Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

Đền Mẫu

Nằm ven hồ Bán Nguyệt phong cảnh hữu tình, mặt nước trong xanh phẳng lặng, bốn bề cây xanh râm mát, di tích Đền Mẫu - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên trở nên hài hoà sinh động mà lại trang nghiêm.
Đền Mẫu bên bờ Hồ Bán Nguyệt - Thị xã Hưng Yên
Ảnh: Đức Hùng
Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương, người đã tuẫn tiết để giữ lòng chung thuỷ với vua và trung thành với Tổ Quốc. Theo “Đại Nam nhất thống chí” và “Thần tích” thì bà là vợ vua Tống Đế Bính (Trung Quốc). Năm 1279, quân Nguyên Mông xâm lược nước Tống, trước sức mạnh của giặc, vua Tống cùng hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam tránh nạn. Tướng nhà Nguyên Mông là Trương Hoằng Phạm cho quân đuổi theo đến Nhai Sơn thì bắt được, vua Tống và một số phi tần không chịu khuất phục đã nhảy xuống biển tự tận. Dân chài cửa Càn Hải vùng Châu Hoan (Nghệ An) thấy bốn xác người phụ nữ, y phục như hậu phi, cung phi trôi trên mặt biển. Họ vớt được 3 xác đem chôn cất, còn xác thứ 4 trôi ngược dòng lên phía Bắc. Truyền rằng xác phụ nữ trôi ngược dòng đó ít ngày sau dạt vào cửa sông vùng Phố Hiến, được dân cư ở đây vớt lên, mai táng chu đáo và lập miếu thờ. Về sau, quan thái giám họ Du đời Tống trong cơn loạn lạc đã lưu lạc tới vùng Xích Đằng - Phố Hiến, một đêm nằm mộng thấy Thái Hậu hiện về và nói: “Chị em ta sau khi nhảy xuống biển, thượng đế khen là trinh tiết, phong cho làm Hải Thần các cửa biển ở Châu Hoan, Sơn Nam đều thuộc chị em ta cai quản. Ông là tôi con của bản triều, nay lưu lạc đất khách quê người, nên đến cửa Càn ở Hoan Châu thăm hỏi 1 lần rồi đến thượng lưu Đằng Giang, hạ lưu Hoàng Giang huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng mà phụng thờ Quý phi”. Tỉnh mộng, quan thái giám tìm đến hai nơi quả nhiên như lời đã báo mộng. Ông đã cùng nhân dân tu sửa lại miếu, lập làng Hoa Dương để tưởng nhớ đến Quý Phi họ Dương, người Trung Hoa. Khi thái giám mất, dân làng tôn xưng làm Thành Hoàng làng thờ ở đình Hiến.
Đời Vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294), thân chinh đi đánh Chiêm Thành, khi qua đây nằm mộng thấy thần nữ (chỉ Dương Quý Phi) đến xin âm phù giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao đó của Quý Phi, một mặt nhà vua cho tôn tạo lại đền, miếu, một mặt cho các bến bãi thu thuế thuyền buôn trích ra một phần cung cấp cho việc phụng thờ. Người dân đi biển đến đây lễ bái cầu xin thuận buồm xuôi gió... đều được như ý. Năm 1990, Đền Mẫu đã được Bộ VHTT công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Theo “Đại Nam nhất thống chí” Đền Mẫu xây dựng vào thời Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279). Trải qua các triều đại, Đền đều được trùng tu. Năm Thành Thái thứ 8 (1896), Đền Mẫu được trùng tu lớn có quy mô như ngày nay.
Nghi môn của Đền được xây dựng khá đẹp, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện: “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán: “Thiên Hạ mẫu nghi” (Người mẹ sáng suốt trong thiên hạ).
Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ. Theo truyền thuyết, cây có tuổi gần bảy trăm năm được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền.
Cây cổ thụ do 3 cây sanh, đa, si quấn quýt lấy nhau, tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền
Ảnh: Thu Hường
Khu nội tự của đền được xây kiểu chữ Quốc gồm: Đại bái, trung từ, hậu cung và hai dãy giải vũ. Toà đại bái với 3 gian, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái; các đao mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu, phượng mớm, lợp ngói vẩy rồng, chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt. Kiến trúc đại bái thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ kẻ bảy; các con rường, đấu sen, trụ trốn chạm bong kênh hình lá hoá rồng, các bẩy chạm hình đầu rồng. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn.
Trung từ gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng lẫy với hệ thống câu đối, hoành phi, đồ tế tự, kiệu long đình, kiệu bát cống … sơn son thếp vàng rực rỡ.
Nối với trung từ là 5 gian hậu cung, kiến trúc kiểu chồng rường con nhị, các bức cốn chạm bong kênh hoa lá mềm mại. Dưới ánh sáng mờ ảo của đèn nến, khói hương nhè nhẹ lan toả không gian tĩnh lặng nơi cung cấm như thấy được sự linh thiêng huyền bí chốn thâm cung.
Hằng năm, lễ hội Đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Lễ hội xưa được tổ chức rất linh đình, từ ngày 6/3 (ÂL) đã làm lễ chồng kiệu, ngày mồng 10 tổ chức rước kiệu quan thái giám họ Du từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 11 lễ thỉnh kinh sau đó tổ chức rước nước, ngày 12 rước liềm (rước kiệu vòng quanh các phố rồi lại quay về Đền Mẫu), ngày 13 rước kiệu đi du vòng quanh các phố, đến Đình Hiến lại về Đền Mẫu, ngày 15 lễ rước kiệu thánh trả về Đình Hiến và làm lễ rỡ kiệu kết thúc lễ hội.
Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn. Ngày 10 tháng 3 âm lịch ruớc kiệu thánh từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 12 tổ chức rước du vòng quanh thị xã và ngày 15 rước kiệu thánh trở về Đình Hiến.
Đền Mẫu - một công trình kiến trúc thuần Việt, một di tích lịch sử văn hoá gần gũi với nhân dân. Đền thờ Quý Phi họ Dương (người Trung Hoa), đây là điểm khác biệt hiếm thấy trong các ngôi đền cổ của người Việt, thể hiện tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân 2 nước Việt - Trung./.

Chiêm bái đền Mẫu ở Hưng Yên

Nằm trong quần thể của cụm di tích Phố Hiến, đền Mẫu được coi là ngôi đền có cảnh quan thiên nhiên đẹp cổ kính nhất ở Hưng Yên hiện nay...

Đền Mẫu dưới tán cây cổ thụ
Đền Mẫu có tên gọi khác là Hoa Dương linh từ hay đền Mậu Dương tọa lạc ở phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên (tỉnh Hưng Yên), thờ bà Dương Quý phi (triều nhà Tống ở Trung Quốc), là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Theo “Đại Nam nhất thống chí” và một số Thần tích, Thánh Mẫu vốn là phi tần của vua Tống Đế Bính. Năm 1279, quân Mông Cổ xâm lược nước Tống, vua Tống cùng hoàng tộc dạt về phương Nam tránh nạn nhưng quân địch đuổi sát, biết không thoát được, vua Tống và các phi tần đã nhảy xuống biển tự vẫn. Tương truyền rằng có một thi thể phụ nữ trôi dạt vào cửa sông vùng Phố Hiến, được dân cư ở đây vớt lên, mai táng. Sau này có một vị quan thái giám nhà Tống lưu lạc đến vùng này biết chuyện đã cùng nhân dân xây dựng ngôi đền và lập làng Hoa Dương, với ý nghĩa biểu dương tấm lòng tiết liệt, trung trinh của bà. Từ đó, đền có tên là Hoa Dương linh từ. Năm 1294, vua Trần Anh Tông chinh phạt Chiêm Thành, một đêm qua đây, nằm mộng thấy có thần nữ đến phù trợ giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao đó của thần nữ, nhà vua cho tôn tạo lại đền, và miễn thuế thuyền buôn ở Phố Hiến. Qua thời gian ngôi đền không ngừng được trùng tu và xây dựng thêm. Vào năm Thành Thái thứ 8 (1896) đền Mẫu được trùng tu lớn và có quy mô như ngày nay. Năm 1990, Đền Mẫu đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VHTT&DL) công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật.
Đền Mẫu toạ lạc trên một vùng đất rộng gần 3000m2, quay về hướng Tây Nam, phía trước là hồ bán nguyệt, xa hơn một chút là con đê sông Hồng. Tương truyền, hồ nước phía trước đền xưa kia chính là một đoạn của con sông Hồng, do nước chảy đổi dòng mà thành. Đây cũng là nơi thi hài bà quý phi nhà Tống dạt vào. Ca ngợi cảnh đẹp trước cửa đền, danh sĩ Lê Cù thời Lê mạt, đã viết, tạm dịch: “Luỹ hoa rải rác kìa trong trấn/ Ngàn liễu sương bay trước cửa đền/ Kìa hồ là cảnh hữu tình/ Khi soi xuống hồ thì có nguyệt/ Mà nguyệt vốn là kho vô tận/ Ngửa trông lên còn nguyệt ấy còn hồ...”.
Đền  được  xây dựng  theo bố  cục tiền  nhất,  hậu  đinh gồm các hạng mục chính như: Nghi môn, đại  bái, trung từ, hậu cung, phủ Đông, phủ Tây, nhà Oản (nhà sắp lễ). Toàn bộ công trình được bài trí hài hòa và được xây dựng bằng nguyên liệu bền vững như: gỗ lim, vôi mật, xi măng tạo nên một khu di tích khang trang, thoáng đãng. Nghi môn được xây dựng rất bề thế với chiều  dài là 16,9m, kiến trúc chồng diên 2 tầng 8 mái. Cửa đền (tam quan) được xây dựng theo kiểu vòm cuốn  gồm 1 cửa chính và hai cửa phụ, cửa chính cao 7m đắp hình ngói ống. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi: “Dương thiên hậu Tống triều”. Tầng trên đắp bức đại tự “Mẫu nghi thiên hạ” được ghép bằng các mảnh gốm lam (đây là nét trang trí điển hình của kiến trúc thời Nguyễn).
Chiêm bái đền Mẫu ở Hưng Yên
Cây đa cổ thụ gần 700 năm tuổi ở sân đền Mẫu
Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ gần 700 năm tuổi - sự hội ngộ của 3 cây đa - sanh - si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền tăng thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính cho di tích. Theo mọi người kể lại, rằng ngày xưa, giữa sân có một cây bàng cổ thụ, chim chóc kéo về quần tụ, làm rơi vãi những hạt đa, si, sanh trên ngọn cây bàng. Những hạt ấy mọc thành cây buông rễ xuống ôm trọn cây bàng. Các rễ khác đâm ngang, toả theo thế một cây đa 3 gốc như hiện nay. Theo các nhà sử học thì đây là cây đa cổ nhất vùng châu thổ Bắc Bộ.
.
Đi qua sân đền là đến toà đại bái với 3 gian, kiến trúc 2 tầng 8 mái; mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu; lợp ngói vẩy rồng; chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. Bên trong đại bái là cung đệ tam với 5 gian, gian giữa nổi bật với 4 đôi câu đối ngợi ca Thánh Mẫu. Gian phía trong treo bài văn của Chu Mạnh Trinh, soạn năm 1896, ghi lại công trạng của bà. Trong hậu cung an trí tượng Thánh Mẫu cùng với khám thờ, tràng kỷ. Tất cả đều được sơn son thếp vàng. Ai đến đây vào buổi tối, dưới ánh sáng mờ ảo của điện nến, trong làn khói hương lan toả, cũng đều cảm nhận một không khí tĩnh lặng và linh thiêng của chốn thâm cung.

Ngoài cảnh quan đẹp và kiến trúc cổ kính ra trong đền còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Kiệu võng, long đình, long sàng, long đại có niên đại thế kỷ 18 - 19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi, câu đối, đại tự ca ngợi sự trinh tiết và trung thành của Dương Quý phi.
Lễ hội đền Mẫu được diễn ra từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch hằng năm. Trong lễ hội thường diễn ra các hoạt động văn hoá dân gian như: rước kiệu, múa lân, múa rồng, rước nước... rất long trọng và được diễu qua nhiều đường phố tạo nên một không khí tưng bừng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.
Đền Mẫu đang là điểm du lịch văn hoá tâm linh, không chỉ của người dân Hưng Yên, mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương chiêm bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài... Không chỉ vào chính hội, mà vào những ngày rằm, mồng 1 âm lịch hằng tháng lượng người đến thắp hương lễ bái và thzm quan cũng rất đông. Tuy là thờ một quý phi người nước ngoài nhưng đây lại là một công trình kiến trúc thuần Việt, rất đáng để tham quan, chiêm ngưỡng...
CHÍN HINH (Tổng hợp) 
Nguồn : Tin Mới / Nguoiduatin.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét