Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 575km2, chiều dài 50km, nơi rộng nhất phía bắc đảo 25km, nơi cao nhất 603 m tại núi Chúa.
Đảo Phú Quốc là một huyện hành chánh thuộc tỉnh Kiên Giang, thị trấn Dương Đông, cùng với 22 đảo nhỏ khác nằm trong vịnh Thái Lan.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 2401x3449 and weights 1422KB. |
Bãi biển Phú Quốc
Suối Tranh
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1500x1125 and weights 577KB. |
Dinh Cậu
Người xưa kể rằng một mũi đá tự nhiên nổi lên gần bờ biển, được nhân dân lập miếu thờ. Đường lên Dinh Cậu là 29 bậc thang bằng đá, trên đường lên Dinh có Miếu Thổ Thần nhỏ và một hàng rào bê tông rất vững chắc bao quanh Dinh. Trong chánh điện có khánh thờ Chúa Ngọc Nương Nương và khánh thờ Cậu. Dinh Cậu được tin rất linh thiêng, ngư dân thường dâng hương, cầu nguyện trước khi ra khơi đánh cá. Hàng năm có hàng trăm ngàn du khách phương xa đến viếng Dinh Cậu.
Chợ Dương Đông
Chợ có tất cả hải sản tươi sống mà trên đất liền khó có dịp thưởng thức.
Nước mắm Phú Quốc
Là một loại nước mắm nổi tiếng ở Việt Nam và được biết ở nhiều nước trên khắp thế giới. Nước mắm Phú Quốc được sản xuất từ nguyên liệu cá cơm Phú Quốc, có truyền thống trên 200 năm.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1279x935 and weights 402KB. |
Cây tiêu Phú Quốc
Tiêu Phú Quốc có vị thơm, cay nồng, hương vị đặc trưng phân biệt với những vùng miền khác. Tiêu Phú Quốc thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, phân thành ba loại: tiêu sọ, tiêu đen và đặc biệt là tiêu đỏ. Tiêu Phú Quốc được canh tác với khoảng 500ha, năng suất trung bình mỗi hecta đạt 2,5 tấn mang lại nguốn lợi xuất khẩu quan trọng cho Phú Quốc.
LỜI GIỚI THIỆU
Như chúng ta được biết, cô Nguyễn Thị Lạc, một nông dân trình độ biết đọc biết viết, đã nhận được thông tin vũ trụ để viết nên những Vần Thơ Ngoại Cảm, đã được giới thiệu trên trang TGVH.
Nhờ khả năng đặc biệt, cô Nguyễn Thị Lạc giao tiếp được với những nhân vật lịch sử, những người trong cuộc, để kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện dã sử dưới dạng thơ, có vần có điệu. Khi đối chiếu các sự kiện, nhân vật với lịch sử chính thống hầu như trùng khớp đến từng chi tiết.
Suốt 50 năm qua, cô đã thu nhận và ghi chép hàng ngàn tập thơ, gồm thơ tiên, truyện thơ dã sử. Mặc dù không phải tác phẩm do chính cô sáng tác, nhưng với công sức và thời gian dành cho sự nghiệp này, cô xứng đáng được công nhận như một tác giả thật sự. Trong một lần xuống cơ cho một nhà ngoại cảm phía Bắc, các bậc vô hình nhắc đến những Vần Thơ Ngoại Cảm của cô Nguyễn Thị Lạc, với tên gọi Thơ Oanh Vàng.
Nhân chuyến đi công tác Miền Tây, NNC Nguyễn Tuấn Thanh được cô Nguyễn Thị Lạc trao cho tập thơ, với tên gọi là Tình Sử Nàng Hạng Thế Châu. Khi chuẩn bị nội dung, chúng tôi thật bất ngờ, câu chuyện tình nàng Hạng Thế Châu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển hòn đảo Phú Quốc của chúng ta. Xét thấy ý nghĩa cao cả Nợ Nước trên Tình Nhà, chúng tôi mạn phép đặt cho loạt bài này là Huyền Sử Phú Quốc.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu tập thơ với bạn đọc TGVH.
Bản quyền thuộc Tác giả Oanh Vàng.
Thông qua người đại diện NNC Nguyễn Tuấn Thanh.
Mọi trích dẫn xin ghi rõ nguồn TGVH.
Như chúng ta được biết, cô Nguyễn Thị Lạc, một nông dân trình độ biết đọc biết viết, đã nhận được thông tin vũ trụ để viết nên những Vần Thơ Ngoại Cảm, đã được giới thiệu trên trang TGVH.
Nhờ khả năng đặc biệt, cô Nguyễn Thị Lạc giao tiếp được với những nhân vật lịch sử, những người trong cuộc, để kể lại đầy đủ chi tiết câu chuyện dã sử dưới dạng thơ, có vần có điệu. Khi đối chiếu các sự kiện, nhân vật với lịch sử chính thống hầu như trùng khớp đến từng chi tiết.
Suốt 50 năm qua, cô đã thu nhận và ghi chép hàng ngàn tập thơ, gồm thơ tiên, truyện thơ dã sử. Mặc dù không phải tác phẩm do chính cô sáng tác, nhưng với công sức và thời gian dành cho sự nghiệp này, cô xứng đáng được công nhận như một tác giả thật sự. Trong một lần xuống cơ cho một nhà ngoại cảm phía Bắc, các bậc vô hình nhắc đến những Vần Thơ Ngoại Cảm của cô Nguyễn Thị Lạc, với tên gọi Thơ Oanh Vàng.
Nhân chuyến đi công tác Miền Tây, NNC Nguyễn Tuấn Thanh được cô Nguyễn Thị Lạc trao cho tập thơ, với tên gọi là Tình Sử Nàng Hạng Thế Châu. Khi chuẩn bị nội dung, chúng tôi thật bất ngờ, câu chuyện tình nàng Hạng Thế Châu đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển hòn đảo Phú Quốc của chúng ta. Xét thấy ý nghĩa cao cả Nợ Nước trên Tình Nhà, chúng tôi mạn phép đặt cho loạt bài này là Huyền Sử Phú Quốc.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu tập thơ với bạn đọc TGVH.
Bản quyền thuộc Tác giả Oanh Vàng.
Thông qua người đại diện NNC Nguyễn Tuấn Thanh.
Mọi trích dẫn xin ghi rõ nguồn TGVH.
HUYỀN SỬ PHÚ QUỐC
hay TÌNH SỬ HẠNG THẾ CHÂU ------------------------------------------------------------- LỜI GIAO ƯỚC VỚI CHẾ MẬT ĐA Có người ở nước Xiêm la (1) Làm quan thừa tướng tên là Đồ công Võ văn thao lược lão thông Sánh đôi Đoàn thị cũng dòng trâm anh Không trai nối hậu lưu danh Sớm sanh một gái hiền lành đoan trang. Xiêm vương ngồi ngự ngai vàng Truyền đòi thừa tướng nghị bàn việc công, Chữ truyền phải đến sân rồng Đồ ông nghe nói trong lòng ngại nghi Hậu đường bàn với thế nhi: Vua đòi chẳng biết việc gì rủi may! Đoàn thị bà mới thưa rằng: Thiếp nay đã biết chuyện nay bất thường Con mình là gái má hường Thân danh đã gọi Đồ nương lấy chồng, Sớm mai nó nói như vầy: Trăng còn khi khuyết khi đầy khi vơi Thân con ắt có đổi đời Vơi vơi trời nước giữa đời nhân gian Người sanh trong cõi trần hoàn Biết làm sao khỏi tai nàn về sau Nên lòng con trẻ xót đau Ắt là việc nước xáo xào rồi đây, Mẹ nên thưa lại với cha Ải ngoài nếu mất nước nhà chẳng yên, Có quan Nguyên soái đương quyền Đem quân trấn thủ cho yên cõi bờ Sợ người chém tướng đoạt cờ Nếu không họ Chế biết nhờ cậy ai Con đà đoán trước chẳng sai Xin cha tâu quyết bệ giai chữ truyền Đại Nam (2) sắp lấn giang biên Địa đầu Tam trấn giao quyền Soái gia, Nếu Vua có hỏi ý cha Cha tâu để Chế Mật Đa (3) thủ thành. Con mình nó nói đã rành Chắc là bàn việc giữ thành chớ chi. Đồ công liền mới nói thì: Con mình sao nói lạ kì dữ a Vua đòi lão đến trào ca Chuyện cần là chuyện quốc gia chắc rồi Vua đòi chẳng khó lôi thôi Tới trào sẽ liệu để tôi tấu trình. Nói rồi vào chốn triều đình Vua liền phán hỏi việc binh ải ngoài: Quan triều Nam đế quyền oai Đem binh đoạt ải biết ai thủ thành Nước ta có đủ báo lành Biết ai anh dũng giữ thành giang biên? Đồ công đặt gối tâu liền Muôn tâu bệ hạ chỉ truyền Mật Đa Chàng là một kẻ tài ba Sai chàng giữ ải ắt là vẹn an. Xiêm vương phán trước ngai vàng: Mật Đa vốn thiệt một chàng trai tơ Chỉn e (4) chẳng rõ thời cơ Tuy làm Nguyên soái nhưng khờ lắm thay! Thủ thành chọn kẻ tài hay Võ văn đều phải gồm tài mới xong Mật Đa trẫm chẳng bằng lòng Tuổi còn quá trẻ chắc không được rồi, Chọn ai biết cách thu hồi Thì là bệ ngọc Trẫm ngồi mới yên Những người trấn giữ giang biên Tùy cơ lợi hại như nhiên mới là, Chớ còn Nguyên soái Mật Đa Võ thì đủ võ, văn đà thiếu văn Làm sao đất nước an bằng Phải thông đảm lược võ văn gồm tài. Đồ công quì xuống thưa rằng: Hạ thần đây đã biết tài Mật Đa Cúi xin Bệ hạ truyền ra Bắt chàng trấn thủ ắt là bình yên. Vua nghe sắc chỉ ban liền Mật Đa phải trấn giang biên giặc loàn. Mật Đa được lịnh Bệ vàng Tới trào lãnh lịnh Thánh hoàng ra binh Đồ công xem thấy tướng hình Đường đường một vị cầm binh anh hào Nên ông mến chuộng tài cao Muốn cho con trẻ đặng trao duyên hài Rõ ràng lẫm liệt râu mày Con ta mà gặp hẹn ngày sánh đôi. Hỡi nầy Nguyên soái ngài ôi! Nước nhà nay đã gặp hồi lâm nguy Ngài đem quân giữ biên thùy Chúc ngài đắc thắng đến kỳ khải ca Đỡ nâng xã tắc sơn hà Ra tài gìn giữ nước nhà an khang, Tôi xin hứa trước trào đàng Đủ đều văn võ hai hàng oai nghi Có Vua đang ngự đơn trì Nếu ngài dẹp giặc biên thùy bình khương Tôi đây sẽ gả Đồ nương Cho ngài kết đạo tào khương vợ chồng. Vua nghe liền mới phán hồng: Nói ra lòng giữ lấy lòng mới hay Võ văn hãy khá nhớ rày Khải ca trẫm sẽ chọn ngày hoa đăng. Mật Đa liền mới tâu rằng: Muôn tâu bệ hạ làm bằng cho tôi Hứa rồi chắc chắn là rồi Xin đừng nói trụt nói trồi về sau Bây giờ tôi phải mau mau Trước lo việc mước rồi sau việc nhà. Nói rồi chàng kéo binh ra Biên thùy trấn thủ giặc đà phủ vây. | |
CHÚ THÍCH
---------------------------- (1) Xiêm La: là tên Hán Việt của Vương quốc Ayutthaya, từ giữa thế kỷ XIV tại vùng đất Thái Lan ngày nay. (2) Đại Nam: ý nói đến nước Đại Việt, tên gọi từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Sang đầu thế kỷ XIX Nhà Nguyễn đổi tên thành nước Việt Nam. Dựa vào chi tiết (1) và (2) có thể suy đoán bối cảnh câu chuyện Huyền sử Phú Quốc xảy ra vào thời kỳ Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi xuống phía Nam, khoảng giữa thế kỷ XVI. (3) Chế Mật Đa: tên phiên âm Hán Việt của vị tướng trẻ Vương quốc Xiêm La. (4) Chỉn e: từ cổ, từ đệm, có nghĩa như: rằng. | ||||
|
CHÚ THÍCH
---------------------------- (1) Phu xướng phụ tùy: chồng bảo phải nghe lời, cha mẹ đặt đâu ngồi đó (2) Thâm bâu: từ cổ, tình cảm tha thiết. (3) Biển hóa nương dâu: nói tắt là bể dâu, những sự biến đổi tình thế. (4) Đắc nhơn nhứt ngữ thắng kim: (trại âm) đắc nhân nhất ngữ thắng kim, người quân tử một lời như đinh đóng cột. | |
ĐỒ NƯƠNG TỪ BỎ GIAO ƯỚC
SUY TÍNH CHUYỆN THOÁT LY Mật Đa đắc thắng ñeán ngày khải ca Về triều tâu với Vua cha Hôm nay yên giặc Mật Đa hồi triều. Vua liền khen gã tài cao Truyền cho văn võ cùng nhau đến mừng Triều thần vui tựa ngày xuân Truyền hàng phụ nữ đến mừng Soái gia, Từ quan văn võ trong tòa Đến hàng tam cấp các nhà văn ban Tiểu thơ các cấp các hàng Đến mừng chuùa tướng khải hoàn ban mai. Đồ nương nghe lịnh châu maøy Mai nầy thì đã đến ngày rồi đa Đến mừng Nguyên soái Mật Đa Phải chi riêng một mình ta nói gì Nầy là cả bọn nữ nhi Ai ai cũng phải ra đi đến Triều Nói rồi nàng mới đi mau Đi đến giữa Triều tâu với Xiêm vương: Tôi đây vốn thiệt Đồ nương Đến mừng Nguyên soái biên cương mới về. Xiêm vương nghe nói cười hề: Trẫm đà ban chiếu chỉ phê đã rồi Nàng cùng Nguyên soái sánh đôi Trai tài gái sắc đứng ngồi rất xinh. Mật Đa xem thấy đẹp tình Cám ơn Xiêm chúa Triều đình sắc ban Nhìn nàng tuyệt đẹp dung nhan Tâu vua cưới gấp hiệp đàng nhơn duyên. Đồ nương nghe tấu về liền Về nhà hết sức than phiền vào ra, Đoàn thị xem thấy hỏi qua: Con đi mừng Chế Mật Đa trở về Cớ sao mặt ủ mày ê Nói cho mẹ biết có hề chi chăng! Đồ nương liền mới thưa rằng: Cha con định nghĩa xích thằng (1) cho con Nên con lòng dạ héo hon Đời con như thế biết còn nói sao Làm người nặng nợ trần lao Ngẫm con phận gái biết sao bây giờ Con tuy làm vị tiểu thơ Lòng con phiền não ngẩn ngơ mẹ à Cha con tâu giữa Trào ca Gởi con cho Chế Mật Đa đã rồi Tuy làm Nguyên soái cao ngôi Nhưng mà giết tướng ôi thôi là nhiều, Nên con mới có buồn hiu Nghiệp người càng tạo càng nhiều nhơn duyên! Bà rằng con trẻ đừng phiền Mật Đa có đủ binh quyền con ơi Thốt ra một tiếng tức thì Hằng muôn kẻ dưới nghe lời đó con Xin con đừng có héo hon Làm vợ Nguyên soái thì còn ai qua. Đồ nương nghe nói thở ra: Thế thì cả mẹ cả cha bằng lòng Có chồng rạng mặt tổ tông Nếu mà đặng vậy má hồng nào chê Thôi thì con cũng xuoâi bề Để cha với mẹ định bề nghi gia Làm con nào dám caõi cha Sợ sau gã Chế Mật Đa phụ phàng Nhưng mà có lịnh phụ hoàng Chắc là con cũng thân an sau nầy Con xin trở lại lầu tây Học thêm văn võ sau nầy phòng thân. Nói rồi nàng mới lui chân Về phòng bàn tính xa gần thâm bâu. Đồ nương có bốn con hầu Võ văn gom đủ có đâu thua nàng Cũng vì bạc mạng hồng nhan Nên đành hầu hạ phò nàng Đồ nương Thấy nàng tuôn đổ mắt hường Bốn nàng liền mới bày tường sạ duyên (2): Tiểu thơ sao lại tủi phiền Chúng tôi xem thấy chẳng yên trong lòng Hay là có việc bất đồng Tiểu thơ mới có phiền lòng hay chăng? Đồ nương liền mới nói rằng: Vốn ta có việc trọc trằn tâm can Cha đà định nghĩa tào khang (3) Duyên ta phải kết cùng chàng Mật Đa Quyền binh thống lãnh san hà Trừ gian dẹp loạn cũng là nên danh, Thế mà ta chẳng lòng đành Biết rằng họ Chế tài lành không ai Trăm năm khó gặp trai tài Cũng là đẹp mặt đẹp mày nữ lưu, Nhưng ta mãi mãi lo ưu Muốn sao danh rạng nữ lưu chói lòa Nếu về với Chế Mật Đa Sau lên nhứt phẩm gọi là phu nhân Cúi lòn võ tướng thêm hờn Muốn sao danh rạng cho hơn mới mầu, Làm vợ nào khác làm hầu Gặp chồng dạ dạ cúi đầu hết hơi Suốt đời làm mãi vật chơi Của trang nam tử ở nơi khuê phòng, Lỡ sanh ra mặt má hồng Khó chen vai với đàn ông quá chừng Muốn sao vượt biển lên rừng Cầm cương lên ngựa ra quân dẹp loàn Muốn sao đem chí đảm đang Một mình một cõi chẳng màng phục ai, Nếu mà tôi gặp duyên hài Làm sao cho khỏi bàn tay bế bồng Dày vò nơi chốn khuê phòng Không ra khỏi ngõ thử lòng buồn chăng Muốn sao lưng túi gió trăng (4) Năm thành đạp đổ cho bằng mới âu, Xưa người ở đất Giao châu (5) Vốn dân Giao chỉ (6) báu mầu biết bao Trưng vương là gái má đào Đánh quân nhà Hán có nào thua ai Làm gái đừng để thua trai Muốn ra sức gái đủ tài võ văn! Bốn cô tỷ tất thưa rằng: Tiểu thơ mà chẳng có bằng lòng ưng Thì là vượt biển băng rừng Có hòn hải đảo lối chừng xa xa Muốn không ưng Chế Mật Đa Tiểu thơ vượt biển sang qua hòn nầy, Chung quanh thì đá với cây Dưới thì nước biển trên mây của Trời Giữa dòng biển bạc khơi khơi Có hòn hải đảo (7) tuyệt vời như tranh Mình đi đến đó lập thành Một ngôi Nữ chúa truyền danh cô à, Cô là một gái tài ba Lẽ nào khuất phục Mật Đa làm gì Chúng tôi tuy bọn thị tỳ Cũng là biết việc thạnh suy cõi trần Kém gì cái bọn nam nhân Mà đi lòn cúi hiến thân cho người Xét ra cũng thấy hổ ngươi Tôi mọi cho người hổ mặt thuyền quyên! Đồ nương nghe mới hỏi liền: Đây ra hải đảo đi thuyền phải không Ắt là đi chẳng có xong Ta đây từ bé vốn không biết chèo Đi buoàm không biết kéo neo Làm sao coi lái hạ lèo <8> mà đi, Cứ theo địa thế mà suy Hải đảo thuộc đất của thì nước ta. Thị nữ liền mới thưa qua: Ấy nước Chân Lạp (9) cô mà biết đâu Đất mình hải khẩu Vua thâu Đến hòn hải đảo có đâu mà gần Nếu mình mà muốn ẩn thân Đến hòn hải đảo có phần phước duyên Khác nào là một cảnh tiên Ra tài thục nữ đón thuyền thương buôn (10) Sẽ vui hết có phiền buồn Mai mà làm đặng nên tuồng Nữ vương Tạo ra tướng mạnh binh cường Thì là chừng đó hết nhường nam nhi. Đồ nương liền mới hỏi thì: Nếu Vua Chân lạp chuyện ni hãng toàn Người đem binh đến muôn ngàn Thì ta khó nỗi thân an sau nầy. Nữ tì mới nói như vầy: Cô chưa thấu hiểu tôi đây hãng toàn Đó là một cái đảo hoang Của Vua Chân Lạp ai màng mà chi, Nào đâu mà có báu gì Xưa bên Trung Quốc tướng thì nhà Minh Ấy thời chia reõ hai kinh Nhà Thanh lại với nhà Minh tranh giành Tướng Minh thua tướng nhà Thanh Đem binh vượt biển ghé thành Qui Nhơn (11), Vua Nam xem thấy lòng hờn Bảo ra hải đảo tạm chân ngụ đình Đoàn bố liền mới đem binh Ra hòn Phú Quốc tạm đình nghỉ ngơi Ít lâu coi lại thời trời Đem binh đoạt thổ khắp nơi biên thùy (12), Vua nhà Chân Lạp kinh nguy Vua Nam sai tướng đánh thì quân Minh Chúa ta cũng tiếp cứu binh Đoàn bố thảm hại bỏ mình vong thân. Hiện giờ có một số dân Sống nghề săn bắn dấn thân đảo nầy Nhưng nhiều dòng máu lắm thay Nếu cô muốn biết sang ngay thì tường, Từ đây đến đó xa đường Mất nửa tháng trường mới đến tận nơi Thế nên tôi mới bày lời Cho cô nghe rõ tùy thời ý cô Nếu cô muốn lập qui mô Thì ra đến đó cơ đồ dựng xây, Thế Châu đổi lại tên nầy Cải là họ Hạng tạo gầy giang san Chúng tôi thì cũng cải trang Mặc đồ nam giới băng ngàn mới xong Mình nên làm mặt đàn ông Cho người lạ mặt khỏi phòng phá trinh. Đồ nương nghe nói làm thinh Hồi lâu nàng mới sự tình phân qua: Ta người ở nước Xiêm la Lẽ nào cải họ xét ra cũng kỳ, Xưa người ở đất Cao ly (13) Vốn làm Nữ chúa trị vì thần dân Mà không biết xét biết phân Không suy không nghĩ nghĩa ân trọn niềm Nàng tên là Hạng Nam Kim (14) Gái nhà Trung quốc nỗi niềm lý nhân, Còn ta là gái hồng quần Nếu theo họ Hạng thần dân phê bình Thiếu chi là họ lịch xinh Cái họ của mình thiệt cũng đẹp thay. Thị tỳ liền mới thưa rằng: Sợ là tôi sợ người hay mà tầm Muốn đi biệt tích biệt tăm Cải tên cải họ ai tầm cho ra. Đồ nương mới nói: hay a Như vầy thì tiện cho ta vô hồi Thế nên như vậy xong rồi Còn câu hiếu thảo ai bồi cho ta, Làm con caõi mẹ caõi cha Chỉnh khôn thế sự chẳng ra con người Lưu danh cho hậu thế cười Làm người để lỗi đạo người hay sao Nào ơn chín chữ cù lao (15) Tam niên ngũ bộ (16) biết bao công trình Ngày nào ta có thân hình Cũng nhờ mẫu huyết phụ tinh mà thành Làm sao cho rạng thanh danh Đền ơn cha mẹ sanh thành thuở xưa. Nữ tỳ xúm lại liền thưa: Cô mà nói vậy cũng chưa có rồi Làm người thiệt khó lắm ôi Luận điều hiếu nghĩa khó rồi lắm đa Làm con muốn trả thảo ba (17) Có nhiều tư cách cô mà biết chăng Nếu theo luân lý đạo hằng Thì là cô hãy xích thằng nên duyên, Còn câu ngộ biến phải quyền Chấp kinh lúc thạnh <18> thánh hiền có phân, Cô cùng Nguyên soái thành thân Mà cô không khứng châu trần kết đôi Lòng cô mãi mãi than ôi Sanh ra bịnh hoạn nhiều hồi lắm đa Chầy ngày (19) cô phải ra ma Chết đi bỏ mẹ bỏ cha cõi trần Con mà chết trước song thân Thì là báo nghĩa báo ân chỗ nào, Cha già tuổi hạt càng cao Nuôi con thì cậy nhờ sau về già Làm người muốn vẹn thảo ba Giữ sao cho đến mẹ cha maõn phần Mà còn mạnh khỏe tấm thân Ấy là báo bổ công ơn sanh thành, Nếu cô mà muốn nghe rành Tôi xin nói hết ngọn ngành cô hay, Cô là một gái anh tài Lẽ nào bó gối khoanh tay suốt đời Đến ngày quỷ bắt ma mời Xương tàn cốt rụi có thời ra chi, Luận điều trái phải mà suy Nếu cô nghe phải thì đi lúc nầy. Đồ nương mới nói như vầy: Thôi thì sửa soạn mai nầy ra đi Đem theo một mớ xiêm y Bạc vàng lương thực mang đi cho nhiều, Mai nầy vào lúc buổi chiều Hóa trang nam nữ đồng đều thẳng xông Bốn con thị nữ bằng lòng Sửa sang hành lý rồi đồng ra đi
CHÚ THÍCH
---------------------------- (1) Nghĩa xích thằng: chỉ thắm tơ hồng, theo tích ông Tơ, bà Nguyệt xe chỉ kết duyên vợ chồng. (2) Sạ duyên: duyên cớ sự tình. (3) Nghĩa tào khang: tào là bã rượu, khang là vỏ trấu. Ý nói tình nghĩa chung thuỷ vợ chồng. Tích xưa: Tống Hoằng làm quan dưới thời Quang Vũ Đế (Đông Hán) bên Trung Hoa. Vợ Tống Hoằng bệnh, bị mù và ông đích thân chăm sóc cho vợ. Chị vua khi ấy đang góa chồng, rất ái mộ Tống Hoằng. Vua biết ý ướm lời hỏi dò Tống Hoằng: Quý dịch giao, phú dịch thê, hữu chư? (Sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có vậy chăng?). Tống Hoằng đáp: Bần tiện chi giao mạc khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường (Bạn bè chơi từ thuở nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ hắt hủi). Hiểu Tống Hoằng một lòng chung thủy, vua bỏ ý định tác hợp cho chị mình. (4) Lưng túi gió trăng: bán nang phong nguyệt, sự tự do. (5), (6): Giao Châu, Giao Chỉ: tên gọi vùng đất, con người Việt Nam thời kỳ phụ thuộc nhà Hán Trung Hoa. (7) Hải đảo: đảo Phú Quốc. <8> lèo: dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm hứng gió. (9) Chân Lạp: một vương quốc ở trung tâm bán đảo Đông Dương, tiền thân của nước Campuchia ngày nay. (10) Đảo Phú Quốc nằm trên trục đường biển, con đường buôn bán rất sầm uất nối liền Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu. (11), (12): xảy ra khoảng thời gian từ năm 1644 đến 1648, chưa cập nhật tư liệu chi tiết. (13) Cao ly: âm Hán Việt của Korea, bán đảo Triều Tiên ngày nay. (14) Hạng Nam Kim: con gái Hạng Long, người huyện Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, có nét mặt giống Mạnh Lệ Quân, và thông minh tài trí, nên đóng giả Mạnh Lệ Quân để vào cung, sau bị phát hiện, nhưng được ân xá. Về sau Hạng Nam Kim cũng được Hoàng tử xứ Triều Tiên phong làm thứ phi. (15) Chín chữ cù lao: Sinh, cúc, dục, phủ, súc, trưởng, cố, phục, phúc. Công lao khó nhọc của người mẹ nuôi con, đó là: sinh nở, nâng đỡ, dạy dỗ, vỗ về, cho bú, nuôi lớn, trông nom, ôm ấp, che chở. (16) Tam niên ngũ bộ: (17) Thảo ba: hiếu thảo. <18> Nguyên câu: Xử thường chấp kinh (Bình thường theo gia đạo) Ngộ biến tòng quyền (Gặp binh biến tuỳ cơ ứng phó) (19) Chầy ngày: lâu ngày. |
VƯỢT BIỂN RA PHÚ QUỐC
NGŨ PHỤNG XƯNG VƯƠNG LẬP QUỐC
Vợ chồng Đồ lão hay chi
Một năm có lẻ mới thì hay ra,
Đồ nương từ bữa bôn ba
Theo đường thủy đạo băng hà ra khơi
Năm nàng cứ việc chèo bơi
Vượt dòng hải lý tới nơi đảo nầy
Mắt nhìn non nước trời mây
Chim kêu vượn hú cỏ cây mịt mù
Đây đà giữa lúc trăng thu (1)
Nước non phẳng lặng mịt mù không ai.
Nàng cùng bốn ả ra tay
Cùng nhau dẹp phá gốc gai bịt bùng
Vẫn đi mé biển giáp vòng
Nhìn xem phong cảnh thấy lòng chứa chan
Nghĩ mình một cửa con quan
Hôm nay vượt biển băng ngàn tới đây
Một thân tròi trọi chốn nầy
Bơ vơ rừng núi cỏ cây không nhà
Như vầy thiệt khổ dữ a
Lấy chi sanh sống cho qua tháng ngày
Ắt là chết hết chẳng sai
Tại vì thị nữ mà bày đặt ra,
Bây người không mẹ không cha
Xúi tao bỏ cửa bỏ nhà vong ân
Cha sanh mẹ đẻ không cần
Tam trùng lỗi đạo vong ân tổ đường
Rõ ràng bây kẻ bất lương
Ắt là tao phải bỏ xương đất người.
Nữ tỳ cả bọn đều cười:
Chúng tôi đây tưởng cô người liệt oanh
Bấy lâu lòn cúi đã đành
Hầu sau nương dựa thanh danh gái già
Nay nghe cô nói mới hay
Thì ra cô có trí tài mà chi!
Thấy cơn thắt ngặt lâm nguy
Lấy tâm can đảm mới thì an thân
Nơi nầy đất quý vô ngần
Phải nơi nữ sĩ ẩn thân chiêu hiền
Muốn cho rạng mặt thuyền quyên
Lâm nguy chớ thói than phiền rầu lo,
Dù cho muôn việc gay go
Sống trong cái đói mới cho rằng tài
Không tường nếm mật nằm gai
Vào các ra đài (2) là lẽ tự nhiên,
Sống trong cái cảnh uy quyền
Thì là hổ mặt thuyền quyên thay là
Hãy nên can đảm cô à
Sống trong cái chết mới là quý cao,
Thú rừng chẳng biết là bao
Cây rừng có thiếu thứ nào ở đâu
Lựu, lê, bình bát, mãng cầu
Cây rừng trái núi có đâu thiếu gì
Khoai lang, khoai chuối, khoai mì
Xiêm, đào, mít, ổi cô thì thấy chăng
Chúng ta mặc sức mà ăn
Một rừng hoa quả lại săn thỏ, mèo
Lại còn các loại hùm, beo
Höôu nai còn lại cọp beo có bầy,
Dung thân nữ kiệt đất nầy
Chiêu binh mãi mã dầy dầy hùng anh
Đất lành có mặt gái lành
Thiếu chi là kẻ bộ hành lại qua.
Đồ nương liền mới nói qua:
Nơi nầy chẳng có người ta đi đường
Lời nàng nói thiệt phi thường
Chiêu binh mãi mã thì lương phải nhiều
Xem tường cảnh núi buồn hiu
Thú rừng nó xé cũng tiêu bọn mình
Nói gì mãi mã chiêu binh
Ta nghe nàng nói bất bình lắm thay!
Thị nữ liền mới nói rằng:
Thế nên cô chẳng biết tài bọn tôi
Vậy thì cô chớ than ôi
Làm thinh cứ việc mà ngồi làm sư
Tôi trông có một tiếng ừ
Tự cô xuất khẩu thì dư cô à,
Cô nên ngồi một nơi à
Chuyện gì thì để bọn a hườn (3) làm
Cô là một kẻ siêu phàm
Chúng tôi phò hộ đã cam bấy chầy
Tướng cô số mạng sau nầy
Sẽ làm Nữ chúa đủ đầy dinh cơ
Tôi đà soạn trước bao giờ
Đã thêu sẵn một hiệu cờ rồi âu,
Nữ vương là Hạng Thế Châu
Có bốn quan hầu họ Hạng đồng tông
Thế Kim, Thế Thủy quan trong,
Thế Ngân, Thế Ngọc hai ông quan ngoài,
Quốc kỳ màu đỏ lâu phai
Thêu năm con phụng vốn rày màu xanh (4),
Bốn tôi là gái tài lành
Ngặt vì ít phước phải đành phò cô
Lúc nầy mình tạo cơ đồ
Nếu cô không chịu đưa cô trở về
Nhưng mà nay đã lỡ bề
Cô muốn trở về cũng chẳng biết bay
Chiếc thuyền đi tự hoâm rày
Vốn thuyền bằng giấy do tài bốn tôi,
Cô con thừa tướng cao ngôi
Đức thì có đức, tài thôi vô tài
Bọn tôi là kẻ tay sai
Vốn không có đức mà tài phép cao
Chúng tôi đã muốn từ nào
Ngặt cô ham của phú hào mẹ cha
Suốt đời lẩn quẩn xó nhà
Buộc ràng dưới gối mẹ cha làm gì!
Đồ nương nàng mới nói thì:
Hôm nay bốn ả thị tỳ đảm đang
Nếu mà trổ phép hồng nhan
Làm sao cho vẹn đôi đàng ta nghe
Đừng làm lỡ đậu, lỡ mè
Lỡ cháo, lỡ chè thiệt khó mà ăn
Bốn nàng thì có tài năng
Cải tên cải họ ta bằng lòng thay,
Bây giờ hãy khá làm ngay
Đem cờ Nữ chúa treo ngay bây giờ
Mắt nhìn gió thổi phất phơ
Màu cờ hồng đỏ hiện giờ đẹp xinh,
Từ đây ngôi thứ phân minh
Đồ nương cứ việc một mình thảnh thơi
Đổi tên đổi họ tức thì
Thế Châu Nữ chúa tuyệt vời phương phi
Thế Ngân, Thế Thủy tức thì
Hai bên tả hữu hai vì hầu xem,
Thế Kim, Thế Ngọc chị em
Săn höôu bắn nhạn mà đem đi về.
Một hôm đang lúc chỉnh tề
Bốn bà hầu cận cười hề vui say
Ngồi trong bàn thạch thẳng ngay
Bốn cây đại thọ che ngoài mát thân
Phúc đâu hằng mấy trăm dân
Từ xa đi đến đằng xa cúi quỳ,
Thế Châu xem thấy lạ kỳ
Người đâu mà lại cúi quỳ quá đông
Lạ thay ta chẳng rõ thông
Cửa nhà không có người đông quá chừng
Hay là gặp bọn ma rừng
Đến đây giả ngộ ta đừng có tin
Nghĩ suy nàng cứ làm thinh
Đăm đăm hai mắt cứ nhìn không thôi.
Thế Thủy mới nói: cô ôi
Sao không miễn lễ cho rồi để chi
Họ đà cúi mọp bái quỳ
Chịu không miễn lễ họ thì bình thân.
Thế Châu nghe nói mới phân:
Nữ vương miễn lễ chúng dân khỏi quỳ.
Thế Kim, Thế Ngọc nói thì:
Chúng dân hải đảo lạ kỳ lắm đa
Trời sanh năm vị tiên nga
Hạ sang Phú Quốc cũng là đã lâu
Cớ sao người chẳng đến hầu
Tại sao di mạng trễ âu thế nầy!
Chúng dân quỳ tấu như vầy:
Nào hay có vị tiên cô xuống trần
Mới vừa sửa soạn đi mần
Nương theo hang đá dung thân núi rừng
Chúng tôi là kẻ trầm luân
Tội đày hoang đảo biết chừng nào tha (5),
Mới đây nhìn thấy xa xa
Ngọn cờ lồng lộng chói lòa nơi đây
Rủ nhau đi đến chỗ nầy
Thấy tiên giáng thế tôi đây bái quỳ
Chớ nào đâu có biết chi
Hôm nay bị quở oan thì biết bao!
Thế Châu liền mới nói mau:
Đảo nầy tất cả có bao nhiêu người?
Thế Kim nghe hỏi liền cười:
Nữ vương muốn biết số người bao nhiêu
Nơi đây chẳng đặng có nhiều
Thiệt thì chả có bao nhiêu cô à
Tính trong trai gái trẻ già
Sáu trăm người đủ lẻ ba người nầy,
Tính luôn cả bọn mình đây
Sáu trăm tám mạng đảo nầy dung thân (6)
Bây giờ tất cả chúng dân
Tiên nga Nữ chúa hạ thân xuống phàm,
Các ngươi quốc tịch Đại Nam (7)
Sanh phường deät cöûi mà làm áo khaên,
Dân Nùng (8) thì giỏi nghề săn
Hãy lo săn bắn kiếm ăn hàng ngày,
Còn người Chân Lạp (9) hôm nay
Hãy lo xây cất điện đài cho cao,
Các ngươi tự thuở hồi nào
Ở theo kẹt đá lại đào làm hang
Không tìm điện ngọc cung vàng
Cửa nhà không có rừng hoang nương mình
Bây giờ lập phủ cất dinh
Phá rừng xây đá tận tình cho xong
Tạo ra một cảnh đền rồng
Cho ta đặng ở nơi hồng quý cao
Vậy thì hãy khá mau mau
Làm cho kiếp kiếp ta nào ở yên.
Chúng dân nghe nói làm liền
Thế Kim, Thế Ngọc coi quyền đốc công
Cửa thành bốn hướng tây đông
Đỉnh cao lồng lộng xây trong cung lầu
Phá rừng xây cất cũng lâu
Vách thì bằng đá lầu thì bằng cây
Có vườn thượng uyển đủ đầy
Có hồ bán nguyệt có cây bá tòng,
Đền Vua trổ cửa hướng đông
Thành cao nhờ có đá chồng bốn bên
Nào hang thạch động điện đền
Nữ vương cứ việc ngồi trên ngôi Trời,
Trăng soi mặt nước rạng ngời
Làm người do chữ vận thời mà ra.
NGŨ PHỤNG XƯNG VƯƠNG LẬP QUỐC
Vợ chồng Đồ lão hay chi
Một năm có lẻ mới thì hay ra,
Đồ nương từ bữa bôn ba
Theo đường thủy đạo băng hà ra khơi
Năm nàng cứ việc chèo bơi
Vượt dòng hải lý tới nơi đảo nầy
Mắt nhìn non nước trời mây
Chim kêu vượn hú cỏ cây mịt mù
Đây đà giữa lúc trăng thu (1)
Nước non phẳng lặng mịt mù không ai.
Nàng cùng bốn ả ra tay
Cùng nhau dẹp phá gốc gai bịt bùng
Vẫn đi mé biển giáp vòng
Nhìn xem phong cảnh thấy lòng chứa chan
Nghĩ mình một cửa con quan
Hôm nay vượt biển băng ngàn tới đây
Một thân tròi trọi chốn nầy
Bơ vơ rừng núi cỏ cây không nhà
Như vầy thiệt khổ dữ a
Lấy chi sanh sống cho qua tháng ngày
Ắt là chết hết chẳng sai
Tại vì thị nữ mà bày đặt ra,
Bây người không mẹ không cha
Xúi tao bỏ cửa bỏ nhà vong ân
Cha sanh mẹ đẻ không cần
Tam trùng lỗi đạo vong ân tổ đường
Rõ ràng bây kẻ bất lương
Ắt là tao phải bỏ xương đất người.
Nữ tỳ cả bọn đều cười:
Chúng tôi đây tưởng cô người liệt oanh
Bấy lâu lòn cúi đã đành
Hầu sau nương dựa thanh danh gái già
Nay nghe cô nói mới hay
Thì ra cô có trí tài mà chi!
Thấy cơn thắt ngặt lâm nguy
Lấy tâm can đảm mới thì an thân
Nơi nầy đất quý vô ngần
Phải nơi nữ sĩ ẩn thân chiêu hiền
Muốn cho rạng mặt thuyền quyên
Lâm nguy chớ thói than phiền rầu lo,
Dù cho muôn việc gay go
Sống trong cái đói mới cho rằng tài
Không tường nếm mật nằm gai
Vào các ra đài (2) là lẽ tự nhiên,
Sống trong cái cảnh uy quyền
Thì là hổ mặt thuyền quyên thay là
Hãy nên can đảm cô à
Sống trong cái chết mới là quý cao,
Thú rừng chẳng biết là bao
Cây rừng có thiếu thứ nào ở đâu
Lựu, lê, bình bát, mãng cầu
Cây rừng trái núi có đâu thiếu gì
Khoai lang, khoai chuối, khoai mì
Xiêm, đào, mít, ổi cô thì thấy chăng
Chúng ta mặc sức mà ăn
Một rừng hoa quả lại săn thỏ, mèo
Lại còn các loại hùm, beo
Höôu nai còn lại cọp beo có bầy,
Dung thân nữ kiệt đất nầy
Chiêu binh mãi mã dầy dầy hùng anh
Đất lành có mặt gái lành
Thiếu chi là kẻ bộ hành lại qua.
Đồ nương liền mới nói qua:
Nơi nầy chẳng có người ta đi đường
Lời nàng nói thiệt phi thường
Chiêu binh mãi mã thì lương phải nhiều
Xem tường cảnh núi buồn hiu
Thú rừng nó xé cũng tiêu bọn mình
Nói gì mãi mã chiêu binh
Ta nghe nàng nói bất bình lắm thay!
Thị nữ liền mới nói rằng:
Thế nên cô chẳng biết tài bọn tôi
Vậy thì cô chớ than ôi
Làm thinh cứ việc mà ngồi làm sư
Tôi trông có một tiếng ừ
Tự cô xuất khẩu thì dư cô à,
Cô nên ngồi một nơi à
Chuyện gì thì để bọn a hườn (3) làm
Cô là một kẻ siêu phàm
Chúng tôi phò hộ đã cam bấy chầy
Tướng cô số mạng sau nầy
Sẽ làm Nữ chúa đủ đầy dinh cơ
Tôi đà soạn trước bao giờ
Đã thêu sẵn một hiệu cờ rồi âu,
Nữ vương là Hạng Thế Châu
Có bốn quan hầu họ Hạng đồng tông
Thế Kim, Thế Thủy quan trong,
Thế Ngân, Thế Ngọc hai ông quan ngoài,
Quốc kỳ màu đỏ lâu phai
Thêu năm con phụng vốn rày màu xanh (4),
Bốn tôi là gái tài lành
Ngặt vì ít phước phải đành phò cô
Lúc nầy mình tạo cơ đồ
Nếu cô không chịu đưa cô trở về
Nhưng mà nay đã lỡ bề
Cô muốn trở về cũng chẳng biết bay
Chiếc thuyền đi tự hoâm rày
Vốn thuyền bằng giấy do tài bốn tôi,
Cô con thừa tướng cao ngôi
Đức thì có đức, tài thôi vô tài
Bọn tôi là kẻ tay sai
Vốn không có đức mà tài phép cao
Chúng tôi đã muốn từ nào
Ngặt cô ham của phú hào mẹ cha
Suốt đời lẩn quẩn xó nhà
Buộc ràng dưới gối mẹ cha làm gì!
Đồ nương nàng mới nói thì:
Hôm nay bốn ả thị tỳ đảm đang
Nếu mà trổ phép hồng nhan
Làm sao cho vẹn đôi đàng ta nghe
Đừng làm lỡ đậu, lỡ mè
Lỡ cháo, lỡ chè thiệt khó mà ăn
Bốn nàng thì có tài năng
Cải tên cải họ ta bằng lòng thay,
Bây giờ hãy khá làm ngay
Đem cờ Nữ chúa treo ngay bây giờ
Mắt nhìn gió thổi phất phơ
Màu cờ hồng đỏ hiện giờ đẹp xinh,
Từ đây ngôi thứ phân minh
Đồ nương cứ việc một mình thảnh thơi
Đổi tên đổi họ tức thì
Thế Châu Nữ chúa tuyệt vời phương phi
Thế Ngân, Thế Thủy tức thì
Hai bên tả hữu hai vì hầu xem,
Thế Kim, Thế Ngọc chị em
Săn höôu bắn nhạn mà đem đi về.
Một hôm đang lúc chỉnh tề
Bốn bà hầu cận cười hề vui say
Ngồi trong bàn thạch thẳng ngay
Bốn cây đại thọ che ngoài mát thân
Phúc đâu hằng mấy trăm dân
Từ xa đi đến đằng xa cúi quỳ,
Thế Châu xem thấy lạ kỳ
Người đâu mà lại cúi quỳ quá đông
Lạ thay ta chẳng rõ thông
Cửa nhà không có người đông quá chừng
Hay là gặp bọn ma rừng
Đến đây giả ngộ ta đừng có tin
Nghĩ suy nàng cứ làm thinh
Đăm đăm hai mắt cứ nhìn không thôi.
Thế Thủy mới nói: cô ôi
Sao không miễn lễ cho rồi để chi
Họ đà cúi mọp bái quỳ
Chịu không miễn lễ họ thì bình thân.
Thế Châu nghe nói mới phân:
Nữ vương miễn lễ chúng dân khỏi quỳ.
Thế Kim, Thế Ngọc nói thì:
Chúng dân hải đảo lạ kỳ lắm đa
Trời sanh năm vị tiên nga
Hạ sang Phú Quốc cũng là đã lâu
Cớ sao người chẳng đến hầu
Tại sao di mạng trễ âu thế nầy!
Chúng dân quỳ tấu như vầy:
Nào hay có vị tiên cô xuống trần
Mới vừa sửa soạn đi mần
Nương theo hang đá dung thân núi rừng
Chúng tôi là kẻ trầm luân
Tội đày hoang đảo biết chừng nào tha (5),
Mới đây nhìn thấy xa xa
Ngọn cờ lồng lộng chói lòa nơi đây
Rủ nhau đi đến chỗ nầy
Thấy tiên giáng thế tôi đây bái quỳ
Chớ nào đâu có biết chi
Hôm nay bị quở oan thì biết bao!
Thế Châu liền mới nói mau:
Đảo nầy tất cả có bao nhiêu người?
Thế Kim nghe hỏi liền cười:
Nữ vương muốn biết số người bao nhiêu
Nơi đây chẳng đặng có nhiều
Thiệt thì chả có bao nhiêu cô à
Tính trong trai gái trẻ già
Sáu trăm người đủ lẻ ba người nầy,
Tính luôn cả bọn mình đây
Sáu trăm tám mạng đảo nầy dung thân (6)
Bây giờ tất cả chúng dân
Tiên nga Nữ chúa hạ thân xuống phàm,
Các ngươi quốc tịch Đại Nam (7)
Sanh phường deät cöûi mà làm áo khaên,
Dân Nùng (8) thì giỏi nghề săn
Hãy lo săn bắn kiếm ăn hàng ngày,
Còn người Chân Lạp (9) hôm nay
Hãy lo xây cất điện đài cho cao,
Các ngươi tự thuở hồi nào
Ở theo kẹt đá lại đào làm hang
Không tìm điện ngọc cung vàng
Cửa nhà không có rừng hoang nương mình
Bây giờ lập phủ cất dinh
Phá rừng xây đá tận tình cho xong
Tạo ra một cảnh đền rồng
Cho ta đặng ở nơi hồng quý cao
Vậy thì hãy khá mau mau
Làm cho kiếp kiếp ta nào ở yên.
Chúng dân nghe nói làm liền
Thế Kim, Thế Ngọc coi quyền đốc công
Cửa thành bốn hướng tây đông
Đỉnh cao lồng lộng xây trong cung lầu
Phá rừng xây cất cũng lâu
Vách thì bằng đá lầu thì bằng cây
Có vườn thượng uyển đủ đầy
Có hồ bán nguyệt có cây bá tòng,
Đền Vua trổ cửa hướng đông
Thành cao nhờ có đá chồng bốn bên
Nào hang thạch động điện đền
Nữ vương cứ việc ngồi trên ngôi Trời,
Trăng soi mặt nước rạng ngời
Làm người do chữ vận thời mà ra.
CHÚ THÍCH
-------------------------------- (1) Trăng thu: khoảng tháng 8 – 9. (2) Các, đài: các là nhà lầu, đài là nhà cao, ý nói nơi sang trọng, quyền quý (3) A hườn: (trại âm) a hoàn, người giúp việc. (4) Tài liệu Lịch sử Quốc kỳ Thế giới cho biết Xiêm La có quốc kỳ từ rất sớm, từ năm 1656, thay đổi nhiều lần nhưng tất cả có nền màu đỏ, điều này trùng khớp với thơ ngoại cảm. Tham khảo Lịch sử quốc kỳ Thái Lan tại đây: [Chỉ thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng ký...] (5) Do vị trí cách đất liền 45km, Phú Quốc được dùng làm nơi giam giữ, cách ly phạm nhân. (6) Tại thời điểm đó dân số của Phú Quốc chỉ có 608 người. Trước năm 1975 dân số trên đảo hơn 5.000 người. Đến năm 2003, theo thống kê của tỉnh Kiên Giang dân cư sinh sống trên đảo đã lên đến trên 79.800 người, (7) Đại Nam : nước Đại Việt, nay là Việt Nam <8> Nùng: dân tộc miền núi khu vực Lào, Tây Nguyên và phia Bắc Campuchia ngày nay (9) Chân Lạp: tiền thân nước Campuchia ngày nay | ||||
CHÚ THÍCH
---------------------------- (1) Thoàn: (trại âm) thuyền (2) Họ Chế: ý nói Chế Mật Đa, tướng tài của nước Xiêm. (3) Chén huỳnh: chén quỳnh tương, chén rượu. (4) Biển hóa nương dâu: thế cuộc thay đổi. |
THẦY HỘ MỆNH VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN TIỀN KIẾP
Thế Châu đêm vắng nhỏ to luận bàn Tuy là ta đặng thân an Còn lo một nỗi gian nan sau nầy Kiếp người không sớm thì chầy Bề nào cũng phải bỏ thây một lần Người sanh trong cõi thế trần Làm gì cũng chịu một lần tử ly Nay ta nhớ lại những khi Hiện giờ là cảnh sanh ly não nồng Nhớ cha nhớ mẹ mủi lòng Một năm đăng đẳng đợi trông mỏi mòn Đã đành lỗi đạo làm con Ta muốn về nước cho tròn thủy chung Ở đây non núi lạ lùng Biết rằng người có phục tùng hay chăng! Chỉn e có kẻ làm nhăng Thì là nhiều đoạn khó khăn gặp hồi. Thế Kim mới nói bà ôi Làm Vua như vậy có rồi đâu đâu Tên bà là Hạng Thế Châu Một vì Nữ chúa đứng đầu chúng tôi Mà bà vọng cảm lôi thôi Làm sao dìu dắt chúng tôi đó là Thử xem thiên hạ bao la Mãi quỳ dưới gối mẹ cha ngày ngày Có người nào đặng thành tài Tình thương nhỏ mọn phô bày chúng chê Làm sao khỏi tiếng nhún trề Đừng cho người thế thị chê mới là. Thế Châu liền mới nói ra: Cơn buồn gặp lúc nhớ nhà thở than Hồi nào trướng gấm màn loan Tiểu thơ các ngọc con quan đại thần Nay đành xa cách song thân Bơ vơ non nước chịu phần đắng cay. Thế Kim nghe nói thưa rằng: Xin bà đừng có đắng cay bà à Sống làm một kiếp người ta Ai ai cũng có lúc hòa, lúc ly Nghĩ nào than thở mà chi Dẹp nguồn nhớ tưởng hãy đi tìm Thầy. Sách ghi ở cái đảo nầy Thường năm xuất hiện bóng Thầy Kỳ Hương (1) Ông nầy có đủ văn chương Dạy người nhân thế đủ đường cao siêu Lúc nầy gặp cảnh buồn hiu Nên tìm ông ấy học nhiều phép hay. Phúc đâu Thế Ngọc thưa rày: Có ông cụ lão ở ngoài bước vô Bảo rằng đến nhận hai cô Nhập môn học Đạo Nam Mô cho rành Nếu cô mà muốn tu hành Quy y với cụ sẽ thành Tiên nga. Thế Châu liền mới nói ra: Vậy thì mời quyết cụ già vào đây Ta xin nhận cụ làm thầy Nhờ cụ răn dạy những điều phép Tiên. Thế Ngọc nàng mới thưa liền: Muốn đi mộ đạo Thần Tiên tu hành Thì bà phải có lòng thành Ra mà rước cụ mới đành lòng cho Chớ mình là đạo học trò Lẽ nào phán lịnh truyền cho đi vào. Thế Châu nghe nói đi mau: Thỉnh ông cụ lão đi vào cung son Tới nơi cụ gọi hỡi con Trần là cõi tạm con còn nhớ không, Đã sanh phận gái má hồng Làm cho danh rạng núi sông mới là Các con là gái màu hoa Nghe lời ông dạy mới là thành danh Nói cho con đặng rõ rành Các con cần phải tu hành thẳng ngay, Trần là cõi tạm chẳng sai Mình mang thân xác đợi ngày lâm chung Một mai số mạng đã cùng Linh hồn có đặng rỗi dung chăng là Hay con phải chịu đọa sa Do phần xác thịt tạo ra tội tình Muốn không mang nghiệp chúng sinh Con nghe thầy dạy giữ gìn hiếu cha Thầy người đi dạo ta bà Thấy con hiền đức Thầy mà tới đây (2) Con còn có một kiếp nầy Về nơi tiên cảnh cung mây thanh nhàn Khuyên con đừng tạo nghiệp oan Tạo rồi phải máng phải mang con à Làm sao thoát khỏi ái hà Nghiệp người càng tạo càng sa âm tỳ Con là phận gái nữ nhi Bỏ cha mẹ đẻ mà đi xa đàng Lấy ai dạy khéo dạy ngoan Lấy ai xem xét chu toàn cho con Nếu con mà muốn vẹn tròn Cha sanh không có thì còn cha nuôi Song thân thì ở xa xôi Thì con hầu hạ cha nuôi cũng là Cha nào cũng vậy con à Dù nuôi hay đẻ cũng cha của mình Nếu con mà có nhận nhìn Thì ông đây sẽ hết tình khuyên răn, Dạy con biết đủ đạo hằng Dạy con thấu rõ gốc căn tuần hoàn Dạy con biết rõ nguồn cơn Thầy đây là Phật Bửu Sơn con à. Thế Châu nàng mới thưa qua: Con xin nhận cụ làm cha phụng thờ Xác phàm con quá dại khờ Khéo khôn muôn việc con nhờ phụ thân Nặng mang xác thịt cõi trần Bơ vơ bể thẳm biết lần đi đâu Ngụy danh là Hạng Thế Châu Cõi trần sao quá thảm sầu tư lương Thân danh Quận chúa Đồ nương Con người quốc tịch Xiêm vương bấy chầy, Hôm nay đi đến đảo nầy Dốc lòng cơ nghiệp dựng gầy hậu lai Quyết sao gái chẳng thua trai Tự như lòng muốn đổi thay trở về Ngặt vì công khó nặng nề Bốn cô thị nữ chẳng hề muốn đi, Con là Quận chúa cao kỳ Nghe lời bốn ả thị tỳ mà ra Nay đà xa mẹ xa cha Nên con rất đỗi nhớ nhà từ thân, Xin cha dụng một phép thần Cho con trở lại hiệp gần cội nguyên Nơi nầy non nước lạ miền Tuy làm Nữ chúa lòng phiền lắm thay Lo trong rồi lại lo ngoài Mắc công đội mão thắt đai thếp vàng, Lên rừng còn mắc cải trang Giả làm nam tử một chàng thư sinh Đi ra nào ngựa nào binh Gồm bao nhiêu chuyện bực mình cha ôi, Lâm trào đến buổi ngồi ngôi Thì quan tả hữu lại ngồi hai bên Nếu con một tiếng nói lên Thì hàng văn võ hai bên cúi đầu Uy quyền của Hạng Thế Châu Phán ra tiếng lịnh thì đầu người rơi, Hôm qua con trẻ lỡ lời Ăn năn đã muộn tội trời phải mang Có người Chân lạp đi ngang Người nầy trai trẻ chưa toàn lễ nghi Con truyền võ sĩ tức thì Chém đầu cho rảnh để chi bận lòng Lời con nói mới vừa xong Tự nhiên nghe tiếng thinh không dạ rền Đầu người Chân lạp rớt bên Máu ra lai láng trước đền mà ghê Bốn con thị nữ cười hề Như vầy Ngôi chúa ắt về Thế Châu Cho nên Thần Thánh đồng chầu Vô vi võ tướng chém đầu chàng trai Cùng nhau bọn nó cười dày Thấy mà con bắt châu mày cha ôi, Như vầy chẳng có xong rồi Làm Vua con chắc tội thôi chất chồng Con đây hết sức não nồng Nói lời như vậy con không nói mà Ngày nay con trẻ gặp cha Xin cho con trở lại nhà từ thân, Trước là trọn đạo vi thần Hai là con trẻ báo ân tổ đường Ở đây mang hiệu Nữ vương Mai sau cha chết lửa hương ai thờ Tuy con là gái đào thơ Vô nam dụng nữ phụng thờ song thân Mai sau cha mẹ lìa trần Có con kiến tạo mộ phần mẹ cha, Nghĩ suy con nhớ quê nhà Làm người có mẹ có cha có mình Sanh nhờ mẫu huyết phụ tinh Tạo ra xác thịt nuôi mình lớn khôn Trời ban cho có linh hồn Sống trong vũ trụ càn khôn một bầu. Thế Ngân, Thế Ngọc lắc đầu Nữ vương nói vậy thì đâu có rồi Cụ giùm xét lại khúc nôi Chúng con là đạo làm tôi thuở giờ Bấy lâu hầu hạ tiểu thơ Khi không cô bảo theo thờ Nữ vương Chúng con là kẻ nhiễu nhương Nào đâu có biết có từ nguyên nhân Cô là con của đại thần Bảo sao thì bọn con mần cho y Đạo làm tỷ tất phải tùy Bảo đâu hay đó dám thì cãi sao Hôm nay cô muốn ngồi cao Quy mô Nữ chúa tạo đào nơi đây Tự cô đi đến chốn nầy Đổ thừa cho bọn tôi đây lắm lời Cô là Quận chúa tuyệt vời Ngôi cao mà nói nghe lời tùy nhi Nói sao quá lạ quá kỳ Cụ dùm xét lại coi thì tại ai, Hôm qua chết một cậu trai Tại cô xuống lệnh chém ngay mạng người Chúng tôi chưa kịp vâng lời Tự nhiên đầu gãy lại rơi khỏi mình Lời cô quả thật là linh Một tay sát tướng thần binh cụ à! Gái thường dù có nói ra Làm sao đứt cổ người ta như vầy Lạ lùng cho cái cô nầy Gái Xiêm nhiều gái sắc tài đoan trang Sao không có vẻ Nữ hoàng Bị trai trêu ghẹo phải mang tâm tình Ít lâu kiết tử trong mình Cúi lòn dưới trướng vui tình phu thê, Còn cô khác hẳn mỗi bề Mật Đa chúa tướng còn chê không đành Gái nầy là gái liệt oanh Thần binh ủng hộ xây thành đã xong Chúng tôi xin bẩm với ông Xử sao ông xử cho xong vụ nầy Chớ còn cả bọn tôi đây Theo hầu dưới trướng bị rầy luôn luôn E khi máu nóng hận buồn Ắt ngôi Nữ chúa thêm tuồng cấn gay. Bửu Sơn nghe mới nói rày: Những lời nói đó cả hai cũng là Thế Châu con hãy nghe cha Số con thì phải xa nhà từ thân Trời sai con xuống cõi trần Xa nhà thì mới lập thân sau nầy Con nên nghe dạy làm khuây Hôm nay con đã có Thầy giáo khuyên Chừng nào bỏ xác thuyền quyên Linh hồn thong thả về miền tây phan (3) Lúc nầy xác thịt còn mang Nhớ là con chớ lịnh tràng giết ai Vì con có lịnh Trời sai Chư thần ủng hộ hơn hai ngàn người (4) Luôn luôn vui vẻ tươi cười Không nên buồn bã để người phải lo Dù bao nhiêu kẻ dại dò Thì con ngậm miệng phú cho Đất Trời Con đừng giận dữ con ơi Nói ra một tiếng lỡ lời khó a Nếu con mà cứ nhớ nhà Hôm nay con đã có cha đây nầy Cha xin con hãy làm khuây Vui lòng con ở chốn nầy cho an, Hằng ngày đức hạnh giồi trang Thuần lương mới đặng nhẹ nhàng hồn linh Mai sau vương vấn chữ tình Thầy khuyên con chớ liều mình con ơi, Chữ rằng họa phước do Trời Nói đây Thầy nói để đời hậu lai Sau nầy có một cậu trai Từ bên Trung Quốc lạc loài đến đây Oan gia kiếp trước tạo gầy Với con thì gã kiếp nầy hoàn nguyên Đã là sanh phận thuyền quyên Xin con phải trả cho yên mới rồi (5), Số con với gã nên đôi Mười lăm năm chẵn mới rồi đó con Ví dầu có lộn vòng tròn Đi vòng mé biển vẫn còn cù lao Mai sau biến sự thế nào Khư khư oanh liệt má đào đảm đang, Trả rồi một sợi dây oan Thì con phải máng, phải mang sau nầy Nếu con mà chẳng nghe thầy Chỉ không tránh khỏi sợi dây oan tình Ấy là mình buộc lấy mình Thầy đà nói trước tận tình con nghe Sau nầy nhiều chuyện éo le Dù sao con hãy dặt dè con ơi Chớ con có Mạng Lệnh Trời Đừng bia miệng thế người đời con a, Nói cho con rõ gần xa Chuyện cần thứ nhất con mà phải vâng Gặp vui con chớ nên mừng Gặp cơn đau khổ cũng đừng thở than Lúc nào cũng cứ nghiêm trang Tỏ ra oanh liệt Nữ hoàng oai nghiêm Nói cho con biết con tìm Nói cho con rõ những điềm xa xôi Nghe lời cha dạy con ơi Con nghe cha dạy gặp hồi thảnh thơi, Bèn con mà chẳng nghe lời Hồn con sau bị Lệnh Trời đọa xa Cõi trần là cõi thiết tha Đọa con phải khổ đến già trăm năm Kiếp này con đã khổ thầm Nhưng quyền cao cả ăn nằm xuê sang Nhỏ thì Quận chúa con quan Lớn thì càng quý Nữ hoàng có ngôi Mười lăm năm chẳng mấy hồi Chữ tình trả phứt cho rồi con ơi, Hồi con còn ở Cõi trời (6) Trời sai xuống thế lập đời Nữ vương Làm gương bọn gái má hường Noi theo chí đó đảm đương sau này Con đi ra khỏi đài mây Thấy tên quạt gió ôm cây đại hồng Con liền kêu gọi hỡi ông Quạt cho tôi đặng mát lòng ra đi Nay tôi lìa cõi Cung Ly Xuống phàm chuyển kiếp xiết chi não nề Ngày tôi mãn hạn trở về Ơn ông quạt mát chẳng hề quên ơn, Tại con nói thiệt nói hơn Nên tên quạt gió nổi cơn xung đình Hẹn nhau xuống thế lai sinh Mười lăm hôm chẳng thỏa tình hàn huyên Dù sao cũng nhớ lời nguyền Làm gì cũng phải kết duyên con à (7), Sau này có Chế Mật Đa Gây thêm đạo lý đổi ra lộn cuồn Dù con có giận có buồn Nhớ lời Thầy dạy thì suôn trăm chiều Thương con Thầy mới nói nhiều Tuy là duyên trước nhưng nhiều trái ngang, Ráng làm cho đặng vẹn toàn Thầy cho con một cây đàn con a Tên kêu vốn thiệt tỳ bà Bằng đá ngọc thạch sanh ra đờn này Đờn này vốn của Cung mây Truyền cho con trẻ sau này đàn chơi Gặp khi rối rắm cuộc đời Đàn qua một chặp vơi vơi lòng sầu. Thế Châu nghe nói cúi đầu Đàn tiên là phép báu màu Thầy ban Riêng con cũng có cây đàn Giống như đàn của Thầy ban như là Cũng kêu tên tộc tỳ bà Hai cây nhập một xem mà như nhau Nhưng mà nó thiệt hai màu Đội ơn Thầy đã truyền giao đàn này. Bửu Sơn mới nói như vầy: Còn một chuyện nữa nay Thầy nói luôn Ước mong con trẻ nên tuồng Một sông nước chảy nhiều nguồn con ơi Làm người sống giữa Đất Trời Con nên định trí nhớ lời Thầy phân Sống sanh người đứng cõi trần Ai ai cũng có duyên phần khác nhau Con thì đức cả tài cao Đạo làm thục nữ một màu như nhiên Sau này mới chứng Quả Tiên Giữ lòng thanh tịnh cho yên cõi lòng Nay Thầy xuống cõi trần hoàn Dạy con rõ phép lục thông rồi về Cõi trần là cõi bể mê Thầy thường lai đáo đi về dạy con Rồi Thầy trở lại Bệ son Vì mang xác tục sợ con lạc lầm Nên Thầy xuống thế khuyên thầm Dạy cho con trẻ truy tầm lý sâu Duyên con sắp tới chẳng lâu Dù sao biến sự con đâu mất phần Con là một vị Thiên Thần Nặng mang nghiệp cả cõi trần cao thâm Có chồng chẳng có bao lăm Năm trần tính đủ mười lăm năm dài Dù cho trăm đắng ngàn cay Tính cho đủ tháng đủ ngày mới nên Lời Thầy con chớ vội quên Nếu không như vậy cõi trên khó về Thôi thì Thầy phải chỉ phê Nhớ lời Thầy dạy đủ bề nghe con Việc gì phân phán cho tròn Từ trong thành nội, ngoài còn thứ dân Ba hôm điền điệp một lần Đặng qua dân chúng ân cần hay chăng Hóa trang rồi sẽ đi săn Học thêm thao lược cho bằng nam nhi Thầy cho con học khoa y Làm thầy độ bệnh cho thì các quan Nơi này nhiều thuốc trị an Ngoại khoa, nội trị xem toàn thuốc linh Thầy ban phép báu trong mình Lâm nguy cũng có cứu tinh đỡ đầu Từ rày con hãy nhớ câu Giận ai đừng phán chém đầu nghe chưa Người phàm nói chửa kịp thưa Âm Thần nói dứt thì vừa mạng vong Thầy khuyên con hãy nhớ làm Giận ai chém nấy chất chồng tội cao Thấy con không rõ trước sau Nên Thầy mới tỏ âm hao con tường Thôi Thầy trở lại Tòa chương Con nên giữ chức Nữ vương con à Nói rồi ông mới bước ra Thế Châu níu lại thưa qua như vầy Con xin hỏi thiệt với Thầy Số con hết đọa còn chầy hay không Chừng nào con đặng thong dong Chừng nào bỏ xác xin ông tỏ bày Nghe Thầy con trẻ ngày ngày Trao dồi nết hạnh thành tài mới mau Còn cha còn mẹ thì sao Còn vua Xiêm quốc ngự trào Xiêm bang Sợ e người xuống chỉ tràng Bắt con về nước Xiêm bang mới là Khó mong tránh khỏi Mật Đa Bị người ràng buộc biết là sao đây Nên con thưa rõ việc này Mong ơn đức cả của Thầy xét phân, Còn Anh Quạt gió xuống trần Hiện giờ anh ấy ở gần hay xa? Bửu Sơn ông mới nói ra: Chuyện gì nó tới, tới mà không ngưng Dặn lòng, lòng giữ như bưng Đóng ngăn cửa miệng xin đừng hở môi Giã con Thầy sẽ phản hồi Nói rồi biến mất nàng ngồi láo lơ. | |
CHÚ THÍCH
---------------------------------- 1. Thầy Kỳ Hương: Thầy Bửu Sơn Kỳ Hương trong tiền kiếp. 2. Thầy đi tìm trò truyền đạo. Bởi vì Thầy mới “nhìn” được trò nào có căn, có thhie6n mệnh, xứng đáng được truyền dạy. Trong thực tế trò đi tìm Thầy chỉ theo cảm tính mà thôi. 3. Tây phan: tây phương cực lạc 4. Theo quan niệm tâm linh, một người có thiên mệnh, sẽ có chư thần, hộ pháp, thiên binh, thiên tướng phù độ, hộ mệnh. 5. Theo quan niệm tâm linh, nhân duyên do tiền định, theo Luật Nhân quả. Dù hai người ở chân trời góc bể cũng sẽ tìm đến với nhau. Theo quan niệm như vậy, việc tự ý ly hôn là phạm Luật Nhân quả, sẽ gặp quả báo về sau. 6. Câu chuyện tiền kiếp, chuyện kiếp trước. 7. Mắc nợ nhau lời hứa, nên phải kết duyên tiền định, trả nợ theo Luật Nhân quả. | |
DUYÊN TIỀN ĐỊNH HẠNG THẾ CHÂU GẶP SỬ VĂN
Thế Châu lòng ngẩn dạ ngơ Thầy ta mới đó bây giờ đi đâu Như vầy thiệt khó lắm âu Mất Thầy ta biết đi đâu tìm Thầy. Thế Kim mới nói như vầy: Mất Thầy cứ nhớ lời Thầy thì xong Người thì có phép lục thông Xa Thầy cứ nắm lòng trong được rồi Hơi nào rầu rĩ bà ôi Vắng Thầy bà cứ mãi ngồi hay sao? Chuyện gì nhờ lệnh Trời cao Trời phân, Trời định có nào mất đâu Lời Thầy mình nhớ từ câu Mặt Thầy tuy vắng mình đâu xa Thầy Theo Thầy như gió như mây Gần Thầy mà chẳng nghe Thầy gần chi Xa Thầy mà giữ y y Chuyện làm đừng sái một ly lời truyền. Thế Ngân nàng mới nói liền: Tiên Hiền chỉ dạy Hậu Hiền xin nghe Nhìn sau ngó trước vắng ngoe Thế Ngân rỉ rả tiếng ve kêu sầu Sang canh quân điểm trống lầu Lời Thầy truyền dạy nhiệm màu lắm thay Tôi e Thầy nói hậu lai Tới đâu hay đó bàn hoài hao hơi Tuy là mình vẫn nhớ lời Ngẫm ra trong thế ngoài đời ai tin. Thế Châu nàng mới tỏ tình Ta đi săn bắn một mình đặng chăng! Thế Kim liền mới thưa rằng: Như bà mà muốn đi săn đặng nào Thú rừng chẳng biết là bao E cho thú dữ nó nào kể chi Bà đi tiện thiếp cũng đi Phòng cơn nghèo ngặt tôi thì tiếp tay. Nói rồi hai ả giả trai Thế Châu Nữ chúa cũng thay đồ vào Ba người cưỡi ngựa đi mau Hai nàng ở lại giữ trào Nữ vương. Càng đi càng muốn buông cương Đi săn đặng một quãng đường xa xa Phúc đâu gặp lũ nai chà Thế Châu theo đuổi chạy a vào rừng Thế Kim, Thế Ngọc ngó chừng Phen này Nữ chúa vô rừng quá sâu Trông hoài chẳng thấy bà đâu Về đền mới nổi trống chầu liên thinh Truyền cho dân chúng hay tin Nữ vương điền điệp một mình đi xa. Thế Ngân, Thế Thủy thở ra: Theo bà sao để cho bà đi đâu Nếu mà lạc chốn rừng sâu Nguy cho Nữ chúa Thế Châu hay là Hai nàng chẳng có tài ba Cho nên mới bị nai chà dẫn đi Lúc này mới thiệt lâm nguy Chúng ta phò tá chẳng thì có xong. Cùng nhau bốn ả khóc ròng Mất Vua thì chiếc Ngai rồng không ai Chúng ta có đủ đức tài Cớ sao có chuyện ngày nay như vầy Tại bà hay tại ta đây E cho bà gặp thú bầy nhai xương Còn chi ngôi vị Nữ vương Ắt bà trong sổ đoạn trường có tên Cơ đồ vừa mới dựng nên Xã tắc xây đền chưa vững lại xa, Cùng nhau thiết thiết tha tha Phúc đâu Cụ lão hiện ra nói rằng: Các con người có kiếp căn Thế nên sinh hiệp một lòng như mao Nhưng mà bụng hỡi khác màu Thử xem ai mới nêu cao tinh thần Ai người trọn đạo quân ân Thử coi cho biết vi thần vi vương, Tuy là Nữ chúa lạc đường Nhưng mà còn có người thương đỡ đần Sau nầy nàng Hạng Thế Ngân Phản nàng Nữ chúa nhiều lần lắm đa Cho nên chuyện mới xảy ra Thế Châu sau chết tại mà Thế Ngân. Bốn nàng xúm lại phân trần: Xin Thầy hãy nói gần gần tôi nghe Bọn tôi nào có mà dè Xin Thầy nói rõ con nghe cho rành Chớ con là gái trung thành Vì sao mà lại lòng đành phản nhau. Bửu Sơn (1) ông mới nói mau Lão nay nói trước ngày sau mới tường Bây giờ lão có phô trương Khác nào là chuyện hoang đường ai tin Lá lai có một chữ tình Mà tôi trung nghĩa chẳng nhìn rõ ra Nói phản thì quá nặng à Tại vì trung quá thành ra nghịch thần Đây là lời lão cạn phân Các con hãy khá ân cần sửa sang Làm người thiệt chí trung can Phơi gan bảy lá như trang anh hùng Dù chết cũng giữ chữ trung Phật Trời che chở nữ hùng vẹn an Nói cho con biết rõ ràng Đến ngày bỏ xác nhẹ nhàng còn xa Biết bao chuyện khổ con a Xác nầy muốn bỏ cho Bà Tinh Quân (2) Thôi lo việc nước việc dân Trung ngay đến chết hiển thần con ôi Nữ vương đi đã xa rồi Rạng đông nàng sẽ lại hồi chẳng sai Nói rồi ông mới đi ngay Bốn nàng ngồi ngó mặt mày buồn xo. Tuồng đời sao quá quanh co Truân chuyên lắm lúc thầy trò có nhau Hôm nay không hiểu tại sao Thầy trò ta lại xa nhau như vầy. Nhắc qua Nữ chúa đoạn nầy Lạc rừng tứ phía cỏ cây bịt bùng Lắng nghe khỉ hú não nùng Chim kêu lăng liếu chạnh lòng tư lương Phúc đâu tìm gặp mối đường Tay nâng hàm thiếc dây cương đi lần Bỗng nhiên gặp một văn nhân Ngồi bên cội lý xem gần mỏi hơi Xem qua sắc phục chói ngời Nếu không quan Trạng cũng thời Thám hoa (3) Lại gần nàng mới hay a Chàng trai tự trói chết đà đã lâu Xem tường có ấn công hầu Người bên Trung quốc đi đâu thế nầy Lần hồi nàng mới mở dây Để nằm ngay ngắn chân tay chỉnh tề Xem tường quả thiệt đang mê Rõ ràng chết giả chẳng hề chết luôn, Người buồn gặp cảnh thêm buồn Chắc là Trời sắp lớp tuồng trái ngang Ta đi bỗng bị lạc đường Một mình lạc giữa rừng hoang như vầy Phúc đâu lại gặp gã nầy Đi đâu mà đến nơi đây làm gì, Rõ ràng diện mạo vương phi Trăm năm biết có duyên gì với ta Lại gần nàng mới tay chà Mặt mày cho tới những là sau lưng Khổ nầy thiệt khổ quá chừng Thân lạc vào rừng gặp kẻ nằm mê Nếu ta mà bỏ đi về Người nầy ắt chết chẳng hề sống đâu Người khổ gặp khổ thêm sầu Nghĩ càng lụy ứa thâm bâu cõi lòng. Nàng ngồi lại dựa vào hông Trời đà chen lặng đói lòng lắm thay Phúc đâu cậu nọ thở dài Chống tay ngồi dậy mặt mày láo lơ Nhìn nàng lòng ngẩn dạ ngơ Người nầy là gái đào tơ rõ ràng Cớ sao lại hóa nam trang Nhìn đi nhìn lại rõ ràng nữ nhi Như vầy cũng rất lạ kỳ Mỹ nhân mà giả nam nhi chi cà Hay là nàng muốn cứu ta Giả trai mới dễ lân la lại gần Mình là một kẻ thọ ân Dù trai hay gái chẳng cần hỏi han Cứ coi lớp áo hóa trang Thôi thì ta hãy gọi nàng bằng anh, Nghĩ rồi chàng mới thưa rành: Thưa anh đây đến bờ gành bao xa? Thế Châu nàng mới nói ra: Đây ra bờ biển thì xa dặm dày Chàng là nam tử râu mày Đi đâu mà lại lạc loài đến đây Xem ra không phải nước nầy Đi đâu ngồi dựa cột cây rừng già? Người trai liền mới nói ra: Tôi người ở nước Trung hoa thiệt tình Quê nhà ở xứ Nam kinh Làm quan Học sĩ (4) triều đình chẳng sai Vua ban ngự tửu thưởng tài Trung thu ngoạn nguyệt đêm dài thưởng trăng Nhơn sau sấm chớp một lằn Mây che bóng nguyệt vầng trăng tối mò Phát lên một trận gió to Tỉnh ra tôi lại nằm co chốn nầy Mắt nhìn những đá với cây Tôi đà mòn mỏi chốn nầy ba hôm Những là khát nước đói cơm Chết vầy chết mỏi chết mòn còn chi Chúng mình cũng bọn nam nhi Lâm nguy bất cứu mạt phi anh hùng Xin cho tôi đặng tháp tùng Theo về hôm sớm sống cùng bên nhau Ít ngày tôi sẽ hồi trào Ơn đền nghĩa trả chẳng sao anh à. Thế Châu liền mới nói ra Đây về Trung Quốc đường xa quá chừng Núi sông còn lại biển rừng Nước non nguy hiểm trông chừng lai kinh Tôi là một kẻ chân tình Gặp ai anh sẽ đầu mình cách xa! Vì anh người nước Trung Hoa Tôi người Xiêm quốc (5) anh mà biết chăng Còn đây không phải đất bằng Vốn hòn Phú Quốc phủ vân giữa trời Của dân Chân Lạp (6) vậy thời Tôi thay mặt Chúa trị đời mới yên Muốn về Trung Quốc sơn xuyên Đi không nhờ cậy tàu thuyền khó đi Con đường hải lý lâm nguy Sao quan Học sĩ ngu si thế nầy, Tôi người có Đạo có Thầy Phải dân Chân Lạp anh đây đâu còn. Cậu trai nghe nói cười dòn: Xét ra tôi cũng vẫn còn phước duyên Thời may gặp kẻ lương hiền Phải gặp kẻ dữ về miền Diêm la Cuồng phong thổi thiệt quá xa Cách hai ba nước lại ra giữa trời Thề trên chứng có Ông Trời Tôi đây vốn thiệt tên thời Sử Văn Quyết lòng kết nghĩa kim bằng (7) Trăm năm xin giữ đạo hằng đệ huynh. Thế Châu nghe nói làm thinh Hồi lâu nàng mới sự tình tỏ phân Anh tuy thọ phẩm hoàng ân Đến đây chẳng khác là dân anh à Quan là của nước Trung Hoa Đến đây nước khác ai mà phục đâu, Còn tôi tên thiệt Thế Châu Là quan Thừa tướng công hầu danh vang Đảo nầy có một Nữ hoàng Trên Trời sa xuống trị an dân tình Để tôi về tấu Triều đình Đặng cho Nữ chúa phân minh thế nào, Chớ anh là kẻ quan Tàu Đem binh xâm lấn tôi nào có hay Anh trai tôi cũng là trai Lẽ nào tôi để kém tài nhịn thua Đành rằng ai cũng vì Vua Biết đâu mai một anh vùa dân anh Còn tôi thất thủ kinh thành Bất trung Nữ chúa tội đành xử phân, Nói rồi vội vã dời chân Sử Văn nắm lại phân trần nỉ năn: Xin anh đừng vội đi phăng Để tôi bày tỏ gốc căn sự tình Tôi nay như kẻ phiêu linh Chơi vơi trời biển biết mình về đâu Cúi xin ông bạn Thế Châu Cho theo đến phủ vào hầu Nữ vương Như bà Nữ chúa không thương Đem tôi ra chốn pháp trường cũng ưng Nơi đây tôi chết giữa rừng Linh hồn oan uổng biết chừng nào nguôi Xin chàng hãy khá lòng vui, Thế Châu nghe nói cũng xuôi thốt rằng: Hỡi nầy kìa gã Sử Văn Trời đà đã tối khó khăn về trào Ở đây đâu có dễ nào Hùm beo thú dữ nó vào xé thây Vậy chàng uống đỡ thuốc nầy Vốn là thuốc quý của Thầy mới cho Đói lòng uống nó cũng no Thuốc linh Sư trưởng ông cho tôi dùng Hôm nay may gặp anh hùng Thiệt là cảnh ngộ cùng chung một đàng Tôi đây là kẻ lạc đường Gặp cơn điền điệp dầy đoàn đi săn Vì tôi là kẻ mê ăn Gặp con nai tốt ruợt phăng bắt mồi Tôi đi đâu đặng một hồi Thì ra lạc mất Vua tôi đàng nào Nữ vương có lẽ hồi trào Còn tôi gió ngược lạc vào rừng hoang Thôi thì chịu chết cho an Chớ tôi cũng chẳng biết đàng mà đi Nơi nầy rừng núi rậm ri Muốn về không biết đường đi mà về Lần theo dấu thỏ, chân dê Sáng ngày mới có đường về Hoàng cung Nếu anh thật đấng anh hùng Lâm nguy chớ có ngại ngùng mà chi Nay nguyền kết bạn cố tri Anh quan Trung Quốc chức thì Hàn lâm Cùng tôi kết bạn đồng tâm Giữ tròn nhân nghĩa trăm năm mới là. Sử Văn liền mới nói ra: Tôi đang bụng đói sao mà lại no Thuốc nầy thiệt của Trời cho Đói lòng uống nó mà no ngộ kỳ Nếu ta làm bạn cố tri Phân vai huynh đệ phòng khi chuyện trò Nếu theo phẩm tước mà so Ngài làm Thừa tướng ai đo cho bằng Còn theo hương đảng đạo hằng Hễ ai lớn tuổi thì tăng thẩm quyền. Thế Châu nàng mới nói liền: Tôi làm Thừa tướng tước quyền tôi cao Nói theo phép nước tại trào Phẩm cao ngồi trước từ nào rồi a Hương thôn thì trọng tuổi già Thôi thì tôi nhượng người mà làm anh Tôi còn niên thiếu xuân sanh Mới mười tám tuổi phải đành nhỏ hơn Tuy là lớn chức cao quyền Nhắm mình tuổi tác nhỏ hơn quá nhiều. Sử Văn rằng chẳng bao nhiêu Lớn hơn sáu tuổi không nhiều bao lăm Nếu mà kết bạn đồng tâm Khi cờ khi rượu khi cầm, khi thi Nói rồi nẻo thẳm lần đi Hai người một ngựa quản chi núi rừng |
CHÚ THÍCH:
----------------------------
1. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương sau này.
2. Bà Tinh Quân: Theo quan niệm mỗi người sinh ra có một ngôi sao chiếu mạng, sao Chủ Mệnh, một vị thần hộ mệnh.. Khi chết sẽ được vị thần ấy thu lại linh hồn.
3. Ba thứ hạng đậu cao nhất, nhì, ba của kỳ thi do triều đình tổ chức, theo thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
4. Quan học sĩ: chức quan triều đình, trông coi giáo dục, văn hoá.
5. Xiêm quốc: Thái Lan ngày nay.
6. Chân Lạp: tiền thân Campuchia ngày nay.
7. Nghĩa kim bằng: tình bằng hữu, anh em.
----------------------------
1. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương sau này.
2. Bà Tinh Quân: Theo quan niệm mỗi người sinh ra có một ngôi sao chiếu mạng, sao Chủ Mệnh, một vị thần hộ mệnh.. Khi chết sẽ được vị thần ấy thu lại linh hồn.
3. Ba thứ hạng đậu cao nhất, nhì, ba của kỳ thi do triều đình tổ chức, theo thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
4. Quan học sĩ: chức quan triều đình, trông coi giáo dục, văn hoá.
5. Xiêm quốc: Thái Lan ngày nay.
6. Chân Lạp: tiền thân Campuchia ngày nay.
7. Nghĩa kim bằng: tình bằng hữu, anh em.
SỬ VĂN BỊ TỐNG GIAM NGỤC THẤT VÌ TỘI TRINH SÁT
NỮ VƯƠNG THA MẠNG VÀ PHONG CHỨC CHO SỬ VĂN
Phút đâu binh ó vang lừng
Quân reo dậy đất trong rừng nghe vang
Sử Văn trong bụng chẳng an
Chắc là binh của Nữ hoàng phủ vây
Thế Châu mới thốt như vầy:
Nữ vương bà mới đến đây lập thành
Lập về binh mộ chưa rành
Hiện giờ chỉ ở trong thành mấy tên
Có đâu la ó nghe rền
Hay quân Chân lạp hiện lên giờ nầy
Mắt nhìn rừng núi cỏ cây
Cớ sao tiếng nói nghe rầy lỗ tai
Phúc đâu xuất hiện như tài
Bốn nàng thiếu nữ quì ngay giữa đường
Tung hô vạn tuế Nữ vương
Chúng tôi tìm khắp các đường mới ra
Mừng mừng tủi tủi thiết tha
Tưởng tôi mãi mãi chịu xa Nữ hoàng
Nào ngờ diễm phúc Trời ban
Chúng tôi xin rước Nữ hoàng hồi cung
Người nào mà lại đi chung
Trông xem quả thiệt anh hùng lắm thay!
Thế Châu liền mới phán rày:
Người bên Trung Quốc lạc loài tới đây.
Thế Kim mới nói như vầy:
Tôi xem hình dạng gã nầy dối gian
Nếu mà sự thật lạc đàng
Sao không có vẻ ngỡ ngàng ngại nghi
Chắc là có chuyện gian phi
Xin bà hãy chém phức đi cho rồi
Làm Vua bà quá lôi thôi
Gặp người nói mép nói môi bà lầm
Gã nầy kiêm chức Hàn lâm
Ở bên Trung Quốc mà tầm nước ta
Hầu sau nó kéo binh qua
Đoạt hòn Phú Quốc lập tòa đóng đô
Gã nầy trông đủ mưu mô
Dùng chước Phụng Sồ hay gã Khổng Minh (1)
Địa đồ lập trận đóng binh
Hòn nầy chiếm đặng nước mình phải nguy,
Nhất là Chân lạp trước khi
Sau là Xiêm quốc thành trì còn đâu
Nơi đây trấn thủ địa đầu
Thất cơ đại bại còn đâu sơn hà
Nguy luôn hai nước đó bà
Làm Vua bị gạt thiệt là quá quê
Khác nào là kẻ ngủ mê
Tôi không đến kịp rước về thì nguy
Bốn phương tám hướng thông tri
Làm Vua mình phải nghĩ suy chánh tà
Bà nghe những tiếng dối ma
Gã nầy thì đã biết bà giả trang
Bà không biết gã mưu gian
Lầm mưu của giặc Nữ hoàng chưa hay!
Thế Ngọc nàng mới thưa rày:
Muôn tâu Nữ chúa chém ngay cho rồi
Xin bà xét lại bà ôi
Mưu gian của gã chúng tôi đã rành
Đến đây đặng có dòm hành
Mưu mô nó tính đoạt thành chẳng ngoa.
Thế Châu nghe nói thở ra:
Như say mới tỉnh thật là giấc mơ
Mình đây còn lắm dại khờ
Nên không liệu trước bây giờ mới khôn
Hèn chi từ lúc hoàng hôn
Gã làm bộ chết thần hồn mê man
Hồi lâu ngồi dậy lẹ làng
Ta trao bột thuốc kim hoàn uổng thay
Thề non hẹn biển quá dày
Nếu truyền lệnh chém thì sai lời thề
Như vầy thiệt khó liệu bề
Bằng giữ lời thề thì mất giang san
Thiệt là khó tính khó toan
Trên đời có kẻ tà gian như vầy
Nghĩ mình còn quá dại ngây
Nghe chàng nói nọ nói nầy mê sa
Từ đây đến nước Trung Hoa
Đi đường hải lý thì xa quá chầy
Còn đi đường bộ sang đây
Cách miền Nam hải biển này làm sao
Đường biển đi rất là mau
Còn đi đường bộ có nào mà xong
Trách ta sao quá cuồng ngông
Lòng mình chưa chắc tinh lòng trăm năm
Miệng người ta lại lạc lầm
Nghĩ mà ta bắt hổ thầm cho ta.
Thế Kim nàng mới nói ra:
Cớ sao Nữ chúa lệ sa đôi hàng
Hay là đá biết tuổi vàng (2)
Cho nên bà mới chứa chan mủi lòng.
Thế Châu mới nói: Không! Không!
Vốn ta cùng gã chưa lòng chi chi
Xin nàng đừng có ngại nghi
E cho sanh chuyện lỗi nghì về sau.
Thế Ngọc nàng mới nói mau:
Nếu bà chẳng có quen nhau với chàng
Cứ theo phép nước mà bàn
Bắt đem giam lại ngục đàng hỏi tra
Còn bằng bà có bướm hoa
Giữ chàng chẳng có cho ra khỏi thành
Kinh quyền (3) phải biết thi hành
Tùng quyền phân nửa, nhưng đành chấp kinh
Xin bà đừng có động tình
Chúng tôi đã biết nửa kinh nửa quyền.
Nói rồi áp lại trói liền
Sử Văn chẳng chút than phiền âu lo
Lần theo nhiều nẻo quanh co
Kẻ lôi họ Sử người phò Nữ vương
Cùng nhau về đến triều đường
Trời vừa hừng sáng thái dương ửng hồng
Nữ vương vào chốn thư phòng
Sử Văn thì bị giam trong ngục hình,
Nghĩ suy hai chữ nhân tình
Buồn lòng nghĩ lại chuyện mình cũng hay
Khá khen cho gái anh tài
Thấy mình thì nó biết ngay chuyện mình
Thiệt tài bốn ả nên kinh
Nữ vương là gái chân tình thiệt tâm
Người thiệt tình thiệt mới lầm
Không tường dối ngụy đâu tầm mưu gian,
Bốn nàng thì quá khôn ngoan
Chắc là hay sắp mưu gian dối đời
Chuyện xưa người cổ để lời
Mạt cưa mướp đắng (4) lẽ thời tự nhiên,
Nữ vương rõ thiệt người hiền
Nói sao nghe vậy kinh quyền biết đâu
Dù ta mà có rơi đầu
Thì nào có phải oan đâu cho mình
Vua ta thì muốn cử binh
Cảnh hòn Chân Lạp gẫm tình rất hay
Đình binh cho khỏe ít ngày
Đánh quân Chân Lạp trở tay đặng nào
Để binh tạm nghỉ cù lao
Rồi đem binh đến loạn trào Xiêm bang
Thiệt là trận chiến dễ dàng
Nào hay xuất hiện Nữ hoàng nơi đây
Lại thêm có bốn ả này
Gái Xiêm mà giỏi như vầy khá khen
Nghĩ mình đức bạc thời đen
Phải đâu lực kém tài hèn hay sao
Nay mà ngồi chốn đề lao (5)
Địa đồ ta họa làm sao cho thành
Nay ta có chết cũng đành
Nghĩ thương Nữ chúa tài lành hiền lương
Ước gì muôn việc an khương
Ta nguyền cuới gấp Nữ vương đem về
Gái Xiêm vóc liễu mày huê (6)
So nguời Trung Quốc có hề kém chi
Gái Xiêm nhắm cũng phương phi
Nữ vương gẫm thiệt nhu mì lắm thay
Giả trai xem cũng giống trai
Nhìn rõ mặt mày là gái dung nhan
Như ta đã dự phẩm quan
Trung nguyên (7) hiếm gái hồng nhan mỹ miều
Nhưng ta chẳng biết thương yêu
Nay nhìn Nữ chúa lại xiêu anh hùng
Cớ sao nhiều chuyện lạ lùng
Đêm đêm tưởng tượng nhớ nhung nàng hoài,
Mặt mày không đẹp hơn ai
Oai nghiêm có vẻ trang đài mà thôi
Thở than này hỡi Trời ơi
Tôi làm quan lớn lại ngồi đề lao
Đường đường Trung Quốc anh hào
Nay bị má đào bắt trói chân tay
Ngửa than Đức cả <8> cao dày
Gái Xiêm sao có gái tài đảm đang
Bắt trai giam giữ buộc ràng
Chừng nào mới xử pháp trường nữa đây
Chết vì bọn gái phân thây
Thì là hổ mặt râu mày trượng phu
Danh nêu để lại ngàn thu
Anh hùng bị gái nữ lưu xử hình
Thở than, than thở một mình
Như ta có chết thương tình Thế Châu,
Ước chi ba tiếng trống đầu (9)
Pháp trường có Hạng Thế Châu thị trường
Dù chết còn nặng lòng thương
Thấy nàng ta biết má hường không sai
Dù nàng mặc áo giả trai
Tướng hình con gái lộ ngoài nhiễu nhương
Vốn không có chí cang cường
Nhìn ta hai giọt mắt hường nàng rơi
Chẳng qua khó thốt nên lời
Để bọn dưới trướng trói thời ta đây
Nhớ nàng ta khó lòng khuây
Ước chi gặp lại đôi giây chuyện trò.
Ban đêm than thở nhỏ to
Thế Ngân, Thế Thủy lần dò lại nghe
Gã nầy nào có mà dè
Cho nên đa cảm than nghe não nồng
Nữ vương là gái Tiên Rồng
Gã nầy ước đặng làm chồng Thế Châu
Thiệt là người quá cơ cầu
Sao không có sợ mình đầu hai nơi
Xét ra thiệt cũng lạ đời
Nữ vương bà hỡi bà thời nào hay
Nói rồi hai ả cười dày
Tiêu phòng trở lại luận bày cùng nhau.
Thế Châu lòng luống vào vào
Đêm đêm nước mắt tuôn trào lụy rơi
Sống sanh trong kiếp người đời
Nghĩ suy hai chữ vận thời thở than
Thiệt là trăm việc bất an
Ta đà yên phận thương chàng lâm nguy
Trời xui gặp gỡ làm chi
Cứu rồi lại giết cũng kỳ lắm đa
Nói rồi nàng mới lần ra
Một mình lén bước ngang qua ngục hình
Tên quan thủ ngục lộn thinh
Mắt mù nào có mà nhìn thấy ai
Nữ vương bà đến không hay
Mở then bẻ khóa bước ngay vô liền
Sử Văn xem thấy ngạc nhiên
Thế Châu nàng mới căn nguyên phân trần
Thiệt em có lỗi muôn phần
Sử huynh đừng có ngại ngần âu lo
Làm tôi xã tắc nưng phò
Ai binh chúa nấy giữ cho trọn nghì
Thương chàng gặp lúc lâm nguy
Đến đây tôi thả chàng đi trở về
Ấy là tôi giữ lời thề
Đạo làm bạn hữu là lề xưa nay
Nếu mà để đến sáng ngày
Ắt chàng phải chịu đầu bay pháp trường
Lòng tôi hay cảm hay thương
Để chàng ra chốn pháp trường hay sao
Thôi thì chàng hãy đi mau
Nếu chàng mà chết cũng đau lòng nầy.
Sử Văn mới nói như vầy
Muôn tâu Nữ chúa tôi đây ngại ngùng
Nếu bà mở đức nhiêu dung
Tha tôi về nước vô cùng đức ân
Chỉ e dư luận quần thần
E cho bốn ả phân vân như hà
Thà tôi chết dưới tay bà
Còn hơn dư luận như hà bà ơi
Bà làm Nữ chúa tuyệt vời
Uy quyền phải có trị vì mới an
Đã là một vị Nữ hoàng
Đường đường chánh chánh trào đàng chỉ phân
Sáng mai hội đủ quần thần
Truyền đem tôi đến trước sân bệ tiền
Rồi bà phán hỏi căn nguyên
Phán quan biên chép lấy liền khẩu cung
Không tội thì sẽ nhiêu dung
Có tội thì chém hoặc dùng đoái công (10)
Nghị theo phép nước mới xong
Làm Vua tha lén thiệt không uy quyền
Làm Vua bà quá nhu hiền
Để bọn thuộc hạ giữ quyền chỉ phê
Như vầy tôi chẳng có về
Thà tôi liều chết trọn bề ước giao
Tôi thì tuổi lớn tước cao
Làm anh thì phải chuyện nào cho xong
Em còn khờ dại bất thông
Làm Vua như vậy thiệt không có rồi
Giang san công kỷ đắp bồi
Lắm công lao khổ mới ngồi trị an.
Thế Châu nghe nói thở than
Nào ai có biết có toàn chuyện chi
Bỏ cha bỏ mẹ mà đi
Bốn con thế nữ nó thì xúi tôi
Đường trường non nước xa xôi
Nó xây ngôi báu bắt ngồi làm Vua
Thiệt là sái tiết sái mùa
Tôi nào có chịu chức Vua chàng à
Làm Vua bận trí lo xa
Hết lời từ chối có mà đặng đâu
Gái thì tứ đức giữ câu
Tam tòng là phận lẽ hầu xưa nay
Cầm kỳ thêu tiểu vá may
Gái nào mà lại ngồi ngay trị đời
Làm Vua khó lắm chàng ơi
Mà bọn thị nữ nó mời phải nghe
Nên tôi phép nước không dè
Chàng nào có rõ có le sự tình
Thiệt là tôi lắm bực mình
Nên tôi vào chốn ngục hình thở than
Lén tha cho được mạng chàng
Sợ là bọn nó quyết toan chém đầu
Chàng là một kẻ mưu sâu
Tội đà đáng tội phải đâu nhẹ nhàng.
Sử Văn liền mới phân tràng
Tuy tôi có tội lịnh nàng truyền ra
Nếu nàng một tiếng bảo tha
Nào ai dám chém nàng mà biết chăng
Đường đường phép nước cao thăng
Làm Vua ai có sánh bằng nàng đâu
Ta thương nàng lắm Thế Châu
Ta nguyền chỉ dạy từng câu luật triều
Có ta nàng sẽ biết nhiều
Mai nầy nàng cứ lâm triều truyền tha
Nữ vương một tiếng phán ra
Thần dân lớn bé trẻ già đều nghe
Nàng nào có biết có dè
Nên ta mới nói nàng nghe cho rành
Thương nàng là gái xuân xanh
Dốc lòng đắp lũy bồi thành Nữ vương.
Thế Châu nghe đã tỏ tường
Giã từ trở lại cung chương của mình
Ra ngoài đóng cửa ngục hình
Ngục quan đang ngủ giật mình la lên:
Hỡi nầy văn võ hai bên
Gian nhân nó đến nhiều tên quá rồi
Bớ bớ Nữ chúa bà ôi
Cửa ngục mở rồi tên giặc thoát ra!
Thế Châu liền phát cười xòa
Ngục quan người thiệt chả cha ngu đần
Tại sao người lại la rân
Ta là Nữ chúa đến gần đề lao
Làm Vua ngó trước xem sau
Giam người phải đến đề lao coi người
Rõ ràng người thiệt dễ ngươi
Có tài la hoảng khiến người kinh tâm
Một lần thứ nhất ngươi lầm
Nếu còn tái phạm phải nằm ngục muôn
Đặng cho ngươi có học khôn
Hết còn la hoảng la nôn hoài hoài.
Nói rồi nàng mới lui hài
Về phòng trâm dắt lược cài xông hương
Vội vàng khoác áo Nữ vương
Hội trào Nữ chúa đường đường trang nghiêm
Phán rằng thừa tướng Thế Kim
Quả nhân xem thấy một điềm rất hay
Chúng ta là gái nhi hài
Dù cao chí cả cũng rày nữ nhi
Bì so cho lại tu mi
Còn tên họ Sử tầm tri đại hình
Gã nầy ắt phải thông minh
Nên sang nước ngoại quyết tình đoạt thâu
Nếu không dũng cảm mưu mầu
Dám nào thám thính địa đầu nước ta
Vậy thì vào ngục dẫn ra
Cho ta xem hắn nên tha chăng rày
Nếu ta cần gã giúp tài
Thì nên tha lỏng còn hay hơn nhiều
Tùy cơ ứng biến theo chiều
Tính sao cho vẹn mỗi điều thì xong.
Thế Kim nàng cũng bằng lòng
Dẫn chàng ra trước sân rồng tung hô
Nữ vương xem thấy mới phô
Sử Văn thám thính địa đồ xong chưa?
Sử Văn nghe hỏi liền thưa
Muôn tâu Nữ chúa vốn chưa có rồi
Nếu bà mở lượng tha tôi
Tôi nguyền ra sức đắp bồi giang san
Cho bà Ngôi chúa trị an
Nếu sau tôi có phụ phàng điều chi
Thề rằng chịu chết lăng trì (11)
Nữ vương tha tội có gì là hơn
Bằng không tôi chẳng lòng hờn
Anh hùng cái chết chẳng sờn chẳng nao
Chết cho rạng mặt anh hào
Sống thì quyền quý chết vào sổ son
Ngàn năm công cả cũng còn
Nếu tôi có chết đã tròn lịnh Vua
Ngặt tôi ý muốn giúp vùa
Giúp cho Nữ chủ ngôi Vua thêm mầu.
Thế Kim tâu trước sân chầu:
Xin tha họ Sử và thâu gã nầy
Quyết lưu gã ở lại đây
Ngày ngày có bọn tôi đây canh chừng
Bao la thì biển với rừng
Vậy thì tha chém cầm chân lại liền.
Thế Ngọc nàng mới tâu liền:
Muôn tâu Nữ chúa hãy truyền lịnh tha.
Thế Thủy nàng mới nói ra
Các chị đàn bà nhẹ dạ lắm thay
Chúng ta là gái nhi hài
Không nên lưu trữ bọn trai anh hào
Nhất là cái bọn người Tào (12)
Miệng đường lưỡi mật má đào dễ siêu
Để cho chàng ở trong triều
E cho trong nước sanh nhiều trăng hoa
Bọn mình là gái quần thoa
Chàng đây là nước Trung Hoa mới vào
Các bà phải liệu làm sao
Chớ chứa trai Tào nội trướng chửa hoang
Chỉ e đêm vắng canh tràng
Cửa thành bị phá Nữ hoàng mất trinh
Thì là lỗi của chúng mình
Tùng quyền không đặng chấp kinh mới là
Tính cho yên nước lợi nhà
Phò Bà phải giữ cho Bà trung kiên
Mình là bọn gái thuyền quyên
Phải lo gìn giữ mối giềng cho nhau
Nếu Bà mà có thế nào
Trời sai mình giữ vườn đào Nữ vương
Nếu không lấp ngõ ngăn đường
Chỉ e khổ lụy oan ương sau nầy
Đành rằng chẳng dạ gió mây
Lâu ngày biết phải sau này chi chăng
Tốt hơn chém phứt Sử Văn
Sợi dây oan nghiệt dứt phăng cho rồi
Mấy bà thiệt quá lôi thôi
Để cho cỏ nội đâm chồi kết hoa.
Sử Văn liền mới nói ra
Lời nàng nói đó nghe ra lạ lùng
Tôi nguyền giữ dạ chí trung
Mặc tình Nữ chúa có dùng hay chê
Người trên chưa xuống chỉ phê
Nàng là kẻ dưới nhún trề sao nên
Nhỏ mà dám lấn quyền trên
Sân chầu lại dám nói lên vang vầy
Dù tôi có chết cũng khuây
Kiếp sau trở lại kiếp nầy báo oan
Để cho Nữ chúa lịnh tràng
Đạo làm thần tử phận nàng xong chi
To gan dám nói chuyện kỳ
Rõ ràng vô lễ thị tỳ nhích môi.
Thế Ngân mới nói: Thôi thôi!
Chuyện gì cũng có bọn tôi luận bàn
Xin người đừng có phàn nàn
Tôi xin Nữ chúa lịnh tràng phóng tha
Chữ trinh ta giữ lòng ta
Để trong khối óc mới là gái trinh
Chính chuyên mình giữ lấy mình
Đừng đem ngoài miệng người khinh ích gì
Ta là một bọn nữ nhi
Nếu không lơi lả nói gì trăng hoa
Nào ai dám phá bọn ta
Chính chuyên để bụng nói ra chẳng nhầm,
Trung thì mình biết trong tâm
Trung ngoài cửa miệng như tằm xấu dâu
Nói ra mình phải giữ câu
Đừng lời dối mị mày râu phê bình
Nếu chàng nhờ phước nhiêu sinh
Cũng trong quyền của bọn mình truyền cho
Hơi nào các chị sợ lo
Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu,
Sợ là sợ kẻ cơ cầu
Sợ người sớm đánh tối đầu khó a
Muôn tâu Nữ chúa xét ra
Truyền tha họ Sử thì là hay hơn
Phong làm Tham tước cao hoàng
Vào ra phò tá bệ đơn mình vàng
Nhưng mà chàng phải trung can
Nếu sau phản loạn mạng chàng phải vong.
Nữ vương phán giữa Ngai Rồng
Truyền tha họ Sử lập công sau nầy
Phong làm Tham tướng vui vầy
Cho vào ở cạnh lầu tây Nữ Hoàng
Sử Văn quỳ trước Bệ vàng
Cám ơn Nữ chúa mở đàng phóng sinh
Với cùng mấy ả rộng tình
Từ đây tôi sẽ hết mình giúp vô
Quyết đem mưu của Phụng Sồ
Giúp cho Nữ chúa cơ đồ vững yên
Nữ vương truyền đãi yến viên
Chúa tôi cộng lại mối giềng chung lo.
NỮ VƯƠNG THA MẠNG VÀ PHONG CHỨC CHO SỬ VĂN
Phút đâu binh ó vang lừng
Quân reo dậy đất trong rừng nghe vang
Sử Văn trong bụng chẳng an
Chắc là binh của Nữ hoàng phủ vây
Thế Châu mới thốt như vầy:
Nữ vương bà mới đến đây lập thành
Lập về binh mộ chưa rành
Hiện giờ chỉ ở trong thành mấy tên
Có đâu la ó nghe rền
Hay quân Chân lạp hiện lên giờ nầy
Mắt nhìn rừng núi cỏ cây
Cớ sao tiếng nói nghe rầy lỗ tai
Phúc đâu xuất hiện như tài
Bốn nàng thiếu nữ quì ngay giữa đường
Tung hô vạn tuế Nữ vương
Chúng tôi tìm khắp các đường mới ra
Mừng mừng tủi tủi thiết tha
Tưởng tôi mãi mãi chịu xa Nữ hoàng
Nào ngờ diễm phúc Trời ban
Chúng tôi xin rước Nữ hoàng hồi cung
Người nào mà lại đi chung
Trông xem quả thiệt anh hùng lắm thay!
Thế Châu liền mới phán rày:
Người bên Trung Quốc lạc loài tới đây.
Thế Kim mới nói như vầy:
Tôi xem hình dạng gã nầy dối gian
Nếu mà sự thật lạc đàng
Sao không có vẻ ngỡ ngàng ngại nghi
Chắc là có chuyện gian phi
Xin bà hãy chém phức đi cho rồi
Làm Vua bà quá lôi thôi
Gặp người nói mép nói môi bà lầm
Gã nầy kiêm chức Hàn lâm
Ở bên Trung Quốc mà tầm nước ta
Hầu sau nó kéo binh qua
Đoạt hòn Phú Quốc lập tòa đóng đô
Gã nầy trông đủ mưu mô
Dùng chước Phụng Sồ hay gã Khổng Minh (1)
Địa đồ lập trận đóng binh
Hòn nầy chiếm đặng nước mình phải nguy,
Nhất là Chân lạp trước khi
Sau là Xiêm quốc thành trì còn đâu
Nơi đây trấn thủ địa đầu
Thất cơ đại bại còn đâu sơn hà
Nguy luôn hai nước đó bà
Làm Vua bị gạt thiệt là quá quê
Khác nào là kẻ ngủ mê
Tôi không đến kịp rước về thì nguy
Bốn phương tám hướng thông tri
Làm Vua mình phải nghĩ suy chánh tà
Bà nghe những tiếng dối ma
Gã nầy thì đã biết bà giả trang
Bà không biết gã mưu gian
Lầm mưu của giặc Nữ hoàng chưa hay!
Thế Ngọc nàng mới thưa rày:
Muôn tâu Nữ chúa chém ngay cho rồi
Xin bà xét lại bà ôi
Mưu gian của gã chúng tôi đã rành
Đến đây đặng có dòm hành
Mưu mô nó tính đoạt thành chẳng ngoa.
Thế Châu nghe nói thở ra:
Như say mới tỉnh thật là giấc mơ
Mình đây còn lắm dại khờ
Nên không liệu trước bây giờ mới khôn
Hèn chi từ lúc hoàng hôn
Gã làm bộ chết thần hồn mê man
Hồi lâu ngồi dậy lẹ làng
Ta trao bột thuốc kim hoàn uổng thay
Thề non hẹn biển quá dày
Nếu truyền lệnh chém thì sai lời thề
Như vầy thiệt khó liệu bề
Bằng giữ lời thề thì mất giang san
Thiệt là khó tính khó toan
Trên đời có kẻ tà gian như vầy
Nghĩ mình còn quá dại ngây
Nghe chàng nói nọ nói nầy mê sa
Từ đây đến nước Trung Hoa
Đi đường hải lý thì xa quá chầy
Còn đi đường bộ sang đây
Cách miền Nam hải biển này làm sao
Đường biển đi rất là mau
Còn đi đường bộ có nào mà xong
Trách ta sao quá cuồng ngông
Lòng mình chưa chắc tinh lòng trăm năm
Miệng người ta lại lạc lầm
Nghĩ mà ta bắt hổ thầm cho ta.
Thế Kim nàng mới nói ra:
Cớ sao Nữ chúa lệ sa đôi hàng
Hay là đá biết tuổi vàng (2)
Cho nên bà mới chứa chan mủi lòng.
Thế Châu mới nói: Không! Không!
Vốn ta cùng gã chưa lòng chi chi
Xin nàng đừng có ngại nghi
E cho sanh chuyện lỗi nghì về sau.
Thế Ngọc nàng mới nói mau:
Nếu bà chẳng có quen nhau với chàng
Cứ theo phép nước mà bàn
Bắt đem giam lại ngục đàng hỏi tra
Còn bằng bà có bướm hoa
Giữ chàng chẳng có cho ra khỏi thành
Kinh quyền (3) phải biết thi hành
Tùng quyền phân nửa, nhưng đành chấp kinh
Xin bà đừng có động tình
Chúng tôi đã biết nửa kinh nửa quyền.
Nói rồi áp lại trói liền
Sử Văn chẳng chút than phiền âu lo
Lần theo nhiều nẻo quanh co
Kẻ lôi họ Sử người phò Nữ vương
Cùng nhau về đến triều đường
Trời vừa hừng sáng thái dương ửng hồng
Nữ vương vào chốn thư phòng
Sử Văn thì bị giam trong ngục hình,
Nghĩ suy hai chữ nhân tình
Buồn lòng nghĩ lại chuyện mình cũng hay
Khá khen cho gái anh tài
Thấy mình thì nó biết ngay chuyện mình
Thiệt tài bốn ả nên kinh
Nữ vương là gái chân tình thiệt tâm
Người thiệt tình thiệt mới lầm
Không tường dối ngụy đâu tầm mưu gian,
Bốn nàng thì quá khôn ngoan
Chắc là hay sắp mưu gian dối đời
Chuyện xưa người cổ để lời
Mạt cưa mướp đắng (4) lẽ thời tự nhiên,
Nữ vương rõ thiệt người hiền
Nói sao nghe vậy kinh quyền biết đâu
Dù ta mà có rơi đầu
Thì nào có phải oan đâu cho mình
Vua ta thì muốn cử binh
Cảnh hòn Chân Lạp gẫm tình rất hay
Đình binh cho khỏe ít ngày
Đánh quân Chân Lạp trở tay đặng nào
Để binh tạm nghỉ cù lao
Rồi đem binh đến loạn trào Xiêm bang
Thiệt là trận chiến dễ dàng
Nào hay xuất hiện Nữ hoàng nơi đây
Lại thêm có bốn ả này
Gái Xiêm mà giỏi như vầy khá khen
Nghĩ mình đức bạc thời đen
Phải đâu lực kém tài hèn hay sao
Nay mà ngồi chốn đề lao (5)
Địa đồ ta họa làm sao cho thành
Nay ta có chết cũng đành
Nghĩ thương Nữ chúa tài lành hiền lương
Ước gì muôn việc an khương
Ta nguyền cuới gấp Nữ vương đem về
Gái Xiêm vóc liễu mày huê (6)
So nguời Trung Quốc có hề kém chi
Gái Xiêm nhắm cũng phương phi
Nữ vương gẫm thiệt nhu mì lắm thay
Giả trai xem cũng giống trai
Nhìn rõ mặt mày là gái dung nhan
Như ta đã dự phẩm quan
Trung nguyên (7) hiếm gái hồng nhan mỹ miều
Nhưng ta chẳng biết thương yêu
Nay nhìn Nữ chúa lại xiêu anh hùng
Cớ sao nhiều chuyện lạ lùng
Đêm đêm tưởng tượng nhớ nhung nàng hoài,
Mặt mày không đẹp hơn ai
Oai nghiêm có vẻ trang đài mà thôi
Thở than này hỡi Trời ơi
Tôi làm quan lớn lại ngồi đề lao
Đường đường Trung Quốc anh hào
Nay bị má đào bắt trói chân tay
Ngửa than Đức cả <8> cao dày
Gái Xiêm sao có gái tài đảm đang
Bắt trai giam giữ buộc ràng
Chừng nào mới xử pháp trường nữa đây
Chết vì bọn gái phân thây
Thì là hổ mặt râu mày trượng phu
Danh nêu để lại ngàn thu
Anh hùng bị gái nữ lưu xử hình
Thở than, than thở một mình
Như ta có chết thương tình Thế Châu,
Ước chi ba tiếng trống đầu (9)
Pháp trường có Hạng Thế Châu thị trường
Dù chết còn nặng lòng thương
Thấy nàng ta biết má hường không sai
Dù nàng mặc áo giả trai
Tướng hình con gái lộ ngoài nhiễu nhương
Vốn không có chí cang cường
Nhìn ta hai giọt mắt hường nàng rơi
Chẳng qua khó thốt nên lời
Để bọn dưới trướng trói thời ta đây
Nhớ nàng ta khó lòng khuây
Ước chi gặp lại đôi giây chuyện trò.
Ban đêm than thở nhỏ to
Thế Ngân, Thế Thủy lần dò lại nghe
Gã nầy nào có mà dè
Cho nên đa cảm than nghe não nồng
Nữ vương là gái Tiên Rồng
Gã nầy ước đặng làm chồng Thế Châu
Thiệt là người quá cơ cầu
Sao không có sợ mình đầu hai nơi
Xét ra thiệt cũng lạ đời
Nữ vương bà hỡi bà thời nào hay
Nói rồi hai ả cười dày
Tiêu phòng trở lại luận bày cùng nhau.
Thế Châu lòng luống vào vào
Đêm đêm nước mắt tuôn trào lụy rơi
Sống sanh trong kiếp người đời
Nghĩ suy hai chữ vận thời thở than
Thiệt là trăm việc bất an
Ta đà yên phận thương chàng lâm nguy
Trời xui gặp gỡ làm chi
Cứu rồi lại giết cũng kỳ lắm đa
Nói rồi nàng mới lần ra
Một mình lén bước ngang qua ngục hình
Tên quan thủ ngục lộn thinh
Mắt mù nào có mà nhìn thấy ai
Nữ vương bà đến không hay
Mở then bẻ khóa bước ngay vô liền
Sử Văn xem thấy ngạc nhiên
Thế Châu nàng mới căn nguyên phân trần
Thiệt em có lỗi muôn phần
Sử huynh đừng có ngại ngần âu lo
Làm tôi xã tắc nưng phò
Ai binh chúa nấy giữ cho trọn nghì
Thương chàng gặp lúc lâm nguy
Đến đây tôi thả chàng đi trở về
Ấy là tôi giữ lời thề
Đạo làm bạn hữu là lề xưa nay
Nếu mà để đến sáng ngày
Ắt chàng phải chịu đầu bay pháp trường
Lòng tôi hay cảm hay thương
Để chàng ra chốn pháp trường hay sao
Thôi thì chàng hãy đi mau
Nếu chàng mà chết cũng đau lòng nầy.
Sử Văn mới nói như vầy
Muôn tâu Nữ chúa tôi đây ngại ngùng
Nếu bà mở đức nhiêu dung
Tha tôi về nước vô cùng đức ân
Chỉ e dư luận quần thần
E cho bốn ả phân vân như hà
Thà tôi chết dưới tay bà
Còn hơn dư luận như hà bà ơi
Bà làm Nữ chúa tuyệt vời
Uy quyền phải có trị vì mới an
Đã là một vị Nữ hoàng
Đường đường chánh chánh trào đàng chỉ phân
Sáng mai hội đủ quần thần
Truyền đem tôi đến trước sân bệ tiền
Rồi bà phán hỏi căn nguyên
Phán quan biên chép lấy liền khẩu cung
Không tội thì sẽ nhiêu dung
Có tội thì chém hoặc dùng đoái công (10)
Nghị theo phép nước mới xong
Làm Vua tha lén thiệt không uy quyền
Làm Vua bà quá nhu hiền
Để bọn thuộc hạ giữ quyền chỉ phê
Như vầy tôi chẳng có về
Thà tôi liều chết trọn bề ước giao
Tôi thì tuổi lớn tước cao
Làm anh thì phải chuyện nào cho xong
Em còn khờ dại bất thông
Làm Vua như vậy thiệt không có rồi
Giang san công kỷ đắp bồi
Lắm công lao khổ mới ngồi trị an.
Thế Châu nghe nói thở than
Nào ai có biết có toàn chuyện chi
Bỏ cha bỏ mẹ mà đi
Bốn con thế nữ nó thì xúi tôi
Đường trường non nước xa xôi
Nó xây ngôi báu bắt ngồi làm Vua
Thiệt là sái tiết sái mùa
Tôi nào có chịu chức Vua chàng à
Làm Vua bận trí lo xa
Hết lời từ chối có mà đặng đâu
Gái thì tứ đức giữ câu
Tam tòng là phận lẽ hầu xưa nay
Cầm kỳ thêu tiểu vá may
Gái nào mà lại ngồi ngay trị đời
Làm Vua khó lắm chàng ơi
Mà bọn thị nữ nó mời phải nghe
Nên tôi phép nước không dè
Chàng nào có rõ có le sự tình
Thiệt là tôi lắm bực mình
Nên tôi vào chốn ngục hình thở than
Lén tha cho được mạng chàng
Sợ là bọn nó quyết toan chém đầu
Chàng là một kẻ mưu sâu
Tội đà đáng tội phải đâu nhẹ nhàng.
Sử Văn liền mới phân tràng
Tuy tôi có tội lịnh nàng truyền ra
Nếu nàng một tiếng bảo tha
Nào ai dám chém nàng mà biết chăng
Đường đường phép nước cao thăng
Làm Vua ai có sánh bằng nàng đâu
Ta thương nàng lắm Thế Châu
Ta nguyền chỉ dạy từng câu luật triều
Có ta nàng sẽ biết nhiều
Mai nầy nàng cứ lâm triều truyền tha
Nữ vương một tiếng phán ra
Thần dân lớn bé trẻ già đều nghe
Nàng nào có biết có dè
Nên ta mới nói nàng nghe cho rành
Thương nàng là gái xuân xanh
Dốc lòng đắp lũy bồi thành Nữ vương.
Thế Châu nghe đã tỏ tường
Giã từ trở lại cung chương của mình
Ra ngoài đóng cửa ngục hình
Ngục quan đang ngủ giật mình la lên:
Hỡi nầy văn võ hai bên
Gian nhân nó đến nhiều tên quá rồi
Bớ bớ Nữ chúa bà ôi
Cửa ngục mở rồi tên giặc thoát ra!
Thế Châu liền phát cười xòa
Ngục quan người thiệt chả cha ngu đần
Tại sao người lại la rân
Ta là Nữ chúa đến gần đề lao
Làm Vua ngó trước xem sau
Giam người phải đến đề lao coi người
Rõ ràng người thiệt dễ ngươi
Có tài la hoảng khiến người kinh tâm
Một lần thứ nhất ngươi lầm
Nếu còn tái phạm phải nằm ngục muôn
Đặng cho ngươi có học khôn
Hết còn la hoảng la nôn hoài hoài.
Nói rồi nàng mới lui hài
Về phòng trâm dắt lược cài xông hương
Vội vàng khoác áo Nữ vương
Hội trào Nữ chúa đường đường trang nghiêm
Phán rằng thừa tướng Thế Kim
Quả nhân xem thấy một điềm rất hay
Chúng ta là gái nhi hài
Dù cao chí cả cũng rày nữ nhi
Bì so cho lại tu mi
Còn tên họ Sử tầm tri đại hình
Gã nầy ắt phải thông minh
Nên sang nước ngoại quyết tình đoạt thâu
Nếu không dũng cảm mưu mầu
Dám nào thám thính địa đầu nước ta
Vậy thì vào ngục dẫn ra
Cho ta xem hắn nên tha chăng rày
Nếu ta cần gã giúp tài
Thì nên tha lỏng còn hay hơn nhiều
Tùy cơ ứng biến theo chiều
Tính sao cho vẹn mỗi điều thì xong.
Thế Kim nàng cũng bằng lòng
Dẫn chàng ra trước sân rồng tung hô
Nữ vương xem thấy mới phô
Sử Văn thám thính địa đồ xong chưa?
Sử Văn nghe hỏi liền thưa
Muôn tâu Nữ chúa vốn chưa có rồi
Nếu bà mở lượng tha tôi
Tôi nguyền ra sức đắp bồi giang san
Cho bà Ngôi chúa trị an
Nếu sau tôi có phụ phàng điều chi
Thề rằng chịu chết lăng trì (11)
Nữ vương tha tội có gì là hơn
Bằng không tôi chẳng lòng hờn
Anh hùng cái chết chẳng sờn chẳng nao
Chết cho rạng mặt anh hào
Sống thì quyền quý chết vào sổ son
Ngàn năm công cả cũng còn
Nếu tôi có chết đã tròn lịnh Vua
Ngặt tôi ý muốn giúp vùa
Giúp cho Nữ chủ ngôi Vua thêm mầu.
Thế Kim tâu trước sân chầu:
Xin tha họ Sử và thâu gã nầy
Quyết lưu gã ở lại đây
Ngày ngày có bọn tôi đây canh chừng
Bao la thì biển với rừng
Vậy thì tha chém cầm chân lại liền.
Thế Ngọc nàng mới tâu liền:
Muôn tâu Nữ chúa hãy truyền lịnh tha.
Thế Thủy nàng mới nói ra
Các chị đàn bà nhẹ dạ lắm thay
Chúng ta là gái nhi hài
Không nên lưu trữ bọn trai anh hào
Nhất là cái bọn người Tào (12)
Miệng đường lưỡi mật má đào dễ siêu
Để cho chàng ở trong triều
E cho trong nước sanh nhiều trăng hoa
Bọn mình là gái quần thoa
Chàng đây là nước Trung Hoa mới vào
Các bà phải liệu làm sao
Chớ chứa trai Tào nội trướng chửa hoang
Chỉ e đêm vắng canh tràng
Cửa thành bị phá Nữ hoàng mất trinh
Thì là lỗi của chúng mình
Tùng quyền không đặng chấp kinh mới là
Tính cho yên nước lợi nhà
Phò Bà phải giữ cho Bà trung kiên
Mình là bọn gái thuyền quyên
Phải lo gìn giữ mối giềng cho nhau
Nếu Bà mà có thế nào
Trời sai mình giữ vườn đào Nữ vương
Nếu không lấp ngõ ngăn đường
Chỉ e khổ lụy oan ương sau nầy
Đành rằng chẳng dạ gió mây
Lâu ngày biết phải sau này chi chăng
Tốt hơn chém phứt Sử Văn
Sợi dây oan nghiệt dứt phăng cho rồi
Mấy bà thiệt quá lôi thôi
Để cho cỏ nội đâm chồi kết hoa.
Sử Văn liền mới nói ra
Lời nàng nói đó nghe ra lạ lùng
Tôi nguyền giữ dạ chí trung
Mặc tình Nữ chúa có dùng hay chê
Người trên chưa xuống chỉ phê
Nàng là kẻ dưới nhún trề sao nên
Nhỏ mà dám lấn quyền trên
Sân chầu lại dám nói lên vang vầy
Dù tôi có chết cũng khuây
Kiếp sau trở lại kiếp nầy báo oan
Để cho Nữ chúa lịnh tràng
Đạo làm thần tử phận nàng xong chi
To gan dám nói chuyện kỳ
Rõ ràng vô lễ thị tỳ nhích môi.
Thế Ngân mới nói: Thôi thôi!
Chuyện gì cũng có bọn tôi luận bàn
Xin người đừng có phàn nàn
Tôi xin Nữ chúa lịnh tràng phóng tha
Chữ trinh ta giữ lòng ta
Để trong khối óc mới là gái trinh
Chính chuyên mình giữ lấy mình
Đừng đem ngoài miệng người khinh ích gì
Ta là một bọn nữ nhi
Nếu không lơi lả nói gì trăng hoa
Nào ai dám phá bọn ta
Chính chuyên để bụng nói ra chẳng nhầm,
Trung thì mình biết trong tâm
Trung ngoài cửa miệng như tằm xấu dâu
Nói ra mình phải giữ câu
Đừng lời dối mị mày râu phê bình
Nếu chàng nhờ phước nhiêu sinh
Cũng trong quyền của bọn mình truyền cho
Hơi nào các chị sợ lo
Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu,
Sợ là sợ kẻ cơ cầu
Sợ người sớm đánh tối đầu khó a
Muôn tâu Nữ chúa xét ra
Truyền tha họ Sử thì là hay hơn
Phong làm Tham tước cao hoàng
Vào ra phò tá bệ đơn mình vàng
Nhưng mà chàng phải trung can
Nếu sau phản loạn mạng chàng phải vong.
Nữ vương phán giữa Ngai Rồng
Truyền tha họ Sử lập công sau nầy
Phong làm Tham tướng vui vầy
Cho vào ở cạnh lầu tây Nữ Hoàng
Sử Văn quỳ trước Bệ vàng
Cám ơn Nữ chúa mở đàng phóng sinh
Với cùng mấy ả rộng tình
Từ đây tôi sẽ hết mình giúp vô
Quyết đem mưu của Phụng Sồ
Giúp cho Nữ chúa cơ đồ vững yên
Nữ vương truyền đãi yến viên
Chúa tôi cộng lại mối giềng chung lo.
CHÚ THÍCH
------------------------------- 1. Phụng Sồ: Phượng Sồ, là đạo hiệu của Bàng Thống (178-213), một quân sư nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam quốc, thường được người đời sau so sánh tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông. Khổng Minh: tên thật Gia Cát Lượng (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ, Nỏ Liên Châu bắn ra liên tục, Mộc ngưu Lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền ông còn là người phát minh ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Khổng Minh Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa. 2. Đá biết tuổi vàng: muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, tốt hay xấu, người ta dùng đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Ý nói đã qua thử thách, trao đổi, hiểu biết và yêu thương nhau. 3. Kinh quyền: kinh văn (văn bản pháp luật) và uy quyền (sức mạnh quân sự). Ý nói tuân theo nguyên tắc, thể chế quốc gia. 4. Mạt cưa mướp đắng: chuyện cổ tích một người lấy mạt cưa giả làm cám đợi lúc nhá nhem tối đem ra chợ bán, gặp một người lấy mướp đắng giả làm dưa chuột ra chợ bán. Hai người mua bán với nhau, thế là cùng bị mắc lừa. 5. Chốn đề lao: tù ngục 6. Vóc liễu mày huê: dáng người mảnh mai như cành liễu, chân mày thanh và cong như cánh hoa. 7. Trung nguyên: Trung Hoa 8. Đức cả: Thượng đế 9. Ba tiếng trống đầu: trống canh ba, giờ pháp trường xử trảm, khi trời còn tối, trước khi mặt trời lên. 10. Đoái công: lập công chuộc tội 11. Lăng trì: tùng xẻo 12. Người Tào: người của Tào Tháo, ý nói người Trung Hoa. | |||||||
HẠNG THẾ CHÂU TUYỂN MỘ QUÂN BINH
NHỮNG NGƯỜI OAN GIA NGHIỆP CHƯỚNG Đoạn nầy nhắc chuyện Ông Đò Giả làm thương khách đi lo lương tiền Đủ đầy mỗi việc đã yên Vợ chồng trở lại phúc liền tâu qua: Từ tôi về nước Xiêm la Chiêu binh mãi mã cũng là đã xong Lương tiền đầy đủ niêm phong Về tâu Nữ chúa rõ thông sự tình. Nữ vương kiều diễm tướng binh Tra lương đủ số đẹp tình lắm thay Phán rằng: Hay thiệt là hay Ông bà công đức cao dày lắm đa Ghi công cao cả ông bà, Sử Văn xem thấy tâu qua như vầy: Nữ vương truyền mộ binh nầy Trò cười thiên hạ làm nhây rõ ràng Lính gì một số mắt làng Làm sao thấy ngõ thấy đàng mà đi Cùi đui nào có làm gì Một giò một mắt làm chi quá nhiều Phá cho lương lực mau tiêu Phế nhân mà dụng chi nhiều dữ a! Nữ vương liền mới phán ra: Tham tướng chẳng biết ý ta như vầy Số là cái bọn nầy đây Sống trong xã hội đủ đầy gian nan Ăn xin cùng xóm cuối làng Sống đời vô vị buồn than vô cùng, Ngủ thời không chiếu không mùng Đầu đường xó chợ vô cùng chơ vơ Đồng cam sông cảnh vật vờ Cũng người nhân loại bơ vơ khổ sầu Xét người có tệ gì đâu Chẳng qua bị đọa đau sầu lắm thay Sống trong cái kiếp ăn mày Tháng vắn năm dài kẻ thị người khi Nào ai mà có đoái gì Nên tôi cảm mến từ bi thiện hòa Cũng là số mạng người ta Người giàu nhiều kẻ theo a rộ rần Kẻ nghèo chẳng có ai cần Dù cho là kẻ cao nhân mà nghèo Cũng là sau trước quạnh hiu Nghĩ trong nhân loại có nhiều gay go, Nên tôi suy nghĩ đắn đo Quyết làm cõi thế đặng cho hài lòng Những người đức bạc cùi phong Cùng là đui tối ngẫm lòng càng thương Bọn cùi thì nó thấy đường Phong quan Tuần phủ biên cương giữ gìn, Kẻ mù không thấy bóng hình Phong làm lính giữ dịch đình thì hay Từ đây các bọn ăn mày Sẽ là an nỗi trong ngày tàn hơi Có quyền tra hỏi nơi nơi Ai người lạ mặt nó mời hỏi han, Mù thì giữ cửa môn quan Cùi thì tuần phủ phải sang chăng là. Sử Văn mới nói hay a Ấy người bạc phước nhưng mà hồng ân Nữ vương rõ thiệt lòng nhân Muốn cho trong nước tôi dân vui vầy, Đời bình nhờ có bọn nầy Gặp khi nước loạn bỏ thây hằng hà Nói rồi Tham tướng cười xòa Hôm nay mới biết lính bà Nữ vương Rặt ròng bọn chẳng thấy đường Như vầy ngoại quốc xem thường xem khinh Chính tôi cũng bắt bực mình Mù lòa nào có mà nhìn thấy ai! Nữ vương nàng mới thưa rằng: Dùng người ai có dụng tài mà chi Tôi đà suy nghĩ chuyện ni Ai ai nào có khác chi đâu là Người nào cũng có mẹ cha Lửa hương phụng tự ông bà lưu lai Chẳng qua đức bạc vô tài Hạ mình làm phận tay sai của người Cũng là lắm lúc hổ ngươi Người ta ai cũng là người chàng ơi, Tôi e mang tội với Trời Bắt người phục dịch tội thời khó tha Tôi nhìn các nước gần xa Mấy ông Hoàng đế chẳng mà nghĩ suy Muốn mình ngồi giữa đơn trì Thần dân trong nước bái quỳ dạ vâng Gặp khi ngoại quốc binh hưng Đoạt thành phá ải lẫy lừng làm oai Vua truyền chọn tuyển các trai Phải ra điền lính cự rày ngoại bang Gây thêm nhiều cảnh tương tàn Con sông vô định máu tràn minh minh Biết bao là kẻ lụy mình Lấy ai phụng tự bàn linh tổ đường Đem thân ra chốn chiến trường Máu rơi thịt đổ bỏ xương trận tiền, Làm Vua vui sướng uy quyền Không thương dân chúng ưu phiền biết bao Còn tôi là gái má đào Làm Vua mà lại rất giàu đức nhân Vẻ xinh vẻ đẹp không cần Cho nên chọn kẻ phế nhân như vầy, Nếu mình có đức đủ đầy Lo gì binh giặc phủ vây đoạt thành (1) Nếu mình mãi giữ đức lành Nước ai nấy giữ tranh giành làm chi Bọn người vô lại ích chi Tánh tôi rất thiệt lạ kỳ lắm đa Bọn nầy kẻ đạp người chà Biết bao tủi nhục khổ mà thân sinh Nay tôi truyền mộ bộ binh Phát lương đầy đủ quy binh hằng hà. Sử Văn liền mới nói ra: Từ kim chí cổ có mà mấy ai Ra binh cái bọn ăn mày Tăng thêm phẩm giá quyền oai rất nhiều. Thế Châu liền phán giữa triều: Công người thương mãi quá nhiều uy linh Phong làm Thượng phụ triều đình Hầu lo trong nước giữ gìn thần dân. Vợ chồng cụ lão tạ ân Từ rày chồng vợ yên thân nơi nầy. Thế Châu nghĩ nhớ bóng Thầy Ngày nay như vậy mai đây thế nào Nghĩ Thầy đã lắm công lao Nói cho ta biết kẻ nào thịnh suy Từ Thầy cất bước ra đi Lòng ta ái ngại xiết chi lo lường Phải chăng gặp thuở thịnh đường Hay là gặp cảnh nhiễu nhương khó lòng Ước gì gặp lại Sư Ông Đặng ta hỏi rõ đục trong vận thời. Phúc đâu Thầy đã tới nơi (2) Thế Châu xem thấy liền mời vào trong Từ ngày Thầy đã thẳng xông Thân con lao lý nhiều vòng gian nan Nay Thầy trở lại Triều đàng Từ đây thân trẻ vững an nhờ Thầy. Bửu Sơn (3) mới nói như vầy: Con nay thạnh trị hội nầy khải ca Trăm năm trong cõi người ta Trước gìn chữ hiếu đạo nhà vẹn hai Sau rồi mới đến việc ngoài Nhất là Vua Chúa chớ quên lời truyền, Chữ rằng hiếu nghĩa vi tiên Đạo nhà phải giữ mối giềng nghe con Nếu con hiếu nghĩa vẹn tròn Thần dân sẽ quý mến con con à, Cha nay tuổi lớn tác già Đến ngày bỏ xác con mà làm sao. Nữ vương liền mới thưa mau: Thí xác dưỡng phụ đem vào Hoàng lăng Đúng theo nghi thức đạo hằng Lập nhà Thái miếu nghiêm lăng phụng thờ Lẽ nào con lại làm ngơ Phụ thân có chết con thờ thiên thu Đem vào miễu võ sùng tu Gọi là một chút đền bù công lao Đền ơn nghĩa cả công cao Dạy con biết chuyện trước sau rõ rành, Thế thường dưỡng cũng như sanh Làm Vua con cũng phải rành hiếu nhi. Bửu Sơn ông mới nói thì: Đem thờ miễu võ có gì lạ đâu Người xưa còn phải giữ câu Ba năm thọ chế (4) dám đâu đổi dời. Thế Châu nàng mới nói thời: Ơn cha nào khác biển trời minh minh Con đây sẽ hội triều đình Tam niên am quán giữ gìn miếu cha Luận bàn rồi cũng bỏ qua Bửu Sơn ông mới ra đi ra cõi ngoài.
CHÚ THÍCH----------------------------------
1. Xích thằng: chỉ tơ hồng, ý nói quan hệ gắn bó, thủy chung. 2. Quan ngự sử: chức quan kề cận, quân sư của vua. 3: Trướng huỳnh: màn cửa. 4. Mật Đa: Chế Mật Đa, tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm. 5. Khứng: ưa thích, đồng ý. 6. Chầy: lâu ngày. 7. Ba trăng: ba tháng, ba kỳ trăng tròn. 8. Hòn Phú Quốc: đảo Phú Quốc. 9. Không tưởng: không nghĩ đến. 10. Tẩu đào: trốn đi. 11. Đồ công: cha Hạng Thế Châu, làm quan Thừa tướng triều vua Xiêm. 12. Đồ nương: Hạng Thế Châu. 13. Bờ gành: nơi bãi biển nhiều đá lởm chởm, hoang sơ. 14. Đoàn thị: vợ Đồ công, mẹ của Hạng Thế Châu. 15. Võ đao: quan chuyên coi việc tra tấn, hành hình thời xưa. 16. Chân Lạp: một vương quốc ở trung tâm bán đảo Đông Dương, kéo dài đến phía Nam, một phần nước Lào, Thái Lan và tiền thân của nước Campuchia ngày nay. Đảo Phú Quốc xưa thuộc Chân Lạp 17. Quận chúa: Hạng Thế Châu |
TÌNH DUYÊN HẠNG THẾ CHÂU VÀ SỬ VĂN
Đoạn nầy nhắc chuyện đơn trì
Của Châu nữ chúa (1) năm vì mỹ nhân
Thế Châu ra hội trào thần
Sử Văn (2) thì đứng giữa sân long đền
Thế Kim, Thế Ngọc bước lên
Thế Ngân, Thế Thủy đồng lên sân chầu
Võ văn tam phẩm đều hầu
Sử Văn nhìn lén Thế Châu thể nào
May thay ta cũng hội trào
Để xem nữ chúa dường bao cho tường
Nhà Nguyên xưa có nữ vương
Đa tình đến nỗi làm đường trăng hoa
Nay mà nữ chúa ngó ta
Một điều thấy rõ là bà chẳng xong
Còn bà ngồi giữa ngai rồng
Tự nhiên thì ắt lòng trong hiền lành,
Cô nào đôi mắt long lanh
Là đồ lang chạ bẻ nhành trao tay,
Sử Văn chăm chú nhìn hoài
Thế Châu ngồi giữa trên ngai long sàng
Kim, Ngân thì lại ngồi ngang
Nhưng ngồi cẩm tọa thuộc hàng thứ hai
Thế Ngọc ngồi trước bên ngoài
Thế Thủy hầu cận đứng rày sau lưng
Xem ra oai thế lẫy lừng
Thế Ngân, Thế Ngọc ngó chừng Sử Văn
Bỗng nghe nữ chúa phán rằng:
Ngày nay trẫm hội võ văn triều thần
Trước là xem cuộc quốc dân
Sau là trẫm sẽ chỉ phân lời nầy
Võ văn xem cũng vui vầy
Thảy đều chưa có xe dây tơ hồng
Làm sao nước mạnh dân đông
Nếu ai xứng lứa vợ chồng với nhau
Thì là trẫm sẽ định vào
Kết duyên chồng vợ cùng nhau hiệp hòa
Hầu sau nối hậu quốc gia
Con giòng cháu giống một nhà mới xuê
Trẫm đà nhất định một bề
Đem Hạng Thế Thủy gã về Sử Văn
Hai khanh tua khá bằng lòng
Vì nàng Thế Thủy thiên văn thiệt tài
Âm dương đoán quẻ chẳng sai
Sử Văn thì cũng trai tài Trung Nguyên (3)
Hai người mà đặng kết duyên
Thì giang san trẫm vững yên trăm đàng.
Sử Văn liếc thử nữ vương
Rõ là lời phán của nàng thiệt tâm
Ta đây đoán trước nào lầm
Nàng nào có biết ta thầm mến yêu
Ngày nay nàng ngự giữa triều
Chỉ hồng xe lộn chỉ đều cho ta
Nghĩ suy chưa kịp thưa qua
Thế Thủy nàng lại trở ra liền quỳ:
Muôn tâu Chín Bệ xét tri
Giả ngài nam nhi đường hoàng
Hồi hôm thổn thức bất an
Thần coi thiên tượng rõ ràng chẳng sai
Tướng tinh chiếu mạng của ngài
Nguyên nhân nào lại chiếu ngay long đình
Muôn tâu nữ chúa xét minh
Thần đây tâu thiệt sự tình vua nghe
Tài thần đoán số nói khoe
Sợ vua bắt tội nên e rơi đầu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Pháp ty nữ tướng hãy tâu cho rành
Tội chi giấu quẩn giấu quanh
Trẫm nghe không rành tội ấy khó tha
Còn bằng khanh nói rõ ra
Dù có phạm tội cũng tha khanh rầy.
Thế Thủy đầu cúi thưa ngay:
Tướng tinh chiếu rày cung vua
Hạ thần lời nói quê mùa
Muôn tâu bệ hạ hơn thua xét rành
Hạ thần dù có tài lành
Nào đâu dám loạn lộng hành dây ta
Mai sau về việc nước nhà
Biết đâu họ Sử sẽ là quyền cao
Nay mà Bệ hạ định vào
Hạ thần cũng chẳng dám nào từ nan
Nhưng e phạm tội Ngọc Hoàng
Dây sắt mà vấn nhành vàng khó coi
Muôn tâu nữ chúa xét soi
Phận thân là kẻ giữ coi thiên đài
Sậy nào dám sánh trước mai
Mong ân trời biển cao dầy xin thôi
Sử Văn ngài muốn kết đôi
Xét trong trào nội vừa thôi cô nào
Còn tôi xin phép trời cao
Xin phò dám nào sánh duyên.
Thế Châu nữ chúa phán liền:
Pháp ty hay nói cơ huyền đâu đâu
Sử Văn khanh có nghe âu
Khanh nghe có rõ thì tâu coi là.
Sử Văn liếc mắt xem qua
Thử xem rõ hết năm bà trong trăng
Cô nào cũng tựa chị hằng
Thế Kim, Thế Ngọc hung hăng thị tài
Thế Ngân mắt biếc mày ngài
Cô này đảo nhãn nhìn trai là lề
Thế Thủy mặt liễu mày huê
Cô này sánh đạo phu thê cũng vừa
Ngặt tài cô thiệt quá thừa
Sắc thì xứng sắc, tài chưa xứng tài
Nữ vương chẳng đẹp hơn ai
Thơ ngây tính chất mê say lòng người
Tự nhiên nói nói cười cười
Mầu mè không biết ý người giả nhơn
Tánh tình dễ mến chẳng hờn
Làm vua mà chẳng thiệt hơn lạ kỳ
Ta đà nhìn trộm nhiều khi
Nữ vương chẳng để ý gì biết hay
Khác nào hình đá phượng ngai
Vốn không chú ý đến ai thương mình
Nếu ta mà đặng kết tình
Hoa hồng thêm vẻ tài mình mới cao
Cân đi nhắc lại trừ hao
Cô nào thì cũng má đào tuổi xuân
Xem sao mé biển ven rừng
Có cô nữ chúa tình xuân chưa tàn
Cô nào coi cũng khôn ngoan
Nhắm xem vẻ thắm thua nàng Thế Châu,
Nghĩ rồi Văn mới quì tâu:
Muôn tâu nữ chúa xét âu coi là
Tôi như con bướm đường xa
Bay nào đã giữa vườn hoa hương nồng
Bông nào ngó cũng là bông
Nhưng tôi nhìn rõ hoa hồng là hơn,
Nào là lan huệ mẫu đơn
Xương rồng ích mẫu kém hơn hoa lài
Còn thêm bông cúc bông mai
Hoa liên nguyệt bạch thêm loài phù dung
Quỳnh hoa nguời cũng hay dùng
Hướng dương hoa ấy thung dung hơn nhiều
Ngàn thông cọng liễu gió xiêu
Nhìn tường màu thắm tôi yêu hoa hồng,
Hồng là chúa các loại bông
Hoa nào cũng nhượng hoa hồng là trên
Thượng cầm là loại bay trên
Chim nào thì cũng quý tên phượng hoàng
Có con chim phượng trên ngàn
Chim nào cũng xấu phượng hoàng là xinh
Một vườn thượng uyển minh minh
Hoa hồng quý báu ai nhìn cũng mê
Trạng nguyên hoa ấy người chê
Bướm nào nó cũng mến mê hoa hồng
Muôn tâu nữ chúa xét lòng
Hồng là chúa các loại bông thưở nào
Những là hoa phượng hoa đào
Lòng tôi từ bấy có nào lưu tâm.
Thế Châu nghe tấu nghĩ thầm
Nhớ vườn thượng uyển truy tầm tên hoa
Sử Văn lời nói đã già
Ban đầu thì lại nói xa với nàng
Hồi lâu nhìn thẳng phượng nhan
Tùy hoa tùy bướm ngoài vòng viễn vông
Đòi mua cho được hoa hồng
Thì là mới thỏa dạ lòng ước ao,
Thế Châu nàng có hiểu nào
Truyền quân cận vệ hãy vào vườn hoa
Bông hồng màu thắm đem ra
Biếu cho khỏi mà đi mua
Trẫm đây là chúa là vua
Khanh làm ước mua hoa hồng
Trong vườn ngự uyển mênh mông
Biếu khanh một đóa hoa hồng đang hương.
Sử Văn tâu với nữ vương:
Đội ơn nữ chúa đã thương hại thần.
Nữ vương liền hỏi xa gần:
Khanh đem hoa ấy cúng thần hay tiên?
Sử Văn nghe hỏi ngạc nhiên
Những lời mình nói đưa duyên ướm tình
Nàng là một gái thông minh
Vì sao ngơ ngẩn chuyện tình dữ a
Nghĩ rồi chàng mới thốt ra:
Hoa hồng tôi để trướng hoa nệm quỳnh
Còn điều bệ hạ điều đình
Cho hàng văn võ kết tình cùng nhau
Thần xin hẹn lại năm sau
Thế Ngân nghe nói lệ trào long lanh
Lòng đà ngỏ ý ghét ganh
Truyền quân thúc dục trống canh bãi chầu.
Võ văn nào có hay đâu
Ai về dinh nấy đặng hầu nghỉ an.
Thế Kim phò hộ nữ hoàng
Vào cùng Kim mới luận bàn nhỏ to:
Cứ lời Tham tướng mà so
Tôi đây được phép nói cho rõ rành
Tham tướng còn nói quẹo quanh
Kim xin cắt nghĩa cho rành dạ xuyên
Nữ vương vốn có uy quyền
Lâm trào ngồi giữa bệ tuyền phóng ra
Đàn bà thì cũng như hoa
Bọn mình là gái một tòa rất đông,
Hoa hồng là chúa loài bông
Sử Văn ám chỉ mình rồng nữ vương
Chúng tôi đây thuộc hoa hường
Cho nên đều phải nhịn nhường đó thôi,
Lâm trào thì có thứ ngôi
Vào cung bàn luận thì tôi thiệt tình
Nhớ hồi thúc phụ (4) tại kinh
Làm quan thừa tướng triều đình Xiêm bang
Cha tôi thì lại nghèo nàn
Sinh tôi thì lại khôn ngoan sắc tài
Cha nghèo con chẳng cao bay
Lấy tình máu mủ luận bàn phôi phai
Nhắm trăm năm ả đàn bà
Có tôi lớn nhất phải ra tỏ tình.
Thế Châu nàng mới phân minh:
Ngoài là tôi chúa, trong tình chị em
Chuyện nào nhờ chị xét xem
Nếu mà chị bảo thì em vâng lời.
Thế Kim nàng mới nói thời:
Chị xem họ Sử không rời em đâu (5)
Nhìn em họ Sử gật đầu
Chị đà lưu ý từ lâu em à
Thân em lưu lạc nước xa
Dù làm nữ chúa cũng là đơn côi
Khó mà bổn quốc lai hoài (6)
Lỡ leo lưng cọp phải ngồi chớ sao,
Sử Văn gã muốn từ nào
Muốn em với gã tình giao em à.
Thế Châu nàng mới nói ra:
Chị hay nói bậy nghe mà nhàm tai
Thôi thôi chị chớ đặt bày
Chị còn nói nữa em rày không dung
Nói nghe sao giống người khùng
Làm quan như chị ai tùng chị ơi
Nói rồi nàng mới nghỉ ngơi,
Đêm về Kim phải khắp nơi canh tuần
Thương em phận chị coi chừng
Em say giấc ngủ chị tuần hoàng cung.
Đoạn này họ Sử thung dung
Lén vào đã tận hoàng cung nữ hoàng
Châu đang mộng điệp mơ màng
Sử Văn vào tận trướng loan màn rồng
Cung nhân đều thiếp giấc nồng
Sử Văn khấp khẩn mừng lòng biết bao,
Đặt lưng mới tựa mình vào
Thế Châu đang lúc chiêm bao như hà
Mơ màng thấy chế Mật Đa (7)
Giết chàng Tham tướng chết đà thảm thương
Nên nàng động mối tư lương
Đưa tay quơ chiếu quơ giường khóc than
Miệng kêu Tham tướng hỡi chàng
Sử Văn nghe rõ vội vàng ngồi xem,
Gió lay phút lại động rèm
Châu thì nước mắt ướt mem chan hòa
Vừa khóc vừa mắng Mật Đa
Lại kêu họ Sử sao ra nỗi này,
Sử Văn nghe đã quá chầy
Nên chàng khẽ gọi: Hỡi này Thế Châu!
Anh nào mà có chết đâu!
Thế Châu xô chiếc gối đầu ngồi ngang
Nhìn xem thấy rõ là chàng
Mộng hồn còn hỡi mơ màng chiêm bao
Lại ôm chàng Sử kêu gào:
Ngỡ chàng đã chết hay nào còn đây!
Sử Văn mới nói như vầy:
Thương nàng mới lén đến đây tâm tình
Sử ôm Châu cũng làm thinh
Ngỡ là nàng đã hứng tình trăm năm
Nên chàng tỏ ý mừng thầm
Bắt đầu nói chuyện trăm năm giao hòa,
Thế Châu đã tỉnh mộng ra
Mới hay phút chốc nàng đà mơ tiên
Hổ ngươi nàng phát lịnh truyền:
Ngự lâm quân hãy bắt xiềng Sử Văn
Tuồng chi mèo mả gió trăng
Sử Văn nghe lịnh làm nhăng thêm hoài.
Thế Kim rình trước cửa ngoài
Nàng liền cửa khóa then gài bỏ đi
Nhốt cho trai gái phải kỳ
Nữ vương dù có gọi gì ai hay. (8)
Thế Châu kêu ngự quân hoài
Tiếng nàng khó lọt ra ngoài cửa song
Sử Văn thấy khó nhủ lòng
Nên chàng định lại cửa phòng xô ra
Nào hay cửa khóa then hoa
Sử đành bạo dạn thốt ra lời nầy:
Nếu nàng chẳng khứng lòng khuây
Làm ơn lại mở cửa nầy cho tôi
Sáng nầy cựu quốc phản hồi
Hơi nào tôi phải đứng ngồi đây lâu!
Biết rằng phạm đến Thế Châu
Triều thần ngự án thì đầu phải rơi
Nghĩ coi trên cõi cung trời
Thần tiên thánh cũng trong đời tình chung
Tuy nàng ngồi giữa cửu trùng
Tình tôi không đáng sánh cùng hay sao?
Thế Châu nàng mới nói mau:
Thương thì lục lễ (9) dâng vào mẹ cha
Làm con phải trả thảo ba
Phải dâng chén rượu chén trà thảo thân
Mẹ cha cực khổ vô ngần
Tạo thân xác thịt trăm phần thảm thương
Nay mà chỉ vấn tơ vương
Không thưa cùng lịnh thung đường biết hay,
Chàng là nam tử làm trai
Sao điều quấy phải còn sai luân thường!
Sử Văn liền mới phân tường:
Nơi nầy chỉ có nữ vương đứng đầu
Tôi thì muốn cưới Thế Châu
Hỏi đem sáu lễ mà cầu với ai
Ai ra dám đứng làm mai
Nào ai dám gả vua rày hay sao
Nói thì muốn nói cho cao
Mà không xét kỹ chuyện nào hết đa
Nàng đây là mẹ là cha
Thương nàng chẳng lẽ bàn qua trào thần!
Thế Châu nghe nói liền phân:
Thôi thôi đừng nói dần lân thêm rầy
Ra mau đừng có ở đây!
Sử Văn nghe nói mới rầy nữ vương:
Thần xin dám hỏi nương nương
Vừa rồi bà đã lầm đường sái sai
Tôi đây vốn thật là trai
Khi không bà lại nắm tay khóc ròng.
Thế Châu nghe nhắc thẹn lòng
Lại càng phát giận nói không tiếc lời:
Tôi mơ mới chẳng biết thời
Cố tình chi đó lựa lời phôi pha
Nay tôi đã tỉnh mộng hoa
Mới hay họ Sử vào ra loan phòng.
Thế Châu mải nói mênh mông
Thế Kim nghe riết nóng lòng bước vô
Kim liền cất tiếng mới phô:
Chẳng hay Tham tướng ngài vô hồi nào
Xin ngài đừng có ngọt ngào
Tôi đây chẳng phải ai nào mà nghi
Tôi đà rõ hết chuyện ni
Vào đây nói giúp có gì lạ đâu
Số tôi lại với Thế Châu
Chị em chú bác phải đâu lạ nào
Ngài là nam tử anh hào
Quyết lòng đã đến phòng đào nữ vương
Thương sao cho vẹn thì thương
Bỏ rơi giữa chợ giữa đường không nên,
Tuy Châu nữ chúa quyền trên
Nhưng tôi có thể giúp nên việc nầy
Cơ đồ sự nghiệp dựng gầy
Do tôi định liệu mà xây điện đài
Dù sao tôi cũng ra tài
Quyết làm cho đặng cả hai hiệp hòa,
Châu ơi em hãy xét ra
Em dại nên mới ó la um xùm
Ngoài thì nữ nữ bao trùm
Mà em cứ mãi la um nơi nầy
Cận quan nếu có mà hay
Thì là họ sẽ cười dài em coi
Sao em chẳng chịu xét soi
Thiệt là em quá hẹp hòi trí tri
Lấy điều trái phải mà suy
Tham tướng vào tận cung di tẩm phòng
Dù sao lòng dạ sạch trong
Võ văn liệu có tinh lòng em chưa,
Trời chuyển không gió cũng mưa
Hay ra văn võ đổ thừa chị đây
Tại em quá đỗi thơ ngây
Thôi chị xin đứng nơi nầy chủ hôn
Em nhìn vũ trụ càn khôn
Quyền huynh thế phụ định hôn là thường
Còn ngôi đại báu nữ vương
Ra chầu chị sẽ kính nhường dạ vâng
Trong phòng thì đạo nhân luân
Chị tình máu mủ coi chừng trước sau
Đêm nay Tham tướng đã vào
Kể như em đã tình giao cho chàng
Cũng là đồng tịch đồng sàng (10)
Chị đà nhìn trộm ngoài màn đã lâu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Té ra là chị dẫn đầu Sử Văn
Vào đây bày cuộc gió trăng
Em nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi
Ghét phường mèo mả tanh hôi
Em không có chịu nằm ngồi với trai
Tuy là mình hạc xương mai
Muốn sao đất nước chen vai anh hùng
Tài hay biến cố vẫy vùng
Ngoài đường mới thiệt ung dung chị à,
Tuy em là gái màu hoa
Tâm em can đảm như mà nam nhi
Thường tình nhi nữ lạ chi
Điểm trang sắc đẹp biếu thì cho trai
Suốt đời trâm giắt lược cài
Vốn không nội các người ngoài mênh mông
Lớn lên gái phải lấy chồng
Mãi mà lòn cúi đàn ông chị à,
Tánh em thì lại khác xa
Em yêu non nước sơn hà mà thôi
Yêu cùng nhân loại một ngôi
Chớ em chẳng có yêu đôi tâm tình.
Sử Văn nghe nói mãi nhìn
Hồi lâu chàng mới sự tình tỏ phân:
Nàng ham cai trị thần dân
Thắt đai đội mão rộ rần quân gia
Hơn làm nội trợ cho ta
Suốt ngày mãi ở phòng hoa đêm ngày
Ta nào bảo đó xuống ngai
Vào cung chồng vợ ra ngoài chúa tôi
Muốn chồng ngặt tiết báu ngôi
Thì đây việc nước để tôi khuôn phò
Muốn cho tôi hết dạ lo
Nữ vương đừng có ban cho lụa là
Tôi không ham muốn ngọc ngà
Chỉ ham ngồi dựa mình bà mà thôi.
Thế Kim nàng cũng nói dồi
Thế Châu nghe riết một hồi đã xiêu
Phải đành xuôi ý thuận chiều
Đêm đông càng lạnh càng nhiều tình thương.
Sử Văn rỉ nhỏ đủ đường
Thế Châu nghe riết lại thương mới kỳ
Nàng rằng: để thiếp nghĩ suy
Hẹn ba năm nữa sẽ y lời chàng
Dù cho trong trướng ngoài màn
Thiếp vui chắc phải có chàng mới vui
Thôi thì thiếp đã đành xuôi
Xin Tả Thừa tướng (11) hãy vui đi nào
Chừng em duyên kết tình giao
Yến viên thiết đãi giữa trào tung hô.
Thế Kim nghe nói liền phô:
Công tôi thuyết phục mưu mô đã đầy
Nay mà em chịu duyên vầy
Thì công mai mối sau nầy phải ban.
Thế Châu nghe nói ngỡ ngàng
Nhưng nàng còn hỡi kiếm đàng phôi pha:
Hứa thì tôi hứa giao hòa
Còn ba năm nữa cũng là chẳng lâu
Chừng nào một gối đôi đầu
Em truyền cho chị khỏi hầu đêm đông.
Sử Văn chàng mới nói hồng:
Làm gì tôi cũng đáp công hẳn hòi
Lo chi Thừa tướng phải đòi
Nhưng ba năm nữa trông coi xa vời
Tuy là nữ chúa hứa lời
Tôi còn ngần ngại đổi dời sắt đinh
Phải cho tôi được giao tình
Thì tôi mới chắc là mình nên đôi
Sao trời còn phải đổi ngôi
Lòng người tôi sợ đây rồi cũng xa.
Châu rằng: nầy Sử Văn gia
Thiếp nguyền thề có trời cha chứng lòng
Nếu mà thiếp phụ tình chồng
Thề rằng sẽ chết trong vòng tay anh
Chứng trên đã có trời xanh
Thiếp thề chẳng có trao nhành cho ai!
Văn rằng: em thiệt gái tài
Chờ ba năm nữa chẳng dài bao lâu
Nếu khi em nghĩ lâm chầu
Anh theo vào trướng mà hầu nữ vương
Sợ e có kẻ mưu lường
Sẽ đưa trai khác cung chương ứng hầu
E cho nữ chúa Thế Châu
Quên tình Tham tướng còn đâu đượm hồng!
Gỉa ghen Văn nói lòng vòng
Châu đành năn nỉ chiều lòng cho qua
Hồi lâu Văn mới đưa ra:
Lưỡng long là nhẫn của cha mẹ truyền
Ngàn xưa thân phụ vượt biên
Phò vua Nguyên đế đặng yên thân rồng
Nên vua ban nhẫn lưỡng long
Vật nầy vốn của ngai rồng ban cho
Mấy lần lâm nạn gay go
Anh gìn của báu chẳng cho ai toàn
Nay anh xin tặng cho nàng
Trái châu bằng ngọc thủy xoàn rất xinh
Của nầy vốn ở Bắc Kinh (12)
Thế Châu tiếp lấy mà nhìn giây lâu
Rõ ràng là vật báu mầu
Ta đây vàng bạc ngọc châu hằng hà
Còn thua của báu Văn gia
Nghĩ suy nàng lại thở ra chau mày.
Sử Văn xem thấy lạ thay
Ngỡ nàng không nhận nhìn ngoài mà thôi
Anh hùng máu nóng sục sôi
Châu đành xuống nước ỉ ôi năn nì:
Tình ta cao đẹp xiết chi
Xin chàng đừng có ngại nghi trong lòng
Thiếp xin nhận đó là chồng
Nhưng ba năm nữa hiệp lòng lửa hương.
Văn rằng: nàng nói nàng thương
Của ta nàng lại xem thường vậy đa
Chẳng đeo xem thử coi là
Đẹp chăng đặng để cho ta ngắm nhìn
Đeo vào Châu thấy thêm xinh
Sử Văn chàng mới vui tình kéo ra
Đoạn nầy nhắc chuyện đơn trì
Của Châu nữ chúa (1) năm vì mỹ nhân
Thế Châu ra hội trào thần
Sử Văn (2) thì đứng giữa sân long đền
Thế Kim, Thế Ngọc bước lên
Thế Ngân, Thế Thủy đồng lên sân chầu
Võ văn tam phẩm đều hầu
Sử Văn nhìn lén Thế Châu thể nào
May thay ta cũng hội trào
Để xem nữ chúa dường bao cho tường
Nhà Nguyên xưa có nữ vương
Đa tình đến nỗi làm đường trăng hoa
Nay mà nữ chúa ngó ta
Một điều thấy rõ là bà chẳng xong
Còn bà ngồi giữa ngai rồng
Tự nhiên thì ắt lòng trong hiền lành,
Cô nào đôi mắt long lanh
Là đồ lang chạ bẻ nhành trao tay,
Sử Văn chăm chú nhìn hoài
Thế Châu ngồi giữa trên ngai long sàng
Kim, Ngân thì lại ngồi ngang
Nhưng ngồi cẩm tọa thuộc hàng thứ hai
Thế Ngọc ngồi trước bên ngoài
Thế Thủy hầu cận đứng rày sau lưng
Xem ra oai thế lẫy lừng
Thế Ngân, Thế Ngọc ngó chừng Sử Văn
Bỗng nghe nữ chúa phán rằng:
Ngày nay trẫm hội võ văn triều thần
Trước là xem cuộc quốc dân
Sau là trẫm sẽ chỉ phân lời nầy
Võ văn xem cũng vui vầy
Thảy đều chưa có xe dây tơ hồng
Làm sao nước mạnh dân đông
Nếu ai xứng lứa vợ chồng với nhau
Thì là trẫm sẽ định vào
Kết duyên chồng vợ cùng nhau hiệp hòa
Hầu sau nối hậu quốc gia
Con giòng cháu giống một nhà mới xuê
Trẫm đà nhất định một bề
Đem Hạng Thế Thủy gã về Sử Văn
Hai khanh tua khá bằng lòng
Vì nàng Thế Thủy thiên văn thiệt tài
Âm dương đoán quẻ chẳng sai
Sử Văn thì cũng trai tài Trung Nguyên (3)
Hai người mà đặng kết duyên
Thì giang san trẫm vững yên trăm đàng.
Sử Văn liếc thử nữ vương
Rõ là lời phán của nàng thiệt tâm
Ta đây đoán trước nào lầm
Nàng nào có biết ta thầm mến yêu
Ngày nay nàng ngự giữa triều
Chỉ hồng xe lộn chỉ đều cho ta
Nghĩ suy chưa kịp thưa qua
Thế Thủy nàng lại trở ra liền quỳ:
Muôn tâu Chín Bệ xét tri
Giả ngài nam nhi đường hoàng
Hồi hôm thổn thức bất an
Thần coi thiên tượng rõ ràng chẳng sai
Tướng tinh chiếu mạng của ngài
Nguyên nhân nào lại chiếu ngay long đình
Muôn tâu nữ chúa xét minh
Thần đây tâu thiệt sự tình vua nghe
Tài thần đoán số nói khoe
Sợ vua bắt tội nên e rơi đầu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Pháp ty nữ tướng hãy tâu cho rành
Tội chi giấu quẩn giấu quanh
Trẫm nghe không rành tội ấy khó tha
Còn bằng khanh nói rõ ra
Dù có phạm tội cũng tha khanh rầy.
Thế Thủy đầu cúi thưa ngay:
Tướng tinh chiếu rày cung vua
Hạ thần lời nói quê mùa
Muôn tâu bệ hạ hơn thua xét rành
Hạ thần dù có tài lành
Nào đâu dám loạn lộng hành dây ta
Mai sau về việc nước nhà
Biết đâu họ Sử sẽ là quyền cao
Nay mà Bệ hạ định vào
Hạ thần cũng chẳng dám nào từ nan
Nhưng e phạm tội Ngọc Hoàng
Dây sắt mà vấn nhành vàng khó coi
Muôn tâu nữ chúa xét soi
Phận thân là kẻ giữ coi thiên đài
Sậy nào dám sánh trước mai
Mong ân trời biển cao dầy xin thôi
Sử Văn ngài muốn kết đôi
Xét trong trào nội vừa thôi cô nào
Còn tôi xin phép trời cao
Xin phò dám nào sánh duyên.
Thế Châu nữ chúa phán liền:
Pháp ty hay nói cơ huyền đâu đâu
Sử Văn khanh có nghe âu
Khanh nghe có rõ thì tâu coi là.
Sử Văn liếc mắt xem qua
Thử xem rõ hết năm bà trong trăng
Cô nào cũng tựa chị hằng
Thế Kim, Thế Ngọc hung hăng thị tài
Thế Ngân mắt biếc mày ngài
Cô này đảo nhãn nhìn trai là lề
Thế Thủy mặt liễu mày huê
Cô này sánh đạo phu thê cũng vừa
Ngặt tài cô thiệt quá thừa
Sắc thì xứng sắc, tài chưa xứng tài
Nữ vương chẳng đẹp hơn ai
Thơ ngây tính chất mê say lòng người
Tự nhiên nói nói cười cười
Mầu mè không biết ý người giả nhơn
Tánh tình dễ mến chẳng hờn
Làm vua mà chẳng thiệt hơn lạ kỳ
Ta đà nhìn trộm nhiều khi
Nữ vương chẳng để ý gì biết hay
Khác nào hình đá phượng ngai
Vốn không chú ý đến ai thương mình
Nếu ta mà đặng kết tình
Hoa hồng thêm vẻ tài mình mới cao
Cân đi nhắc lại trừ hao
Cô nào thì cũng má đào tuổi xuân
Xem sao mé biển ven rừng
Có cô nữ chúa tình xuân chưa tàn
Cô nào coi cũng khôn ngoan
Nhắm xem vẻ thắm thua nàng Thế Châu,
Nghĩ rồi Văn mới quì tâu:
Muôn tâu nữ chúa xét âu coi là
Tôi như con bướm đường xa
Bay nào đã giữa vườn hoa hương nồng
Bông nào ngó cũng là bông
Nhưng tôi nhìn rõ hoa hồng là hơn,
Nào là lan huệ mẫu đơn
Xương rồng ích mẫu kém hơn hoa lài
Còn thêm bông cúc bông mai
Hoa liên nguyệt bạch thêm loài phù dung
Quỳnh hoa nguời cũng hay dùng
Hướng dương hoa ấy thung dung hơn nhiều
Ngàn thông cọng liễu gió xiêu
Nhìn tường màu thắm tôi yêu hoa hồng,
Hồng là chúa các loại bông
Hoa nào cũng nhượng hoa hồng là trên
Thượng cầm là loại bay trên
Chim nào thì cũng quý tên phượng hoàng
Có con chim phượng trên ngàn
Chim nào cũng xấu phượng hoàng là xinh
Một vườn thượng uyển minh minh
Hoa hồng quý báu ai nhìn cũng mê
Trạng nguyên hoa ấy người chê
Bướm nào nó cũng mến mê hoa hồng
Muôn tâu nữ chúa xét lòng
Hồng là chúa các loại bông thưở nào
Những là hoa phượng hoa đào
Lòng tôi từ bấy có nào lưu tâm.
Thế Châu nghe tấu nghĩ thầm
Nhớ vườn thượng uyển truy tầm tên hoa
Sử Văn lời nói đã già
Ban đầu thì lại nói xa với nàng
Hồi lâu nhìn thẳng phượng nhan
Tùy hoa tùy bướm ngoài vòng viễn vông
Đòi mua cho được hoa hồng
Thì là mới thỏa dạ lòng ước ao,
Thế Châu nàng có hiểu nào
Truyền quân cận vệ hãy vào vườn hoa
Bông hồng màu thắm đem ra
Biếu cho khỏi mà đi mua
Trẫm đây là chúa là vua
Khanh làm ước mua hoa hồng
Trong vườn ngự uyển mênh mông
Biếu khanh một đóa hoa hồng đang hương.
Sử Văn tâu với nữ vương:
Đội ơn nữ chúa đã thương hại thần.
Nữ vương liền hỏi xa gần:
Khanh đem hoa ấy cúng thần hay tiên?
Sử Văn nghe hỏi ngạc nhiên
Những lời mình nói đưa duyên ướm tình
Nàng là một gái thông minh
Vì sao ngơ ngẩn chuyện tình dữ a
Nghĩ rồi chàng mới thốt ra:
Hoa hồng tôi để trướng hoa nệm quỳnh
Còn điều bệ hạ điều đình
Cho hàng văn võ kết tình cùng nhau
Thần xin hẹn lại năm sau
Thế Ngân nghe nói lệ trào long lanh
Lòng đà ngỏ ý ghét ganh
Truyền quân thúc dục trống canh bãi chầu.
Võ văn nào có hay đâu
Ai về dinh nấy đặng hầu nghỉ an.
Thế Kim phò hộ nữ hoàng
Vào cùng Kim mới luận bàn nhỏ to:
Cứ lời Tham tướng mà so
Tôi đây được phép nói cho rõ rành
Tham tướng còn nói quẹo quanh
Kim xin cắt nghĩa cho rành dạ xuyên
Nữ vương vốn có uy quyền
Lâm trào ngồi giữa bệ tuyền phóng ra
Đàn bà thì cũng như hoa
Bọn mình là gái một tòa rất đông,
Hoa hồng là chúa loài bông
Sử Văn ám chỉ mình rồng nữ vương
Chúng tôi đây thuộc hoa hường
Cho nên đều phải nhịn nhường đó thôi,
Lâm trào thì có thứ ngôi
Vào cung bàn luận thì tôi thiệt tình
Nhớ hồi thúc phụ (4) tại kinh
Làm quan thừa tướng triều đình Xiêm bang
Cha tôi thì lại nghèo nàn
Sinh tôi thì lại khôn ngoan sắc tài
Cha nghèo con chẳng cao bay
Lấy tình máu mủ luận bàn phôi phai
Nhắm trăm năm ả đàn bà
Có tôi lớn nhất phải ra tỏ tình.
Thế Châu nàng mới phân minh:
Ngoài là tôi chúa, trong tình chị em
Chuyện nào nhờ chị xét xem
Nếu mà chị bảo thì em vâng lời.
Thế Kim nàng mới nói thời:
Chị xem họ Sử không rời em đâu (5)
Nhìn em họ Sử gật đầu
Chị đà lưu ý từ lâu em à
Thân em lưu lạc nước xa
Dù làm nữ chúa cũng là đơn côi
Khó mà bổn quốc lai hoài (6)
Lỡ leo lưng cọp phải ngồi chớ sao,
Sử Văn gã muốn từ nào
Muốn em với gã tình giao em à.
Thế Châu nàng mới nói ra:
Chị hay nói bậy nghe mà nhàm tai
Thôi thôi chị chớ đặt bày
Chị còn nói nữa em rày không dung
Nói nghe sao giống người khùng
Làm quan như chị ai tùng chị ơi
Nói rồi nàng mới nghỉ ngơi,
Đêm về Kim phải khắp nơi canh tuần
Thương em phận chị coi chừng
Em say giấc ngủ chị tuần hoàng cung.
Đoạn này họ Sử thung dung
Lén vào đã tận hoàng cung nữ hoàng
Châu đang mộng điệp mơ màng
Sử Văn vào tận trướng loan màn rồng
Cung nhân đều thiếp giấc nồng
Sử Văn khấp khẩn mừng lòng biết bao,
Đặt lưng mới tựa mình vào
Thế Châu đang lúc chiêm bao như hà
Mơ màng thấy chế Mật Đa (7)
Giết chàng Tham tướng chết đà thảm thương
Nên nàng động mối tư lương
Đưa tay quơ chiếu quơ giường khóc than
Miệng kêu Tham tướng hỡi chàng
Sử Văn nghe rõ vội vàng ngồi xem,
Gió lay phút lại động rèm
Châu thì nước mắt ướt mem chan hòa
Vừa khóc vừa mắng Mật Đa
Lại kêu họ Sử sao ra nỗi này,
Sử Văn nghe đã quá chầy
Nên chàng khẽ gọi: Hỡi này Thế Châu!
Anh nào mà có chết đâu!
Thế Châu xô chiếc gối đầu ngồi ngang
Nhìn xem thấy rõ là chàng
Mộng hồn còn hỡi mơ màng chiêm bao
Lại ôm chàng Sử kêu gào:
Ngỡ chàng đã chết hay nào còn đây!
Sử Văn mới nói như vầy:
Thương nàng mới lén đến đây tâm tình
Sử ôm Châu cũng làm thinh
Ngỡ là nàng đã hứng tình trăm năm
Nên chàng tỏ ý mừng thầm
Bắt đầu nói chuyện trăm năm giao hòa,
Thế Châu đã tỉnh mộng ra
Mới hay phút chốc nàng đà mơ tiên
Hổ ngươi nàng phát lịnh truyền:
Ngự lâm quân hãy bắt xiềng Sử Văn
Tuồng chi mèo mả gió trăng
Sử Văn nghe lịnh làm nhăng thêm hoài.
Thế Kim rình trước cửa ngoài
Nàng liền cửa khóa then gài bỏ đi
Nhốt cho trai gái phải kỳ
Nữ vương dù có gọi gì ai hay. (8)
Thế Châu kêu ngự quân hoài
Tiếng nàng khó lọt ra ngoài cửa song
Sử Văn thấy khó nhủ lòng
Nên chàng định lại cửa phòng xô ra
Nào hay cửa khóa then hoa
Sử đành bạo dạn thốt ra lời nầy:
Nếu nàng chẳng khứng lòng khuây
Làm ơn lại mở cửa nầy cho tôi
Sáng nầy cựu quốc phản hồi
Hơi nào tôi phải đứng ngồi đây lâu!
Biết rằng phạm đến Thế Châu
Triều thần ngự án thì đầu phải rơi
Nghĩ coi trên cõi cung trời
Thần tiên thánh cũng trong đời tình chung
Tuy nàng ngồi giữa cửu trùng
Tình tôi không đáng sánh cùng hay sao?
Thế Châu nàng mới nói mau:
Thương thì lục lễ (9) dâng vào mẹ cha
Làm con phải trả thảo ba
Phải dâng chén rượu chén trà thảo thân
Mẹ cha cực khổ vô ngần
Tạo thân xác thịt trăm phần thảm thương
Nay mà chỉ vấn tơ vương
Không thưa cùng lịnh thung đường biết hay,
Chàng là nam tử làm trai
Sao điều quấy phải còn sai luân thường!
Sử Văn liền mới phân tường:
Nơi nầy chỉ có nữ vương đứng đầu
Tôi thì muốn cưới Thế Châu
Hỏi đem sáu lễ mà cầu với ai
Ai ra dám đứng làm mai
Nào ai dám gả vua rày hay sao
Nói thì muốn nói cho cao
Mà không xét kỹ chuyện nào hết đa
Nàng đây là mẹ là cha
Thương nàng chẳng lẽ bàn qua trào thần!
Thế Châu nghe nói liền phân:
Thôi thôi đừng nói dần lân thêm rầy
Ra mau đừng có ở đây!
Sử Văn nghe nói mới rầy nữ vương:
Thần xin dám hỏi nương nương
Vừa rồi bà đã lầm đường sái sai
Tôi đây vốn thật là trai
Khi không bà lại nắm tay khóc ròng.
Thế Châu nghe nhắc thẹn lòng
Lại càng phát giận nói không tiếc lời:
Tôi mơ mới chẳng biết thời
Cố tình chi đó lựa lời phôi pha
Nay tôi đã tỉnh mộng hoa
Mới hay họ Sử vào ra loan phòng.
Thế Châu mải nói mênh mông
Thế Kim nghe riết nóng lòng bước vô
Kim liền cất tiếng mới phô:
Chẳng hay Tham tướng ngài vô hồi nào
Xin ngài đừng có ngọt ngào
Tôi đây chẳng phải ai nào mà nghi
Tôi đà rõ hết chuyện ni
Vào đây nói giúp có gì lạ đâu
Số tôi lại với Thế Châu
Chị em chú bác phải đâu lạ nào
Ngài là nam tử anh hào
Quyết lòng đã đến phòng đào nữ vương
Thương sao cho vẹn thì thương
Bỏ rơi giữa chợ giữa đường không nên,
Tuy Châu nữ chúa quyền trên
Nhưng tôi có thể giúp nên việc nầy
Cơ đồ sự nghiệp dựng gầy
Do tôi định liệu mà xây điện đài
Dù sao tôi cũng ra tài
Quyết làm cho đặng cả hai hiệp hòa,
Châu ơi em hãy xét ra
Em dại nên mới ó la um xùm
Ngoài thì nữ nữ bao trùm
Mà em cứ mãi la um nơi nầy
Cận quan nếu có mà hay
Thì là họ sẽ cười dài em coi
Sao em chẳng chịu xét soi
Thiệt là em quá hẹp hòi trí tri
Lấy điều trái phải mà suy
Tham tướng vào tận cung di tẩm phòng
Dù sao lòng dạ sạch trong
Võ văn liệu có tinh lòng em chưa,
Trời chuyển không gió cũng mưa
Hay ra văn võ đổ thừa chị đây
Tại em quá đỗi thơ ngây
Thôi chị xin đứng nơi nầy chủ hôn
Em nhìn vũ trụ càn khôn
Quyền huynh thế phụ định hôn là thường
Còn ngôi đại báu nữ vương
Ra chầu chị sẽ kính nhường dạ vâng
Trong phòng thì đạo nhân luân
Chị tình máu mủ coi chừng trước sau
Đêm nay Tham tướng đã vào
Kể như em đã tình giao cho chàng
Cũng là đồng tịch đồng sàng (10)
Chị đà nhìn trộm ngoài màn đã lâu.
Nữ vương nghe nói mày châu:
Té ra là chị dẫn đầu Sử Văn
Vào đây bày cuộc gió trăng
Em nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi
Ghét phường mèo mả tanh hôi
Em không có chịu nằm ngồi với trai
Tuy là mình hạc xương mai
Muốn sao đất nước chen vai anh hùng
Tài hay biến cố vẫy vùng
Ngoài đường mới thiệt ung dung chị à,
Tuy em là gái màu hoa
Tâm em can đảm như mà nam nhi
Thường tình nhi nữ lạ chi
Điểm trang sắc đẹp biếu thì cho trai
Suốt đời trâm giắt lược cài
Vốn không nội các người ngoài mênh mông
Lớn lên gái phải lấy chồng
Mãi mà lòn cúi đàn ông chị à,
Tánh em thì lại khác xa
Em yêu non nước sơn hà mà thôi
Yêu cùng nhân loại một ngôi
Chớ em chẳng có yêu đôi tâm tình.
Sử Văn nghe nói mãi nhìn
Hồi lâu chàng mới sự tình tỏ phân:
Nàng ham cai trị thần dân
Thắt đai đội mão rộ rần quân gia
Hơn làm nội trợ cho ta
Suốt ngày mãi ở phòng hoa đêm ngày
Ta nào bảo đó xuống ngai
Vào cung chồng vợ ra ngoài chúa tôi
Muốn chồng ngặt tiết báu ngôi
Thì đây việc nước để tôi khuôn phò
Muốn cho tôi hết dạ lo
Nữ vương đừng có ban cho lụa là
Tôi không ham muốn ngọc ngà
Chỉ ham ngồi dựa mình bà mà thôi.
Thế Kim nàng cũng nói dồi
Thế Châu nghe riết một hồi đã xiêu
Phải đành xuôi ý thuận chiều
Đêm đông càng lạnh càng nhiều tình thương.
Sử Văn rỉ nhỏ đủ đường
Thế Châu nghe riết lại thương mới kỳ
Nàng rằng: để thiếp nghĩ suy
Hẹn ba năm nữa sẽ y lời chàng
Dù cho trong trướng ngoài màn
Thiếp vui chắc phải có chàng mới vui
Thôi thì thiếp đã đành xuôi
Xin Tả Thừa tướng (11) hãy vui đi nào
Chừng em duyên kết tình giao
Yến viên thiết đãi giữa trào tung hô.
Thế Kim nghe nói liền phô:
Công tôi thuyết phục mưu mô đã đầy
Nay mà em chịu duyên vầy
Thì công mai mối sau nầy phải ban.
Thế Châu nghe nói ngỡ ngàng
Nhưng nàng còn hỡi kiếm đàng phôi pha:
Hứa thì tôi hứa giao hòa
Còn ba năm nữa cũng là chẳng lâu
Chừng nào một gối đôi đầu
Em truyền cho chị khỏi hầu đêm đông.
Sử Văn chàng mới nói hồng:
Làm gì tôi cũng đáp công hẳn hòi
Lo chi Thừa tướng phải đòi
Nhưng ba năm nữa trông coi xa vời
Tuy là nữ chúa hứa lời
Tôi còn ngần ngại đổi dời sắt đinh
Phải cho tôi được giao tình
Thì tôi mới chắc là mình nên đôi
Sao trời còn phải đổi ngôi
Lòng người tôi sợ đây rồi cũng xa.
Châu rằng: nầy Sử Văn gia
Thiếp nguyền thề có trời cha chứng lòng
Nếu mà thiếp phụ tình chồng
Thề rằng sẽ chết trong vòng tay anh
Chứng trên đã có trời xanh
Thiếp thề chẳng có trao nhành cho ai!
Văn rằng: em thiệt gái tài
Chờ ba năm nữa chẳng dài bao lâu
Nếu khi em nghĩ lâm chầu
Anh theo vào trướng mà hầu nữ vương
Sợ e có kẻ mưu lường
Sẽ đưa trai khác cung chương ứng hầu
E cho nữ chúa Thế Châu
Quên tình Tham tướng còn đâu đượm hồng!
Gỉa ghen Văn nói lòng vòng
Châu đành năn nỉ chiều lòng cho qua
Hồi lâu Văn mới đưa ra:
Lưỡng long là nhẫn của cha mẹ truyền
Ngàn xưa thân phụ vượt biên
Phò vua Nguyên đế đặng yên thân rồng
Nên vua ban nhẫn lưỡng long
Vật nầy vốn của ngai rồng ban cho
Mấy lần lâm nạn gay go
Anh gìn của báu chẳng cho ai toàn
Nay anh xin tặng cho nàng
Trái châu bằng ngọc thủy xoàn rất xinh
Của nầy vốn ở Bắc Kinh (12)
Thế Châu tiếp lấy mà nhìn giây lâu
Rõ ràng là vật báu mầu
Ta đây vàng bạc ngọc châu hằng hà
Còn thua của báu Văn gia
Nghĩ suy nàng lại thở ra chau mày.
Sử Văn xem thấy lạ thay
Ngỡ nàng không nhận nhìn ngoài mà thôi
Anh hùng máu nóng sục sôi
Châu đành xuống nước ỉ ôi năn nì:
Tình ta cao đẹp xiết chi
Xin chàng đừng có ngại nghi trong lòng
Thiếp xin nhận đó là chồng
Nhưng ba năm nữa hiệp lòng lửa hương.
Văn rằng: nàng nói nàng thương
Của ta nàng lại xem thường vậy đa
Chẳng đeo xem thử coi là
Đẹp chăng đặng để cho ta ngắm nhìn
Đeo vào Châu thấy thêm xinh
Sử Văn chàng mới vui tình kéo ra
CHÚ THÍCH
--------------------------------- 1. Châu nữ chúa: Hạng Thế Châu. 2. Sử Văn: tướng giỏi của Trung Hoa, được sai đi trinh thám lãnh thổ Chân Lạp. 3. Trung Nguyên: nước Trung Hoa 4. Thúc phụ: em của cha, là chú. Thế Thủy và Hạng Thế Châu là chị em con chú con bác. Thế Thủy gọi cha Hạng Thế Châu bằng chú. 5. Hạng Thế Châu gặp Sử Văn lần đầu khi bị lạc giữa rừng Phú Quốc. Hạng Thế Châu đã cứu Sử Văn thoát chết do kiệt sức và đưa về dinh cơ. Giữa hai người đã có căn duyên tiền định từ kiếp trước, như lời thầy Bửu Sơn đã dự báo. 6. Lưu vong nơi đất lạ của Chân Lạp. 7. Mật Đa: Chế Mật Đa, một tướng trẻ của Vương quốc Xiêm. 8. Thế Kim hiểu chuyện của Sử Văn và Hạng Thế Châu, nên có ý tác hợp hai người. 9. Lục lễ: nói tắt của Lục lễ Danh nghi, là tên gọi sáu lễ trong việc cưới gả thời phong kiến xưa. Lục lễ Danh nghi gồm có: 1. NẠP THÁI: nạp lễ vật cho nhà gái. Người xưa dùng lễ vật là một con chim nhạn, biểu hiệu sự thông tin tức qua lại, hai bên sẽ là thông gia. 2. VẤN DANH: nhà trai cử người mai mối đem trầu rượu đến nhà gái để hỏi tên, tuổi, của người con gái. 3. NẠP CÁT: nhà trai coi tuổi nếu thấy cung mạng của đôi trai gái tương hạp tương sanh sẽ đưa lễ vật tượng trưng để trình cho nhà gái biết tương lai sẽ tiến tới hôn nhân. 4. NẠP TRƯNG: nhà trai đem nữ trang, tiền bạc, vải vóc, và vài lễ vật khác đến xin phép nhà gái làm lễ hôn ước cho hai người chàng trai và cô gái gái kết hôn. Lễ nầy còn gọi là Nạp tài hay Nạp tệ. 5. THỈNH KỲ: nhà trai đến trình cho nhà gái biết ngày, giờ, nhà trai đến làm lễ rước dâu. 6. THÂN NGHINH: đến ngày giờ đã hẹn trước, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái làm lễ rước dâu. Lục lễ đối với người Trung Hoa thuở xưa rất quan trọng, nên có câu: Lục lễ bất bị, Trinh nữ bất xuất. Nghĩa là: Sáu lễ mà không hoàn bị thì không gả người con gái về nhà chồng. 10. Đồng tịch đồng sàng: tịch là chiếu, sàng là giường, cùng chiếu, cùng giường, ý nói mối quan hệ như vợ chồng. 11. Tả Thừa tướng: Thế Kim. 12. Bắc Kinh: một thành phố phương Bắc Trung Hoa, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử trở thành kinh đô Trung Hoa. | |||||||||||||
CHẾ MẬT ĐA GẶP LẠI HẠNG THẾ CHÂU
TÌNH DUYÊN BA NGƯỜI KHÓ XỬ Đoạn nầy nhắc chuyện Mật Đa (1) Đến đảo Phú Quốc mới a ghé vào Truyền quân thủy thủ mau mau Canh phòng tuần vãng quản bao nhọc lòng Ba quân nghe thửa lịnh ông Thám tinh coi lại đền rồng của ai, Quân về thưa rõ lá lai: Đền vua nữ chúa khôi hài long lâu (2) Nữ vương là Hạng Thế Châu Chắc người Trung Quốc đoạt thâu hòn nầy. Mật Đa mới nói như vầy: Gác yên chiến mã đủ đầy cho ta, Chàng liền vội vã xông pha Theo hầu họ Chế quân gia cũng nhiều Mật Đa lòng dạ buồn hiu Càng suy tâm trạng càng nhiều tư lương Đảo nầy đã có nữ vương Biết là thân của đồ nương thể nào Ngọ môn vừa mới bước vào Môn quan đón hỏi trước sau rõ ràng: Ngài là nguyên soái Xiêm bang (3) Đi đâu mà đến đền vàng chúa tôi? Mật Đa mới nói ối thôi Vua bây như thể lọ nồi leo cây Ta đà đi đến cõi nầy Chúa tôi bây sẽ phơi thây chiến trường! Quân vào tâu với nữ vương Năm nàng lên ngựa buông cương ra thành Châu nhìn nguyên soái đành rành Mật Đa quả thật mang danh chữ đề Thế Ngọc xem thấy cười hề Kiếm lời nàng lại đuổi về cựu bang: Ngài là nguyên soái đường hoàng Lẽ thì người đã hãng toàn từ lâu Khi không đến nước chư hầu Dấy quân vô cớ thì đầu phải rơi Chúa ta cai trị một nơi Nào đâu quấy nhiễu đến thời Xiêm vương Sao đem tướng mạnh quân cường Đến đây muốn động chiến trường hay sao Muốn sống thì phải về mau Còn ngài muốn chết thì vào cung vi. Mật Đa liền mới nói thì: Để ta bắt bọn nữ tỳ hồi bang Đem về dâng lại thánh hoàng May mà thăng đến chức quan chư hầu. Nói mà nhìn lại Thế Châu Nữ vương thì có quân hầu quá đông Càng nhìn càng lại động lòng Nhớ hồi chuốc rượu sân rồng Xiêm bang Đồ nương có đến rõ ràng Nàng nầy sao giống dung nhan họ Đồ Như vầy ta quá mơ hồ Chàng nhìn rõ lại thiệt Đồ tiểu thơ Nên chàng ngẩn ngẩn ngơ ngơ Nữ vương đứng tựa bóng cờ rất xinh Bốn nàng cố ý chiến chinh Cùng nhau xúm lại quyết tình tranh phân Mật Đa đang lúc mất thần May thôi chút nữa thì gần diêm la Nữ vương mới gọi Mật Đa: Nước non viễn vọng đến mà chi đây? Mật Đa mới nói như vầy: Vua truyền chiến lịnh tôi đây tìm nàng. Thế Châu nàng mới hỏi han: Mẹ cha của thiếp bình an thể nào? Mật Đa tỏ hết âm hao (4) Cho nàng nghe rõ trước sau sự tình Nào là những việc gia đình Nỗi vua ban chiếu, nỗi mình nhớ thương Nàng đành lìa bỏ quân vương Bỏ cha bỏ mẹ tổ đường bỏ luôn Bỏ ai tôi cũng chẳng buồn Bỏ tôi, tôi phải vượt nguồn bước sang Bao xa tôi cũng tìm nàng Nay tôi xin rước hồi bang giao hòa, Nàng không thương chế Mật Đa Hãy thương mẹ yếu cha già nhớ nhung Làm người giữ chữ hiếu trung Trở về Xiêm quốc hiệp cùng thung quyên Sơn hà một cõi đã riêng Chữ trung chữ hiếu chữ duyên chỗ nào Thôi nàng sửa soạn mau mau Cùng ta trở lại cựu trào cho xong. Mật Đa đang nói viễn vông Thế Châu nghe mãi nên lòng lưỡng nan Muốn về thăm viếng song đàng Sử Văn bỗng đến gần nàng Thế Châu Lắng nghe bàn chuyện hồi lâu Mật Đa khuyên nhủ Thế Châu đủ điều Bắt đầu kể chuyện Xiêm triều: Võ văn tựu hội phần nhiều đợi trông Về cho sum hiệp vợ chồng Vua ban chiếu lịnh lòng nàng còn chê Thôi nay anh rước em về Giờ chê mai mốt sẽ mê mà trừ Mẹ cha còn chẳng chối từ Anh trông một tiếng em ừ mà thôi Đã là xứng lứa vừa đôi Nói rồi xuống ngựa lại ngồi kề bên. Châu rằng: họ Chế đứng lên Ngày nay tôi đã ngồi trên long sàng Khác hơn hồi ở Xiêm bang Bên tôi rày đã có chàng Sử Văn Chế huynh đừng nói lăng xăng Hãy về Xiêm quốc tâu rằng vua hay: Giang biên tôi ở cõi ngoài Đội trời đạp đất riêng hai sơn hà Gởi lời về viếng mẹ cha Tôi đành lỗi thuở đạo nhà báo ơn Mẹ cha bớt giận đừng hờn Làm người trong cõi trần hoàn như nhau Nghĩa ơn cốt nhục cù lao Tam niên nhũ bộ (5) thì cao thì dày Sơn hà một cõi chia hai Đã lên lưng cọp khó hoài trở lui. Mật Đa nghe nói ngậm ngùi Nên chàng năn nỉ ỉ ôi thêm nhiều: Nầy Vua ban chiếu giữa triều Phong làm Quận chúa, tội đều thứ tha, Khi hay nàng đã bỏ nhà Vua liền xử chém mẹ cha của nàng Cũng nhờ Hoàng hậu khuyên can Tôi đây bảo tấu tìm nàng biển khơi Xứ nầy trời nước vơi vơi Mênh mông nhìn thấy biển trời bao la Sao bằng vọng các nước ta Nam thanh nữ tú thật là quá đông. Sử Văn nghe nói nóng lòng: Gìa mồm võ tướng nhủ lòng nữ vương Thứ đồ cá thối cá ươn Nữ vương nàng đã không thương nói hoài Thất phu vui khéo nói dai Rõ ràng là kẻ bất tài vũ phu Không đem được chút tài bù Lại làm ra kẻ hiền nhu từ hòa. Mật Đa liền mới nói ra: Cớ sao mi lại mắng ta như vầy Hãy còn nữ chúa mi đây Quận nương nàng xét chuyện nầy ra sao Tôi thần sao quá hỗn hào Nhắm mi nhược chắc ta nào hơn thua Gươm vàng ta nó động khua Thì ta đây chắc cổ rùa mi tiêu Ý ta chẳng muốn nói nhiều Nếu ngươi mà có biết điều khéo khôn Đừng xen vào việc kết hôn Ta cùng Quận chúa tiếng đồn Xiêm bang. Thế Châu nàng mới khuyên can: Sử huynh để thiếp liệu toan một mình Xin anh đừng có bất bình Vì em đang nghĩ đến tình mẹ cha. Nầy ngài nguyên soái Mật Đa Tôi ngài không sợ cũng là không duyên Về đi đừng nói thêm phiền Đây tôi cũng đủ uy quyền binh nhung Nếu mà sanh sự hành hung E cho thế sự xem chung mà cười, Xiêm bang chẳng thiếu chi người Tiểu thơ đài các nói cười như hoa Hồi tôi còn ở quê nhà Có quen họ Thạch con nhà Thái sư Thạch nương đức hạnh hiền từ Ngài về đến cử Thái sư mà cầu, Tôi nay tên Hạng Thế Châu Làm vua một nước chư hầu cao sang Để tôi thảo chiếu lịnh tràng Ngài đem về nước cựu bang mà truyền Bảo rằng nữ chúa đổi duyên Thạch nương thay mặt là yên việc nầy. Mật Đa mới nói như vầy: Quận nương hay nói ta đây nhiều mầu Dù bao nhiêu gái má đào Đầy đàng đầy đống tôi nào có thương Một lòng chí quyết Đồ nương Cớ sao nàng chẳng có thương anh tài Hay là Tham tướng đẹp trai Đã mê họ Sử quên ngày hồi bang Nếu mà họ Sử cản đàng Để tôi giết hắn thì an chớ gì, Nó còn nàng chẳng dám đi Nếu mà nó chết nàng thì thong dong Nói rồi liền mới nhảy vòng Lại đâm họ Sử bên hông nặng nề. Thế Châu đã sẵn có nghề Đỡ thương họ Chế nặng nề lắm thay Nên nàng trặc hết hai tay Tháng bảy hăm bốn là ngày thọ thương Thảm thay cho ả nữ vương Vì bênh họ Sử bị thương đã đành Ngã ra bất tỉnh chết xanh Bốn nàng nữ tướng xúm quanh ngó nhìn. Mật Đa lại đỡ tựa mình Sử Văn mới ẵm vào dinh tức thì Vừa bồng nữ chúa vừa đi Mật Đa xem thấy xiết chi nghẹn ngào Muốn đem quận chúa xuống trào Chạy theo dành lại tranh nhau ôm nàng, Thế Ngân thì lại ngó ngang Quân gia họ Chế vây chàng Sử Văn Thế Kim Thế Ngọc tài năng Giải vây họ Sử chạy phăng về phòng. Châu đà chết xỉu nào thông Sử Văn đem để lãm phòng chiêu chư Hai nàng quyết đánh mà trừ Nhưng vì họ Chế tài dư quá thừa Đánh từ ban sáng đến trưa Không thua không thắng thiệt vừa tài nhau, Mật Đa liền trở xuống tàu Đình binh hẹn lại ngày sau luận bàn. Sử Văn ngồi tựa ngọa sàn Chàng liền khẽ gọi hỡi nàng Thế Châu Châu nghe mở mắt lắc đầu Bỏng liền cấp huyết thêm sầu thêm lo Sử liền gọi tiếng rất to Cung nhân mỹ nữ đến phò một bên Châu nằm dường thể ngủ quên Sâm thang đổ mãi gọi tên nàng hoài, Thế Kim mới bước vô ngay Đuổi bọn cung nữ ra ngoài hết trơn Sử Văn than thở tủi hờn: Thế Châu mà chết giang sơn nào còn Còn nàng còn nước còn non Mất nàng tôi ắt không còn vật chi. Thế Kim nàng mới nói thì: Để tôi xem mạch bịnh gì sanh ra Rõ ràng mạch nhảy phù sa Mạch nầy bi thảm mà ra bịnh nầy Chắc vì xúc cảm chi đây Thương hay là thảm mới xây bịnh nhiều Hồi nào ngài chửa thương yêu Bên nàng từ sáng đến chiều có tôi Nay đà đủ bạn đủ đôi Làm ơn thay mặt cho tôi nuôi nàng Ráng mà an nỗi Nữ hoàng Nói rồi Kim mới khoát màn bước ra Đặng coi các việc trào ca Thay quyền nữ chúa vào tòa pháp ty, Bốn nàng toan tính chuyện ni Thế Thủy mới tỏ vân vi lời nầy: Mật Đa số nó chẳng chầy Còn ba trăng nữa đem thây xuống mồ Chúng ta là phận liễu bồ Tuy riêng một cõi cơ đồ trị an Nhưng còn cha mẹ nữ hoàng Hiện đang Xiêm quốc làm quan đại thần Tính sao cho vẹn mười phân Đừng nêu tiếng xấu cõi trần khó coi Chuyện nào cũng phải xét soi Phải chi trí hóa hẹp hòi hay sao. Thế Kim nàng mới nói mau: Pháp ty nàng tính lẽ nào nói nghe Thế Thủy mới nói nè nè: Tôi có một kế bàn nghe hay kỳ Nhưng mà chẳng nói mà chi Để chờ Nữ chúa mạnh thì sẽ hay Thành thì bị giặc vây ngoài Nữ vương thọ bịnh không ai lăm đầu. Sử Văn nhìn mặt Thế Châu Nét vui biến mất vẻ sầu lộ ra Văn liền năn nỉ lân la Càng gần nữ chúa càng hòa tình thương Đêm đông lại gặp canh trường Cả hai lại bén lửa hương vì tình Hãy còn mang kiếp chúng sinh Ái hà dờn dợn sóng tình liền say. Sử liền kề mặt bắt tay Ba năm hẹn chửa đúng ngày sơ giao Thỏa lòng giỡn lý ghẹo đào Mộng điềm bỗng ứng thai bào long nhi Thọ tinh đã đúng khắc kỳ Cả hai nửa bước chẳng thì muốn xa Đang cơn ngọa bịnh thiết tha Gặp chồng hòa huyết bịnh đà mất tiêu Hổ ngươi Châu giả bịnh nhiều Sử Văn theo mãi ấp yêu đêm ngày Phước đà đã thọ long thai Triều thần văn võ nào ai rõ lòng Ngự y tựu đến rất đông Ngừa cơn nguy cấp sẵn phòng thuốc thang.
|
CHÚ THÍCH
1. Mật Đa: Chế Mật Đa, tướng trẻ có nhiều công trạng, được phong Nguyên soái Vương quốc Xiêm. 2. Thế Ngân: một trong bốn cô gái cận thần của Hạng Thế Châu. 3. Bải bui: miệt mài, bận rộn. 4. Pháp ty: Thế Thủy. 5. Xiêm thành: Vương quốc Xiêm, Thái Lan ngày nay. 6. Đồ nương: con gái quan đại thần Đồ công. 7. Đông sàng: giường phía đông, chỉ người rể quý. Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người nhà đến trường của Vương Đạo chọn số học sinh. Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì đáp rằng: - Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía đông. Khước Giám bảo: - Người ấy mới thật đáng rể ta. Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn thiên hạ. 8. Đồ công, Đoàn thị: hai vợ chồng quan đại thần Đồ công, cha mẹ của Hạng Thấ Châu. 9. Trước mai: tứ cổ, trúc mai. Trúc: người quân tử. Mai: người tiểu thơ. Ý nói đôi trai gái, vợ chồng. 10. Kích ngược: Kích là một lọai binh khí cổ, cán dài giống các loại giáo, mũi có một hoặc hai lưỡi nhỏ hình lưỡi liềm gắn vào phần đầu và một tua bằng lông ngựa. Nhờ cấu tạo này mà kích có thể làm kẹt vũ khí của đối phương và sau đó người dùng kích chỉ cần giật mạnh để tước hoặc làm gãy vũ khí của đối phương. Người dùng kích có thể tấn công đối phương bằng cách kéo kích ngược lại để móc bằng lưỡi bên; hoặc tấn công địch thủ bằng phần lưỡi phẳng để đối phương ngã khỏi ngựa. Ý nói sự hiệu quả của bộ phận phụ, thay thế phần chính. Ở đây Chế Mật Đa muốn nhấn mạnh vai trò con rể thay thế con trai ruột. 11. Nàng bồi giá: người con gái theo hầu hạ cô dâu khi về nhà chồng. Ở đây muốn nhắc đến Thế Thủy. 12. Tấn Tần: Hai nước Tấn và nước Tần sát nhau (thời Chiến Quốc) ở Trung Hoa, có truyền thống các đời vua thường gả con với nhau để mưu hòa giữa hai nước. Duyên Tấn Tần ý nói duyên vợ chồng. 13. Quan quách: Quan là quan tài, phần cất giữ xác chết. Quách là phần vỏ bọc bên ngoài quan tài. Quan quách là cách chôn cất có hai lớp, trong quan ngoài quách để liệm xác chết, với cách này sẽ bảo quản xác chết rất kín và rất lâu năm. Đây là cách chôn cất của những gia đình quan lại, giàu có thuở xưa vì rất tốn kém. 14. Phú Cường: tên gọi khác của Phú Quốc. Trong tư liệu lịch sử chưa thấy nhắc tên gọi Phú Cường thay cho Phú Quốc, tuy nhiên theo suy đoán nguyên gốc chữ Phú có nghĩa là Phú Cường (giàu mạnh), Phú Quốc nghĩa là xứ sở giàu mạnh. 15. Phụ tử quân thần: quan hệ cha con trong nhà, vua tôi ngoài xã hội. Ý nhắc đến lễ giáo theo Nho giáo ngày xưa rất xem nặng đạo đức, lễ nghĩa. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình. Tam cương và Ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam cương: 1. Quân thần: Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, bề tôi phải phục vua quan. 2. Phụ tử: Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu, con cái nghe lời cha mẹ. 3. Phu phụ: Phu xướng phụ tùy, chồng nói vợ nghe. Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Tam tòng: 1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải phụng dưỡng cha mẹ. 2. Xuất giá tòng phu: đi lấy chồng phải phụ thuộc bên chồng. 3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải nuôi con. Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh 16. Vì Thế Ngân chồng chết, chưa có con, nên xin quay về phụng dưỡng cha mẹ. | |
THẾ NGÂN XIN CƯỚI SỬ VĂN
THẾ CHÂU LÂM TRỌNG BỊNH Thế Châu (1) đang ngự cung chương Sử Văn (2) kể chuyện tổ đường ngàn xưa Càng nghe Nữ chúa càng ưa Phút đâu hai ả (3) cũng vừa tới nơi: Muôn tâu Nữ chúa ngôi trời Hai tôi từ thuở vâng lời ra đi Ngày nay tôi mới hồi quy Tròn xong sứ mạng mới đi trở về, Sau khi vâng lịnh chỉ phê Duyên nầy đã gả sánh bề nghi gia Yểu vong thương Chế Mật Đa (4) Sánh duyên ba tháng hắn đà yểu vong Hai tôi sứ mạng đã xong! Nữ vương ban yến đền công hai nàng. Sử Văn thay mặt Nữ hoàng Giải lao công khó hai nàng bấy lâu Tham mưu (5) đành uống rượu hầu Hai nàng dâng rượu Thế Châu nữ hoàng: Chúc Bà vững đạt giang san Chúc Bà ngôi chúa trị an ngàn ngày. Thế Châu đang độ mang thai Sợ e lắm rượu rủi say khó lòng Một là huyết mạch chẳng thông Hai là thai phụ nên phòng say sưa Tình trong Nữ chúa đã ngừa Miệng ngoài còn hỏi đẩy đưa nói cười: Sử huynh mạnh rượu hơn người Uống thay cho Trẫm thêm tươi vẻ hồng. Sử Văn chàng đã rõ lòng Phải ra uống thế rượu nồng cạn chum Anh hùng nào sợ khí hùng Rượu càng thấm dạ vẫy vùng càng hay Chàng đà quá chén phải say Càng tăng thêm vẻ đẹp trai của chàng, Sử liền thấm rượu ngã ngang Thế Ngân bước lại ôm chàng Sử Văn Nữ vương xem thấy phán rằng: Cung tần mau đỡ Sử Văn về lầu! Nàng liền dẹp yến bãi chầu Thế Ngân vội vã quỳ tâu như là: Hạ thần nhiều việc thạnh đa Xin Vua đình bộ tâu qua sự tình Nay thần trở lại triều đình Vấn an long thể thánh minh dồi dào Chưa tâu tự sự âm hao Thì vua vội vã bãi triều mà chi Chẳng hay là sự thế ni Xem vua tánh ý có khi khác vần. Nữ vương rằng: hỡi Thế Ngân Ta nàng là nghĩa quân thần cao xa Sao nàng chẳng chút phục ta Dám đình xa giá cũng là lớn gan Cho nàng về phủ nghỉ an Định ba ngày nữa mời nàng vào cung Điều chi tâu hết cho cùng Cho ta rõ lại thủy chung như là. Thế Ngân bái tạ lui ra Thế Châu vội vã vào mà long lâu, Cung tần xúm lại quỳ tâu Thấy Sử tham tướng say âu quá nhiều Hồi giờ ông cứ nằm liều Thế Châu nghe nói càng nhiều hãi kinh Lại gần kêu: hỡi Sử huynh Sử Văn chàng cứ làm thinh mà nằm, Nữ vương truyền đổ nước sâm Nàng liền đặt mạch xem trầm hay thăng Mạch đi trầm bổng không ngừng Nữ vương theo mãi Sử Văn ngày nào Uống chi quá chén no say Đê mê bất tỉnh hai ngày rồi đa Sử Văn vừa mở mắt ra Thấy nàng giọt lệ chan hòa như mưa Chàng rằng: anh lỡ say sưa Bỏ em ngồi mãi sớm trưa một mình Thôi thôi tha tội bạc tình! Nữ vương rằng: hỡi Sử huynh giữ lòng Từ rày nhớ khá đề phòng Rượu là cái thứ bất công thuở giờ Uống vào thì cặp mắt mờ Anh say nằm mãi em chờ mỏi hơi Em khuyên anh khá nhớ lời Rượu ngon tay gái rót mời nên kiêng! Sử Văn chàng mới nói liền: Không kiêng Nữ chúa có quyền rầy la Mất công săn sóc cho ta Quạt nồng đắp lạnh nhạt mà Nữ vương Thôi thôi xin phép nương nương Vào phòng tiêu nghỉ Nữ vương hỡi nàng. Thế Ngân lòng xốn dạ xang Nhớ hồi chăn gối cùng chàng Mật Đa Ngỡ là hiệp mặt đến già Nào hay phút chốc chàng đà chết đi Làm cho ta lỡ một thì Nào ngờ có chuyện thị phi đổi dời Về đây ta mới thảnh thơi Mắt nhìn Tham tướng (6) tuyệt vời lắm đa Oai nghiêm sắc xảo đã già Nét hiền phúc hậu Mật Đa khó bằng Luận ra kẻ võ người văn Tình xuân bỗng lại băn khoăn cõi lòng Sử Văn mới xứng là chồng… Tâu xin nữ chúa chuyện này Từ hôn họ Sử duyên này cùng ta Sử Văn nhiều nét văn hoa Võ phu cho gã Mật Đa thị tài Sống cao danh vọng mấy ngày Chết về âm phủ uổng tài biết bao Sử Văn rõ mặt anh hào Lòng ta đã muốn sáng vào cung chương Dốc lòng tâu với Nữ vương Từ hôn họ Sử tào khương kết tình Đặng duyên chồng đẹp chồng xinh Hơn là ở góa một mình thở than Má hồng nhọc sức điểm trang Hoa tươi đau phải hoa tàn nhị rơi. Nữ vương ngự giữa ngôi trào Võ văn lớn nhỏ liền thời tung hô Tham mưu thảo bức họa đồ Cùng nhau bàn luận mưu mô nọ nầy Nữ vương truyền hỏi như vầy: Võ văn lớn nhỏ đông dày rồi đa Thái sư (7) nhọc sức vì ta Sánh duyên với chế Mật Đa mới về Chẳng may chết mất phu thê Khuyên nàng ráng giữ một thề cho xong Trọn đời thủ tiết thờ chồng Khuyên đừng bán bưởi mua bòng chanh chua. Thế Ngân quỳ xuống tâu vua: Mùa đông bấc thổi lá khua cổng ngoài Buồn duyên tủi phận lắm thay Nghĩ công của thiếp xưa nay đã nhiều Mong nhờ lượng biển thương yêu Xin cho tiện thiếp một điều sắp tâu Thiếp thần đang độ tang chồng Buồn duyên khép kín cửa phòng đêm xuân Như vầy thiếp chẳng đành ưng Tại bà làm lỡ tuổi xuân kẻ này Nhờ bà ơn đức đủ đầy Nghĩ công tiện thiếp bấy chầy rồi đa Tuy về ở với Mật Đa Hoa còn phong nhụy chẳng mà tàn phai Nhắm trang Tham tướng anh tài Hạ thần muốn sánh trúc mai với chàng Nhờ ơn Nữ chúa gia ban Từ hôn cho thiếp cùng chàng nên đôi. Nữ vương nghe nói hỡi ôi: Nàng là gái có chồng rồi lâu nay Trào thần ai cũng biết hay Sử huynh còn hỡi là trai nàng à Nàng đây vốn thật đàn bà Hoa tàn nhụy rữa hương đà tàn phai Mật Đa chết chửa mấy ngày Muốn đi cải giá thiệt rày khó coi Trẫm đây sử sách thường soi Đàn bà thế ấy ai coi ra gì! Thế Ngân nàng mới nói thì: Có chồng tôi có chưa thì có con Băng trinh tôi hỡi vẫn còn Có chồng mà chửa có con Bà à Phải chi tôi lớn tôi già Con năm bảy đứa thì Bà nên chê Nầy tôi nhan sắc như huê Sắc nầy có lắm người mê lụy mình. Nữ vương nghe tấu làm thinh Hồi lâu khẽ hỏi Sử huynh thể nào Thái sư nàng muốn duyên trao Sử huynh liệu có thương nào hay chăng Nếu mà Tham tướng lòng bằng Trẫm ban chiếu lịnh xích thằng sánh đôi. Sử Văn mới nói thôi thôi Tôi đây đã có vợ rồi từ lâu Vợ tôi nay đã mang bầu Ham đôi ba vợ hại sầu ngày sau Thái sư nàng mới hồi trào Xin nàng chọn lại kẻ nào kết duyên. Ngân rằng: thiếp gái chính chuyên Chọn nơi trong sạch đậu thuyền nhìn trăng Thiếp đà quyết chọn Sử Văn Bấy lâu thiếp luống nhọc nhằn ước mơ! Thế Kim nghe nói ngẩn ngơ Thế Ngọc thảo sẵn một tờ chỉ phê Thế Thủy (8) xem thấy cười hề Thế Châu thì lại tái tê trong lòng: Sử Văn vốn thiệt là chồng Ta nào có dám tỏ lòng phôi pha Như vầy khó tính dữ a Thế Ngân thì nó lại già tao văn Nghĩ suy chưa kịp phán rằng Thế Ngân theo mãi nỉ năn Nữ hoàng Xin vua xuống lệnh gia ban Từ hôn họ Sử dầy đàng thiếp đây. Nữ vương nghe tấu ngầy ngầy Mắt nhìn Tham tướng hỏi nầy Sử huynh: Nếu ngài mà có hứng tình Nói cho Trẫm rõ điều đình dùm luôn. Sử Văn tỏ vẻ phiền buồn: Mong ân Nữ chúa lập tuồng nước mây Tới đây tôi đã ở đây Thì quyền nữ chúa chuyện này tính toan Chớ tôi nào biết lối đàng Tính sao thì tính cho an hai bề Làm trai năm thiếp bảy thê Nếu đi mà nhớ lối về thì thôi Lẽ nào quên lúc tái hồi Định sao thì định phận tôi cũng là. Nữ vương nghe tấu thở ra Biết chàng thấy sắc lòng đà say sưa Cho nên nói đẩy nói đưa Ta nên việc trước phải ngừa việc sau Nghĩ rồi nàng mới phán mau: Trẫm đình ba tháng rồi sau sẽ tường! Thế Ngân tâu với Nữ vương: Từ hôn xuống chiếu việc thường khó chi Vua là một kẻ thông tri Chuyện chi cũng biết chuyện gì cũng hay. Thế Ngọc nàng cũng tâu rày: Tôi đà thảo sẵn một bài chiếu phê Việc này xét cũng thường lề Bệ hạ còn phải đợi về khi nao Xét ra có khó chi nào Bệ hạ trí tuệ làu làu xưa nay Đã là một gái sắc tài Chiếu phê đồng ấn nhọc rầy bao lâu, Đây tôi dâng viết xin hầu Bệ hạ phê chuẩn để lâu làm gì Nay ngày huỳnh đạo sao di (9) Thiên ân, Thiên đức tốt thì lắm đa Xin cho trai gái giao hòa, Nữ vương nước mắt chan hòa rớt rơi Nghẹn nghen khó thốt nên lời Thế Ngọc cứ mãi ép mời vua phê Nén lòng trắc ẩn ủ ê Ký tên chiếu lịnh chỉ phê tức thì Mai nầy chánh ngọ đúng kỳ Yến viên thiết đãi khắp thì trào ca Thái sư Tham tướng hiệp hòa Truyền cho lê thứ nhà nhà sum vui. Phán mà gương mặt ngùi ngùi Mắt rơi vội vã tay chùi làm khuây Càng lau dòng lệ càng đầy Đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà đau. Thế Kim hết sức ngọt ngào Giận thay Thế Ngọc bào hao quá chừng Thấy Châu rơi giọt mắt gừng Thế Kim nóng ruột lửa phừng cháy gan Vua thì nước mắt chứa chan, Võ văn nào có hãng toàn chi đâu Vào đền phẩm phục ngồi chầu Ngó Vua thì phải chiếc đầu lìa thân, Còn Kim ngoài đạo quân thần Trong thì trắc ẩn tình thân ruột rà (9) Thấy Vua khóc giữa trào ca Nóng lòng nàng mới nói ra như vầy: Xin Ngọc Thừa tướng nghe đây Làm quan mà quá dại ngây vậy cà Việc nầy là việc riêng nhà Ép vua phê chiếu tội đà quá to Vua còn suy nghĩ đắn đo Dễ lường rún biển khó dò đáy sông Thái sư nên vợ nên chồng Có chia cho đó động phòng hay sao Khéo làm cái chuyện tầm phào Mai sau biến sự thế nào ai gây Phải là tại bởi nàng đây Bộ ăn hối lộ mập thây rồi khùng Giữa trào mà dám làm lung Ép vua phê chiếu còn khùng nào hơn! Thế Ngọc nào rõ nguồn cơn Nào hay Nữ chúa đã hờn bên trong Sử Văn gõ cửa tiêu phòng Nữ vương đã nhận tấm chồng từ lâu Thế Ngọc nào có hay đâu Có Kim mai mối dẫn đầu mà thôi, Thủy là một kẻ trao dồi Nên thông mật nhiệm mải ngồi làm thinh Để hai Thừa tướng bất bình Cãi nhau nổi trận lôi đình nghe ran. Nữ vương nàng cũng khuyên can Xin hai Thừa tướng giảm đàng sân si Kim đang nóng giận kể gì Choàng tay đánh Ngọc ngu si dại khờ, Nữ vương đang lúc bất ngờ Kim choàng tay đánh tình cờ trúng ngang Nữ vương té xuống ngai vàng Thế Thủy nàng rất lẹ làng đỡ lên Vua ngồi chính giữa ghế trên Tả hữu Thừa tướng hai bên lộng tình Nữ vương hay bịnh thình lình Nửa buồn Tham tướng thuyền tình lung lay Nửa lo số kiếp ngày mai Ắt là sẽ có lợt phai sắt cầm (10) Nên nàng buồn bực âm thầm Huyết cầu bế tắc tối tăm mặt mày Phát liền cấp huyết ghế thay Nhả ra những máu, mặt mày mét xanh Nữ vương mang bịnh chẳng lành Giữa trào Tham tướng phải đành làm lơ, Cung tần xúm lại chực chờ Kẻ hơ bụng dạ người hơ mặt mày Thế Ngân đặng mới làm oai: Cả gan Thừa tướng dám rày đánh vua Vào đây còn muốn hơn thua Đánh vua thổ huyết chạm khua thế nầy Ngự lâm này hỡi chúng bây Trói Kim Thừa tướng giam ngay nhục hình! Châu còn thiêm thiếp bịnh tình Kim đà vào chốn ngục hình không hay. Chừng Châu định tỉnh hồn mai Hồi cung an nghỉ sáng ngày sẽ toan, Sử Văn cũng chẳng ngó ngàng Lòng người mau chóng phụ phàng đổi thay. | |
CHÚ THÍCH:
------------------------------------ 1. Thế Châu: Hạng Thế Châu, con gái quan Đại thần Đồ Công của Vương quốc Xiêm, sang Phú Quốc xây dựng lãnh địa riêng và xưng Vương. 2. Sử Văn: tướng trẻ nhà Minh, phái sang trinh sát các nước và lạc vào Phú Quốc, được Hạng Thế Châu cứu giúp và hai người có cảm tình với nhau. 3. Hai ả: Thế Ngân và Thế Thủy. 4. Chế Mật Đa: tướng trẻ có nhiều công trạng của Vương quốc Xiêm, được phong Nguyên soái. 5, 6. Tham mưu, Tham tướng: chức quan của Sử Văn. 7. Thái sư: chức quan của Thế Ngân. 8. Thế Ngân, Thế Kim, Thế Ngọc, Thế Thuỷ, Thế Châu là năm cô gái từ Vương quốc Xiêm cùng sang Phú Quốc. 9. Thế Kim và Thế Châu là chị em con chú con bác. Thế Kim gọi Đồ Công bằng chú. 10. Sắt cầm: Đàn sắt (25 dây), đàn cầm (7 dây), hai loại đàn xưa thường đánh chung với nhau. Tương tự như piano và violon ngày nay. Người ta thường nói: Loan phụng hòa minh, Sắt cầm hảo hợp. Nghĩa là: chim loan và chim phụng hòa tiếng hót, đàn sắt đàn cầm hợp âm, ý nói vợ chồng hòa hợp với nhau. | |
THẾ NGÂN HIỆP HÒA CÙNG SỬ VĂN
HẠNG THẾ CHÂU TRẢ CON CHO SỬ VĂN RỒI QUYÊN SINH Trời ông sắp lớp lá mai Để cho phận gái đắng cay cam lòng Nàng đang rơi giọt mắt hồng Sử Văn bỗng mở cửa phòng bước vô Châu (1) nhìn họ Sử (2) khóc ồ Không chào không hỏi không phô một lời, Đàn ông ai cũng lả lơi Ngồi gần Tham tướng (3) dùng lời nhủ khuyên: Anh đây thương đó nhu hiền Em sao hay có giận phiền ngu phu Vợ chồng đạo nghĩa thiên thu Tình em anh nguyện đền bù lại cho Chưa chi mà sợ mà lo Chưa gì em lại buồn so thế nầy Xin nàng hãy khá lòng khuây Bên em vẫn có anh đây em à! Nữ vương nàng luống chan hòa Em đây ngán nỗi đường xa khó lòng Bây giờ còn vợ còn chồng Mai nầy thiếp sợ dứt lòng én anh (4) Thế Ngân nhiều tiếng dỗ dành Thiếp e quân tử lòng đành mến mê Cung vi quên lối đi về Để cho tiện thiếp ủ ê não nồng. Nói mà lụy nhỏ mắt hồng Sử Văn theo mãi nhủ lòng nhỏ to: Lo gì chuyện ấy mà lo Kiến trong miệng chén lại bò đi đâu Vui đi em hỡi Thế Châu! Nói rồi chàng mới chải đầu Nữ vương. Tóc mây đà đuột dễ thương Không cài tóc phụng để vương mây sà (5) Để anh chải tóc cho Châu Rồi lên phụng liễn lâm chầu cho tươi Làm vua nói nói cười cười Làm vua mà khóc rồi người chê bai Để anh xin tiếp một tay Phụ em trang điểm đẹp thay em à! Lạ chi cái tánh đàn bà Chồng theo năn nỉ thì là hết ghen Gặp trăng thì phụ bóng đèn Đời trai hay có lấn chen tư tình Phúc đà ló ánh bình minh Sử Văn chàng mới về dinh sắp bày Nào là áo mão cân đai Chỉnh tề rồi mới đến rày trào ca Nữ vương nàng đã ngự ra Võ văn tựu hội vui đà biết bao Thế Ngân, Tham tướng cùng nhau Nắm tay mừng rỡ đón chào các quan Xong rồi ra bái Nữ hoàng Thế Châu xem thấy hai đàng đẹp đôi Máu ghen trong cổ bừng sôi Ngồi mà nhỏ giọt mồ hôi dầm dề Nén lòng căm tức liền phê: Ngày nay hai họ hiệp về một nơi Âu là non nước thảnh thơi Gỡ trâm cài tóc vua thời phán ra: Vật này vốn thật của ta Tục kêu chim phụng cành thoa giắt đầu Mến tay xài nó đã lâu Nay ta xin biếu chút ân cho nàng Trăm năm bền bỉ duyên vàng Thế Ngân lãnh của Vua ban cả mừng. Sử Văn mắt liếc ngó chừng Bảo thầm trong bụng Châu đừng nổi điên Nhìn Châu thấy vẻ tự nhiên Sử Văn trong bụng vững yên vui lòng. Thế Ngân đã được có chồng Võ văn tựu hội chật trong chật ngoài Hai đàng tay vẫn nắm tay Càng đi đãi yến càng say vì tình. Ban đầu Tham tướng còn nhìn Sợ vì Nữ chúa thình lình nghẹn ngang Hồi lâu quên ngó Nữ hoàng Mãi lo đối ẩm với nàng Thế Ngân Võ văn lớn nhỏ trào thần Xin vua xuống lịnh ân cần phóng tha Ngày vui của Sử Văn gia Thiếu Kim Thừa tướng cũng là kém vui. Châu nghe nhắc đến ngậm ngùi Mắt hồng tuôn đổ tay chùi không khô Hồi lâu nàng mới liền phô: Trẫm nhờ Thừa tướng cơ đồ dựng nên Hỡi nầy tả hữu hai bên Dẫn Kim Thừa tướng vào đền cho ta! Thế Kim được lịnh vua tha Nên nàng vội vã đi ra đến trào Nữ vương xem thấy nghẹn ngào Nên nàng bỗng lại té nhào bên ngai Cấn nhằm chỗ nghiệt long thai Thai nhi khó chịu cứ hoài trở xoay Yến viên thết đãi con chầy Nữ vương thọ bịnh xúm vầy sóc săn, Lớp nào lo việc đãi đằng Lớp lo nữ chúa bịnh căn lạ kỳ Kim phò vua lại cung vi Châu đà á khẩu chẳng thì nói năng Mười hôm không nói không rằng Kim lo thang thuốc ép ăn ngày ngày. Sử từ hiệp mặt bắt tay Mãi vui duyên mới đêm ngày mê sa Thế Ngân là gái tinh ma Mãi dùng tửu sắc hát ca nơi phòng Hết bày nem tốt rượu nồng Lại bày xướng hát nhủ lòng Sử Văn, Nàng theo nói nói rằng rằng Không thương nói mãi cũng thương Thế Ngân bày chuyện đủ đường thiếu chi Nữ vương mang bịnh nan y Kim lo về việc thai nhi ngạt ngào Biết là thai sản hôm nào Nữ vương cấm khẩu biết sao hỏi rằng Phen nầy mời gã Sử Văn Đến mà thương lượng hỏi rằng mới xong. Tính rồi nàng mới đi dong Đến dinh Tham tướng vào trong mà ngồi Lính hầu thưa rõ khúc nôi: Xin Tả Thừa tướng lai hồi bổn dinh Ông tôi đang bận chén quỳnh Men rượu còn lại men tình quá say Ít khi ông bước ra ngoài Từ hôm hiệp cẩn ở hoài phòng hoa Bà tôi chẳng có cho ra Canh ông mãi mãi có bà ngồi bên. Thế Kim nàng mới nói lên: Ta đây vì có lệnh trên Nữ hoàng Đến đòi Tham tướng mau toan Vào cung cho kíp luận bàn chyện riêng Quân nghe vào trướng thưa liền Có Tả Thừa tướng ngoài hiên ngồi chờ Đợi ông trót hết mấy giờ Bảo rằng Nữ chúa đang chờ cung vi. Sử Văn nghe nói liền đi Thế Ngân nàng lại níu trì phôi phai Anh đi em ở lại nhà Nhớ anh ắt thiếp chẳng mà sống đâu Vợ chồng ta sẽ vào chầu Kẻo chàng bỏ thiếp đi đâu thiếp buồn Nói mà giọt lệ nhỏ tuôn Sử Văn vì sợ nàng buồn khóc la Nắm tay liền bước đi ra: Chào Kim Thừa tướng đến nhà mà chi! Thế Kim xem thấy lạ kỳ Gật đầu mới hỏi tuồng gì sắc phong Giống như mèo mả gà đồng Không ai biết đạo vợ chồng hay sao Khéo thay nũng nịu làm màu Cho hay Nữ chúa lâm trào đến nay Tính ra đã quá mười ngày Nằm mê bất tỉnh chẳng rày nói năng Từ ngày hai họ hiệp căn Là ngày nữ chúa bệnh thăng thêm nhiều Nào đâu có đặng lâm triều Vì sao Tham tướng bỏ liều trào ca Mải vui nơi chốn phòng hoa Đành quên những chuyện quốc gia đang thời, Thế Ngân nàng quá lả lơi Đi đâu có cặp không rời vậy đa Coi chừng cái lưỡi gươm tai Tuồng chi giống thứ lang sa quá chừng Luật vua phép nước trị trừng Xử theo chánh pháp sao đừng kể công Đành rằng trong đạo vợ chồng Tình giao một thưở mặn nồng thiên thu Nhưng còn miễu võ sùng tu Làm sao đáng mặt trượng phu mới là Sử Văn hãy khá theo ta Vào cung yết chúa bàn qua chuyện đời, Thế Ngân nàng hãy nghe lời Xin nàng hãy khá tạm rời Sử Văn! Thế Ngân nàng mới nói rằng Nữ vương cho phép hiệp lằn lửa hương Chồng tôi tôi mến tôi thương Việc trào đã có Thủy nương cầm đầu Thế Ngọc cũng đủ mưu mào Thì là Thế Ngọc làm đầu sĩ binh Nữ vương dù có bệnh tình Ngự y cả lũ triều đình thuốc thang Còn Kim thừa tướng là nàng Trong ngoài đủ trí lo toan giùm nào Chuyện nầy chẳng có là bao Phu quân đi nghỉ hơi nào mà lo! Các bà áo rộng mão to Sao không ra sức khuông phò giang sang Bình thời uốn lưỡi khoe quan Đến chừng có chuyện mời chàng Sử Văn! Chúng ta mới kết xích thằng Xa nhau một phút ví bằng một năm Vốn chưa phỉ chí ăn nằm Mới vừa hiệp mặt sắt cầm yêu thương Nàng về tâu với Nữ vương Mở lòng trời biển xót thương chút tình. Thế Kim nghe nói tức mình Lui hài tách bước làm thinh ra về Thế Ngân xem thấy cười hề Rõ ràng Thừa tướng nhiều bề lá lai Quân hầu hãy khóa cổng ngoài Từ đây đừng có cho ai bước vào Đến đây nói chuyện tầm phào Bạn hầu như vậy tốt nào chi chăng Phu quân chàng hỡi Sử Văn Vào phòng ngơi nghỉ khỏe chăng chàng à Nắm tay trở lại phòng hoa Để vui duyên mới suốt đà tháng nay Sóng tình càng động càng say Sử Văn quên mất những ngày vào cung Sương sa thêm tuyết mưa phùn Quên đường lối cũ vào cung Nữ hoàng Hồi nào trong trướng ngoài màn Bên Vua thì chỉ có chàng mà thôi Nay mà loan phụng hiệp đôi Bỏ bà Nữ chúa than ôi một mình Đàn ông lắm kẻ bạc tình Hễ mê duyên mới ai nhìn duyên xưa Thế gian hạng ấy có thừa Muốn thì cương quyết cho vừa chí trai Được rồi nào có đoái hoài Nghĩ mà càng đắng càng cay càng nồng. Thế Ngọc nào rõ đục trong Nên nàng ngày tối thong dong nói cười Ai lo ai sợ mặc người Nàng xem hoa nở nụ cười làm duyên Thế Kim giận quá mắng liền: Này Hữu Thừa tướng nàng điên sao mà Việc nào cũng để một ta Vui gì hoạn kiểng xem hoa đua màu Trước nàng làm líu giữa trào Ép vua phê chiếu tội nào nhỏ đâu Rõ ràng nàng thứ ngu đầu Làm lung chín Bệ hại sầu cho ta, Tức lòng ta mới nói ra Nữ hoàng với Sử Văn gia giao tình Vua đà nhận lấy huyết tinh Của chàng Tham tướng tượng hình thai nhi Thế Ngân là gái vô nghì Nàng nào có biết chuyện gì ở mô Muốn chồng cái nết nhảy rô Lấy chồng chẳng đợi cho khô mùa chồng, Mật Đa số mạng yểu vong Thế Ngân lẽ phải thở chồng ba năm Có đâu sanh thói tà dâm Làm cho ta chịu xấu thầm về sau Thiệt ta tức biết là bao Nàng đâu dại ngọt dại ngào hơn ai! Thế Ngọc nghe nói mới hay Nên nàng ngồi mãi thở dài một hơi: Thiệt tôi có tội với trời Lỗi bề trung tín tiếng đời phải mang Nhớ hồi tôi ở Xiêm bang Học qua thai sản đã toàn lâu nay Để tôi vào đó xem thai Thử xem cho có gần ngày khai hoa Đặng cho trị bệnh lịnh Bà Nói rồi hai ả bước mà vào cung Trời cao xin chứng lòng trung Vào trong nhìn thẳng hậu cung thêm sầu Nữ vương nhắm mắt lắc đầu Cung nga mỹ nữ đứng hầu hai bên, Thế Ngọc bước tới truyền lên: Hai ta truyền bãi các tên nữ hầu Vào thăm thai dựng Thế Châu Đến ngày nở nhụy chẳng lâu đâu là Đêm nay giờ Tý canh Ba Nữ vương thai sản sẽ là sanh trai. Kim rằng: như vậy cũng hay Chúng ta lo sắm chờ ngày thì xong Thế Thủy nàng đã rõ lòng Nên nàng lập tức vào trong cung tiền Đệ đầu khẩn vái hoàng thiên Xin cho Nữ chúa bình yên mình vàng. Vuốt ve cung cấn nê hoàn Nhâm thần điểm mẹo bỗng nàng nói ra: Từ ngày mừng cuộc đuốc hoa Của chàng Tham tướng giao hòa Thế Ngân Vì ta bất tỉnh định thần Tính ra thắm thoát đã gần hai trăng Ta nào thấy mặt Sử Văn Ngồi buồn nhớ lại ruột phăn như dồi Sông sâu bên lở bên bồi Mấy ai hai vợ tình ngồi chánh thê Trách chàng quên lối đi về Ngân là gái chạ mến mê đêm ngày Nhớ chàng ta luống ai hoài Khó dằn lụy ngọc vắn dài nhỏ ra, Ba nàng như có thương ta Đi triệu Tham tướng về mà nơi đây Cho ta thấy mặt đôi giây Khỏi cần thang thuốc bệnh này cũng an. Thế Thủy quỳ gối vội vàng: Đêm nay giờ tý Nữ hoàng thai sinh Thế Ngọc thì gái khôn lanh Đến nhà Tham tướng dỗ dành chàng đi. Ngọc nghe vội vã bôn phi Đến dinh Tham tướng nàng thì vào trong Thẳng chân đi tuốt vô phòng Thế Ngân đang ở trong lòng Sử Văn. Nổi điên Ngọc mới mắng rằng: Tụi bây mèo mỡ gió trăng đêm ngày Nữ vương sắp sửa sanh thai Tôi phiền Tham tướng vào ngay cung vàng Sử Văn bộ dáng dã man Hoa tươi lại phụ hoa tàn lại mê Cung vi mau khá đi về Nữ vương sửa soạn khai huê tức thì! Thế Ngân nghe nói lạ kỳ Bộ Ngọc Thừa tướng điên thì hay sao Nói nghe những tiếng tầm phào Thần kinh bấn loạn nói nào trúng đâu. Sử Văn chẳng chút lo âu Nên chàng thủng thỉnh từ câu trình bày: Vua dù nở nhụy hoa khai Bổn bà là kẻ thiện tài rồi đa Vậy thì nên rước bổn bà Vào cung tôi cũng chẳng mà làm chi! Thế Ngọc nổi giận sân si: Làm trai như thế chết đi cho rồi Tuồng chi mà quá tanh hôi Mải mê những gái phấn dồi xông hương! Nói rồi nàng bước ra đường Về cung thuật lại Nữ vương hãng toàn. Châu nghe lụy nhỏ hai hàng: Dạ em nhớ lắm hỡi chàng Sử Văn Chàng dù phụ nghĩa gối chăn Cho em thấy mặt cũng bằng lòng thôi Bấy lâu cùng thiếp đứng ngồi Nay sao anh lại sụt trồi tơ duyên Bỏ qua lòng thiếp không yên, Hóa trang nội giám đến liền tư dinh Ba nàng đổi dạng thay hình Làm quân cận vệ long đình Nữ vương Ta làm nội giám cung chương Cùng nhau đi đến phủ đường Sử Văn. Lính hầu xem thấy nói rằng Ông đang đọc sách nghiêm lăng thơ phòng Bà thì đang tựa bên ông Bởi nên khép kín cửa phòng rồi đa, Hôm nay thái giám đến nhà Chẳng hay có lệnh triệu bà hay ông Triệu ông ông bận thủ phòng Triệu bà bà mắc ôm chồng bận tay. Vừa nói vừa ngó ra ngoài Ba tên cận vệ mặt mày quá nghiêm Khác nào Thế Ngọc Thế Kim Bỗng nghe tiếng lịnh bảo im coi là Thái giám đã đến quan nha Ngươi vào cứ bảo ông bà ra đây! Lính nghe vào bẩm như vầy Bẩm ông thái giám đến đây ở ngoài. Thế Ngân nghe nói châu mày Chẳng hay thái giám đến rày mà chi! Sử rằng: chẳng hiểu chuyện gì Để anh ra tiếp rước thì vào trong Thế Ngân theo mãi bên chồng Nắm tay Tham tướng rồi đồng đi ra Miệng kêu thị nữ pha trà Để mời thái giám mới qua phủ đường Sử Văn nhìn biết chán chường Rõ là vợ cũ Nữ vương trá hình Ắt là nàng đến thăm mình Nghĩ ta cũng lắm bạc tình phu thê, Sử liền bước đến ngồi kề Vuốt ve thái giám khuyên về cung vi Nắm tay Sử kéo bảo đi Tôi cùng thái giám về thì cung son Nào lời hẹn biển thề non Tôi đây vẫn nhớ vẫn còn mến thương Chúng mình trở lại cung chương Nữ vương nghe nói mắt hường nhỏ sa Làm thinh chẳng dám nói ra Nói ra sợ tiếng người đà nghe quen Nỗi đành nén tắt cơn ghen Đến đây để rõ trắng đen dạ chồng Sử Văn chàng đã rõ lòng Choàng vai mới bước thong dong đi liền, Ba tên cận vệ thẩm quyền Theo phò thái giám cũng liền ra đi. Thế Ngân xem thấy lạ kỳ Hỏi rằng phu tướng chàng đi sao chàng Bỏ em lạnh bỏ phòng loan Nói rồi nàng mới cản đường Sử Văn, Sử Văn liền mới nói rằng: Chiếu kinh em chớ làm nhăng em à Xin em trở lại phòng hoa Anh đi chốc lát chẳng mà bao lâu. Thế Ngân nũng nịu mày châu Xin chàng cho thiếp theo âu với nào Thiếp người trí cả tài cao Tôi trung nữ chúa hai trào phò xong Có chồng thì thiếp theo chồng Chàng đi bỏ thiếp trong phòng sao yên Ngân cùng đưa đẩy tình duyên Sử đà rối trí như điên khác nào Ngân liền giả bộ lăn nhào Nắm chân Tham tướng kêu gào không thôi: Phu quân chàng hỡi chàng ơi Đi đâu cũng phải cho tôi theo chàng! Sử Văn ngồi xuống ôm nàng Vuốt ve năn nỉ dịu dàng nhỏ to: Khuyên em đừng có buồn lo Anh đi một chút sẽ lo trở về. Ba tên cận vệ vào kề Đến phò thái giám ra về cho xong, Tham tướng thì trở vào phòng Thế Ngân nàng mới vui lòng hân hoan. Nữ vương về đến cung vàng Ngồi mà nước mắt hai hàng nhỏ sa Phút đâu đã đến canh ba Bầu trời ảm đạm mưa đà quá mau Nữ vương bụng đã quặn đau Bỗng đâu tiếng sấm trên cao nổ rền Rung rinh khắp cả điện đền Mưa to sấm sét nghe rền rình rang Nữ vương sanh đặng tử hoàng (6) Mặt mày nhìn rõ giống chàng Sử Văn Mẹ tròn con vẹn an bằng Mưa tan mây tạnh bóng trăng mờ mờ, Thế Châu lòng ngẩn dạ ngơ Gượng ngồi nàng thảo một tờ tuyệt thi (7) Nhìn con cốt cách phương phi Cha con bạc đạo vô nghì lắm đa! Cha mày là Sử oan gia Dặt mày oan nghiệt giúp cha của mầy Mấy lần gắng gượng làm khuây Tính ra trót sáu tháng chầy xa nhau Cùng nhau cách mấy song đào Tuy không xa lắm dễ nào ái ân Tính xa rồi nghĩ lại gần Thân nầy mắc phải nợ nần tình duyên Sống đây thêm tủi thêm phiền Chồng không màng tưởng đến duyên trời hành Thôi đành dứt nghĩa ba sanh Mình liều thân chết cho đành tình lang Nghĩ thân bạc phận hồng nhan Suốt đời chỉ có vương mang đau sầu Mẹ cha nào có hay đâu Ta làm ta chịu biết cầu với ai Chữ tình liền với chữ tai Thương chồng chồng chẳng đoái hoài đến ta Nàng liền chuỗi ngọc cởi ra Của chàng trả lại duyên ta hết rồi Tả Hữu Thừa tướng hỡi ôi Vào đây nghe dặn khúc nôi rõ ràng: Ta vừa sanh đặng tử hoàng Đây là giọt máu của chàng oan gia Hai nàng hãy khá nghe ta Hãy bồng hoàng tử trả mà Sử Văn Tuyệt thi một bức làm bằng Nhẫn vàng chuỗi ngọc trước căn của chàng Nay ta trả hết cho an Vật nầy phi nghĩa còn mang làm gì! Ngọc Kim (8) hai ả tức thì Vâng lời Nữ chúa ra đi kịp giờ Tinh sương trời mới mờ mờ Thế Châu truyền lịnh hạ cờ Nữ vương Nàng liền lên ngựa biên cương Bờ ghành (9) đến đó tìm đường quyên sinh Khơi khơi dòng nước minh minh Nữ vương vội vã trầm mình biển Đông Thương con chiến mã ngựa hồng Dậm chân la hét ngó mong dòng hà Hồi lâu trở lại trào ca Về đền dậm cẳng hét la vang dầy Có tên thủ ngục gã nầy Ngựa vua sao đến nơi đây hí gầm Gã liền phát động nơi tâm Hay là cớ sự âm thầm việc chi Nhảy lên lưng ngựa tức thì Ngựa liền chạy thẳng bôn phi bờ ghành Mắt nhìn nước biển xanh xanh Ngựa hồng đứng trước bờ ghành ngó mong Thủ ngục cũng ngó ra dòng Nhấp nhô sóng vỗ nào thông chuyện gì Hồi lâu lên ngựa hối đi Về trào văn võ mới thì đoán ra. | |
CHÚ THÍCH
----------------------------------- 1. Châu: Hạng Thế Châu, con gái Đồ Công của Vương Quốc Xiêm, trốn sang Phú Quốc xây thành, xưng vương. 2. Họ Sử: Sử Văn, tướng trẻ nhà Minh sang do thám, lạc đến Phú Quốc, gặp mặt và kết tình với Hạng Thế Châu. 3. Tham tướng: chức quan của Sử Văn. 4. Én anh: Chim én (yến), chim anh (oanh), hai loài chim mùa xuân, thường bay ríu rít từng đàn. “Nô nức yến anh” ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân. Ý nói về sự đoàn tụ, sum vầy. 5. Cài tóc phụng: kẹp tóc ép sát như cánh chim phụng xếp gọn. Vương mây sà: tóc xõa tự nhiên, bồng bềnh như mây bay. 6. Tử hoàng: hoàng tử. 7. Tuyệt thi: thư tuyệt mệnh. 8. Ngọc Kim: Thế Ngọc, Thế Kim. 9. Ghành: nơi bãi biển lởm chởm đá. |
ĐOẠN KẾT
Đoạn nầy nhắc chuyện hai bà (1) Bồng tiểu hoàng tử sang qua dinh tiền Đến dinh còn đứng ngoài hiên Tử hoàng bỗng khóc liên miên không ngừng, Sử (2) nghe tiếng khóc dửng dưng Bước ra nhà trước ngó chừng nẻo xa: Con ai mà khóc nhà ta Ta nghe trẻ khóc lòng đà lại đau, Thế Kim Thế Ngọc bước vào Tay bồng hoàng tử mà giao cho chàng: Đây là nhẫn cửu long hoàn Với xâu chuỗi ngọc của nàng Thế Châu Của nầy Vua giữ từ lâu Nay giao Tham tướng cất âu để xài, Đây là giọt máu của Ngài Nữ vương nuôi đến ngày nay đó là Mới vừa nở nhị khai hoa Trông xem hoàng tử giống cho khác gì, Đây là một bức phong bì Vua giao Tham tuớng tuyệt thi một bài! Sử Văn nghe nói thở dài Khai thơ xem rõ mặt mày nhíu nhăn, Thế Ngân nàng mới hỏi rằng: Chuyện chi Tham tướng băn khoăn lo lường Xin cho tiện thiếp lãm tường Chia lo với đó vẹn đường thủy chung Chuyện chi cho thiếp hay cùng Nói mà nàng lại muốn chun vào lòng. Sử Văn rơi giọt mắt hồng Xem thơ Nữ chúa mủi lòng bi thương Tỉnh bừng cảm nhớ Nữ vương Vội vàng xô ả Ngân nương ra liền: Thôi đừng nũng nịu làm duyên Mầy là thứ gái bán thuyền nhổ đinh Lâu nay lơi lả chữ tình Ta quên nghĩa cũ bạn mình xưa xa! Tử hoàng mãi khóc khổ a Đưa tay bồng trẻ Sử đà nát gan: Con ơi đừng khóc nghe vang Cha bồng con đến cung vàng mẹ con Từ nay tình nghĩa vẹn toàn Nói rồi Sử mới bồng con đi liền. Cha con về đến cung tiền Cung tần mỹ nữ thưa liền khúc nôi: Khi hai Thừa tướng đi rồi Nữ vương lên ngựa đi thôi một mình Chẳng mang theo một tên binh Đi đâu mà lại một mình vậy a Ban mai trời mới sáng ra Nữ vương đi biệt chẳng mà về đây Sáng mai bà cưỡi ngựa nầy Bây giờ ngựa lại về đây vắng bà. Sử Văn nghe nói khóc òa Bồng con lên ngựa xông pha đi tầm Ngựa linh đi chẳng lạc lầm Bờ ghành đến đó xăm xăm tức thì Đến nơi đứng lại không đi Triều thần văn võ cũng thì tới nơi Cùng nhau đều ngó ra khơi Chắc là Nữ chúa đi chơi thủy triều Ngựa sao không gác yên kiều Đến đây nữ chúa nhảy liều hay sao! Còn đang bàn bạc cùng nhau Xác Châu bỗng lại tấp vào không hay Sử Văn xem thấy mừng thay Một tay bồng trẻ một tay vớt nàng, Thế Kim tiếp ẵm Tử hoàng Sử Văn thì vớt thây nàng Thế Châu Đem thây về để ngọc lầu Sử thay xiêm áo cho Châu tức thì: Dù anh dại gái tình si Em nên nghĩ trẻ hài nhi với nào Hồn em mau tỉnh lại mau Trăm năm anh chẳng đổi màu nữa đâu Châu ơi tỉnh lại đi Châu Bỏ anh em tính đi đâu một mình Giận anh em lại quyên sinh Còn con nhỏ dại thiếu tình mẫu nghi Em ơi lại tỉnh lại đi Sử theo xác chết năn nì ỉ ôi Em nên nghĩ rõ khúc nôi Bỏ qua mấy lúc mấy hồi hờn ghen! Sử liền khóa cửa cài then Anh về em chớ giận ghen em à Cười lên cho đẹp như hoa Từ đây đến chết chẳng xa Nữ hoàng Anh nguyền sống lại bên nàng Dù ai như ngọc như vàng cũng không. Xác Châu Sử mãi ẵm bồng Lạ gì những thói đàn ông đâu là Vợ ghen theo mãi la cà Vuốt ve mơn trớn liền qua cơn này Sử đà bỏ vợ góa chầy Chết rồi năn nỉ xác thây ích gì! Thế Kim thấy chuyện lạ kỳ Bước vào nàng định chém thì Sử Văn Tại mày mê mến gió trăng Em tao thương mến trọc trằn thở than Cứ theo tửu sắc tình lang Bỏ em tao chịu chứa chan khóc thầm, Sử nhìn Kim giận hầm hầm Ôm Châu Sử lại quyết nằm liều thân: Tôi nhờ hiền tỷ ra ân Chém cho tôi chết đặng gần Thế Châu Bấy lâu nàng chịu thảm sầu Vì tôi nàng phải thấm bao lệ hòa Một mình đi đọa cõi xa Chém mà tôi chết theo mà vợ tôi Mong ân chém phức cho rồi, Thế Kim nghe nói bồi hồi buông gươm Thế Ngọc nàng cũng hờm hờm Thế Thủy cũng lại rút gươm chém càn, Thế Ngân hay chuyện dở dang Cố tình ngạo mạn Nữ hoàng nữa đa: Làm vua tệ quá chả cha Biên thùy tình ái bị ta đoạt thành Thất tình phải chết tuổi xanh Chạy ra bờ ghành với cặp ngựa ô Từ rày trong xã tắc đồ Nơi lòng biển bạc là hồ hồng nhan Than ôi không kịp mà tan Chồng nàng ta trả cho nàng rồi đa Nàng về thưa với Diêm La Biên thùy tình ái nay ta đã hoàn. Sử Văn nghe nói căm gan: Xét cũng tại nàng ta bỏ Nữ vương Rõ ràng là gái bất lương Rõ đồ bội Chúa rõ phường bội phu Ngày nay cho đến thiên thu Thế Ngân là một mối thù của ta Nàng là gái chạ lang sa Làm ta nát cửa tan nhà rồi đây! Nữ vương em hỡi lòng khuây Anh thề một thác tình nầy của em Dù ai ngon tựa chả nem Men tình anh để cho em em à! Sử liền lấy mực châu sa Đuổi bọn cung nữ đồng ra khỏi phòng Ngàn năm anh quyết làm chồng Dù sao anh cũng giữ lòng sắt đinh Châu sa lưu niệm chữ tình Xác Châu cởi mở Sử nhìn trân thân Trên đề chữ nghĩa chữ ân Dưới đề tứ phú ba vần bốn câu Sử biên dòng chữ thân Châu Rất lâu ứng nghiệm càng lâu càng rành Kiếp sau không phải duyên anh Cấm em vui việc én anh với người Đến chừng thế kỷ hai mươi Xin thầy hóa độ kiếp người chúng ta! Than xong Sử mở cửa ra Hoàng lăng Nữ chúa Sử đà lập xong. Thế Thủy rơi giọt mắt hồng Nghĩ thương Nữ chúa cõi lòng bi ai Thế Ngân là gái lá lai Triều thần văn võ xúm rầy phôi pha Bắt nàng trói giữa triều ca Làm đèn hương án tế bà Nữ vương, Thế Ngọc, Thế Thủy đoạn trường Ra bờ ghành biển tìm đường quyên sinh Theo phò Nữ chúa trọn tình Thế Kim thấy cảnh nghĩ mình đắng cay. Trào thần dân chúng đều hay Phát lên loạn lạc chẳng ai trị trừng Từ dân cho đến quan quân Nóng lòng Nữ chúa tưng bừng kéo ra Quyết lòng giết Sử oan gia Rửa hờn rửa giận cho bà Nữ vương. Thế Kim nàng mới dẫn đường Gươm vàng chuỗi ngọc Nữ vương báu màu Cửu long làm mão đội đầu Để vào hộc đá chôn sâu gần mồ. Sử Văn sửa soạn lộ đồ Ra nhìn cho kỹ ngôi mồ Thế Châu Xuống thuyền bồng trẻ thâm bâu Thế Kim nàng cũng theo âu với chàng Trương buồm trực chỉ băng ngàn Thương cháu thì phải bảo toàn cả hai Đến nơi Hà Tĩnh cũng mai Dinh quan tổng trấn người ngoài Quảng Đông Ghé vào Kim mới dặn lòng Bảo rằng họ Sử nên phòng nên ngăn Để tôi tự ý nói năng Nói rồi nàng mới đi phăng lên bờ Đến dinh quan trấn ở nhờ Mạc Cửu (3) xem thấy gái tơ lửa phồng Ta đà ngoại tuổi tứ tuần Vợ ta mất sớm chưa nhưng thế bầu Bắt Kim quan trấn làm hầu Sử Văn chàng cũng xin đầu trấn quan Kim rằng cháu dại khóc than Không cha không mẹ theo đàng với tôi. Mạc Cửu mới nói ối thôi Cháu trai đã có được tôi lo gì Thằng nầy gương mặt phương phi Cải Mạc Thiên Tứ (4) tôi thì nuôi cho Việc nào cũng có tôi lo Cải theo họ Mạc quyền to trấn nầy, Tham mưu thì ở lại đây Còn nàng thì ở duyên nầy cùng ta Kim cần bảo bọc cháu nhà Bàn cùng Tham tướng xin ra lấy chồng Sử Văn nghe nói xuôi lòng Chị tính lấy chồng nuôi giúp con tôi Ơn kia sau sẽ đền bồi Nơi nầy tính vậy tạm rồi bằng an. Một hôm Sử ngủ mơ màng Bửu Sơn (5) đến mách cho chàng hay tin Con đà hết nghiệp chúng sinh Sẽ về hầu lịnh thiền đình ngày mai Tỉnh ra Sử lại chau mày Nói cho quan trấn rõ hay như hà Nói rồi Sử lại thở ra Bửu Sơn đến rước hồn đà quy thiên, Mạc Cửu xem thấy ngạc nhiên Quách quan tống táng cho yên xác chàng Sơn son mà lại thiếp vàng Đề tặng Tham tướng tại làng trấn biên Sử thì mộ ở Hà Tiên (6) Châu thì mộ ở giữa miền đảo hoang (7). Mãn đông thời tiết xuân sang Sau Mạc Thiên Tứ làm quan đại thần Dưới triều Chúa Nguyễn chăn dân Tổng binh cai quản giữ phần Hà Tiên. Tích xưa người cổ còn truyền Thế trần nào rõ cơ huyền éo le Ai ai lẳng lặng mà nghe Hãy soi gương trước đặng dè thân sau Làm người hãy khá dồi trau Tích nầy nhắc lại ngày sau để đời Đến đây chào khắp nơi nơi Ai người hữu chí xem chơi giải buồn. (Viết xong ngày 12 tháng 02 năm Nhâm Tý Tháng 3 năm 1972 (dương lịch) | |
CHÚ THÍCH
-------------------------------- 1. Hai bà: Thế Ngọc, Thế Kim, vâng lệnh Hạng Thế Châu sang gặp Sử Văn để trả con, và trả lại các kỷ vật chuỗi ngọc, nhẫn vàng… 2. Sử: Sử Văn. 3. Mạc Cửu: hay Mạc Kính Cửu (1655 - 1735): gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), Mạc Cửu không khuất phục chính sách nhà Đại Thanh, chạy qua phương Nam. 4. Mạc Thiên Tứ: còn gọi là Mạc Thiên Tích (1718 - 1780), là danh thần, danh sĩ đời chúa Nguyễn. 5. Bửu Sơn: tiền kiếp của thầy Bửu Sơn Kỳ Hương. 6. Mộ Sử Văn tại thị trần Hà Tiên. 7. Mộ Hạng Thế Châu tại thị trấn Dương Đông, Phú Quốc. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét