!
Sử Văn nghe nói mới rầy nữ vương:
Thần xin dám hỏi nương nương
Vừa rồi bà đã lầm đường sái sai
Tôi đây vốn thật là trai
Khi không bà lại nắm tay khóc ròng.
Thế Châu nghe nhắc thẹn lòng
Lại càng phát giận nói không tiếc lời:
Tôi mơ mới chẳng biết thời
Cố tình chi đó lựa lời phôi pha
Nay tôi đã tỉnh mộng hoa
Mới hay họ Sử vào ra loan phòng.
Thế Châu mải nói mênh mông
Thế Kim nghe riết nóng lòng bước vô
Kim liền cất tiếng mới phô:
Chẳng hay Tham tướng ngài vô hồi nào
Xin ngài đừng có ngọt ngào
Tôi đây chẳng phải ai nào mà nghi
Tôi đà rõ hết chuyện ni
Vào đây nói giúp có gì lạ đâu
Số tôi lại với Thế Châu
Chị em chú bác phải đâu lạ nào
Ngài là nam tử anh hào
Quyết lòng đã đến phòng đào nữ vương
Thương sao cho vẹn thì thương
Bỏ rơi giữa chợ giữa đường không nên,
Tuy Châu nữ chúa quyền trên
Nhưng tôi có thể giúp nên việc nầy
Cơ đồ sự nghiệp dựng gầy
Do tôi định liệu mà xây điện đài
Dù sao tôi cũng ra tài
Quyết làm cho đặng cả hai hiệp hòa,
Châu ơi em hãy xét ra
Em dại nên mới ó la um xùm
Ngoài thì nữ nữ bao trùm
Mà em cứ mãi la um nơi nầy
Cận quan nếu có mà hay
Thì là họ sẽ cười dài em coi
Sao em chẳng chịu xét soi
Thiệt là em quá hẹp hòi trí tri
Lấy điều trái phải mà suy
Tham tướng vào tận cung di tẩm phòng
Dù sao lòng dạ sạch trong
Võ văn liệu có tinh lòng em chưa,
Trời chuyển không gió cũng mưa
Hay ra văn võ đổ thừa chị đây
Tại em quá đỗi thơ ngây
Thôi chị xin đứng nơi nầy chủ hôn
Em nhìn vũ trụ càn khôn
Quyền huynh thế phụ định hôn là thường
Còn ngôi đại báu nữ vương
Ra chầu chị sẽ kính nhường dạ vâng
Trong phòng thì đạo nhân luân
Chị tình máu mủ coi chừng trước sau
Đêm nay Tham tướng đã vào
Kể như em đã tình giao cho chàng
Cũng là đồng tịch đồng sàng (10)
Chị đà nhìn trộm ngoài màn đã lâu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Té ra là chị dẫn đầu Sử Văn
Vào đây bày cuộc gió trăng
Em nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi
Ghét phường mèo mả tanh hôi
Em không có chịu nằm ngồi với trai
Tuy là mình hạc xương mai
Muốn sao đất nước chen vai anh hùng
Tài hay biến cố vẫy vùng
Ngoài đường mới thiệt ung dung chị à,
Tuy em là gái màu hoa
Tâm em can đảm như mà nam nhi
Thường tình nhi nữ lạ chi
Điểm trang sắc đẹp biếu thì cho trai
Suốt đời trâm giắt lược cài
Vốn không nội các người ngoài mênh mông
Lớn lên gái phải lấy chồng
Mãi mà lòn cúi đàn ông chị à,
Tánh em thì lại khác xa
Em yêu non nước sơn hà mà thôi
Yêu cùng nhân loại một ngôi
Chớ em chẳng có yêu đôi tâm tình.
Sử Văn nghe nói mãi nhìn
Hồi lâu chàng mới sự tình tỏ phân:
Nàng ham cai trị thần dân
Thắt đai đội mão rộ rần quân gia
Hơn làm nội trợ cho ta
Suốt ngày mãi ở phòng hoa đêm ngày
Ta nào bảo đó xuống ngai
Vào cung chồng vợ ra ngoài chúa tôi
Muốn chồng ngặt tiết báu ngôi
Thì đây việc nước để tôi khuôn phò
Muốn cho tôi hết dạ lo
Nữ vương đừng có ban cho lụa là
Tôi không ham muốn ngọc ngà
Chỉ ham ngồi dựa mình bà mà thôi.
Thế Kim nàng cũng nói dồi
Thế Châu nghe riết một hồi đã xiêu
Phải đành xuôi ý thuận chiều
Đêm đông càng lạnh càng nhiều tình thương.
Sử Văn rỉ nhỏ đủ đường
Thế Châu nghe riết lại thương mới kỳ
Nàng rằng: để thiếp nghĩ suy
Hẹn ba năm nữa sẽ y lời chàng
Dù cho trong trướng ngoài màn
Thiếp vui chắc phải có chàng mới vui
Thôi thì thiếp đã đành xuôi
Xin Tả Thừa tướng (11) hãy vui đi nào
Chừng em duyên kết tình giao
Yến viên thiết đãi giữa trào tung hô.
Thế Kim nghe nói liền phô:
Công tôi thuyết phục mưu mô đã đầy
Nay mà em chịu duyên vầy
Thì công mai mối sau nầy phải ban.
Thế Châu nghe nói ngỡ ngàng
Nhưng nàng còn hỡi kiếm đàng phôi pha:
Hứa thì tôi hứa giao hòa
Còn ba năm nữa cũng là chẳng lâu
Chừng nào một gối đôi đầu
Em truyền cho chị khỏi hầu đêm đông.
Sử Văn chàng mới nói hồng:
Làm gì tôi cũng đáp công hẳn hòi
Lo chi Thừa tướng phải đòi
Nhưng ba năm nữa trông coi xa vời
Tuy là nữ chúa hứa lời
Tôi còn ngần ngại đổi dời sắt đinh
Phải cho tôi được giao tình
Thì tôi mới chắc là mình nên đôi
Sao trời còn phải đổi ngôi
Lòng người tôi sợ đây rồi cũng xa.
Châu rằng: nầy Sử Văn gia
Thiếp nguyền thề có trời cha chứng lòng
Nếu mà thiếp phụ tình chồng
Thề rằng sẽ chết trong vòng tay anh
Chứng trên đã có trời xanh
Thiếp thề chẳng có trao nhành cho ai!
Văn rằng: em thiệt gái tài
Chờ ba năm nữa chẳng dài bao lâu
Nếu khi em nghĩ lâm chầu
Anh theo vào trướng mà hầu nữ vương
Sợ e có kẻ mưu lường
Sẽ đưa trai khác cung chương ứng hầu
E cho nữ chúa Thế Châu
Quên tình Tham tướng còn đâu đượm hồng!
Gỉa ghen Văn nói lòng vòng
Châu đành năn nỉ chiều lòng cho qua
Hồi lâu Văn mới đưa ra:
Lưỡng long là nhẫn của cha mẹ truyền
Ngàn xưa thân phụ vượt biên
Phò vua Nguyên đế đặng yên thân rồng
Nên vua ban nhẫn lưỡng long
Vật nầy vốn của ngai rồng ban cho
Mấy lần lâm nạn gay go
Anh gìn của báu chẳng cho ai toàn
Nay anh xin tặng cho nàng
Trái châu bằng ngọc thủy xoàn rất xinh
Của nầy vốn ở Bắc Kinh (12)
Thế Châu tiếp lấy mà nhìn giây lâu
Rõ ràng là vật báu mầu
Ta đây vàng bạc ngọc châu hằng hà
Còn thua của báu Văn gia
Nghĩ suy nàng lại thở ra chau mày.
Sử Văn xem thấy lạ thay
Ngỡ nàng không nhận nhìn ngoài mà thôi
Anh hùng máu nóng sục sôi
Châu đành xuống nước ỉ ôi năn nì:
Tình ta cao đẹp xiết chi
Xin chàng đừng có ngại nghi trong lòng
Thiếp xin nhận đó là chồng
Nhưng ba năm nữa hiệp lòng lửa hương.
Văn rằng: nàng nói nàng thương
Của ta nàng lại xem thường vậy đa
Chẳng đeo xem thử coi là
Đẹp chăng đặng để cho ta ngắm nhìn
Đeo vào Châu thấy thêm xinh
Sử Văn chàng mới vui tình kéo ra
CHÚ THÍCH
---------------------------------

1. Châu nữ chúa: Hạng Thế Châu.

2. Sử Văn: tướng giỏi của Trung Hoa, được sai đi trinh thám lãnh thổ Chân Lạp.

3. Trung Nguyên: nước Trung Hoa

4. Thúc phụ: em của cha, là chú. Thế Thủy và Hạng Thế Châu là chị em con chú con bác. Thế Thủy gọi cha Hạng Thế Châu bằng chú.

5. Hạng Thế Châu gặp Sử Văn lần đầu khi bị lạc giữa rừng Phú Quốc. Hạng Thế Châu đã cứu Sử Văn thoát chết do kiệt sức và đưa về dinh cơ. Giữa hai người đã có căn duyên tiền định từ kiếp trước, như lời thầy Bửu Sơn đã dự báo.

6. Lưu vong nơi đất lạ của Chân Lạp.

7. Mật Đa: Chế Mật Đa, một tướng trẻ của Vương quốc Xiêm.

8. Thế Kim hiểu chuyện của Sử Văn và Hạng Thế Châu, nên có ý tác hợp hai người.

9. Lục lễ: nói tắt của Lục lễ Danh nghi, là tên gọi sáu lễ trong việc cưới gả thời phong kiến xưa. Lục lễ Danh nghi gồm có:

1. NẠP THÁI: nạp lễ vật cho nhà gái. Người xưa dùng lễ vật là một con chim nhạn, biểu hiệu sự thông tin tức qua lại, hai bên sẽ là thông gia.

2. VẤN DANH: nhà trai cử người mai mối đem trầu rượu đến nhà gái để hỏi tên, tuổi, của người con gái.

3. NẠP CÁT: nhà trai coi tuổi nếu thấy cung mạng của đôi trai gái tương hạp tương sanh sẽ đưa lễ vật tượng trưng để trình cho nhà gái biết tương lai sẽ tiến tới hôn nhân.

4. NẠP TRƯNG: nhà trai đem nữ trang, tiền bạc, vải vóc, và vài lễ vật khác đến xin phép nhà gái làm lễ hôn ước cho hai người chàng trai và cô gái gái kết hôn. Lễ nầy còn gọi là Nạp tài hay Nạp tệ.

5. THỈNH KỲ: nhà trai đến trình cho nhà gái biết ngày, giờ, nhà trai đến làm lễ rước dâu.

6. THÂN NGHINH: đến ngày giờ đã hẹn trước, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái làm lễ rước dâu.

Lục lễ đối với người Trung Hoa thuở xưa rất quan trọng, nên có câu: Lục lễ bất bị, Trinh nữ bất xuất. Nghĩa là: Sáu lễ mà không hoàn bị thì không gả người con gái về nhà chồng.

10. Đồng tịch đồng sàng: tịch là chiếu, sàng là giường, cùng chiếu, cùng giường, ý nói mối quan hệ như vợ chồng.

11. Tả Thừa tướng: Thế Kim.

12. Bắc Kinh: một thành phố phương Bắc Trung Hoa, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử trở thành kinh đô Trung Hoa.
 
CHẾ MẬT ĐA GẶP LẠI HẠNG THẾ CHÂU
TÌNH DUYÊN BA NGƯỜI KHÓ XỬ 


Đoạn nầy nhắc chuyện Mật Đa (1)
Đến đảo Phú Quốc mới a ghé vào
Truyền quân thủy thủ mau mau
Canh phòng tuần vãng quản bao nhọc lòng
Ba quân nghe thửa lịnh ông
Thám tinh coi lại đền rồng của ai,
Quân về thưa rõ lá lai:
Đền vua nữ chúa khôi hài long lâu (2)
Nữ vương là Hạng Thế Châu
Chắc người Trung Quốc đoạt thâu hòn nầy.
Mật Đa mới nói như vầy:
Gác yên chiến mã đủ đầy cho ta,
Chàng liền vội vã xông pha
Theo hầu họ Chế quân gia cũng nhiều
Mật Đa lòng dạ buồn hiu
Càng suy tâm trạng càng nhiều tư lương
Đảo nầy đã có nữ vương
Biết là thân của đồ nương thể nào
Ngọ môn vừa mới bước vào
Môn quan đón hỏi trước sau rõ ràng:
Ngài là nguyên soái Xiêm bang (3)
Đi đâu mà đến đền vàng chúa tôi?
Mật Đa mới nói ối thôi
Vua bây như thể lọ nồi leo cây
Ta đà đi đến cõi nầy
Chúa tôi bây sẽ phơi thây chiến trường!
Quân vào tâu với nữ vương
Năm nàng lên ngựa buông cương ra thành
Châu nhìn nguyên soái đành rành
Mật Đa quả thật mang danh chữ đề
Thế Ngọc xem thấy cười hề
Kiếm lời nàng lại đuổi về cựu bang:
Ngài là nguyên soái đường hoàng
Lẽ thì người đã hãng toàn từ lâu
Khi không đến nước chư hầu
Dấy quân vô cớ thì đầu phải rơi
Chúa ta cai trị một nơi
Nào đâu quấy nhiễu đến thời Xiêm vương
Sao đem tướng mạnh quân cường
Đến đây muốn động chiến trường hay sao
Muốn sống thì phải về mau
Còn ngài muốn chết thì vào cung vi.
Mật Đa liền mới nói thì:
Để ta bắt bọn nữ tỳ hồi bang
Đem về dâng lại thánh hoàng
May mà thăng đến chức quan chư hầu.
Nói mà nhìn lại Thế Châu
Nữ vương thì có quân hầu quá đông
Càng nhìn càng lại động lòng
Nhớ hồi chuốc rượu sân rồng Xiêm bang
Đồ nương có đến rõ ràng
Nàng nầy sao giống dung nhan họ Đồ
Như vầy ta quá mơ hồ
Chàng nhìn rõ lại thiệt Đồ tiểu thơ
Nên chàng ngẩn ngẩn ngơ ngơ
Nữ vương đứng tựa bóng cờ rất xinh
Bốn nàng cố ý chiến chinh
Cùng nhau xúm lại quyết tình tranh phân
Mật Đa đang lúc mất thần
May thôi chút nữa thì gần diêm la
Nữ vương mới gọi Mật Đa:
Nước non viễn vọng đến mà chi đây?
Mật Đa mới nói như vầy:
Vua truyền chiến lịnh tôi đây tìm nàng.
Thế Châu nàng mới hỏi han:
Mẹ cha của thiếp bình an thể nào?
Mật Đa tỏ hết âm hao (4)
Cho nàng nghe rõ trước sau sự tình
Nào là những việc gia đình
Nỗi vua ban chiếu, nỗi mình nhớ thương
Nàng đành lìa bỏ quân vương
Bỏ cha bỏ mẹ tổ đường bỏ luôn
Bỏ ai tôi cũng chẳng buồn
Bỏ tôi, tôi phải vượt nguồn bước sang
Bao xa tôi cũng tìm nàng
Nay tôi xin rước hồi bang giao hòa,
Nàng không thương chế Mật Đa
Hãy thương mẹ yếu cha già nhớ nhung
Làm người giữ chữ hiếu trung
Trở về Xiêm quốc hiệp cùng thung quyên
Sơn hà một cõi đã riêng
Chữ trung chữ hiếu chữ duyên chỗ nào
Thôi nàng sửa soạn mau mau
Cùng ta trở lại cựu trào cho xong.
Mật Đa đang nói viễn vông
Thế Châu nghe mãi nên lòng lưỡng nan
Muốn về thăm viếng song đàng
Sử Văn bỗng đến gần nàng Thế Châu
Lắng nghe bàn chuyện hồi lâu
Mật Đa khuyên nhủ Thế Châu đủ điều
Bắt đầu kể chuyện Xiêm triều:
Võ văn tựu hội phần nhiều đợi trông
Về cho sum hiệp vợ chồng
Vua ban chiếu lịnh lòng nàng còn chê
Thôi nay anh rước em về
Giờ chê mai mốt sẽ mê mà trừ
Mẹ cha còn chẳng chối từ
Anh trông một tiếng em ừ mà thôi
Đã là xứng lứa vừa đôi
Nói rồi xuống ngựa lại ngồi kề bên.
Châu rằng: họ Chế đứng lên
Ngày nay tôi đã ngồi trên long sàng
Khác hơn hồi ở Xiêm bang
Bên tôi rày đã có chàng Sử Văn
Chế huynh đừng nói lăng xăng
Hãy về Xiêm quốc tâu rằng vua hay:
Giang biên tôi ở cõi ngoài
Đội trời đạp đất riêng hai sơn hà
Gởi lời về viếng mẹ cha
Tôi đành lỗi thuở đạo nhà báo ơn
Mẹ cha bớt giận đừng hờn
Làm người trong cõi trần hoàn như nhau
Nghĩa ơn cốt nhục cù lao
Tam niên nhũ bộ (5) thì cao thì dày
Sơn hà một cõi chia hai
Đã lên lưng cọp khó hoài trở lui.
Mật Đa nghe nói ngậm ngùi
Nên chàng năn nỉ ỉ ôi thêm nhiều:
Nầy Vua ban chiếu giữa triều
Phong làm Quận chúa, tội đều thứ tha,
Khi hay nàng đã bỏ nhà
Vua liền xử chém mẹ cha của nàng
Cũng nhờ Hoàng hậu khuyên can
Tôi đây bảo tấu tìm nàng biển khơi
Xứ nầy trời nước vơi vơi
Mênh mông nhìn thấy biển trời bao la
Sao bằng vọng các nước ta
Nam thanh nữ tú thật là quá đông.
Sử Văn nghe nói nóng lòng:
Gìa mồm võ tướng nhủ lòng nữ vương
Thứ đồ cá thối cá ươn
Nữ vương nàng đã không thương nói hoài
Thất phu vui khéo nói dai
Rõ ràng là kẻ bất tài vũ phu
Không đem được chút tài bù
Lại làm ra kẻ hiền nhu từ hòa.
Mật Đa liền mới nói ra:
Cớ sao mi lại mắng ta như vầy
Hãy còn nữ chúa mi đây
Quận nương nàng xét chuyện nầy ra sao
Tôi thần sao quá hỗn hào
Nhắm mi nhược chắc ta nào hơn thua
Gươm vàng ta nó động khua
Thì ta đây chắc cổ rùa mi tiêu
Ý ta chẳng muốn nói nhiều
Nếu ngươi mà có biết điều khéo khôn
Đừng xen vào việc kết hôn
Ta cùng Quận chúa tiếng đồn Xiêm bang.
Thế Châu nàng mới khuyên can:
Sử huynh để thiếp liệu toan một mình
Xin anh đừng có bất bình
Vì em đang nghĩ đến tình mẹ cha.
Nầy ngài nguyên soái Mật Đa
Tôi ngài không sợ cũng là không duyên
Về đi đừng nói thêm phiền
Đây tôi cũng đủ uy quyền binh nhung
Nếu mà sanh sự hành hung
E cho thế sự xem chung mà cười,
Xiêm bang chẳng thiếu chi người
Tiểu thơ đài các nói cười như hoa
Hồi tôi còn ở quê nhà
Có quen họ Thạch con nhà Thái sư
Thạch nương đức hạnh hiền từ
Ngài về đến cử Thái sư mà cầu,
Tôi nay tên Hạng Thế Châu
Làm vua một nước chư hầu cao sang
Để tôi thảo chiếu lịnh tràng
Ngài đem về nước cựu bang mà truyền
Bảo rằng nữ chúa đổi duyên
Thạch nương thay mặt là yên việc nầy.
Mật Đa mới nói như vầy:
Quận nương hay nói ta đây nhiều mầu
Dù bao nhiêu gái má đào
Đầy đàng đầy đống tôi nào có thương
Một lòng chí quyết Đồ nương
Cớ sao nàng chẳng có thương anh tài
Hay là Tham tướng đẹp trai
Đã mê họ Sử quên ngày hồi bang
Nếu mà họ Sử cản đàng
Để tôi giết hắn thì an chớ gì,
Nó còn nàng chẳng dám đi
Nếu mà nó chết nàng thì thong dong
Nói rồi liền mới nhảy vòng
Lại đâm họ Sử bên hông nặng nề.
Thế Châu đã sẵn có nghề
Đỡ thương họ Chế nặng nề lắm thay
Nên nàng trặc hết hai tay
Tháng bảy hăm bốn là ngày thọ thương
Thảm thay cho ả nữ vương
Vì bênh họ Sử bị thương đã đành
Ngã ra bất tỉnh chết xanh
Bốn nàng nữ tướng xúm quanh ngó nhìn.
Mật Đa lại đỡ tựa mình
Sử Văn mới ẵm vào dinh tức thì
Vừa bồng nữ chúa vừa đi
Mật Đa xem thấy xiết chi nghẹn ngào
Muốn đem quận chúa xuống trào
Chạy theo dành lại tranh nhau ôm nàng,
Thế Ngân thì lại ngó ngang
Quân gia họ Chế vây chàng Sử Văn
Thế Kim Thế Ngọc tài năng
Giải vây họ Sử chạy phăng về phòng.
Châu đà chết xỉu nào thông
Sử Văn đem để lãm phòng chiêu chư
Hai nàng quyết đánh mà trừ
Nhưng vì họ Chế tài dư quá thừa
Đánh từ ban sáng đến trưa
Không thua không thắng thiệt vừa tài nhau,
Mật Đa liền trở xuống tàu
Đình binh hẹn lại ngày sau luận bàn.
Sử Văn ngồi tựa ngọa sàn
Chàng liền khẽ gọi hỡi nàng Thế Châu
Châu nghe mở mắt lắc đầu
Bỏng liền cấp huyết thêm sầu thêm lo
Sử liền gọi tiếng rất to
Cung nhân mỹ nữ đến phò một bên
Châu nằm dường thể ngủ quên
Sâm thang đổ mãi gọi tên nàng hoài,
Thế Kim mới bước vô ngay
Đuổi bọn cung nữ ra ngoài hết trơn
Sử Văn than thở tủi hờn:
Thế Châu mà chết giang sơn nào còn
Còn nàng còn nước còn non
Mất nàng tôi ắt không còn vật chi.
Thế Kim nàng mới nói thì:
Để tôi xem mạch bịnh gì sanh ra
Rõ ràng mạch nhảy phù sa
Mạch nầy bi thảm mà ra bịnh nầy
Chắc vì xúc cảm chi đây
Thương hay là thảm mới xây bịnh nhiều
Hồi nào ngài chửa thương yêu
Bên nàng từ sáng đến chiều có tôi
Nay đà đủ bạn đủ đôi
Làm ơn thay mặt cho tôi nuôi nàng
Ráng mà an nỗi Nữ hoàng
Nói rồi Kim mới khoát màn bước ra
Đặng coi các việc trào ca
Thay quyền nữ chúa vào tòa pháp ty,
Bốn nàng toan tính chuyện ni
Thế Thủy mới tỏ vân vi lời nầy:
Mật Đa số nó chẳng chầy
Còn ba trăng nữa đem thây xuống mồ
Chúng ta là phận liễu bồ
Tuy riêng một cõi cơ đồ trị an
Nhưng còn cha mẹ nữ hoàng
Hiện đang Xiêm quốc làm quan đại thần
Tính sao cho vẹn mười phân
Đừng nêu tiếng xấu cõi trần khó coi
Chuyện nào cũng phải xét soi
Phải chi trí hóa hẹp hòi hay sao.
Thế Kim nàng mới nói mau:
Pháp ty nàng tính lẽ nào nói nghe
Thế Thủy mới nói nè nè:
Tôi có một kế bàn nghe hay kỳ
Nhưng mà chẳng nói mà chi
Để chờ Nữ chúa mạnh thì sẽ hay
Thành thì bị giặc vây ngoài
Nữ vương thọ bịnh không ai lăm đầu.
Sử Văn nhìn mặt Thế Châu
Nét vui biến mất vẻ sầu lộ ra
Văn liền năn nỉ lân la
Càng gần nữ chúa càng hòa tình thương
Đêm đông lại gặp canh trường
Cả hai lại bén lửa hương vì tình
Hãy còn mang kiếp chúng sinh
Ái hà dờn dợn sóng tình liền say.
Sử liền kề mặt bắt tay
Ba năm hẹn chửa đúng ngày sơ giao
Thỏa lòng giỡn lý ghẹo đào
Mộng điềm bỗng ứng thai bào long nhi
Thọ tinh đã đúng khắc kỳ
Cả hai nửa bước chẳng thì muốn xa
Đang cơn ngọa bịnh thiết tha
Gặp chồng hòa huyết bịnh đà mất tiêu
Hổ ngươi Châu giả bịnh nhiều
Sử Văn theo mãi ấp yêu đêm ngày
Phước đà đã thọ long thai
Triều thần văn võ nào ai rõ lòng
Ngự y tựu đến rất đông
Ngừa cơn nguy cấp sẵn phòng thuốc thang.
CHÚ THÍCH:
---------------------------------

1. Mật Đa: Chế Mật Đa, tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm.

2. Khôi hài long lâu: người thì đẹp, cung điện thì sang trọng.

3. Xiêm bang: vương quốc Thái Lan ngày nay.

4. Âm hao: tin tức.

5. Tam niên nhũ bộ: trong câu Thập Ngoạt Hoài Thai, Tam Niên Nhũ Bộ (Mười tháng mang thai, ba năm bú mớm). Ý nói công lao cha mẹ.
  
THẾ NGÂN TRÁO HÔN CƯỚI CHẾ MẬT ĐA
HẠNG THẾ CHÂU MANG THAI


Đoạn nầy nhắc chuyện bá quan
Vào cung xin yết nữ hoàng bịnh căn
Thế Kim nàng mới nói rằng:
Bịnh vua trầm trọng khó khăn cả ngày
Bá quan lo giúp việc ngoài
Còn phần vua bịnh phú rày cho tôi
Nếu sau bịnh chúa phục hồi
Sợ đều tội phạm để tôi chịu thời
Võ văn ai cũng vâng lời
Bốn nàng liền tính vào nơi lãm phòng
Kim liền mới nói không không:
Để cho yên lặng mình Rồng nghỉ an
Vào chi mà lại rộn ràng
Đem điều phiền phức Nữ hoàng (1) mệt thêm
Có tôi thăm viếng ngày đêm
Ngự y (2) chật ních như nêm cung tiền.
Thế Ngân nàng mới nói liền:
Mấy hôm văn võ bệ tiền hội nhau
Luận bàn các việc trong trào
Sử Văn đâu vắng chẳng vào lo ưu
Chàng thì kiêm chức tham mưu
Tham mưu sao chẳng lo ưu việc nầy
Rối ren trật tự đã chầy
Sử Văn lánh mặt lạ nầy lắm đa!
Thế Kim giả chước phân qua:
Không chừng nó bị Mật Đa bắt rồi,
Nầy Hữu thừa tướng (3) ngài ôi
Pháp ty đoán quẻ dùm tôi thể nào.
Thế Thủy đã rõ âm hao
Giả rằng: đoán quẻ phải cao số tiền
Chuyện nầy là một chuyện riêng
Thái sư (4) muốn bói đem tiền ra đây.
Thế Ngân mới nói như vầy:
Pháp ty đoán được quẻ nầy mà hay
Cần chi bàn luận tiền tài
Bao nhiêu cũng đặng nào ai nói gì.
Thế Thủy nàng mới nói thì:
Nầy Ngọc thừa tướng chủ quy coi là
Gieo tiền tôi sẽ bói khoa
Năm quan tiền tổ đưa ra coi nào.
Kim rằng: Thế Thủy tầm phào
Ham tiền bói vậy đề lao phải ngồi
Muốn làm phải hỏi ý tôi
Đừng làm tầm bậy lôi thôi có đòn.
Thế Thủy nghe nói cười giòn:
Xét Kim thừa tướng vẫn còn dốt quê
Nên phân những tiếng sái lề
Tôi đây từ bé chuyên nghề kiếm ăn
Nay mà đoán quẻ Sử Văn (5)
Chưa chi Thừa tướng cằn nhằn vậy a
Nè nghe thầy bói đoán khoa
Quẻ thần ứng hiện chánh tà thấy chưa:
Chiều qua có một đám mưa
Tham mưu cỡi ngựa săn lừa rừng hoang
Bây giờ đang bị lạc đàng
Bìa rừng đông bắc hiện đang đói lòng
Nếu ai chịu khó ra công
Đi tìm Tham tướng ơn không chi bằng
Nữ vương chừng hết bịnh căn
Tâu vua phong chức cao thăng cũng mầu.
Ngân rằng: như đúng quẻ cầu
Tôi xin đi đến rừng sâu cứu chàng.
Ngọc rằng: tôi cũng biết đàng
Để theo yên ngựa lên ngàn dạo chơi
Một là đi dạo xả hơi
Hai coi binh giặc đặng thời bao nhiêu.
Kim rằng: quân giặc rất nhiều
Thái sư, Thừa tướng coi chiều mà ra
Phải cần kiếm được Sử gia
Kẻo chàng bị Chế Mật Đa (6) hành hình.
Hai nàng bị mẹo xảo tinh
Lên yên khóa mã quyết tình ra đi. (7)
Thủy rằng: Kim có biết chi
Thiếp lo những chuyện ly kỳ xảy ra
Ngày nay Nữ chúa giao hòa
Sánh duyên Tham tướng cũng là đẹp đôi
Tuy Kim không nói với tôi
Nhưng coi thiên số khúc nôi cũng tường,
Thế Ngân là đứa bất lương
Toan mưu cho nó ra đường cho xong,
Thế Ngọc nó chẳng rõ lòng
Thảm cho Thế Ngọc vốn không tâm tà
Lúc nào nó cũng thiệt thà
Trí thì có trí ngặt mà không mưu.
Kim rằng: Thủy khéo lo ưu
Bây giờ luận thử một mưu coi là
Thối binh của Chế Mật Đa
Thì công đức ấy thiệt là quá to.
Dẫn nhau vào nẻo quanh co
Lãm phòng đến đó làm cho vua tường
Sử Văn đang độ yêu đương
Cửa ngoài hai vị mỹ nương xin hầu,
Văn liền tạm cách Thế Châu
Ngọa sàn Thừa tướng vào hầu tận nơi
Hai nàng chúc tụng dứt lời
Châu xem bốn ả mất thời hết hay:
Thế Ngân Thế Ngọc đâu rày?
Thế Kim Thế Thủy cả hai tâu rằng:
Đầu đuôi nói rõ gốc căn
Muốn cho các việc an bằng phải toan
Nầy mưu Thế Ngọc luận bàn
Phải toan một chước gả nàng Thế Ngân
Mật Đa binh đống rộ rần
Quận nương cậy có Thế Ngân tráo hình
Nàng cùng Thế Ngọc hồi kinh
Mật Đa nào rõ sự tình ở mô
Ngỡ là quận chúa họ Đồ
Đem về Xiêm quốc mưu mô ấy tròn,
Một là mình trọn đạo con
Kẻo vua Xiêm chém sao còn song thân
Sợ vua bắt tội nghịch thần
Để tôi năn nỉ Thế Ngân thế vào
Mật Đa nó rước về trào
Tôi đây cũng nguyện theo sau hộ phò
Tráo hôn ai biết mà lo
Thế Ngân nó chẳng so đo đâu là
Nó mà ưng Chế Mật Đa
Lại mà ham thích chẳng mà nói chi!
Nữ vương khen kế cao kỳ
Kim bảo họ Sử giả đi ra thành
Lên yên giục ngựa chạy nhanh
Phía bắc bìa gành mà gọi Thế Ngân
Làm ra có vẻ ân cần
Như người lạc bước lỡ chân núi rừng.
Sử Văn nghe nói cũng mừng
Chàng mau ra chốn bìa rừng đi khơi
Ngân nhìn áo mão chói ngời
Rõ ràng Tham tướng đi chơi kia mà
Ngọc khen Thủy khéo bói khoa
Năm quan tiền tổ thiệt là xứng cho
Ba người hiệp mặt nhỏ to
Cùng nhau bàn luận mà lo về trào.
Sử Văn liền mới nói mau:
Tôi đi lỡ bước lạc vào rừng hoang
Ngỡ là bỏ xác trên ngàn
Nào hay lại được hai nàng tầm tri.
Ngân trao lương thực tức thì
Sử ăn vội vã xem thì rất ngon
Ngân nào có biết mưu còn
Thái sư như vậy cũng còn u mê,
Cùng nhau lên ngựa mà về
Vào cung tâu rõ các bề vua hay.
Châu khen Thủy bói quá tài
Và khen Ngân có công dày núi sông,
Sử huynh là kẻ lão thông
Vì sao mà lại lạc trong núi rừng
Làm phiền Thái úy quá chừng
May thôi bỏ mạng trong rừng ai hay.
Sử Văn chàng mới nói rày:
Nguồn đào lạc đến thiên thai mê hồn
Không hay trời đã hoàng hôn
Tỉnh ra tôi mới định hồn về đây.
Châu liền truyền phán như vầy:
Trẫm còn lo một chuyện nầy khó a
Thế Ngân hãy giả là Ta
Sáng nay mời Chế Mật Đa đến trào
Sửa sang hành lý cho mau
Làm vợ Nguyên soái có nào chi hơn
Đây là mão cửu long hoàng
Cẩm bào nàng mặc Bệ đơn lên ngồi
Trẫm xin thay bậc đổi ngôi
Giả làm Thái úy mà ngồi bên ngai.
Mật Đa bày tỏ duyên hài
Thế Ngân ưng thuận về rày Xiêm bang,
Về thưa với lịnh song đàng
Cho cha cho mẹ lòng an coi là
Nhớ rằng nàng giả là Ta
Đồ nương tên tộc đừng mà vội quên
Chừng nào sứ mạng làm nên
Ba năm trở lại ta đền ơn thâm.
Thế Ngân nghe nói mừng thầm,
Thế Thủy trước đã rõ tâm của nàng
Xin theo về nước Xiêm bang
Làm người bồi giá cho nàng Thế Ngân.
Thế Kim nghe nói cười rân:
Pháp ty tính vậy vẹn phần hay sao
Nàng là quan cả mão cao
Có nàng ra sức giúp vào Nữ vương
Mấy năm chấn chỉnh triều cương
Nhờ nàng đoán số âm dương thuở giờ
Nay sao việc nước làm ngơ
Nếu về cựu quốc tôi nhờ ai đâu.
Thủy đành thưa nhỏ từ câu:
Cơ mưu bí mật cao sâu phải tùy.
Kim nghe mưu kế phải y
Để Ngân với Thủy đồng đi cho rồi
Hẹn trong ba tháng lai hồi
Thế Ngân mặc áo ra ngồi long ngai,
Châu cùng Tham tướng cả hai
Ra đền hầu hạ để thay lý đào,
Ngọc, Kim và Thủy đi sau
Truyền quân hãy khá mau mau ra thành,
Thế Thủy lãnh chiếu ban hành
Cùng quân cận vệ ra thành truyền ban:
Chúa tôi đang ngự ngai vàng
Xin rước nguyên soái Xiêm bang hội trào.
Mật Đa là kẻ anh hào
Ỷ mình hùm sói sợ gì nai tơ
Muốn sao thấy mặt tiểu thơ
Nay nghe sắc lịnh chiếu tờ liền đi
Thẳng chân bước đến Đơn trì
Võ văn đứng dậy chào thì Soái gia:
Chúng tôi xin được cầu hòa
Xin đưa Nữ chúa về nhà Cựu bang.
Mật Đa nghe nói hân hoan
Thế Ngân mà tưởng là nàng Đồ nương
Lại gần trút hết Đồ nương
Bao nhiêu bản nhạc đoạn trường diễn ca.
Vua giả (8) liền mới nói ra:
Anh mau sửa soạn chúng ta cùng về
Em đà sắm đủ các bề
Ngày mai em quyết đi về với anh.
Mật Đa nghe nói lòng đành:
Thôi em giao lại hoàng thành cho ai
Về anh có đủ đền đài
Em nên giao phứt để ai giữ gìn
Làm vua chiếc bóng một mình
Sao bằng làm vợ có tình gối chăn
Trời còn ngày gió đêm trăng
Làm người sao khỏi những lằn nguyệt hoa,
Nàng về sum hiệp cùng ta
Bên tình bên hiếu cũng là vẹn an
Dại gì riêng cõi giang san
E dân Chân Lạp (9) côn mang chẳng tùng
Thì là nàng khó vẫy vùng
Chẳng nanh đào đất mà chun chỗ nào.
Vua giả liền mới nói mau:
Vậy thì sửa soạn cùng nhau phản hồi.
Thế Thủy nàng mới ỉ ôi:
Xin định việc ấy để tôi liệu lường
Còn điều Ngọc tỷ đế vương
Hãy giao kẻ khác triều đường mới an
Đã về bổn quốc cựu bang
Thì là sum hiệp đá vàng phu thê
Tôi đây cũng nguyện xin thề,
Đây là bảo vật liệu bề mai sau
Triều ca xảy chuyện thế nào
Xin Tả thừa tướng xem vào làm theo
Giữ cho vững lái vững lèo
Kẻo mà có chuyện hiểm nghèo chẳng không
Thơ đề mấy bức niêm phong
Tôi đi nàng cứ xem trong vật nầy
Có tôi mưu trí đủ đầy
Nên tôi đảm nhận chuyện nầy mới an.
Nói rồi từ giã lên đàng
Thế Ngân, Thế Thủy cùng chàng Mật Đa
Xuống thuyền trực chỉ xông pha
Kéo neo thuyền chạy phút đà quá mau.
Thế Châu buồn bã biết bao:
Từ lâu thì sống bên nhau mặn nồng
Nay mà ngăn cách núi sông
Thái sư Trẫm xét như lòng hân hoan,
Pháp ty sắp kế liên hoàn
Trẫm đây buồn mất hai nàng mỹ vương.
Sử Văn chàng mới phân tường:
Mỹ nương dù mất cung chương có người
Phòng loan thơn thớt nói cười
Người đi đâu sánh bằng người ở đây
Xin Ngọc thừa tướng lòng khuây
Chuyên lo nhiếp chánh hội nầy cho an
Cùng Kim Tham tướng luận bàn:
Nữ vương long thể bất an đã rồi
Để vua cung nội phản hồi
Tráo hôn có kẻ thế rồi cũng xong
Hay là vua chửa hài lòng
Hoặc khi còn tiếc tấm chồng Soái gia
Ắt là nhớ chế Mật Đa
Trông xem vẻ mặt chan hòa lệ rơi.
Thế Châu liền mới phán thời:
Sử huynh sao nói những lời đâu đâu
Thôi thì tôi cũng bãi chầu
Về cung an nghỉ kẻo lâu Ngài buồn.
Nói rồi đứng dậy đi luôn
Người buồn tức cảnh càng buồn lòng thêm,
Sử chờ cho đến giờ đêm
Lén vào cung nội mỏng mềm khuyên lơn:
Làm vua mà tánh hay hờn
Khác nào là kẻ thường nhân ngoài thành
Dù ai nói tỏi nói hành
Riêng mình một cõi vô thanh mới là.
Nữ vương nàng mới nói ra:
Sử huynh còn nhắc Mật Đa làm gì
Phải mà thiếp có vu quy
Thiếp nào bỏ nước mà đi như vầy,
Nay mà lỡ cuộc gió mây
Thay hình kiết tử (10) tính đầy ba trăng
Còn chi mà nói mà rằng
Chàng không thương thiếp nói năng quá kỳ!
Sử rằng: nàng chẳng nghĩ suy
Không thương ai đến làm chi với nàng,
Dù cho kiết tử thai mang
Tôi càng thống thiết tình nàng quý cao
Có con nối hậu về sau
Mẹ Vua con cũng ngôi cao Tử hoàng
Vái trời xin nhỏ phước ban
Sanh trai tôi mới hân hoan trong lòng
Mừng trai có trẻ nối dòng
Có chi nàng lại mặt hồng buồn xo!
Châu rằng: anh chẳng biết lo
Em đây còn hỡi đắn đo chuyện nầy
Trước em thọ giáo với Thầy
Thầy truyền đừng vội hiệp vầy tơ duyên
Có Thần có Phật chứng niên
Thương chàng thiếp phải trao duyên cùng chàng
Nay mà thai nghén đã mang
Võ văn biết được luận bàn chê bai,
Thiếp là Nữ chúa long ngai
Cãi lời Thầy dạy còn ai sợ mình
Trăm năm có một chữ tình
Mà người kim cổ lụy mình biết bao
Tại chàng mãi đến phòng đào
Thừa cơ ươn yếu (11) rồi vào làm ngang
Nếu mà văn võ bá quan
Hay ra sợ họ luận bàn chàng ơi!
Sử Văn liền mới nói thời:
Hiền thê sao khéo luận lời thị phi
Hãy nghe cho rõ chuyện ni
Dù cho thần nữ tiên phi như hà
Hãy còn trong kiếp ta bà
Duyên tình sao khỏi vào ra cửa đời,
Ngu phu tuy chẳng tuyệt vời
Nhưng mà anh chẳng sợ lời luận phân
Sống riêng tình cảm cá nhân
Làm vua có thể trọn phần yêu đương
Hơi nào bận trí lo lường
Những người cặn bã, những phường thị phi
Phẩm bình nào đúng chánh quy
Cứ lời nói bạ lo chi em à
Mai nầy ban yến trào ca
Võ văn ăn tiệc chúng ta sum vầy
Còn hơn sợ đó lo đây
Sanh phiền trí não lưng đầy nàng ơi
Đây khuyên đó hãy nghe lời
Anh mừng có kẻ nối đời cho anh
Không con e nỗi lạnh tanh
Có con cội rễ nhánh nhành mới xuê.
Nữ vương nàng cũng xuôi bề:
Còn chờ Thế Thủy trở về sẽ hay
Người lo trải mật nằm gai (12)
Vì em nó mới ra tài quá ư,
Thiếp chàng hiệp mặt bấy chừ
Thiếp chưa thưa với Tôn sư (13) chàng à
Sợ là Thầy sẽ quở la
Lắm khi còn bắt chúng ta phải lìa.
Sử rằng đêm đã quá khuya
Hơi nào nàng sợ miệng bia nàng à
Tình ta vui với đôi ta
Hơi nào còn ngại kẻ xa người gần,
Tôn sư là bậc thánh thần
Ông nào phiền giận người trần mà lo
Nếu không có kẻ tôn phò
Có anh luôn sớm cùng lo được rồi
Ngai vàng chín bệ em ngồi
Sao bằng lều cỏ (14) đủ đôi vợ chồng,
Làm vua thiệt quá bận lòng
Biên thùy ải ngoại còn phòng quân binh
Đi đâu gươm giáo quanh mình
Quân reo dậy đất tiếng kình kêu vang
Điếc tai tối mắt chàng ràng
Bực mình hết sức sao nàng lại ham,
Khác nào kẻ tội bị giam
Ngư tiều phỉ chí luận đàm còn hơn
Em ơi em chớ lòng hờn
Vào phòng mà nghỉ còn hơn nói bàn.
Sử (15) liền vội vã khoác màn
Dục tình Sử động thì nàng phải vâng
Nói chi những thuở tuổi xuân
Phong tình cổ lục (16) bảo đừng đặng đâu.
Sử rằng: em hỡi Thế Châu
Bấy lâu anh đã khẩn cầu vái van
Vái trời cho bậu (17) thai mang
Mừng nầy ai đổi núi vàng cũng không
Trời cho có kẻ nối giòng
Thương em anh mới tỏ lòng em hay
Ngàn xưa nội tổ rất tài
Chuyên làm thợ ngọc dồi mài ngọc linh
Những là ngọc báu thủy tinh
Lên non tìm ngọc chen mình núi cao
Lắm phen lên núi khổ đào
Mải tìm ngọc quý truyền bao đời rồi,
Nhớ xưa tổ phụ trau dồi
Được xâu chuỗi ngọc quý thôi đã nhiều
Trải qua thời đại mấy triều
Nên vật gia bảo lại nhiều phép linh
Nay em đã có thai hình
Nên đeo chuỗi ngọc bên mình em a
Phòng khi quỷ quái tà ma
Nó hay ám ảnh đàn bà mang thai
Cha anh sanh có một trai
Nên vật gia bảo về tay anh cầm
Vật nầy đã mấy trăm năm
Thương em anh để em cầm làm ghi
Chừng nào sanh sản thai nhi
Vật nầy truyền lại xiết chi là mầu.
Sử đeo vào cổ cho Châu
Càng nhìn càng ngắm vừa lâu vừa mừng:
Dù sau Thầy có trị trừng
Anh xin Nữ chúa nhớ đừng quên anh
Nếu em phụ nghĩa ba sanh (18)
Anh nguyền đạp đổ năm thành em coi.
Châu rằng: anh nói hẳn hòi
Đàn ông hay có học đòi trăng hoa
Sợ là có thuở cách xa
Bướm kia sẽ đổi nhị hoa lạ vườn.
Vợ chồng càng nói càng thương
Lưới tình càng bủa càng vương vấn hoài.
  
CHÚ THÍCH
-----------------------------------

1. Nữ hoàng: Đồ nương, con gái quan Thừa tướng Vương quốc Xiêm bỏ trốn vương triều sang đảo Phú Quốc, xây thành, lập binh và xưng Nữ vương tại đảo Phú Quốc, đổi tên là Hạng Thế Châu. Cùng đi có bốn cô gái là Thế Kim, Thế Ngân, Thế Ngọc và Thế Thủy, giữ các chức vụ Tả thừa tướng, Hữu thừa tướng, Pháp ty, Thái sư, Thái úy.

2. Ngự y: thầy thuốc trong triều đình

3. Thừa tướng: còn gọi là Tể tướng, chức vụ cao nhất trong triều đình, thay mặt vua hành xử công việc.

4. Thái sư: một trong ba chức quan đứng đầu triều đình, gọi là Tam công, gồm có Thái sư, Thái úy, Thái bảo.

5. Sử Văn: tướng giỏi của Trung Hoa, được sai đi trinh thám lãnh thổ Chân Lạp. Được Hạng Thế Châu thâu dụng giao chức Tham tướng.

6. Chế Mật Đa: tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm.

7. Thế Kim và Thế Thủy sắp đặt chuyện để cho hai nàng Thế Ngân, Thế Ngọc tạm đi ra ngoài, để luận bàn chuyện đại sự với Hạng Thế Châu.

8. Vua giả: là Thế Ngân đóng giả làm Hạng Thế Châu.

9. Chân Lạp: một vương quốc ở trung tâm bán đảo Đông Dương, kéo dài đến phía Nam, một phần nước Lào, Thái Lan và tiền thân của nước Campuchia ngày nay. Đảo Phú Quốc xưa thuộc Chân Lạp

10. Kiết tử: quý tử. Hạng Thế Châu và Sử Văn có thai đã ba tháng.

11. Nhắc lại chuyện cũ, Sử Văn bên cạnh chăm sóc cho Hạng Thế Châu khi đang dưỡng vết thương. Hai người vì có tình ý với nhau, nên lỡ cuộc gió mây.

12. Trải mật nằm gai: nếm mật nằm gai (thường đởm ngoạ tân).
Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân Thu, sau khi ở nước Ngô trở về, thường nằm ngũ trên gai, có treo cái mật, nằm ngồi đều nhìn thấy mật, ăn uống thì nếm vị đắng của nó trước. Tỏ ý không quên cái khổ nhục trước đó. Quả nhiên sau đó nhờ chịu đựng gian khổ mà đánh bại được nước Ngô, báo thù cho nước Việt.

13. Tôn sư: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương.

14. Lều cỏ: ý nói túp lều tranh, hai trái tim vàng.

15. Sử: Sử Văn.

16. Phong tình cổ lục: chuyện tình yêu nhắc trong sách vở xưa.

17. Bậu: (từ địa phương) từ xưng hô ngôi thứ hai. Sử Văn gọi Hạng Thế Châu là bậu.

18. Nghĩa ba sanh: ba giai đoạn đời dđời gồm kiếp trước (quá khứ), kiếp này (hiện tại) và kiếp sau (tương lai). Ý nói nghĩa tình trọn đời, trọn kiếp.
  
CHẾ MẬT ĐA VÀ THẾ NGÂN RA MẮT XIÊM VƯƠNG
CHẾ MẬT ĐA THỌ YỂU, THẾ NGÂN TRỞ VỀ PHÚ QUỐC

Đoạn này nhắc chuyện cõi ngoài
Mật Đa (1) thẳng chỉ đêm ngày lướt xông
Thế Ngân (2) là gái lại dòng
Nên theo họ Chế mà lòng lại vui
Nước ngược nhờ có gió xuôi
Mật Đa thì lại bải bui (3) với nàng,
Quân hầu với lũ a hoàn
Thảy đều nghe lệnh của nàng Pháp ty (4)
Mật Đa nào có hay chi
Cứ theo gái đẹp chẳng khi nào rời,
Xiêm thành (5) phút đã đến nơi
Mật Đa vào cửa ngôi trời Xiêm vương.
Đức vua phán giữa trào đường:
Chỉ đòi Quận chúa Đồ nương (6) vào chầu
Truyền quân cận vệ ra hầu
Hai nàng đồng đến sân chầu tung hô,
Đức vua xem thấy liền hô:
Nàng nào Quận chúa họ Đồ nói ngay
Mật Đa bước đến nắm tay
Bệ tiền nhận rõ mặt mày dung nhan
Khá khen tuyệt sắc đài trang
Dâu nam dáng rể đông sàng (7) xứng duyên
Đồ công, Đoàn thị (8) hàn huyên:
Vì sao con trẻ đến miền phương xa
Nay về xum hiệp mẹ cha
Chồng con là chế Mật Đa trai tài
Con về sum hiệp trước mai (9)
Mẹ cha nương cậy chuỗi ngày tàn hơi.
Mật Đa liền mới thưa thời:
Ngô ông kích ngược (10) là lời thánh nhân
Có con hầu hạ hai thân
Không trai có rể ân cần dưỡng nuôi.
Cùng nhau cười nói tươi vui
Bỏ qua những đoạn ngậm ngùi nhớ thương.
Vua ban đại yến trào đường
Võ văn mừng rỡ Đồ nương hồi trào
Vua cho nàng áo cẩm bào
Một đôi kim xuyến mão màu bạch kim
Vợ chồng bái tạ thánh minh
Cùng nhau trở lại Soái dinh động phòng,
Sáng về lạy tạ Đồ công
Vợ chồng liền mới tỏ lòng hân hoan.
Ngày vui nhắm chẳng đầy gang
Thế Ngân hiệp mặt với chàng Mật Đa
Lần tay tính mấy tháng qua
Còn nàng bồi giá (11) việc nhà vẹn xong
Một hôm về phủ Đồ công
Nàng liền thuật rõ đục trong mưu màu:
Sợ ông bị tội chém đầu
Tráo hôn thay mặt nữ hầu trao duyên
Cho ông ngôi phẩm vững yên,
Cô tôi còn ở nơi miền xa xôi
Cô đà đã có chồng rồi
Vốn người Trung Quốc ông ôi nào tường
Mấy lần lưới vấn tơ vương
Nhân thần kiết tử tỏ tường nào sai
Chồng cô họ Sử đẹp trai
Quê chàng thì thiệt ở ngoài Nam Kinh
Cô tôi vấp phải chữ tình
Lỗi về báo hiếu biết mình làm sao
Con về thưa rõ âm hao
Nếu ông muốn hiệp cùng nhau một nhà
Dọn đồ tế nhuyễn xông pha
Xuống thuyền thẳng chỉ sang qua Phú Cường
Cô tôi kiêm chức Nữ vương
Ông bà đến đó đường đường liệt oanh
Chúng tôi nhờ chí lão thành
Nữ vương mới hết buồn tanh trong lòng,
Sử gia cung thỉnh bà ông
Phận làm ngãi tế bền lòng sắt gang
Trăm ngàn thọ lỗi song đàng
Ông bà thứ tội mới an việc này.
Đồ công mới nói như vầy:
Chúng bay xúi giục cô bay bỏ nhà
Nay về còn xúi đến ta
Thôi thôi chuyện đó bỏ qua cho rồi!
Chúa ta còn ngự trên ngôi
Lẽ nào bỏ Chúa đạo tôi đầu tròn
Lìa vua lìa nước lìa non
Đạo di thần tử đâu tròn chí trai,
Lỡ sanh nhằm thứ gái lai
Bỏ cha bỏ mẹ riêng ngoài biên cương
Làm mưu đánh tráo Quân vương
Thôi con dấu chuyện Đồ nương con à
Nếu mà Xiêm chúa hay ra
Khi quân tội ấy khó mà thứ dung,
Ông bà phạm tội bất trung
Mật Đa rõ đặng không dùng Thế Ngân
Lỡ duyên mây nước Tấn Tần (12)
Ông bà đây cũng thêm phần âu lo
Thương ông con giữ dùm cho
Chuyện đà như vậy dặn dò lòng con.
Đoàn thị nghe nói khóc ngon:
Thì ra con cụ nó còn phương xa
Ngỡ là nó đã về nhà
Sánh duyên Nguyên soái Mật Đa đã rồi
Đường trường non nước xa xôi
Để tôi đi kiếm con tôi ông à!
Ông rằng: xin mụ bỏ qua
Xin đừng nhắc nữa khiến già sầu bi,
Cha buồn lắm đó ái nhi
Sao con bao nỡ bỏ thì cha đây
Thôi thôi già ráng làm khuây
Năm chầy tính lại chẳng chầy bao xa.

Đoạn này nhắc chuyện Mật Đa
Hiệp cùng duyên mới một nhà quá xuê
Bỗng nhiên lâm bệnh nặng nề
Lương y điều trị lo bề thuốc thang,
Thế Ngân dâng sớ Thánh hoàng
Chồng tôi căn bệnh vương mang quá nhiều.
Xiêm vương nghe tấu buồn hiu:
Nguyên soái bệnh nhiều Trẫm phải âu lo
Ngày ngày Vua mãi buồn so
Trẫm nhờ Nguyên soái ra phò giang san.
Ngự y tâu với Thánh hoàng:
Bệnh căn Nguyên soái trăm đàng nan y
Ắt là mạng bạc vĩ qui
Còn chi chuyên chữa còn gì thuốc thang
Chúng tôi hết kế cùng phương
Muôn tâu Bệ hạ mở đường thứ tha.
Vua Xiêm nghe tấu thở ra
Ngự lâm vào tấu Mật Đa chết rồi.
Xiêm vương nghe tấu than ôi
Công lao Nguyên soái đắp bồi núi sông
Bấy lâu đánh bắc dẹp đông
Rạng danh sao lại yểu vong thế này,
Còn ai phò tá Trẫm đây
Thôi thì văn võ hiệp chầy lo toan
Cùng nhau lo sắm quách quan (13)
Kíp đưa linh cửu tán an mộ phần.

Đoạn này nhắc chuyện Thế Ngân
Ba trăng sánh nghĩa châu trần Mật Đa
Chồng chết thì khóc thì la
Ba ngày liền tính đi ra lấy chồng
Nên nàng đến trước sân Rồng
Tâu cùng Xiêm chúa nỗi lòng nhớ thương
Xin vua xuống lịnh trào đường
Cho nàng trở lại Phú Cường (14) như xưa:
Ngỡ là phận đẹp duyên ưa
Nào hay Nguyên soái mạng vừa yểu xong
Nay tôi thọ phải tang chồng
Ở đây còn phải bận lòng quân ân
Xét tình phụ tử quân thần (15)
Nặng lo cho đến song thân nơi nhà. (16)
Xiêm vương liền mới phán ra:
Thương thay tuổi trẻ bỗng đà sầu bi
Phu nhân nếu muốn ra đi
Trẫm nào cản trở làm chi lộ trình
Ra đi phong cảnh hữu tình
Khuê phòng khép cửa một mình cũng thương,
Cho nàng trở lại Phú Cường
Thế Ngân sửa soạn lên đường thẳng xông,
Về nhà thưa với Đồ công
Nàng cùng Thế Thủy ruổi dong đi liền
Cả hai đồng xuống chiếc thuyền
Thẳng đường hải lý đến liền Nữ vương.
  
CHÚ THÍCH

1. Mật Đa: Chế Mật Đa, tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm.

2. Thế Ngân: một trong bốn cô gái cận thần của Hạng Thế Châu.

3. Bải bui: miệt mài, bận rộn.

4. Pháp ty: Thế Thủy.

5. Xiêm thành: Vương quốc Xiêm, Thái Lan ngày nay.

6. Đồ nương: con gái quan đại thần Đồ công.

7. Đông sàng: giường phía đông, chỉ người rể quý.
Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người nhà đến trường của Vương Đạo chọn số học sinh.

Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì đáp rằng:
- Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía đông.

Khước Giám bảo:
- Người ấy mới thật đáng rể ta.

Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn thiên hạ.

8. Đồ công, Đoàn thị: hai vợ chồng quan đại thần Đồ công, cha mẹ của Hạng Thấ Châu.

9. Trước mai: tứ cổ, trúc mai.
Trúc: người quân tử. Mai: người tiểu thơ. Ý nói đôi trai gái, vợ chồng.

10. Kích ngược: Kích là một lọai binh khí cổ, cán dài giống các loại giáo, mũi có một hoặc hai lưỡi nhỏ hình lưỡi liềm gắn vào phần đầu và một tua bằng lông ngựa.

Nhờ cấu tạo này mà kích có thể làm kẹt vũ khí của đối phương và sau đó người dùng kích chỉ cần giật mạnh để tước hoặc làm gãy vũ khí của đối phương. Người dùng kích có thể tấn công đối phương bằng cách kéo kích ngược lại để móc bằng lưỡi bên; hoặc tấn công địch thủ bằng phần lưỡi phẳng để đối phương ngã khỏi ngựa.

Ý nói sự hiệu quả của bộ phận phụ, thay thế phần chính. Ở đây Chế Mật Đa muốn nhấn mạnh vai trò con rể thay thế con trai ruột.

11. Nàng bồi giá: người con gái theo hầu hạ cô dâu khi về nhà chồng. Ở đây muốn nhắc đến Thế Thủy.

12. Tấn Tần: Hai nước Tấn và nước Tần sát nhau (thời Chiến Quốc) ở Trung Hoa, có truyền thống các đời vua thường gả con với nhau để mưu hòa giữa hai nước.

Duyên Tấn Tần ý nói duyên vợ chồng.

13. Quan quách: Quan là quan tài, phần cất giữ xác chết. Quách là phần vỏ bọc bên ngoài quan tài. Quan quách là cách chôn cất có hai lớp, trong quan ngoài quách để liệm xác chết, với cách này sẽ bảo quản xác chết rất kín và rất lâu năm. Đây là cách chôn cất của những gia đình quan lại, giàu có thuở xưa vì rất tốn kém.

14. Phú Cường: tên gọi khác của Phú Quốc. Trong tư liệu lịch sử chưa thấy nhắc tên gọi Phú Cường thay cho Phú Quốc, tuy nhiên theo suy đoán nguyên gốc chữ Phú có nghĩa là Phú Cường (giàu mạnh), Phú Quốc nghĩa là xứ sở giàu mạnh.

15. Phụ tử quân thần: quan hệ cha con trong nhà, vua tôi ngoài xã hội. Ý nhắc đến lễ giáo theo Nho giáo ngày xưa rất xem nặng đạo đức, lễ nghĩa. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.

Tam cương và Ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo.
Tam cương:
1. Quân thần: Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, bề tôi phải phục vua quan.
2. Phụ tử: Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu, con cái nghe lời cha mẹ.
3. Phu phụ: Phu xướng phụ tùy, chồng nói vợ nghe.
Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín

Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo.
Tam tòng:
1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải phụng dưỡng cha mẹ.
2. Xuất giá tòng phu: đi lấy chồng phải phụ thuộc bên chồng.
3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải nuôi con.
Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh

16. Vì Thế Ngân chồng chết, chưa có con, nên xin quay về phụng dưỡng cha mẹ.
  
THẾ NGÂN XIN CƯỚI SỬ VĂN
THẾ CHÂU LÂM TRỌNG BỊNH


Thế Châu (1) đang ngự cung chương
Sử Văn (2) kể chuyện tổ đường ngàn xưa
Càng nghe Nữ chúa càng ưa
Phút đâu hai ả (3) cũng vừa tới nơi:
Muôn tâu Nữ chúa ngôi trời
Hai tôi từ thuở vâng lời ra đi
Ngày nay tôi mới hồi quy
Tròn xong sứ mạng mới đi trở về,
Sau khi vâng lịnh chỉ phê
Duyên nầy đã gả sánh bề nghi gia
Yểu vong thương Chế Mật Đa (4)
Sánh duyên ba tháng hắn đà yểu vong
Hai tôi sứ mạng đã xong!
Nữ vương ban yến đền công hai nàng.
Sử Văn thay mặt Nữ hoàng
Giải lao công khó hai nàng bấy lâu
Tham mưu (5) đành uống rượu hầu
Hai nàng dâng rượu Thế Châu nữ hoàng:
Chúc Bà vững đạt giang san
Chúc Bà ngôi chúa trị an ngàn ngày.
Thế Châu đang độ mang thai
Sợ e lắm rượu rủi say khó lòng
Một là huyết mạch chẳng thông
Hai là thai phụ nên phòng say sưa
Tình trong Nữ chúa đã ngừa
Miệng ngoài còn hỏi đẩy đưa nói cười:
Sử huynh mạnh rượu hơn người
Uống thay cho Trẫm thêm tươi vẻ hồng.
Sử Văn chàng đã rõ lòng
Phải ra uống thế rượu nồng cạn chum
Anh hùng nào sợ khí hùng
Rượu càng thấm dạ vẫy vùng càng hay
Chàng đà quá chén phải say
Càng tăng thêm vẻ đẹp trai của chàng,
Sử liền thấm rượu ngã ngang
Thế Ngân bước lại ôm chàng Sử Văn
Nữ vương xem thấy phán rằng:
Cung tần mau đỡ Sử Văn về lầu!
Nàng liền dẹp yến bãi chầu
Thế Ngân vội vã quỳ tâu như là:
Hạ thần nhiều việc thạnh đa
Xin Vua đình bộ tâu qua sự tình
Nay thần trở lại triều đình
Vấn an long thể thánh minh dồi dào
Chưa tâu tự sự âm hao
Thì vua vội vã bãi triều mà chi
Chẳng hay là sự thế ni
Xem vua tánh ý có khi khác vần.
Nữ vương rằng: hỡi Thế Ngân
Ta nàng là nghĩa quân thần cao xa
Sao nàng chẳng chút phục ta
Dám đình xa giá cũng là lớn gan
Cho nàng về phủ nghỉ an
Định ba ngày nữa mời nàng vào cung
Điều chi tâu hết cho cùng
Cho ta rõ lại thủy chung như là.
Thế Ngân bái tạ lui ra
Thế Châu vội vã vào mà long lâu,
Cung tần xúm lại quỳ tâu
Thấy Sử tham tướng say âu quá nhiều
Hồi giờ ông cứ nằm liều
Thế Châu nghe nói càng nhiều hãi kinh
Lại gần kêu: hỡi Sử huynh
Sử Văn chàng cứ làm thinh mà nằm,
Nữ vương truyền đổ nước sâm
Nàng liền đặt mạch xem trầm hay thăng
Mạch đi trầm bổng không ngừng
Nữ vương theo mãi Sử Văn ngày nào
Uống chi quá chén no say
Đê mê bất tỉnh hai ngày rồi đa
Sử Văn vừa mở mắt ra
Thấy nàng giọt lệ chan hòa như mưa
Chàng rằng: anh lỡ say sưa
Bỏ em ngồi mãi sớm trưa một mình
Thôi thôi tha tội bạc tình!
Nữ vương rằng: hỡi Sử huynh giữ lòng
Từ rày nhớ khá đề phòng
Rượu là cái thứ bất công thuở giờ
Uống vào thì cặp mắt mờ
Anh say nằm mãi em chờ mỏi hơi
Em khuyên anh khá nhớ lời
Rượu ngon tay gái rót mời nên kiêng!
Sử Văn chàng mới nói liền:
Không kiêng Nữ chúa có quyền rầy la
Mất công săn sóc cho ta
Quạt nồng đắp lạnh nhạt mà Nữ vương
Thôi thôi xin phép nương nương
Vào phòng tiêu nghỉ Nữ vương hỡi nàng.
Thế Ngân lòng xốn dạ xang
Nhớ hồi chăn gối cùng chàng Mật Đa
Ngỡ là hiệp mặt đến già
Nào hay phút chốc chàng đà chết đi
Làm cho ta lỡ một thì
Nào ngờ có chuyện thị phi đổi dời
Về đây ta mới thảnh thơi
Mắt nhìn Tham tướng (6) tuyệt vời lắm đa
Oai nghiêm sắc xảo đã già
Nét hiền phúc hậu Mật Đa khó bằng
Luận ra kẻ võ người văn
Tình xuân bỗng lại băn khoăn cõi lòng
Sử Văn mới xứng là chồng…
Tâu xin nữ chúa chuyện này
Từ hôn họ Sử duyên này cùng ta
Sử Văn nhiều nét văn hoa
Võ phu cho gã Mật Đa thị tài
Sống cao danh vọng mấy ngày
Chết về âm phủ uổng tài biết bao
Sử Văn rõ mặt anh hào
Lòng ta đã muốn sáng vào cung chương
Dốc lòng tâu với Nữ vương
Từ hôn họ Sử tào khương kết tình
Đặng duyên chồng đẹp chồng xinh
Hơn là ở góa một mình thở than
Má hồng nhọc sức điểm trang
Hoa tươi đau phải hoa tàn nhị rơi.
Nữ vương ngự giữa ngôi trào
Võ văn lớn nhỏ liền thời tung hô
Tham mưu thảo bức họa đồ
Cùng nhau bàn luận mưu mô nọ nầy
Nữ vương truyền hỏi như vầy:
Võ văn lớn nhỏ đông dày rồi đa
Thái sư (7) nhọc sức vì ta
Sánh duyên với chế Mật Đa mới về
Chẳng may chết mất phu thê
Khuyên nàng ráng giữ một thề cho xong
Trọn đời thủ tiết thờ chồng
Khuyên đừng bán bưởi mua bòng chanh chua.
Thế Ngân quỳ xuống tâu vua:
Mùa đông bấc thổi lá khua cổng ngoài
Buồn duyên tủi phận lắm thay
Nghĩ công của thiếp xưa nay đã nhiều
Mong nhờ lượng biển thương yêu
Xin cho tiện thiếp một điều sắp tâu
Thiếp thần đang độ tang chồng
Buồn duyên khép kín cửa phòng đêm xuân
Như vầy thiếp chẳng đành ưng
Tại bà làm lỡ tuổi xuân kẻ này
Nhờ bà ơn đức đủ đầy
Nghĩ công tiện thiếp bấy chầy rồi đa
Tuy về ở với Mật Đa
Hoa còn phong nhụy chẳng mà tàn phai
Nhắm trang Tham tướng anh tài
Hạ thần muốn sánh trúc mai với chàng
Nhờ ơn Nữ chúa gia ban
Từ hôn cho thiếp cùng chàng nên đôi.
Nữ vương nghe nói hỡi ôi:
Nàng là gái có chồng rồi lâu nay
Trào thần ai cũng biết hay
Sử huynh còn hỡi là trai nàng à
Nàng đây vốn thật đàn bà
Hoa tàn nhụy rữa hương đà tàn phai
Mật Đa chết chửa mấy ngày
Muốn đi cải giá thiệt rày khó coi
Trẫm đây sử sách thường soi
Đàn bà thế ấy ai coi ra gì!
Thế Ngân nàng mới nói thì:
Có chồng tôi có chưa thì có con
Băng trinh tôi hỡi vẫn còn
Có chồng mà chửa có con Bà à
Phải chi tôi lớn tôi già
Con năm bảy đứa thì Bà nên chê
Nầy tôi nhan sắc như huê
Sắc nầy có lắm người mê lụy mình.
Nữ vương nghe tấu làm thinh
Hồi lâu khẽ hỏi Sử huynh thể nào
Thái sư nàng muốn duyên trao
Sử huynh liệu có thương nào hay chăng
Nếu mà Tham tướng lòng bằng
Trẫm ban chiếu lịnh xích thằng sánh đôi.
Sử Văn mới nói thôi thôi
Tôi đây đã có vợ rồi từ lâu
Vợ tôi nay đã mang bầu
Ham đôi ba vợ hại sầu ngày sau
Thái sư nàng mới hồi trào
Xin nàng chọn lại kẻ nào kết duyên.
Ngân rằng: thiếp gái chính chuyên
Chọn nơi trong sạch đậu thuyền nhìn trăng
Thiếp đà quyết chọn Sử Văn
Bấy lâu thiếp luống nhọc nhằn ước mơ!
Thế Kim nghe nói ngẩn ngơ
Thế Ngọc thảo sẵn một tờ chỉ phê
Thế Thủy (8) xem thấy cười hề
Thế Châu thì lại tái tê trong lòng:
Sử Văn vốn thiệt là chồng
Ta nào có dám tỏ lòng phôi pha
Như vầy khó tính dữ a
Thế Ngân thì nó lại già tao văn
Nghĩ suy chưa kịp phán rằng
Thế Ngân theo mãi nỉ năn Nữ hoàng
Xin vua xuống lệnh gia ban
Từ hôn họ Sử dầy đàng thiếp đây.
Nữ vương nghe tấu ngầy ngầy
Mắt nhìn Tham tướng hỏi nầy Sử huynh:
Nếu ngài mà có hứng tình
Nói cho Trẫm rõ điều đình dùm luôn.
Sử Văn tỏ vẻ phiền buồn:
Mong ân Nữ chúa lập tuồng nước mây
Tới đây tôi đã ở đây
Thì quyền nữ chúa chuyện này tính toan
Chớ tôi nào biết lối đàng
Tính sao thì tính cho an hai bề
Làm trai năm thiếp bảy thê
Nếu đi mà nhớ lối về thì thôi
Lẽ nào quên lúc tái hồi
Định sao thì định phận tôi cũng là.
Nữ vương nghe tấu thở ra
Biết chàng thấy sắc lòng đà say sưa
Cho nên nói đẩy nói đưa
Ta nên việc trước phải ngừa việc sau
Nghĩ rồi nàng mới phán mau:
Trẫm đình ba tháng rồi sau sẽ tường!
Thế Ngân tâu với Nữ vương:
Từ hôn xuống chiếu việc thường khó chi
Vua là một kẻ thông tri
Chuyện chi cũng biết chuyện gì cũng hay.
Thế Ngọc nàng cũng tâu rày:
Tôi đà thảo sẵn một bài chiếu phê
Việc này xét cũng thường lề
Bệ hạ còn phải đợi về khi nao
Xét ra có khó chi nào
Bệ hạ trí tuệ làu làu xưa nay
Đã là một gái sắc tài
Chiếu phê đồng ấn nhọc rầy bao lâu,
Đây tôi dâng viết xin hầu
Bệ hạ phê chuẩn để lâu làm gì
Nay ngày huỳnh đạo sao di (9)
Thiên ân, Thiên đức tốt thì lắm đa
Xin cho trai gái giao hòa,
Nữ vương nước mắt chan hòa rớt rơi
Nghẹn nghen khó thốt nên lời
Thế Ngọc cứ mãi ép mời vua phê
Nén lòng trắc ẩn ủ ê
Ký tên chiếu lịnh chỉ phê tức thì
Mai nầy chánh ngọ đúng kỳ
Yến viên thiết đãi khắp thì trào ca
Thái sư Tham tướng hiệp hòa
Truyền cho lê thứ nhà nhà sum vui.
Phán mà gương mặt ngùi ngùi
Mắt rơi vội vã tay chùi làm khuây
Càng lau dòng lệ càng đầy
Đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà đau.
Thế Kim hết sức ngọt ngào
Giận thay Thế Ngọc bào hao quá chừng
Thấy Châu rơi giọt mắt gừng
Thế Kim nóng ruột lửa phừng cháy gan
Vua thì nước mắt chứa chan,
Võ văn nào có hãng toàn chi đâu
Vào đền phẩm phục ngồi chầu
Ngó Vua thì phải chiếc đầu lìa thân,
Còn Kim ngoài đạo quân thần
Trong thì trắc ẩn tình thân ruột rà (9)
Thấy Vua khóc giữa trào ca
Nóng lòng nàng mới nói ra như vầy:
Xin Ngọc Thừa tướng nghe đây
Làm quan mà quá dại ngây vậy cà
Việc nầy là việc riêng nhà
Ép vua phê chiếu tội đà quá to
Vua còn suy nghĩ đắn đo
Dễ lường rún biển khó dò đáy sông
Thái sư nên vợ nên chồng
Có chia cho đó động phòng hay sao
Khéo làm cái chuyện tầm phào
Mai sau biến sự thế nào ai gây
Phải là tại bởi nàng đây
Bộ ăn hối lộ mập thây rồi khùng
Giữa trào mà dám làm lung
Ép vua phê chiếu còn khùng nào hơn!
Thế Ngọc nào rõ nguồn cơn
Nào hay Nữ chúa đã hờn bên trong
Sử Văn gõ cửa tiêu phòng
Nữ vương đã nhận tấm chồng từ lâu
Thế Ngọc nào có hay đâu
Có Kim mai mối dẫn đầu mà thôi,
Thủy là một kẻ trao dồi
Nên thông mật nhiệm mải ngồi làm thinh
Để hai Thừa tướng bất bình
Cãi nhau nổi trận lôi đình nghe ran.
Nữ vương nàng cũng khuyên can
Xin hai Thừa tướng giảm đàng sân si
Kim đang nóng giận kể gì
Choàng tay đánh Ngọc ngu si dại khờ,
Nữ vương đang lúc bất ngờ
Kim choàng tay đánh tình cờ trúng ngang
Nữ vương té xuống ngai vàng
Thế Thủy nàng rất lẹ làng đỡ lên
Vua ngồi chính giữa ghế trên
Tả hữu Thừa tướng hai bên lộng tình
Nữ vương hay bịnh thình lình
Nửa buồn Tham tướng thuyền tình lung lay
Nửa lo số kiếp ngày mai
Ắt là sẽ có lợt phai sắt cầm (10)
Nên nàng buồn bực âm thầm
Huyết cầu bế tắc tối tăm mặt mày
Phát liền cấp huyết ghế thay
Nhả ra những máu, mặt mày mét xanh
Nữ vương mang bịnh chẳng lành
Giữa trào Tham tướng phải đành làm lơ,
Cung tần xúm lại chực chờ
Kẻ hơ bụng dạ người hơ mặt mày
Thế Ngân đặng mới làm oai:
Cả gan Thừa tướng dám rày đánh vua
Vào đây còn muốn hơn thua
Đánh vua thổ huyết chạm khua thế nầy
Ngự lâm này hỡi chúng bây
Trói Kim Thừa tướng giam ngay nhục hình!
Châu còn thiêm thiếp bịnh tình
Kim đà vào chốn ngục hình không hay.
Chừng Châu định tỉnh hồn mai
Hồi cung an nghỉ sáng ngày sẽ toan,
Sử Văn cũng chẳng ngó ngàng
Lòng người mau chóng phụ phàng đổi thay.
  

CHÚ THÍCH:
------------------------------------

1. Thế Châu: Hạng Thế Châu, con gái quan Đại thần Đồ Công của Vương quốc Xiêm, sang Phú Quốc xây dựng lãnh địa riêng và xưng Vương.

2. Sử Văn: tướng trẻ nhà Minh, phái sang trinh sát các nước và lạc vào Phú Quốc, được Hạng Thế Châu cứu giúp và hai người có cảm tình với nhau.

3. Hai ả: Thế Ngân và Thế Thủy.

4. Chế Mật Đa: tướng trẻ có nhiều công trạng của Vương quốc Xiêm, được phong Nguyên soái.

5, 6. Tham mưu, Tham tướng: chức quan của Sử Văn.

7. Thái sư: chức quan của Thế Ngân.

8. Thế Ngân, Thế Kim, Thế Ngọc, Thế Thuỷ, Thế Châu là năm cô gái từ Vương quốc Xiêm cùng sang Phú Quốc.

9. Thế Kim và Thế Châu là chị em con chú con bác. Thế Kim gọi Đồ Công bằng chú.

10. Sắt cầm: Đàn sắt (25 dây), đàn cầm (7 dây), hai loại đàn xưa thường đánh chung với nhau. Tương tự như piano và violon ngày nay.

Người ta thường nói: Loan phụng hòa minh, Sắt cầm hảo hợp. Nghĩa là: chim loan và chim phụng hòa tiếng hót, đàn sắt đàn cầm hợp âm, ý nói vợ chồng hòa hợp với nhau.
  
THẾ NGÂN HIỆP HÒA CÙNG SỬ VĂN
HẠNG THẾ CHÂU TRẢ CON CHO SỬ VĂN RỒI QUYÊN SINH


Trời ông sắp lớp lá mai
Để cho phận gái đắng cay cam lòng
Nàng đang rơi giọt mắt hồng
Sử Văn bỗng mở cửa phòng bước vô
Châu (1) nhìn họ Sử (2) khóc ồ
Không chào không hỏi không phô một lời,
Đàn ông ai cũng lả lơi
Ngồi gần Tham tướng (3) dùng lời nhủ khuyên:
Anh đây thương đó nhu hiền
Em sao hay có giận phiền ngu phu
Vợ chồng đạo nghĩa thiên thu
Tình em anh nguyện đền bù lại cho
Chưa chi mà sợ mà lo
Chưa gì em lại buồn so thế nầy
Xin nàng hãy khá lòng khuây
Bên em vẫn có anh đây em à!
Nữ vương nàng luống chan hòa
Em đây ngán nỗi đường xa khó lòng
Bây giờ còn vợ còn chồng
Mai nầy thiếp sợ dứt lòng én anh (4)
Thế Ngân nhiều tiếng dỗ dành
Thiếp e quân tử lòng đành mến mê
Cung vi quên lối đi về
Để cho tiện thiếp ủ ê não nồng.
Nói mà lụy nhỏ mắt hồng
Sử Văn theo mãi nhủ lòng nhỏ to:
Lo gì chuyện ấy mà lo
Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu
Vui đi em hỡi Thế Châu!
Nói rồi chàng mới chải đầu Nữ vương.
Tóc mây đà đuột dễ thương
Không cài tóc phụng để vương mây sà (5)
Để anh chải tóc cho Châu
Rồi lên phụng liễn lâm chầu cho tươi
Làm vua nói nói cười cười
Làm vua mà khóc rồi người chê bai
Để anh xin tiếp một tay
Phụ em trang điểm đẹp thay em à!
Lạ chi cái tánh đàn bà
Chồng theo năn nỉ thì là hết ghen
Gặp trăng thì phụ bóng đèn
Đời trai hay có lấn chen tư tình
Phúc đà ló ánh bình minh
Sử Văn chàng mới về dinh sắp bày
Nào là áo mão cân đai
Chỉnh tề rồi mới đến rày trào ca
Nữ vương nàng đã ngự ra
Võ văn tựu hội vui đà biết bao
Thế Ngân, Tham tướng cùng nhau
Nắm tay mừng rỡ đón chào các quan
Xong rồi ra bái Nữ hoàng
Thế Châu xem thấy hai đàng đẹp đôi
Máu ghen trong cổ bừng sôi
Ngồi mà nhỏ giọt mồ hôi dầm dề
Nén lòng căm tức liền phê:
Ngày nay hai họ hiệp về một nơi
Âu là non nước thảnh thơi
Gỡ trâm cài tóc vua thời phán ra:
Vật này vốn thật của ta
Tục kêu chim phụng cành thoa giắt đầu
Mến tay xài nó đã lâu
Nay ta xin biếu chút ân cho nàng
Trăm năm bền bỉ duyên vàng
Thế Ngân lãnh của Vua ban cả mừng.
Sử Văn mắt liếc ngó chừng
Bảo thầm trong bụng Châu đừng nổi điên
Nhìn Châu thấy vẻ tự nhiên
Sử Văn trong bụng vững yên vui lòng.
Thế Ngân đã được có chồng
Võ văn tựu hội chật trong chật ngoài
Hai đàng tay vẫn nắm tay
Càng đi đãi yến càng say vì tình.
Ban đầu Tham tướng còn nhìn
Sợ vì Nữ chúa thình lình nghẹn ngang
Hồi lâu quên ngó Nữ hoàng
Mãi lo đối ẩm với nàng Thế Ngân
Võ văn lớn nhỏ trào thần
Xin vua xuống lịnh ân cần phóng tha
Ngày vui của Sử Văn gia
Thiếu Kim Thừa tướng cũng là kém vui.
Châu nghe nhắc đến ngậm ngùi
Mắt hồng tuôn đổ tay chùi không khô
Hồi lâu nàng mới liền phô:
Trẫm nhờ Thừa tướng cơ đồ dựng nên
Hỡi nầy tả hữu hai bên
Dẫn Kim Thừa tướng vào đền cho ta!
Thế Kim được lịnh vua tha
Nên nàng vội vã đi ra đến trào
Nữ vương xem thấy nghẹn ngào
Nên nàng bỗng lại té nhào bên ngai
Cấn nhằm chỗ nghiệt long thai
Thai nhi khó chịu cứ hoài trở xoay
Yến viên thết đãi con chầy
Nữ vương thọ bịnh xúm vầy sóc săn,
Lớp nào lo việc đãi đằng
Lớp lo nữ chúa bịnh căn lạ kỳ
Kim phò vua lại cung vi
Châu đà á khẩu chẳng thì nói năng
Mười hôm không nói không rằng
Kim lo thang thuốc ép ăn ngày ngày.
Sử từ hiệp mặt bắt tay
Mãi vui duyên mới đêm ngày mê sa
Thế Ngân là gái tinh ma
Mãi dùng tửu sắc hát ca nơi phòng
Hết bày nem tốt rượu nồng
Lại bày xướng hát nhủ lòng Sử Văn,
Nàng theo nói nói rằng rằng
Không thương nói mãi cũng thương
Thế Ngân bày chuyện đủ đường thiếu chi
Nữ vương mang bịnh nan y
Kim lo về việc thai nhi ngạt ngào
Biết là thai sản hôm nào
Nữ vương cấm khẩu biết sao hỏi rằng
Phen nầy mời gã Sử Văn
Đến mà thương lượng hỏi rằng mới xong.
Tính rồi nàng mới đi dong
Đến dinh Tham tướng vào trong mà ngồi
Lính hầu thưa rõ khúc nôi:
Xin Tả Thừa tướng lai hồi bổn dinh
Ông tôi đang bận chén quỳnh
Men rượu còn lại men tình quá say
Ít khi ông bước ra ngoài
Từ hôm hiệp cẩn ở hoài phòng hoa
Bà tôi chẳng có cho ra
Canh ông mãi mãi có bà ngồi bên.
Thế Kim nàng mới nói lên:
Ta đây vì có lệnh trên Nữ hoàng
Đến đòi Tham tướng mau toan
Vào cung cho kíp luận bàn chyện riêng
Quân nghe vào trướng thưa liền
Có Tả Thừa tướng ngoài hiên ngồi chờ
Đợi ông trót hết mấy giờ
Bảo rằng Nữ chúa đang chờ cung vi.
Sử Văn nghe nói liền đi
Thế Ngân nàng lại níu trì phôi phai
Anh đi em ở lại nhà
Nhớ anh ắt thiếp chẳng mà sống đâu
Vợ chồng ta sẽ vào chầu
Kẻo chàng bỏ thiếp đi đâu thiếp buồn
Nói mà giọt lệ nhỏ tuôn
Sử Văn vì sợ nàng buồn khóc la
Nắm tay liền bước đi ra:
Chào Kim Thừa tướng đến nhà mà chi!
Thế Kim xem thấy lạ kỳ
Gật đầu mới hỏi tuồng gì sắc phong
Giống như mèo mả gà đồng
Không ai biết đạo vợ chồng hay sao
Khéo thay nũng nịu làm màu
Cho hay Nữ chúa lâm trào đến nay
Tính ra đã quá mười ngày
Nằm mê bất tỉnh chẳng rày nói năng
Từ ngày hai họ hiệp căn
Là ngày nữ chúa bệnh thăng thêm nhiều
Nào đâu có đặng lâm triều
Vì sao Tham tướng bỏ liều trào ca
Mải vui nơi chốn phòng hoa
Đành quên những chuyện quốc gia đang thời,
Thế Ngân nàng quá lả lơi
Đi đâu có cặp không rời vậy đa
Coi chừng cái lưỡi gươm tai
Tuồng chi giống thứ lang sa quá chừng
Luật vua phép nước trị trừng
Xử theo chánh pháp sao đừng kể công
Đành rằng trong đạo vợ chồng
Tình giao một thưở mặn nồng thiên thu
Nhưng còn miễu võ sùng tu
Làm sao đáng mặt trượng phu mới là
Sử Văn hãy khá theo ta
Vào cung yết chúa bàn qua chuyện đời,
Thế Ngân nàng hãy nghe lời
Xin nàng hãy khá tạm rời Sử Văn!
Thế Ngân nàng mới nói rằng
Nữ vương cho phép hiệp lằn lửa hương
Chồng tôi tôi mến tôi thương
Việc trào đã có Thủy nương cầm đầu
Thế Ngọc cũng đủ mưu mào
Thì là Thế Ngọc làm đầu sĩ binh
Nữ vương dù có bệnh tình
Ngự y cả lũ triều đình thuốc thang
Còn Kim thừa tướng là nàng
Trong ngoài đủ trí lo toan giùm nào
Chuyện nầy chẳng có là bao
Phu quân đi nghỉ hơi nào mà lo!
Các bà áo rộng mão to
Sao không ra sức khuông phò giang sang
Bình thời uốn lưỡi khoe quan
Đến chừng có chuyện mời chàng Sử Văn!
Chúng ta mới kết xích thằng
Xa nhau một phút ví bằng một năm
Vốn chưa phỉ chí ăn nằm
Mới vừa hiệp mặt sắt cầm yêu thương
Nàng về tâu với Nữ vương
Mở lòng trời biển xót thương chút tình.
Thế Kim nghe nói tức mình
Lui hài tách bước làm thinh ra về
Thế Ngân xem thấy cười hề
Rõ ràng Thừa tướng nhiều bề lá lai
Quân hầu hãy khóa cổng ngoài
Từ đây đừng có cho ai bước vào
Đến đây nói chuyện tầm phào
Bạn hầu như vậy tốt nào chi chăng
Phu quân chàng hỡi Sử Văn
Vào phòng ngơi nghỉ khỏe chăng chàng à
Nắm tay trở lại phòng hoa
Để vui duyên mới suốt đà tháng nay
Sóng tình càng động càng say
Sử Văn quên mất những ngày vào cung
Sương sa thêm tuyết mưa phùn
Quên đường lối cũ vào cung Nữ hoàng
Hồi nào trong trướng ngoài màn
Bên Vua thì chỉ có chàng mà thôi
Nay mà loan phụng hiệp đôi
Bỏ bà Nữ chúa than ôi một mình
Đàn ông lắm kẻ bạc tình
Hễ mê duyên mới ai nhìn duyên xưa
Thế gian hạng ấy có thừa
Muốn thì cương quyết cho vừa chí trai
Được rồi nào có đoái hoài
Nghĩ mà càng đắng càng cay càng nồng.
Thế Ngọc nào rõ đục trong
Nên nàng ngày tối thong dong nói cười
Ai lo ai sợ mặc người
Nàng xem hoa nở nụ cười làm duyên
Thế Kim giận quá mắng liền:
Này Hữu Thừa tướng nàng điên sao mà
Việc nào cũng để một ta
Vui gì hoạn kiểng xem hoa đua màu
Trước nàng làm líu giữa trào
Ép vua phê chiếu tội nào nhỏ đâu
Rõ ràng nàng thứ ngu đầu
Làm lung chín Bệ hại sầu cho ta,
Tức lòng ta mới nói ra
Nữ hoàng với Sử Văn gia giao tình
Vua đà nhận lấy huyết tinh
Của chàng Tham tướng tượng hình thai nhi
Thế Ngân là gái vô nghì
Nàng nào có biết chuyện gì ở mô
Muốn chồng cái nết nhảy rô
Lấy chồng chẳng đợi cho khô mùa chồng,
Mật Đa số mạng yểu vong
Thế Ngân lẽ phải thở chồng ba năm
Có đâu sanh thói tà dâm
Làm cho ta chịu xấu thầm về sau
Thiệt ta tức biết là bao
Nàng đâu dại ngọt dại ngào hơn ai!
Thế Ngọc nghe nói mới hay
Nên nàng ngồi mãi thở dài một hơi:
Thiệt tôi có tội với trời
Lỗi bề trung tín tiếng đời phải mang
Nhớ hồi tôi ở Xiêm bang
Học qua thai sản đã toàn lâu nay
Để tôi vào đó xem thai
Thử xem cho có gần ngày khai hoa
Đặng cho trị bệnh lịnh Bà
Nói rồi hai ả bước mà vào cung
Trời cao xin chứng lòng trung
Vào trong nhìn thẳng hậu cung thêm sầu
Nữ vương nhắm mắt lắc đầu
Cung nga mỹ nữ đứng hầu hai bên,
Thế Ngọc bước tới truyền lên:
Hai ta truyền bãi các tên nữ hầu
Vào thăm thai dựng Thế Châu
Đến ngày nở nhụy chẳng lâu đâu là
Đêm nay giờ Tý canh Ba
Nữ vương thai sản sẽ là sanh trai.
Kim rằng: như vậy cũng hay
Chúng ta lo sắm chờ ngày thì xong
Thế Thủy nàng đã rõ lòng
Nên nàng lập tức vào trong cung tiền
Đệ đầu khẩn vái hoàng thiên
Xin cho Nữ chúa bình yên mình vàng.
Vuốt ve cung cấn nê hoàn
Nhâm thần điểm mẹo bỗng nàng nói ra:
Từ ngày mừng cuộc đuốc hoa
Của chàng Tham tướng giao hòa Thế Ngân
Vì ta bất tỉnh định thần
Tính ra thắm thoát đã gần hai trăng
Ta nào thấy mặt Sử Văn
Ngồi buồn nhớ lại ruột phăn như dồi
Sông sâu bên lở bên bồi
Mấy ai hai vợ tình ngồi chánh thê
Trách chàng quên lối đi về
Ngân là gái chạ mến mê đêm ngày
Nhớ chàng ta luống ai hoài
Khó dằn lụy ngọc vắn dài nhỏ ra,
Ba nàng như có thương ta
Đi triệu Tham tướng về mà nơi đây
Cho ta thấy mặt đôi giây
Khỏi cần thang thuốc bệnh này cũng an.
Thế Thủy quỳ gối vội vàng:
Đêm nay giờ tý Nữ hoàng thai sinh
Thế Ngọc thì gái khôn lanh
Đến nhà Tham tướng dỗ dành chàng đi.
Ngọc nghe vội vã bôn phi
Đến dinh Tham tướng nàng thì vào trong
Thẳng chân đi tuốt vô phòng
Thế Ngân đang ở trong lòng Sử Văn.
Nổi điên Ngọc mới mắng rằng:
Tụi bây mèo mỡ gió trăng đêm ngày
Nữ vương sắp sửa sanh thai
Tôi phiền Tham tướng vào ngay cung vàng
Sử Văn bộ dáng dã man
Hoa tươi lại phụ hoa tàn lại mê
Cung vi mau khá đi về
Nữ vương sửa soạn khai huê tức thì!
Thế Ngân nghe nói lạ kỳ
Bộ Ngọc Thừa tướng điên thì hay sao
Nói nghe những tiếng tầm phào
Thần kinh bấn loạn nói nào trúng đâu.
Sử Văn chẳng chút lo âu
Nên chàng thủng thỉnh từ câu trình bày:
Vua dù nở nhụy hoa khai
Bổn bà là kẻ thiện tài rồi đa
Vậy thì nên rước bổn bà
Vào cung tôi cũng chẳng mà làm chi!
Thế Ngọc nổi giận sân si:
Làm trai như thế chết đi cho rồi
Tuồng chi mà quá tanh hôi
Mải mê những gái phấn dồi xông hương!
Nói rồi nàng bước ra đường
Về cung thuật lại Nữ vương hãng toàn.
Châu nghe lụy nhỏ hai hàng:
Dạ em nhớ lắm hỡi chàng Sử Văn
Chàng dù phụ nghĩa gối chăn
Cho em thấy mặt cũng bằng lòng thôi
Bấy lâu cùng thiếp đứng ngồi
Nay sao anh lại sụt trồi tơ duyên
Bỏ qua lòng thiếp không yên,
Hóa trang nội giám đến liền tư dinh
Ba nàng đổi dạng thay hình
Làm quân cận vệ long đình Nữ vương
Ta làm nội giám cung chương
Cùng nhau đi đến phủ đường Sử Văn.
Lính hầu xem thấy nói rằng
Ông đang đọc sách nghiêm lăng thơ phòng
Bà thì đang tựa bên ông
Bởi nên khép kín cửa phòng rồi đa,
Hôm nay thái giám đến nhà
Chẳng hay có lệnh triệu bà hay ông
Triệu ông ông bận thủ phòng
Triệu bà bà mắc ôm chồng bận tay.
Vừa nói vừa ngó ra ngoài
Ba tên cận vệ mặt mày quá nghiêm
Khác nào Thế Ngọc Thế Kim
Bỗng nghe tiếng lịnh bảo im coi là
Thái giám đã đến quan nha
Ngươi vào cứ bảo ông bà ra đây!
Lính nghe vào bẩm như vầy
Bẩm ông thái giám đến đây ở ngoài.
Thế Ngân nghe nói châu mày
Chẳng hay thái giám đến rày mà chi!
Sử rằng: chẳng hiểu chuyện gì
Để anh ra tiếp rước thì vào trong
Thế Ngân theo mãi bên chồng
Nắm tay Tham tướng rồi đồng đi ra
Miệng kêu thị nữ pha trà
Để mời thái giám mới qua phủ đường
Sử Văn nhìn biết chán chường
Rõ là vợ cũ Nữ vương trá hình
Ắt là nàng đến thăm mình
Nghĩ ta cũng lắm bạc tình phu thê,
Sử liền bước đến ngồi kề
Vuốt ve thái giám khuyên về cung vi
Nắm tay Sử kéo bảo đi
Tôi cùng thái giám về thì cung son
Nào lời hẹn biển thề non
Tôi đây vẫn nhớ vẫn còn mến thương
Chúng mình trở lại cung chương
Nữ vương nghe nói mắt hường nhỏ sa
Làm thinh chẳng dám nói ra
Nói ra sợ tiếng người đà nghe quen
Nỗi đành nén tắt cơn ghen
Đến đây để rõ trắng đen dạ chồng
Sử Văn chàng đã rõ lòng
Choàng vai mới bước thong dong đi liền,
Ba tên cận vệ thẩm quyền
Theo phò thái giám cũng liền ra đi.
Thế Ngân xem thấy lạ kỳ
Hỏi rằng phu tướng chàng đi sao chàng
Bỏ em lạnh bỏ phòng loan
Nói rồi nàng mới cản đường Sử Văn,
Sử Văn liền mới nói rằng:
Chiếu kinh em chớ làm nhăng em à
Xin em trở lại phòng hoa
Anh đi chốc lát chẳng mà bao lâu.
Thế Ngân nũng nịu mày châu
Xin chàng cho thiếp theo âu với nào
Thiếp người trí cả tài cao
Tôi trung nữ chúa hai trào phò xong
Có chồng thì thiếp theo chồng
Chàng đi bỏ thiếp trong phòng sao yên
Ngân cùng đưa đẩy tình duyên
Sử đà rối trí như điên khác nào
Ngân liền giả bộ lăn nhào
Nắm chân Tham tướng kêu gào không thôi:
Phu quân chàng hỡi chàng ơi
Đi đâu cũng phải cho tôi theo chàng!
Sử Văn ngồi xuống ôm nàng
Vuốt ve năn nỉ dịu dàng nhỏ to:
Khuyên em đừng có buồn lo
Anh đi một chút sẽ lo trở về.
Ba tên cận vệ vào kề
Đến phò thái giám ra về cho xong,
Tham tướng thì trở vào phòng
Thế Ngân nàng mới vui lòng hân hoan.
Nữ vương về đến cung vàng
Ngồi mà nước mắt hai hàng nhỏ sa
Phút đâu đã đến canh ba
Bầu trời ảm đạm mưa đà quá mau
Nữ vương bụng đã quặn đau
Bỗng đâu tiếng sấm trên cao nổ rền
Rung rinh khắp cả điện đền
Mưa to sấm sét nghe rền rình rang
Nữ vương sanh đặng tử hoàng (6)
Mặt mày nhìn rõ giống chàng Sử Văn
Mẹ tròn con vẹn an bằng
Mưa tan mây tạnh bóng trăng mờ mờ,
Thế Châu lòng ngẩn dạ ngơ
Gượng ngồi nàng thảo một tờ tuyệt thi (7)
Nhìn con cốt cách phương phi
Cha con bạc đạo vô nghì lắm đa!
Cha mày là Sử oan gia
Dặt mày oan nghiệt giúp cha của mầy
Mấy lần gắng gượng làm khuây
Tính ra trót sáu tháng chầy xa nhau
Cùng nhau cách mấy song đào
Tuy không xa lắm dễ nào ái ân
Tính xa rồi nghĩ lại gần
Thân nầy mắc phải nợ nần tình duyên
Sống đây thêm tủi thêm phiền
Chồng không màng tưởng đến duyên trời hành
Thôi đành dứt nghĩa ba sanh
Mình liều thân chết cho đành tình lang
Nghĩ thân bạc phận hồng nhan
Suốt đời chỉ có vương mang đau sầu
Mẹ cha nào có hay đâu
Ta làm ta chịu biết cầu với ai
Chữ tình liền với chữ tai
Thương chồng chồng chẳng đoái hoài đến ta
Nàng liền chuỗi ngọc cởi ra
Của chàng trả lại duyên ta hết rồi
Tả Hữu Thừa tướng hỡi ôi
Vào đây nghe dặn khúc nôi rõ ràng:
Ta vừa sanh đặng tử hoàng
Đây là giọt máu của chàng oan gia
Hai nàng hãy khá nghe ta
Hãy bồng hoàng tử trả mà Sử Văn
Tuyệt thi một bức làm bằng
Nhẫn vàng chuỗi ngọc trước căn của chàng
Nay ta trả hết cho an
Vật nầy phi nghĩa còn mang làm gì!
Ngọc Kim (8) hai ả tức thì
Vâng lời Nữ chúa ra đi kịp giờ
Tinh sương trời mới mờ mờ
Thế Châu truyền lịnh hạ cờ Nữ vương
Nàng liền lên ngựa biên cương
Bờ ghành (9) đến đó tìm đường quyên sinh
Khơi khơi dòng nước minh minh
Nữ vương vội vã trầm mình biển Đông
Thương con chiến mã ngựa hồng
Dậm chân la hét ngó mong dòng hà
Hồi lâu trở lại trào ca
Về đền dậm cẳng hét la vang dầy
Có tên thủ ngục gã nầy
Ngựa vua sao đến nơi đây hí gầm
Gã liền phát động nơi tâm
Hay là cớ sự âm thầm việc chi
Nhảy lên lưng ngựa tức thì
Ngựa liền chạy thẳng bôn phi bờ ghành
Mắt nhìn nước biển xanh xanh
Ngựa hồng đứng trước bờ ghành ngó mong
Thủ ngục cũng ngó ra dòng
Nhấp nhô sóng vỗ nào thông chuyện gì
Hồi lâu lên ngựa hối đi
Về trào văn võ mới thì đoán ra.
 
CHÚ THÍCH
-----------------------------------

1. Châu: Hạng Thế Châu, con gái Đồ Công của Vương Quốc Xiêm, trốn sang Phú Quốc xây thành, xưng vương.

2. Họ Sử: Sử Văn, tướng trẻ nhà Minh sang do thám, lạc đến Phú Quốc, gặp mặt và kết tình với Hạng Thế Châu.

3. Tham tướng: chức quan của Sử Văn.

4. Én anh: Chim én (yến), chim anh (oanh), hai loài chim mùa xuân, thường bay ríu rít từng đàn. “Nô nức yến anh” ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân.
Ý nói về sự đoàn tụ, sum vầy.

5. Cài tóc phụng: kẹp tóc ép sát như cánh chim phụng xếp gọn. Vương mây sà: tóc xõa tự nhiên, bồng bềnh như mây bay.

6. Tử hoàng: hoàng tử.

7. Tuyệt thi: thư tuyệt mệnh.

8. Ngọc Kim: Thế Ngọc, Thế Kim.

9. Ghành: nơi bãi biển lởm chởm đá.
ĐOẠN KẾT

Đoạn nầy nhắc chuyện hai bà (1)
Bồng tiểu hoàng tử sang qua dinh tiền
Đến dinh còn đứng ngoài hiên
Tử hoàng bỗng khóc liên miên không ngừng,
Sử (2) nghe tiếng khóc dửng dưng
Bước ra nhà trước ngó chừng nẻo xa:
Con ai mà khóc nhà ta
Ta nghe trẻ khóc lòng đà lại đau,
Thế Kim Thế Ngọc bước vào
Tay bồng hoàng tử mà giao cho chàng:
Đây là nhẫn cửu long hoàn
Với xâu chuỗi ngọc của nàng Thế Châu
Của nầy Vua giữ từ lâu
Nay giao Tham tướng cất âu để xài,
Đây là giọt máu của Ngài
Nữ vương nuôi đến ngày nay đó là
Mới vừa nở nhị khai hoa
Trông xem hoàng tử giống cho khác gì,
Đây là một bức phong bì
Vua giao Tham tuớng tuyệt thi một bài!
Sử Văn nghe nói thở dài
Khai thơ xem rõ mặt mày nhíu nhăn,
Thế Ngân nàng mới hỏi rằng:
Chuyện chi Tham tướng băn khoăn lo lường
Xin cho tiện thiếp lãm tường
Chia lo với đó vẹn đường thủy chung
Chuyện chi cho thiếp hay cùng
Nói mà nàng lại muốn chun vào lòng.
Sử Văn rơi giọt mắt hồng
Xem thơ Nữ chúa mủi lòng bi thương
Tỉnh bừng cảm nhớ Nữ vương
Vội vàng xô ả Ngân nương ra liền:
Thôi đừng nũng nịu làm duyên
Mầy là thứ gái bán thuyền nhổ đinh
Lâu nay lơi lả chữ tình
Ta quên nghĩa cũ bạn mình xưa xa!
Tử hoàng mãi khóc khổ a
Đưa tay bồng trẻ Sử đà nát gan:
Con ơi đừng khóc nghe vang
Cha bồng con đến cung vàng mẹ con
Từ nay tình nghĩa vẹn toàn
Nói rồi Sử mới bồng con đi liền.
Cha con về đến cung tiền
Cung tần mỹ nữ thưa liền khúc nôi:
Khi hai Thừa tướng đi rồi
Nữ vương lên ngựa đi thôi một mình
Chẳng mang theo một tên binh
Đi đâu mà lại một mình vậy a
Ban mai trời mới sáng ra
Nữ vương đi biệt chẳng mà về đây
Sáng mai bà cưỡi ngựa nầy
Bây giờ ngựa lại về đây vắng bà.
Sử Văn nghe nói khóc òa
Bồng con lên ngựa xông pha đi tầm
Ngựa linh đi chẳng lạc lầm
Bờ ghành đến đó xăm xăm tức thì
Đến nơi đứng lại không đi
Triều thần văn võ cũng thì tới nơi
Cùng nhau đều ngó ra khơi
Chắc là Nữ chúa đi chơi thủy triều
Ngựa sao không gác yên kiều
Đến đây nữ chúa nhảy liều hay sao!
Còn đang bàn bạc cùng nhau
Xác Châu bỗng lại tấp vào không hay
Sử Văn xem thấy mừng thay
Một tay bồng trẻ một tay vớt nàng,
Thế Kim tiếp ẵm Tử hoàng
Sử Văn thì vớt thây nàng Thế Châu
Đem thây về để ngọc lầu
Sử thay xiêm áo cho Châu tức thì:
Dù anh dại gái tình si
Em nên nghĩ trẻ hài nhi với nào
Hồn em mau tỉnh lại mau
Trăm năm anh chẳng đổi màu nữa đâu
Châu ơi tỉnh lại đi Châu
Bỏ anh em tính đi đâu một mình
Giận anh em lại quyên sinh
Còn con nhỏ dại thiếu tình mẫu nghi
Em ơi lại tỉnh lại đi
Sử theo xác chết năn nì ỉ ôi
Em nên nghĩ rõ khúc nôi
Bỏ qua mấy lúc mấy hồi hờn ghen!
Sử liền khóa cửa cài then
Anh về em chớ giận ghen em à
Cười lên cho đẹp như hoa
Từ đây đến chết chẳng xa Nữ hoàng
Anh nguyền sống lại bên nàng
Dù ai như ngọc như vàng cũng không.
Xác Châu Sử mãi ẵm bồng
Lạ gì những thói đàn ông đâu là
Vợ ghen theo mãi la cà
Vuốt ve mơn trớn liền qua cơn này
Sử đà bỏ vợ góa chầy
Chết rồi năn nỉ xác thây ích gì!
Thế Kim thấy chuyện lạ kỳ
Bước vào nàng định chém thì Sử Văn
Tại mày mê mến gió trăng
Em tao thương mến trọc trằn thở than
Cứ theo tửu sắc tình lang
Bỏ em tao chịu chứa chan khóc thầm,
Sử nhìn Kim giận hầm hầm
Ôm Châu Sử lại quyết nằm liều thân:
Tôi nhờ hiền tỷ ra ân
Chém cho tôi chết đặng gần Thế Châu
Bấy lâu nàng chịu thảm sầu
Vì tôi nàng phải thấm bao lệ hòa
Một mình đi đọa cõi xa
Chém mà tôi chết theo mà vợ tôi
Mong ân chém phức cho rồi,
Thế Kim nghe nói bồi hồi buông gươm
Thế Ngọc nàng cũng hờm hờm
Thế Thủy cũng lại rút gươm chém càn,
Thế Ngân hay chuyện dở dang
Cố tình ngạo mạn Nữ hoàng nữa đa:
Làm vua tệ quá chả cha
Biên thùy tình ái bị ta đoạt thành
Thất tình phải chết tuổi xanh
Chạy ra bờ ghành với cặp ngựa ô
Từ rày trong xã tắc đồ
Nơi lòng biển bạc là hồ hồng nhan
Than ôi không kịp mà tan
Chồng nàng ta trả cho nàng rồi đa
Nàng về thưa với Diêm La
Biên thùy tình ái nay ta đã hoàn.
Sử Văn nghe nói căm gan:
Xét cũng tại nàng ta bỏ Nữ vương
Rõ ràng là gái bất lương
Rõ đồ bội Chúa rõ phường bội phu
Ngày nay cho đến thiên thu
Thế Ngân là một mối thù của ta
Nàng là gái chạ lang sa
Làm ta nát cửa tan nhà rồi đây!
Nữ vương em hỡi lòng khuây
Anh thề một thác tình nầy của em
Dù ai ngon tựa chả nem
Men tình anh để cho em em à!
Sử liền lấy mực châu sa
Đuổi bọn cung nữ đồng ra khỏi phòng
Ngàn năm anh quyết làm chồng
Dù sao anh cũng giữ lòng sắt đinh
Châu sa lưu niệm chữ tình
Xác Châu cởi mở Sử nhìn trân thân
Trên đề chữ nghĩa chữ ân
Dưới đề tứ phú ba vần bốn câu
Sử biên dòng chữ thân Châu
Rất lâu ứng nghiệm càng lâu càng rành
Kiếp sau không phải duyên anh
Cấm em vui việc én anh với người
Đến chừng thế kỷ hai mươi
Xin thầy hóa độ kiếp người chúng ta!
Than xong Sử mở cửa ra
Hoàng lăng Nữ chúa Sử đà lập xong.
Thế Thủy rơi giọt mắt hồng
Nghĩ thương Nữ chúa cõi lòng bi ai
Thế Ngân là gái lá lai
Triều thần văn võ xúm rầy phôi pha
Bắt nàng trói giữa triều ca
Làm đèn hương án tế bà Nữ vương,
Thế Ngọc, Thế Thủy đoạn trường
Ra bờ ghành biển tìm đường quyên sinh
Theo phò Nữ chúa trọn tình
Thế Kim thấy cảnh nghĩ mình đắng cay.
Trào thần dân chúng đều hay
Phát lên loạn lạc chẳng ai trị trừng
Từ dân cho đến quan quân
Nóng lòng Nữ chúa tưng bừng kéo ra
Quyết lòng giết Sử oan gia
Rửa hờn rửa giận cho bà Nữ vương.
Thế Kim nàng mới dẫn đường
Gươm vàng chuỗi ngọc Nữ vương báu màu
Cửu long làm mão đội đầu
Để vào hộc đá chôn sâu gần mồ.
Sử Văn sửa soạn lộ đồ
Ra nhìn cho kỹ ngôi mồ Thế Châu
Xuống thuyền bồng trẻ thâm bâu
Thế Kim nàng cũng theo âu với chàng
Trương buồm trực chỉ băng ngàn
Thương cháu thì phải bảo toàn cả hai
Đến nơi Hà Tĩnh cũng mai
Dinh quan tổng trấn người ngoài Quảng Đông
Ghé vào Kim mới dặn lòng
Bảo rằng họ Sử nên phòng nên ngăn
Để tôi tự ý nói năng
Nói rồi nàng mới đi phăng lên bờ
Đến dinh quan trấn ở nhờ
Mạc Cửu (3) xem thấy gái tơ lửa phồng
Ta đà ngoại tuổi tứ tuần
Vợ ta mất sớm chưa nhưng thế bầu
Bắt Kim quan trấn làm hầu
Sử Văn chàng cũng xin đầu trấn quan
Kim rằng cháu dại khóc than
Không cha không mẹ theo đàng với tôi.
Mạc Cửu mới nói ối thôi
Cháu trai đã có được tôi lo gì
Thằng nầy gương mặt phương phi
Cải Mạc Thiên Tứ (4) tôi thì nuôi cho
Việc nào cũng có tôi lo
Cải theo họ Mạc quyền to trấn nầy,
Tham mưu thì ở lại đây
Còn nàng thì ở duyên nầy cùng ta
Kim cần bảo bọc cháu nhà
Bàn cùng Tham tướng xin ra lấy chồng
Sử Văn nghe nói xuôi lòng
Chị tính lấy chồng nuôi giúp con tôi
Ơn kia sau sẽ đền bồi
Nơi nầy tính vậy tạm rồi bằng an.
Một hôm Sử ngủ mơ màng
Bửu Sơn (5) đến mách cho chàng hay tin
Con đà hết nghiệp chúng sinh
Sẽ về hầu lịnh thiền đình ngày mai
Tỉnh ra Sử lại chau mày
Nói cho quan trấn rõ hay như hà
Nói rồi Sử lại thở ra
Bửu Sơn đến rước hồn đà quy thiên,
Mạc Cửu xem thấy ngạc nhiên
Quách quan tống táng cho yên xác chàng
Sơn son mà lại thiếp vàng
Đề tặng Tham tướng tại làng trấn biên
Sử thì mộ ở Hà Tiên (6)
Châu thì mộ ở giữa miền đảo hoang (7).

Mãn đông thời tiết xuân sang
Sau Mạc Thiên Tứ làm quan đại thần
Dưới triều Chúa Nguyễn chăn dân
Tổng binh cai quản giữ phần Hà Tiên.
Tích xưa người cổ còn truyền
Thế trần nào rõ cơ huyền éo le
Ai ai lẳng lặng mà nghe
Hãy soi gương trước đặng dè thân sau
Làm người hãy khá dồi trau
Tích nầy nhắc lại ngày sau để đời
Đến đây chào khắp nơi nơi
Ai người hữu chí xem chơi giải buồn.

(Viết xong ngày 12 tháng 02 năm Nhâm Tý
Tháng 3 năm 1972 (dương lịch)
  
CHÚ THÍCH
--------------------------------

1. Hai bà: Thế Ngọc, Thế Kim, vâng lệnh Hạng Thế Châu sang gặp Sử Văn để trả con, và trả lại các kỷ vật chuỗi ngọc, nhẫn vàng…

2. Sử: Sử Văn.

3. Mạc Cửu: hay Mạc Kính Cửu (1655 - 1735): gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), Mạc Cửu không khuất phục chính sách nhà Đại Thanh, chạy qua phương Nam.

4. Mạc Thiên Tứ: còn gọi là Mạc Thiên Tích (1718 - 1780), là danh thần, danh sĩ đời chúa Nguyễn.

5. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương.

6. Mộ Sử Văn tại thị trần Hà Tiên.

7. Mộ Hạng Thế Châu tại thị trấn Dương Đông, Phú Quốc.
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét