Thứ Hai, 11 tháng 7, 2011

Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam: Người Lô Lô


Ðại bộ phận người Lô lô ở nhà nền đất, tường trình, cư trú theo khuôn viên từng gia đình. Mỗi khuôn viên có nhà bếp và chuồng gia súc riêng. Ngày nay, mỗi khuôn viên ấy có hàng rào xếp đá vây quanh trong đó có cổng ra vào.
Tên tự gọi: Lô Lô.
Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.
Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.
Dân số: 3.134 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử:
Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.

Nữ phục Lô lô được trang trí bằng nhiều đồ án hoa văn khác nhau. Nét đặc trưng ở cả hai nhóm là họ dùng nhiều phương pháp đắp ghép vải và ưa dùng các gam màu sặc sỡ.
Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.

Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Ở: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).

Phương tiện vận chuyển:
Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Nam giới Lô lô dùng một màu chàm trong trang phục. Ðầu đội khăn quấn nhiều vòng. Nhiều người có thói quen hút thuốc bằng tẩu.
Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.
Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.

Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.

Thờ cúng:
Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.

Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng bảy...

Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.

Ðại bộ phận người Lô lô ở nhà nền đất, tường trình, cư trú theo khuôn viên từng gia đình. Mỗi khuôn viên có nhà bếp và chuồng gia súc riêng. Ngày nay, mỗi khuôn viên ấy có hàng rào xếp đá vây quanh trong đó có cổng ra vào.

Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.

Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.

Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.

Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

(Theo UBDT)

Thiếu nữ Lô Lô
Xuân về cùng người Lô Lô nơi địa đầu tổ quốc
Lô Lô là một trong những dân tộc ít người nhất tại Việt Nam, từ nhiều đời nay vốn định cư và sinh sống trên cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang. Một mùa xuân nữa đang về, những người Lô đang cố hoàn thành những công việc cuối cùng của năm cũ, chuẩn bị đón một mùa xuân mới.
Không quá ồn ào, khoa trương, những phong tục tập quán trong ngày Tết của người Lô Lô mộc mạc những rất hấp dẫn và đầy sức sống. Có lẽ đó là chính là sức mạnh để bộ tộc chỉ với vài trăm thành viên tồn tại vững trãi hàng nghìn năm nơi địa đầu của tổ quốc.
Trời rất lạnh, chỉ khoảng 5 độ C, nhưng những người thợ vẫn đang hối hả và gấp gáp cố hoàn thành ngôi nhà cho ông Sin A Gai kịp đón Tết. Người Lô Lô quan niệm: “sống nhớ về tổ tiên ông bà chứ không phải sống nhớ về món ăn”. Vì vậy ông Gai rất mong ngôi nhà kịp hoàn thành, lấy chỗ cúng ông bà trong ngày Tết.
Các thiếu nữ Lô Lô trong trang phục truyền thống
Người Lô Lô quan niệm khi bước sang năm mới trong nhà không chỉ có ngũ cốc, mà phải có nhiều củi và nước - biểu hiện một năm làm ăn sung túc. Ngoài mặt tâm linh thì việc tích trữ đó rất thực tế ở mãnh đất đầy khắc nghiệt này. Khoảng giữa tháng chạp và cả tháng riêng là lúc rét và khô hạn nhất, nhiệt độ thường chỉ vài độ C, chính vì vậy củi và nước là rất cần thiết.
Không khí chuẩn bị đón xuân nhộn nhịp nhất nơi địa đầu tổ quốc này có lẽ vẫn là những thiếu nữ Lô Lô. Các cô đang hoàn thành nốt những mũi kim cuối cùng cho bộ áo váy truyền thống. Giờ đây thường ngày các cô gái Lô Lô đã ăn mặc theo lối hiện đại, nhưng biết may và may đẹp áo váy truyền thống vẫn là điều kiện mà các chàng trai Lô Lô rất quan tâm khi chọn vợ.
Với người Lô Lô đêm giao thừa là đêm nhộn nhịp nhất trong năm, cả làng đều thức. Các cụ bà cùng trẻ em bên bếp lửa hồng với nồi bánh chưng và kể chuyện cổ tích râm ran; các cụ ông thì nhâm nhi chén rượu; thanh niên, thiếu nữ thì đi qua các nhà để xin lộc bằng cách “lấy trộm” vài thanh củi, mấy ngọn rau hay vài cành ngô khô đem về nhà. Khắp nơi hương khói, trong nhà đèn sáng tỏ, ngoài đường thắp lên những ngọn đuốc sáng rực. Thanh niên và trẻ con đổ ra các ngả đường và tập trung ở các sân chơi để chờ gà gáy sáng. Theo phong tục, người Lô Lô đón năm mới bằng tiếng gà gáy đầu tiên.

VTV

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét