Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Lăng Ông Bà Chiểu

Lăng Ông Bà Chiểu (Tp. Hồ Chí Minh) là nơi chôn cất Tả quân Lê Văn Duyệt, vị Tổng trấn thành Gia Định ở thế kỷ 19,được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Đây không chỉ là khu di tích kiến trúc có giá trị nghệ thuật mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam mà còn là niềm tự hào của người dân Nam bộ.
Lăng Ông Bà Chiểu hay còn gọi là Lăng Ông, là cách gọi phổ biến của người dân địa phương đối với miếu Thượng Công, nơi thờ Đức Thượng Công, danh xưng dân gian phong cho Tả quân Lê Văn Duyệt.

Lăng nằm ngay khu vực ngã ba Bà Chiểu, xưa thuộc làng Hoà Bình, tỉnh Gia Định, nên nhắc đến Lăng Ông thường đi đôi với địa danh Bà Chiểu. Ngày nay, khu lăng mộ với diện tích còn lại khoảng 18.500 m2 toạ lạc uy nghi giữa giao điểm của bốn con đường thuộc khu vực quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh. Xung quanh có thêm khuôn viên thoáng đãng, xanh mát mở ra một không gian sinh hoạt công cộng lí tưởng dành cho người dân.



Di tích Lăng Ông với nét đẹp uy nghiêm, cổ kính



Lê Công Bi Đình, tên gọi văn bia ca tụng công đức của
Tả quân Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân

Cổng lăng trổ ra bốn hướng, phía Nam là cổng lớn Tam Quan nổi tiếng với 4 chữ Hán “Thượng Công Miếu” khắc nổi ở bên trên. Cổng lớn này một thời được chọn làm hình ảnh biểu tượng của đất Sài Gòn - Gia Định.
Lăng nằm trên một gò đất cao hình lưng rùa, được cho là vị thế “đắc địa”. Theo quan niệm địa lí Đông phương học, nơi được chọn đặt âm phần của quan Tổng trấn nằm vào long mạch, hợp với “địa linh nhân kiệt”, vì thế sẽ mang lại tài lộc, sự an lạc đời đời cho dân chúng cư ngụ trong vùng.  


Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt được xây cất vào năm 1832 ngay sau khi ông qua đời. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), nhà vua cho thực hiện một cuộc trùng tu lớn, lập thêm miếu thờ, cấp đất tu sửa cả khu hoàn chỉnh như ngày nay.

Gần hai thế kỉ trôi qua với nhiều lần tu sửa và tôn tạo, quần thể Lăng Ông được gìn giữ bao gồm cả miếu thờ Ông lẫn lăng mộ, nơi mà bá tánh quen gọi là mộ “song hồn”, vì bên cạnh mộ ông có thêm mộ bà Đỗ Thị Phận, vị chánh thất phu nhân của Tả quân. Cách xa nơi ông bà nằm vẫn còn mộ hai cô hầu cũng được liệt vào hàng cổ tích. Ngôi mộ song hồn xây theo hình nửa quả trứng lật úp nằm trên hai tấm liếp, đây là phần kiến trúc cổ kính nhất của toàn cảnh Lăng Ông.

Khu miếu thờ thoạt nhìn giống một ngôi chùa Trung Hoa, nhưng thực tế miếu được dựng theo cấu trúc đình Nam Bộ, khung nhà ba gian bao gồm tiền điện, trung điện và chánh điện, mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang. Công trình mang dấu ấn của kiến trúc triều đình Nguyễn ở Huế với những vật liệu như gỗ gạch, vôi vữa… Vật liệu cũng như kĩ thuật kết cấu đều kế thừa kiến trúc cổ truyền Việt Nam, đồng thời có sự cách tân tạo nên độ vững vàng, hài hoà, thích ứng với khí hậu nhiệt đới phương Nam.



 
Mái  Lăng, một trong những nét đặc trưng trong tổng thể kiến trúc
công trình Lăng Ông




Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đúc bằng đồng nguyên chất dựa trên mẫu chân dung của ông in trên tờ giấy bạc 100 đồng lưu hành tại Sài Gòn năm 1966



 
Trung điện - nơi bài trí các đồ thờ tự, thể hiện uy quyền và phẩm hàm
của Tả quân Lê Văn Duyệt

Bộ mái nhà hai tầng đồ sộ của miếu là điểm nhấn đặc sắc trong tổng thể kiến trúc với những mái được thiết kế theo lối "trùng thiềm điệp ốc" (mái chồng lên mái) gợi nên hình ảnh những chiếc thuyền rồng cheo leo. Bên cạnh đó, kĩ thuật chạm khắc gỗ, khắc đá, chạm thủng qua kim loại, khảm sành sứ đậm chất Huế… cũng nói lên đặc tính của loại hình kiến trúc cung đình Huế thời bấy giờ.

Nhờ vào tài năng điêu luyện của các nghệ nhân Việt Nam mà đồ án trang trí tại đây trở nên rất sinh động, gần gũi với cuộc sống dân gian. Những hoa văn trang trí khu lăng mộ vừa mang ý nghĩa phản ánh hiện thực vừa biểu lộ niềm tin và ngụ ý chúc phúc.

Tả quân Lê Văn Duyệt lúc sinh thời là bậc kì tài quân sự, ông là nhà chính trị song toàn, một trong những khai quốc công thần của triều Nguyễn. Ở cương vị Tổng trấn, Lê Văn Duyệt đã đóng góp công trạng rất lớn vào việc bảo vệ và phát triển bờ cõi phía Nam của Tổ quốc. Những quyết sách cách tân táo bạo tuy mâu thuẫn với quan điểm của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ nhưng lại cho thấy ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, nhất là qua phát kiến và chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, con kênh mang tầm chiến lược quan trọng vào bật nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa nền kinh tế vùng “đặc khu” ngày càng đạt đến sự thịnh vượng.



Sinh hoạt tín ngưỡng của người dân Sài Gòn tại Lăng Ông




Tục phóng sinh cầu phúc vào ngày Rằm hàng tháng tại Lăng Ông

Từ lâu hình tượng Tả quân Lê Văn Duyệt đã đi vào tâm thức của người dân Gia Định và miền Nam nước Việt. Dân gian coi ông như một vị thần nên các nghi thức tưởng nhớ ông đã trở thành hoạt động tín ngưỡng dân gian. Vì thế, hàng năm, dân chúng vẫn thường tổ chức ngày lễ giỗ Đức Thượng Công và lễ khai ấn đầu năm để tưởng nhớ đến công lao của ông.

Cho đến nay, lịch sử tuy vẫn có những góc nhìn khác nhau về cuộc đời Lê Văn Duyệt, nhưng công lao của ông trong việc tạo dựng nên một vùng thành Gia Định tấp nập và hưng thịnh thuở xưa thì ai ai cũng phải kính nể. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời cuộc, “Thượng Công miếu” vẫn sừng sững uy nghiêm minh chứng cho một thời kì mở cõi hào hùng của dân tộc.




Theo BAVN

Sự thật về lăng miếu lâu đời nhất Sài Gòn


(Nguoiduatin.vn) - Đó là lăng Ông thờ Tả quân Lê Văn Duyệt chứ không phải là lăng thờ ông và bà tên Chiểu như nhiều người nhầm tưởng.
Lăng Ông Bà Chiểu là một trong những lăng miếu lâu đời nhất ở Sài Gòn thờ Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832). Ông là một công thần của triều đình Nguyễn, hai lần làm Tổng trấn Gia Định thành. Sau khi Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng cho bãi chức Tổng trấn Gia Định Thành, bãi năm trấn và đổi thành sáu tỉnh là Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên.
Đương thời lúc còn sống, Lê Văn Duyệt bị vua Minh Mạng nghi ngờ có qua lại với người Chân Lạp. Sau khi ông mất vua cho tìm chứng cứ, truy lùng con cháu, tôi tớ của ông. Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt bèn nổi dậy chống lại. Sau khi dẹp loạn Lê Văn Khôi, vua cho tước hết quan hiệu, và san bằng mộ phần. Tả quân Lê Văn Duyệt phải chịu tiếng oan suốt một thời gian dài.
Mãi đến năm 1842 vua Thiệu Trị mới xóa tội cho con cháu của Lê Văn Duyệt và cho đắp lại mộ phần của ông. Đến đời vua Tự Đức năm 1848, vua ban chiếu tha tội và phục hồi lại quan tước cho Lê Văn Duyệt và cho thờ trong miếu Trung Hưng công thần ở Huế.
Lăng Ông Bà Chiển
Về phần kiến trúc, lăng Ông được xây dựng theo kiểu kiến trúc lăng mộ chung của Miền Tây Nam Bộ. Bao quanh khu lăng mộ là dãy tường dài hơn 500m, cao 1,2m, gần đây được gia cố thêm hàng rào sắt bên trên, được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng. Một năm sau cổng tam quan cũng được xây dựng mở ra hướng Nam trên cổng có khắc 3 chữ nổi “Thượng Công miếu”. Trước năm 1975, cổng tam quan này được xem là biểu tượng của vùng Sài Gòn - Gia Định xưa.
Lăng Ông nằm lọt giữa bốn con đường lớn là Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Vũ Tùng và Trịnh Hoài Đức. Mặc dù nằm ở gần chợ và trong khu vực đông dân cư nhưng khi đặt chân vào lăng sẽ cảm nhận ngay được không khí trang nghiêm, yên tĩnh đến lạ thường. Vì lăng nằm kế bên chợ bà Chiểu, nên mỗi lần nhắc tới chợ bà Chiểu người ta thường nghĩ ngay tới lăng Ông. Không biết từ lúc nào người dân đã ghép hai cái tên trên và gọi thành lăng Ông Bà Chiểu, thực chất lăng chỉ thờ Tả quân Lê Văn Duyệt cùng với một số người trong dòng họ ông như Thiếu phó Lê Chất, quan Kinh lược Phan Thanh Giản, chứ không liên quan gì đến bà Chiểu.
Khu lăng mộ được xây dựng trên một trục đường chính, bên trong bao gồm một khu vườn với nhiều cây cối xanh tốt bên trong có đặt một bia đá ghi công lao to lớn của Tả quân. Tiếp theo là mộ của Tả quân và vợ, có bình phong và tường bao quanh. Ngoài ra ở đây cũng có hai phần mộ nhỏ thờ hai cô hầu trung thành với ông.
Hằng năm ở đây đều có tổ chức giỗ cho Tả quân Lê Văn Duyệt rất long trọng vào các ngày 29, 30 tháng 7 và  mồng 1 tháng 8 âm lịch. Khi ông mất dân gian xem ông như một vị thần vì vậy việc thờ và tế lễ ông mang nghi thức thờ thần và tế thần. Lễ hội lăng Ông không giống lễ hội các vị anh hùng như Trương Định, Nguyễn Trung Trực mà lễ mang tính dân gian như lễ Bà Chúa Xứ, hoặc vía Điện Bà ở Tây Ninh. Số người đến dự lễ hội cũng rất đông, điều đáng nói là ở đây số người Hoa đến dự lễ chiếm quá nửa. Vì lúc còn làm Tổng trấn Gia Định, Tả quân đã có những chính sách, chủ trương nâng đỡ tạo điều kiện cho họ sinh sống và làn việc ổn định nên lúc ông mất họ xem ông như là một vị phúc tinh.
Đến nay, lăng Ông được xem như là một biểu tượng của miền Nam vì nhiều lý do khác nhau. Lăng Ông được dân chúng thường xuyên tu bổ nên ngày càng uy nghiêm và hùng tráng nhưng vẫn giữ được những nét cổ kính của kiến trúc xưa. Nhưng điều quan trọng hơn cả để lăng Ông trở thành biểu tượng của miền Nam là nhân cách, đức độ, công ơn và cả tấm lòng của Tả quân Lê Văn Duyệt với con dân Gia Định lúc ông còn làm Tổng trấn.
Người cao tuổi ngụ xung quanh lăng Ông, hàng ngày vẫn đến đây nhang khói, và dùng khu hoa viên trước để làm nơi đi bộ, tập thể dục, dưỡng sinh… Mọi người đều có ý thức đang ở nơi chốn linh thiêng nên ai ai cũng nhẹ nhàng, trật tự bởi lòng kính mến, tôn thờ dành cho đức thượng công Lê Văn Duyệt.
Nguyên Việt

Tả Quân Lê Văn Duyệt và chuyện bi kịch của một dòng họ

 - Nằm trên địa bàn phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, khu Di tích lăng một Tả Quân Lê Văn Duyệt tĩnh lặng, cổ kính.


Hoàng Khánh

Mỗi ai đã từng đến đây đều cảm thấy như đang lạc vào vào thế giới cổ xưa, bỏ lại sau lưng những ồn ào của phố thị để “hút” mình vào câu chuyện về “thảm kịch” của một dòng họ…

Vị tướng tài năng, đức độ

Theo sử sách, Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 trong một gia đình nông dân tại làng Hòa Khánh, nay thuộc xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Thuở nhỏ đã sớm bộc lộ là cậu bé thông minh, lanh lẹ, sức khỏe phi thường và rất thích chọi gà.


Chưa đầy 20 tuổi Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh tuyển làm Thái Giám Nội Đình. Ông trở thành vị tướng giỏi phò trợ chúa Nguyễn Ánh vạn dặm chiến chinh, dành nhiều thắng lợi, giúp Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu Gia Long. 

Cũng nhờ tài giỏi ông được giữ chức Tổng trấn Gia Định hai lần, lần thứ nhất khoảng năm 1812 – 1815 dưới thời triều Gia Long, lần thứ hai dưới triều Minh Mạng từ năm 1820 đến khi qua đời (1832). Là một Tổng trấn tài năng luôn song hành với đức độ, ông được người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính. Vừa chăm lo đời sống nhân dân, vừa trị an xứ sở. Vùng đất Gia Định trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau kinh tế phát triển, đời sống nhân dân yên ổn, no ấm, nhân dân một lòng biết ơn gọi ông là “ông Lớn Thượng”.

Nỗi oan san bằng mộ

Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832) Tả Quân Lê Văn Duyệt qua đời sau cơn bạo bệnh. Ông được an táng tại làng Bình Hòa, thuộc quận Bình Thạnh ngày nay. Nhưng chỉ mấy năm sau khi ông mất bi kịch khủng khiếp đã xảy ra với gia tộc, dòng họ của ông. Do bức xúc với nhà vua trước những bất công đối với tôi tớ của Tả Quân mà người con nuôi Lê Văn Khôi khởi binh chống lại triều đình. 

Tháng 5 năm 1833, Lê Văn Khôi cùng 27 người trong đạo lính Hồi lương cầm đầu quân sĩ nổi lên chiếm thành Phiên An. Vốn đã nhiều lần “khó ưa” với Tả Quân Lê Văn Duyệt nhưng không thể làm gì vì công lao của ông quá lớn, nay sẵn có cơ hội, dù người đã thác, vua Minh Mạng sai người dẹp biến. Cuộc nổi dậy nhanh kết thúc trong cảnh đẫm máu. 

Hàng ngàn người theo Lê Văn Khôi bị lôi ra xử chém và chôn chung một hầm tạo nên ngôi “mả Ngụy” trên đất thành. Lấy cớ Lê Văn Duyệt đã dung dưỡng Lê Văn Khôi cùng lính Hồi lương dẫn đến Phiên An binh biến, tội của Lê Văn Duyệt “nhổ từng cái tóc cũng không kể hết”, vua Minh Mạng ra chỉ dụ cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ của Lê Văn Duyệt san bằng mồ mả, xiềng xích khóa lại, dựng bia đá sỉ nhục với tám chữ “Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử” (nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội). Ông chết vẫn bị kết án bảy tội xử trảm (chém), hai tội xử giảo (thắt cổ), một tội phát quân. Tại Huế, con cháu ông từ 15 tuổi trở lên bị xử trảm hàng loạt. Thân sinh bị tước phẩm hàm, bia mộ bị đục xóa, ruộng điền bị tịch thu, nhà thờ họ tộc ở Quảng Ngãi bị đưa voi về tàn phá. 

Sự bất công trên khiến nhân dân Gia Định vô cùng đau xót. Giai đoạn thanh tịnh dưới thời Tả Quân cũng không còn, người dân mất niềm tin vào nhà Nguyễn. Tương truyền rằng sau khi bị san bằng mộ, vào những lúc trời âm u hay đêm yên tĩnh người dân thường nghe thấy tiếng ma hờn quỷ khóc, tiếng người ngựa xôn xao, người dân ở đó không ai dám lại gần. Cho rằng đó là những oan hồn chưa siêu thoát, vương vấn sớm hôm nên cần phải rửa oan, tẩy hận. 

Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi ban lệnh tha tội cho các thân thuộc của Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Đến năm Tự Đức 2 (1849) nghĩ đến công lao của Tả Quân nên vua đã cho nhổ cây bia có khắc 8 chữ, đồng ý cho thân nhân sửa sang xây đắp mộ phần. Sau khi sửa sang những tiếng rên rỉ đêm khuya mới chấm dứt. Đến năm Tự Đức 21 (1868) vua mới phục nguyên hàm cho Tả Quân Lê Văn Duyệt. Sau này khi phu nhân của ông là bà Đỗ Thị Phẩn qua đời cũng được chôn cất bên cạnh phần mộ của Tả Quân. Khu mộ nhiều lần được tu bổ, cải tạo ngày càng kiên cố hơn.


Qua bao nhiêu thăng trầm cùng thời gian, Khu lăng mộ Tả Quân Lê Văn Duyệt trở thành địa điểm văn hóa, tâm linh với công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc sắc mang đậm nét truyền thống của vùng đất Nam bộ. Khu lăng mộ Tả Quân Lê Văn Duyệt đã được công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia năm 1988.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét