Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Các Giai Đoạn Phát Triển Của Gốm Sứ Bình Dương Dưới Góc Độ Lịch Sử


a/ Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945
Như phần nguồn gốc lịch sử hình thành các làng gốm Bình Dương đã trình bày ,tuy chưa xác định chính thức ngày tháng năm ,nhưng cũng có cơ sở để thấy rằng lò gốm đầu tiên xuất hiện ở Tân Phước Khánh ( Tân Uyên ) vào cuối thế kỷ thứ XVI đẩu thế kỷ thứ XVII . Vào giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ thứ XX ( cách nay trên 150 năm ) trên đất Bình Dương đã hình thành ba làng gốm rõ rệt , tuy mỗi nơi chỉ dăm ba lò – mãi đến năm 1910 và đến năm 1930 , trên lãnh thổ Bình Dương (Lúc ấy là tỉnh Thủ Dầu Một ) đã có 40 lò gốm .Gồm 5 lò ở An Thạnh , 8 lò ở Hưng Định ,1 lò ở Tân Thới ( Lái Thiêu ) , 14 lò ở Chánh Nghĩa ( Phú Cường ), 3 lò ở Bình Chuẩn và 9 lò ở Tân Khánh (19-215). Sản phẩm làm ra của các lò gốm ở giai đoạn này gốm đủ loại chén , đĩa , chum ,vò và đồ gốm trang trí . Đa phần sản phẩm đều ở  dạng đồ sành  ,đồ sứ rất ít .về kỹ thuật và  phương pháp sản xuất tuy có tiến bộ hơn lúc mới thành lập làng gốm ,nhưng vẩn còn ở dạng thủ công là chính .
Trong sản xuất gốm sứ , kỹ thuật xây lò chiếm vị trí khá quan trọng , bên cạnh đó mới kể đến các nhà , trại làm các khâu khác trong tổng thể một lò gốm . 
Nguyên tắc xây một lò gốm từ khi mới xuất hiện cho đến giai đoạn này vẫn được  tuân thủ triệt để : nào là phải tìm vị trí thích hợp , ngoài việc thuận tiện cả đường bộ , đường thủy , gần nơi nguyên liệu  vv… thì vấn đề cốt tử là địa hình phải có độ dốc nghiêng trên 15 độ . Địa điểm nào không có độ dốc nghiêng như vậy thì không xây lò được , nếu muốn xây thì phải đào , đắp , cải tạo đia6 hình cho có độ nghiêng kể trên , nếu như độ nghiêng ấy không có sẵn trong tự nhiên . Sở dĩ phải chọn địa hình xây lò có độ nghiêng như vậy là vì trong kỉ thuật , bắt buộc bố trí lò nung sản phẩm phải để bầu lửa dưới thấp ,khi đốt lửa các bầu lò tiếp theo phải cao dần lên và nơi cuối để thoát khói ,hơi nóng của lò lửa là nơi cao nhất gọi là đầu lò .
Thời kỳ này , dạng lò còn theo kiểu cổ truyền , có nghĩa là các lò được xây dựng dạng lò bầu ,số lượng mỗi lò cũng chỉ từ ba đến năm bầu lò ,tối đa là bảy .
Ở khâu nguyên liệu , từ công đoạn đào lấy đất sét thô đến vận chuyển bằng sức trâu bò kéo ,đến sang ,giã ,xối , tưới nước lọc đất thô lấy đất sét tinh cũng chủ yếu bằng đôi tay ,bàn chân của người thợ , với những công cụ còn thô sơ .Cụ thể như cái bàn xoay chỉ là một miếng gỗ như mặt bàn tròn nhỏ để trên trục đứng cố định , mặt bàn tròn xoay được ,người thợ gốm dùng tay đẩy ,kéo cho bàn xoay chạy và uốn nắn tạo hình sản phẩm trên bàn xoay ấy .
Ở khâu lảm men , taỏ dáng , trang trí trên sản phẩm cũng còn đơn giản ,chưa phong phú đa dạng như ở giai đoạn sau . 
Về kỉ thuật đưa sản phẩm vào lò nung , do chưa phát minh cái hộp ,bao sản phẩm lại khi nung nên tỉ lệ sản phẩm hư hỏng trong một kỳ lò còn khá cao .
Sau khi  sản phẩm ra lò người chủ lò gốm trực tiếp mang sản phẩm đến giao cho các đầu mối chợ để bán .Đôi khi các người mua hàng cũng trực tiếp đi thẳng tới các lò gốm để chọn các loại sản phẩm mà mình ưng ý . Điều đó chứng tỏ rằng việv mua bán ở giai đoạn này chưa phát triển cao ,giống như việc trao đổi hàng hóa tự cung cấp thời tiền tư bản .
Qua nghiên cứu của các tài liệu để lại và phỏng vấn các nghệ nhân gốm sứ , cho thấy rằng mối quan hệ giữa sản xuất gốm sứ và giới quản lý chính quyền khá thông thoáng , hữu hảo .Có hữu hảo thân thiện mới có thể :
‘’Chiều chiều mượn ngựa ông Đô 
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về 
Đưa về chợ Thủ bán hũ , bán ve …’’.
Ông Đô ở đây rõ ràng là quan chức , chính quyền ,mới có ngựa và lính .
b/ Giai đoạn cách mạng tháng 8/1945 đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/1975:
Như chúng ta đã biết sản xuất gốm sứ đa số là người Hoa ,nên họ ít dính líu đến vấn đề chính trị , thời cuộc cứ trôi đi theo năm tháng ,làng quê , đất nước thoát khỏi sự xâm lược của giặc Pháp , chuyển sang chế độ Sài Gòn thì cũng mặc , giới sản xuất gốm sứ chỉ quan tâm đến việc sáng chế men mầu ,mẫu mã mới ,cải tiến kĩ thuật để sản xuất nhiều sản phẩm hơn , chất lượng hơn ,hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn .
Số lượng lò gốm trên địa bàn tỉnh  Bình Dương đến năm 1975 đã lên đén con số lá 117 cơ sở .Cụ thể : Làng gốm Tân Phước Khánh có 21 , Lái Thiêu có 49 , Chánh Nghĩa có 47 cơ sở (7).
Quãng thời gian từ 1930 đến 1960 tốc độ phát triển còn chậm , nhưng tới 1960 đến năm 1975 tốc độ phát triển về mọi mặt trong giới sản xuất gốm sứ khá nhanh . Điều này rõ ràng có sự tác động chung của nền kinh tế hàng hóa theo kiểu tư bản chủ nghĩa miền Nam lúc bấy giờ .Và sự phát  triển cải tiến ấy thể hiện trên một số khía cạnh như :
-Về kỹ thuật xây lò :
Cơ bản về nguyên tắc vẫn giữ như cũ không thay đổi ,như lò vẫn xây trên độ dốc nghiêng 15-20 độ nhưng về chất lượng lò có tăng lên ,lò bầu nối dài có nhiều bầu hơn ,từ bảy lên đến trên 10 bầu lò ,chất lượng gạch chịu lửa để xây lò cũng được cải thiện hơn .Một dãy lò xây xong sử dụng trên 10 năm . Về số lượng khi nung , mỗi bầu lò chứa từ vài trăm đến hơn ngàn sản phẩm tùy loại ,loại sản phẩm nhỏ như chén , bát thì chứa nhiều sản phẩm hơn , loại lớn như lu , khạp chứa ít hơn .
Đặc biệt ngoài lò bầu , ở giai đoạn này người ta đã cải tiến và xây một loại loại lò khác hơn lò bầu đó là lò ống ,còn gọi là lò tàu , xây theo dạng dài , giống như lò gạch ,độ nghiêng vẫn phải tuân thủ như lò bầu . Về nguyên tắc độ nghiêng này đã có từ rất lâu ,các lò gốm nổi tiếng từ nhà Thanh Trung Quốc như Cảnh Đức Trấn ,hay các lò gốm Bát Tràng ở Việt Nam xưa và nay vẫn thế .Ngoại trừ đốt lò bằng gaz  hay bằng  điện như giai đoạn hiện nay thì không cần tuân thủ theo nguyên tắc xây lò phải có độ nghiêng này .
Theo nhà văn Sơn Nam trong bài ‘’Lái Thiêu chiếc nôi gốm sứ THủ Dầu Một’’ (68 ) có phân ra 3 dạng lò như :
-Lò Quảng 
-Lò Tiều 
-Lò Phước Kiến 
Việc phân loại này theo chủ ý của tác giả giới thiệu theo nguồn gốc , ản quán của chủ lò ,Lò Quảng có chủ nhân là người Hoa gốc Quảng Đông .Lò Phước Kiến có chủ nhân là người Hoa gốc Phước Kiến , lò Tiều có chủ nhân gốc ở Triều Châu . Phân loại như thế chỉ có ý nghĩa văn học và  lịch sử nhưng về kỹ thuật thì chưa đủ , thiếu chính xác . Bởi lẽ , nếu căn cứ vào nguồn gốc , chủ nhân để đặt tên loại lò ,thì còn có chủ nhân người Hoa gốc Nùng , gốc Hẹ , kể cả ở giai đoạn sau có chủ lò là người Việt . Theo giới chuyên môn trong nghề gốm chỉ có hai loại lò đã nêu trên đó là bầu và lò ống mà thôi .
Trong nghề sản xuất gốm sứ , ngoài việc xây lò , còn có các khâu khác , các dụng cụ khác khá quan trọng để làm nên sản phẩm gốm sứ , cụ thể như :
-Về cái bàn xoay :
Trong nghề gốm , cái bàn xoay để tạo hình sản phẩm gốm được mọi người xem nó là một công cụ tiêu biểu cũng khá thú vị .Đến giai đoạn này là cái bàn xoay đã được nâng cấp , cải tiến lẹn theo đà phát triển của lịch đại.Về hình dáng mặt bàn xoay , nguyên tắc tạo hình sản phẩm trên bàn xoay vẫn như cũ ,nhưng sự phát triển cải tiến quan trọng nhất nằm ở khâu làm cho mặt bàn xoay chạy . trước đây muốn cho bàn xoay chạy , người ta phải lấy tay đẩy hoặc kéo nó , Làm mất nhiều sức lực và cũng khá bất tiện , hiệu quả lao động không cao , vì người thợ vừa phải chú ý vuốt , nắn sản phẩm trên mặt bàn xoay vừa phải kéo cho bàn xoay chạy . 
Cho đến cuối những năm 40 đầu những năm 50 người ta sử dụng phương pháp truyền sức lực của ộ phận trục giữa vào dây xích của xe đạp cho bàn xoay chạy bằng đôi bàn chân người thợ ,từ đó đã giải phóng được đôi tay , đôi tay người thợ chỉ tập trung chăm chút cho việc tạo hình dáng đẹp cho sản phẩm gốm .
Cho đến năm 1975 , việc khởi động , chạy bàn xoay đã tự động hoàn toàn , yếu tố kỹ thuật tiên tiến được đưa vào bằng cách dùng moteur điện để kéo bàn xoay chạy , duy chỉ có động tác tạo hình sản phẩm trên bàn xoay vẫn còn và chắc có lẽ không có gì thay thế được  đôi bàn tay tài hoa của người thợ gốm . 
-Về nguyên liệu và sự phát triển ổ khâu nguyên liệu trong sản xuất gốm sứ :
Trong giới sản xuất gốm sứ không ai không thuộc câu thiệu , cũng là quy ước xác định thứ bậc và tầm quan trọng phải chú trọng mới có thể đạt thành công trong sản xuất : ‘’nhất liệu , nhì nung , tam hình , tứ trí ‘’ . Có nghĩa là khâu quan trọng nhất trong sản phẩm gốm là vấn đề chuẩn bị nguyên liệu ,phối liệu đất sét , cao lanh ,khâu quan trọng thứ hai là nung sản phẩm , thứ ba mới đến vấn đề tạo dáng , taọ hình cho sản phẩm và góp phần cho sản phẩm đẹp , hợp thị hiếu người tiêu dùng chính là khâu làm lớp men tráng bên ngoài , cũng như màu của men , trang trí vẽ hoa văn lên sản phẩm .Ở giai đoạn này việc đưa nguyên liệu từ mỏ đất sét vè nơi sản xuất , ngoài sử dụng xe trâu bò kéo , người ta sử dụng xe cơ giới vào việc vận chuyển .
Khi vận chuyển nguyên liệu về ,người ta phải nghiền giã nhuyễn đất ra ,sau đó tưới nước vào để lọc bỏ tạp chất ,còn lại đất sét tinh làm gốm , việc này có tên gọi là ‘’xối hồ’’ .Trước đây nghiền đất làm bằng thủ công , đến đây người ta dùng máy móc thay thế ban đầu dùng máy xay ,cán , chạy  bằng động cơ xăng dầu , giai đoạn sau dùng moteur điện . Việc xối hồ cũng thế , người ta đã biết dùng bơm nước , bằng máy , bằng điện để xối hồ , chứ không dùng tay như trước . Thay thế máy móc vào các khâu này đã làm tăng năng xuất lao động , chất lượng đất sét tinh luyện khá cao .
Vấn đề chọn nguồn nguyên liệu cho sản xuất gốm sứ cung khá công phu , phải tích lũy king nghiệm từ đời này sang đời khác , cha truyền con nối , mới có kết quả , không phải đất sét nào , bất cứ ở  đâu cũng làm gốm sứ được mà mỗi loại sản phẩm sành sứ đếu có loại nguyên liệu chọn lọc dành cho nó 
-Về kỹ thuật nung gốm sứ :
Ở giai đoạn trước năm 1975 ,cơ bản các lò gốm vẫn nung sản phẩm theo phương pháp cổ truyền , tức nguyên liệu đốt lò vẫn là củi gỗ . Các lò đốt bằng điện , bằng gaz ở Bình Dương chưa xuất hiện trong thời gian này .
Một số công việc chuẩn bị cho việc nổi lửa lên nung sản phẩm gốm :Công việc đầu tiên là phải đưa ‘’sản phẩm sống’’vào lò .Sản phẩm sống ở  đây đã được tạo dáng tráng men ,vẽ cac loại hoa văn nhưng dễ vỡ , mềm , chưa thành sản phẩm để đem bán được . Ở giai đoạn từ năm 1930 trở đi ,người ta đã phát minh ra cái hộp đựng sản phẩm . sản phẩm sống được bỏ vào hộp đậy kín , để quá trình nung khói  bụi không bám vào sản phẩm ,làm cho chất lượng sản phẩm tăng cao hơn ,và số lượng sản phẩm hỏng cũng giảm đáng kể .Các sản phẩm loại nhỏ như chén , bát , tô , đĩa , tộ , bình , ấm , tách , tượng nhỏ các loại …mới sử dụng Cái hộp , còn các sản phẩm lớn như lu , khạp , vại hoặc các loại gốm không phải đồ sành , đồ kiểu thì không dùng cái hộp đựng sản phẩm này trong quá trình nung .cái hộp đựng sản phẩm được tạo từ một loại đất sét thô không cần tinh lọc , tùy sản phẩm lớn nhỏ mà người ta ‘’dập hộp’’ các cỡ lớn nhỏ khác nhau để đựng vừa theo từng loại sản phẩm .Công cụ và động tác ‘’dập hộp’’cũng khá đơn giản. Dụng cụ dập hộp gồm có các loại khuôn bằng sắt  hoặc bằng gang ,lực ép để dập ra cái hộp chủ yếu sử dụng theo nguyên tắc đòn bẩy .
Ngoài cái hộp đựng sản phẩm khi nung , người ta còn phải chuẩn bị một số viên gạch bằng đất sét thô , các viên gạch này đã có trước khi có cái hộp đựng sản phẩm .Động tác đưa sản phẩm vào lò cũng phải có những người có kinh nghiệm ,có phương pháp hẳn hoi chứ không phải cứ có ‘’sản phẩm sống’’thì đưa vào bất kỳ chỗ nào cũng được .Người ta xếp các viên gạch kể trên vào và để sản phẩm lên ,có khi xếp viên gạch nằm hoặc đứng , xếp sản phẩm cũng có hàng lối thứ tự rõ ràng , mỗi hàng , mỗi sản phẩm và từng cụm sản phẩm phải xếp cho có lỗ trống liên tiếp nhau từ dưới lên thành các đường thông nhau , để khi nung hơi nóng của lửa len vào đến sản phẩm , sản phẩm mới chín đều , không bị nín , bị sống Công việc chuẩn bị củi đốt cho lò gốm cụng khá quan trọng .Song song với việc đưa sãn phẩm vào lò , người ta phải chuẩn bị sẵn sang đủ lượng củi cho quá trình đốt một kỳ lò .Củi đốt lò cũng phải có sự lựa chọn , không phải bất kỳ cây gỗ nào cũng làm củi đốt lò được , củi đốt lò phải là cây suông ít gút ,mắc ,nếu cây củi to phải phải được chẻ thành những cây củi mỏng có độ dài từ 0,6m đến 0,8m .Khi đốt lò , trừ gian hàng đầu tiên để đốt lửa mồi (gọi là bầu lửa ) thì đốt bất cứ gì cũng được , nhưng từ căn kế tiếp cho đến căn cuối cùng trên đầu lò , mỗi căn có lỗ phóng củi vào rất nhỏ . Vì vậy nêu cây củi quá to , hoặc cong queo ,có gút , mắc thì khó đưa vào lỗ lửa để nung lò . 
Chất  lượng củi , nguồn củi đã  quan trọng , nhưng vấn đề quyết định sự thành, bại của một kỳ lò là kĩ thuật đốt lò .Nếu lửa chưa tới đủ một mức nhiệt lượng nhất định , thì sản phẩm sẽ sống ,hoặc lửa già quá mức quy định cho từng sản phẩm thì cũng sẽ bị hư hỏng . Nhiệt lượng qui định thường từ 400 đến 800 độ C đối với đồ ngang ,từ 800-1200 độ C đối với đồ sứ và một lần nung sản phẩm phải mất từ 36 đến 48 giờ và phải đốt liên tục không thể ngừng nghỉ đứt quãng được .Người thợ chụm lửa lò chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân tích lũy được nhiều năm trong nghề để nhận biết lửa trong lò tới mức nào là vừa đủ và bằng cách nhìn vào lỗ lửa gọi là  ‘’hỏa nhãn ‘’ ,để nếu lửa yếu thì cho thêm củi vào , lửa già bớt củi lại .
Người thợ coi lửa , đốt lửa lò gốm lao động khá nặng nhọc ,nên thù lao cũng khá cao so với các thợ khác trong nghề gốm , hơn nữa người thợ lửa được giới chủ lò rát trọng vọng . Ở thời gian từ những năm 50 đến 60 , đa số các chủ lò thường tổ chức lễ bái rất thành tâm trước khi khai hỏa nung gốm .Lễ vật đôi khi có đầu heo quay và thường xuyên có gà luộc  ,cháo gà ,việc cúng bái thần lò , thần lửa , cúng vái ông Bổn phù hộ cho kì lò thành công ,là iện pháp trấn an tư tưởng , đồng thời và chủ yếu để có chất tươi bồi dưỡng cho các thợ lửa , vì họ phải thay phiên nhau túc trực cả ngày lẫn đêm , chăm lo cho ngọn lửa trong căn lò luôn luôn rực cháy cho đến khi xong mới thôi .
Sauk hi đốt lò xong , người ta để một thời  gian từ hai đến ba ngày sau ,tát cả đã nguội mới tổ chức khai lò .Đưa các sản phẩm ra ngoài , phân loại sản phẩm hình thành các loại sản phẩm thành các loại giao cho thương lái hoặc mang đi bán .
Sản phẩm ra lò được phân thành các loại như :Loại nhất , loại nhì và loại ‘’đò tỳ ‘’. Loại ‘’đồ tỳ ‘’tuy có thể xài được nhưng là loại thứ phẩm , bỏ đi , không bán được .
-Về tạo hình , trang trí và sự phát triển , cải tiến khâu tạo hình , khâu trang trí sản phẩm gốm :
Trong sản phẩm gốm sứ còn nhiểu việc phải làm từ đầu cho đến khi hoàn thành sản phẩm ,giới thiệu sản xuất đã gom lại có bốn khâu chính yếu như câu thiệu mà ai trong nghề đều biết : ‘’nhất liệu , nhì nung , tam hình , tứ trí ‘’.
Khâu phối liệu , nung lò đã trình bày , khâu tạo hình sản phẩm cũng đã nêu ở phần ‘’cái bàn xoay ‘’. Ở đây ngoài việc tạo hình trên cái bàn xoay , ở giai đoạn sau cách mạng tháng 8/1945 đến 1975 còn có một số sản phẩm gốm sứ đã tạo hình không qua bàn xoay ,đó la các sản phẩm có hình dáng có góc cạnh  , lồi lỏm , vuông , đa giác …vv . Muốn tạo hình dáng các sản phẩm  có góc cạnh ,người ta phải sáng tạo ra cái ‘’khuôn’’ đúc ra sản phẩm .Thời gian đầu ( khoảng năm 1970) khuôn đúc làm bằng gỗ , bằng kim loại , có nhiều mảnh ráp lại ,khi đưa đất sét tinh vào ép lại , sau đo gỡ từng mảnh khuôn ra , còn lại là mẫu hình sản phẩm  khi lấy các phần phức tạp ấy ra khỏi khuôn người ta ráp nối các phần riêng lại thành hình sản phẩm như ý muốn . Việc tạo hình sản phẩm phải qua các khuôn mất nhiều thời gian , bất tiện ,khi thay đổi mẫu mã phải bỏ khuôn cũ ,làm lại khuôn mới tốn kém nhiều , do vậy giới sản xuất đã nghiên cứu tìm tòi , sáng tạo ra một loại khuôn khá linh hoạt , hiệu quả kinh tế khá cao ở giai đoạn sau năm 1975 ( sẽ trình bày sau ). 
Sauk hi sản phẩm đã tạo hình xong , khâu quan trọng tiếp theo là trang trí , vẽ , tạo hoa văn cho sản phẩm . Trước hết vấn đề quan trọng nhất là vấn đề men,màu 
Việc tạo ra màu men ưng ý , phải tốn nhiều công phu , nó mang yếu tố vừa mỹ thuật , vừa kĩ thuật , đồng thời bí quyết nghề nghiệp , bí mật nghề cũng nằm ở khâu này .Chính vì các lớp men ao bọc bên ngoài nên đã tạo cho các sản phẩm ấy khác biệt hẳn với loại gốm đất nung không có lớp men.
Về kĩ thuật làm nước men ,nhúng da sản phẩm đã phát triển khá lâu , từ những sản phẩm của lò Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc (năm 998) đã có tráng men ,ở Anh Quốc từ những năm 1794 người ta đã chế tạo nhiều loại men màu , đặc biệt loại men chế tạo từ vàng ròng để tạo ra những sản phẩm phục vụ trong cung đình cho các bậc vua chúa sử dụng (30) . Ở Việt nam gốm Bát Tràng từ thời Hậu Lê đã có tráng men khá độc đáo .
Tại Bình Dương , các lò gốm khi mới xuất hiện đã biêt sử dụng men màu nhưng còn khá đơn giản .Người ta dùng trấu và vôi nung chín giã nhuyễn , trộn với nước hồ ( đất sét quấy lỏng )nhúng sản phẩm vào sau khi đưa vào lò nung sản phẩm sẽ cứng nước da menco1 màu đen , hoặc màu da lươn ,đó là sản phẩm sành .
Đên giai đoạn từ những năm năm mươi đến bảy mươi ,kỹ thậut pha chế men màu đã có sự phát triển đáng kể .Người pha chế men màu thường là chủ lò ,họ mày mò pha chế thử nghiệm nhiều lần ,nhiều năm , có khi gần cả đời người mới tìm ra men màu độc đáo ,
Do vậy đây cũng là bí mật nghề ,họ giữ rất kỹ không lưu truyền cho người ngoài , nếu truyền cho con chỉ truyền cho một đứa con trai được tin tưởng ,con gái dứt khoát không truyền bí quyết nghề .
Chính vì vậy nên có khi có người tìm ra một loại màu men tưởng chừng độc đáo lắm , nào ai ngờ rằng đã có người làm ra loại tương tự trước cả trăm năm .
Ngoài nước men đơn giản ( da bò , da lươn của đồ sành lúc đầu ) người ta biết dùng các loại đa tràng thạch , thạch anh oxit coban, đá vôi ,silicat ,oxit đồng , nhôm , kẽm ..vv để pha chế men làm cho men có nhiều loại màu sắc : xanh , trắng hồng , vàng , nâu , đỏ , rát đa dạng phong phú .
Chất lượng men màu theo thời gian có biến đổi , phát triển nhưng động tác nhúng men , xối men cho sản phẩm của người thợ gốm từ những năm 1930 đến 1975 vẫn không có gì thay đổi .
Người ta mang sản phẩm nhúng , dìm vào nước men cho thấm đều lấy ra hoặc để sản phẩm bên ngoài , múc nước men xối đều lên sản phẩm , dĩ nhiên phía dưới có bố trí đồ hứng nước men xối thấm không kịp chảy xuống ,đọng lại , sau đó đổ vào chậu men dùng tiếp . sau khi nhúng men , hong khô , sẽ tới phần việc trang trí hoa văn lên sản phẩm .Đây là công  đoạn mang tính kỹ thuật ít ,tính mỹ thuật cao hơn ,qua công đoạn này sẽ làm cho sản phẩm gốm sứ sinh động và tăng giá trị sử dụng .
Về kỹ thuật ở giai đoạn đầu ( từ 1930 đến 1969) cách trang trí , vẽ hoa văn thường có hai cách :
-Một là vẽ chìm , khắc nổi trên xương gốm dưới men , vẽ khắc xong rồi mới nhúng men , sau khi nung  sản phẩm các hoa văn sẽ nổi lên tự nhiên , như cặp rồng, phụng trên các lu lớn ,vại to màu da lươn mà chúng ta thường gặp .
- Hai là dùng màu vẽ lên sản phẩm , sau khi sản phẩm đã nung xong , cách này màu sắc tươi , phong phú hơn , nhưng không bền , sừ dụng lâu ngày sẽ bong , tróc bay màu .
Ở giai đoạn sau từ 1960 đến 1975 , việc trang trí , vẽ hoa văn còn nhiều kiểu cách hơn , tùy theo hình dáng sản phẩm , tùy theo chất liệu , thể loại mà người ta dùng cách này , hay cách khác để tạo hoa văn trên sản phẩm gốm cho phù hợp , có giá trị .
Đặc biệt cách dùng men màu chảy để trang trí hoa văn là bước nhảy vọt về kỹ thuật và nghệ thuật ở giai đoạn này ,nó khắc phục được việc sử dụng lâu ngày sản phẩm bị bong , bay màu như ở giai đoạn trước .
Việc dùng men màu chảy này phải mất thêm thời gian nhất định .Sản phẩm sau khi tạo hình dáng , chưa trang trí gì cả , cứ đem nung chín xong , dùng các loại men mầu vẽ lên sản phẩm sau đó tiếp tục đưa vào lò nung , hấp một lần nữa để cho các hình vẽ trang trí nóng chảy thấm vào da men ,sản phẩm có màu sắc tự nhiên , rất phong phú nhiều màu sắc nhưng sử dụng không bao giờ bong tróc , hay bay màu .
Về các dạng hoa văn trang trí trên sản phẩm ở gốm sứ Bình Dương thường được thể hiện bình dị , ít hoa mỷ nhưng không kém phần duyên dáng như cái lu lớn trơn tru kém hấp dẫn hơn cái lu có cặp rồng ,uốn khúc với vài mảng mây bồng bềnh , cặp phụng xòe đôi cánh với ít cây cảnh chấm phá làm cho cái lu vô tri vô giác sẽ linh hoạt hẳn lên .Cái hũ nhỏ có thêm bông hoa ,một nhánh dây lá uốn quanh sẻ làm cho không còn cái vẻ cục mịch vốn có của nó nữa .
Các loại sản phẩm nhỏ , hoa văn trang trí bao gồm các đề tài như cá , tôm , voi , hoa , các loại hoa lá , như bong sen , bong súng , dâm bụt , cảnh trời mây , sông núi , con người , các dạng hình học , các bức tranh  thủy mặc mang dáng dấp Trung Hoa …vv
c/ Từ năm 1975 đến năm 1985 :
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử , giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất  đất nước , là sự kiện to lớn có tác động mạnh đến mọi mặt đời sống sinh hoạt xã hội của mọi người dân miền Nam ,trong đó có giới sản xuất gốm sứ Bình Dương .Đa số các lò gốm đều dừng lại trong vài ba tháng đầu sau giải phóng , để xem tình hình kinh tế dưới dưới chế độ mới sẽ phát triển ra sao ,thế rồi guồng máy sản xuất chung của xã hội và của nghề gốm sứ tiếp tục vận hành trong điều kiện mới dưới thể chế chính trị mới .
Về sồ lượng cơ sở gốm sứ toàn tỉnh con số 117 của năm 1975 đến năm 1985 đã phát triển lên đến 273 cơ sở sản xuất (8).
Về số lượng cơ sở , trong giai đoạn 10 năm đầu  giải phóng có sự phát triển , nhưng về nội dung các mối quan hệ sản xuất  như sự thay đổi phát triển ngay trong bản thân của quá trình sản xuất nghành nghề gốm sứ cũng có những vấn đề của nó như :
-Vấn đề kỹ thuậgt gốm sứ ở giai đoạn 1975-1985 :
Thời gian 10 năm sau giải phóng , số lượng cơ sở phát triển nhiều hơn trước , nhưng về kỹ thuật cơ bản như cấu trúc dạng lò ,nguyên tắc xây dựng lò ,nguyên tắc tạo hình trên bàn xoay , nguyên tắc nung lò  …vv vẫn không có gì thay đổi lớn .
Việc khai thác đất sét ,các phương tiện vận chuyển cung cấp cho các cơ sở sản xuất gốm sứ vẫn như những năm trước , nhưng có nét mới trong khâu tổ chức như có đội quản lý cung cấp nguyên liệu , các cơ sở xối hồ được tổ chức riêng , có nghĩa là trong kỹ thuật sản xuất không có gì thay đổi , chỉ có thêm khâu gián tiếp phình ra , đè nặng lên khâu sản xuất .
Về mặt kỹ thuật tao6 hình sản phẩm vẫn sử dụng nguyên tắc bàn xoay .Đối vời các sản phẩm có góc cạnh ,đặc biệt ở giai đoạn này phát triển thêm được cái khuôn tạo hình bằng thạch cao , hiệu quả kinh tế kỹ thuật cao hơn khuôn gỗ ở giai đoạn trước .Khuôn thạch cao dễ làm hơn khuôn gỗ ,dễ thay đổi mẫu mã , kiểu dáng , tốn kém ít , tiện lợi hơn trong việc tạo hình sản phẩm .
Đối với khâu trang trí trên sản phẩm có sự phát triển mạnh hơn các công đoạn khác .Các loại hình trang trí như men màu đa dạng hơn , phong phú hơn , các loại hoa văn trang trí có nhiều kiểu , nhiều loại hơn trước .Trong sự phong phú đa dạng đó , nổi lên hai sự kiện quan trọng nhất , có thể coi là cú đột phá ngoạn mục trong nghệ thuật trang trí hoa văn cho sản phẩm gốm sứ .
Sự kiện thứ nhất : in hoa văn lên sản phẩm , chất liệu men cũng giống như các loại mà người thợ dùng cọ ,bút , chấm , vẽ lên sản phẩm chỉ có khác ở khâu dùng dụng cụ cố định khắc hoa văn lên dụng cụ đó , rồi chấm vào men màu in lên sản phẩm , giống như nguyên tắc đóng dấu mực hành chính lên chữ ký trên các công văn giấy tờ .Sự cải tiến này tạo ra năng suất cao , động tác thực hiện rất nhanh  ,cùng một thời gian người thợ in hoàn thành nhiều gấp vài chục làn người thợ vẽ ,có hạn chế là hình họa , hoa văn giống nhau trên hàng loạt sản phẩm , tính sáng tạo , ngẫu hứng không còn như vẽ . Ngoài ra , người ta còn sáng tạo ra loại hoa văn giống như các loại ảnh in sẵn trên giấy (thực ra nó cũng được làm từ những hóa chất , men màu ) , người thợ chỉ cần bóc lớp ngoài, dán lên sản phẩm , đem sản phẩm hấp lại cho hoa văn , hình dán lên nóng chảy dính chặt vào lớp men ngoài là được .
-Sự kiện thứ hai :người ta đã sáng tao6 ra loại men màu đặc biệt mà chính nguyên liệu chính là vàng ròng pha chế cùng một số hóa chất khác , không vẽ lên sản phẩm và hấp lại xong ,màu vẽ hiện lên tươi như vàng thật ( thông thường một chỉ vàng 24 kara pha chế ra , vẽ được trên 2000 sản phẩm lớn , 8000 sản  phẩm nhỏ ).Kĩ thuật này Trung Quốc , Nhật Bản , Anh đã thực hiện cách nay hơn  100 năm nhưng các làng gốm sứ Bình Dương mới thực hiện ở giai đoạn 1975-1985 .
-Vấn đề tiêu thụ sản phẩm , quan hệ giữa sản xuất , tiêu dùng của ngành nghề gốm sứ ở giai đoạn 1975-1985 :
Việc tiêu thụ sản phẩm gốm sứ từ những năm trước giải phóng ( 1975 dường như đã có một nề nếp định sẵn từ lâu ).
Ở chợ Thủ Dầu Một , Chợ Búng , chợ Lái Thiêu đều có các vựa ( gọi là chành ) chuyên môn buôn bán sản phẩm gốm sứ , chủ các vựa này cũng là người Hoa .Mỗi vựa là đầu mối nhận sản phẩm của một số lò gốm nhất định . Khi sản phẩm ra lò , phân loại xong ,họ mang đến giao cho các chủ vựa .Người chủ lò nhận lại ,ngoài tiền ra còn có các loại vật tư ,hóa chất dùng trong sản xuất gốm sứ .Nhờ vậy giới mua bán cùng với việc mua sản phẩm gốm sứ hô còn là nơi cung cấp vật tư nguyên liệu cho sản xuất gốm sứ . Việc mua bán giửa đôi  bên khá song phẳng và rất có uy tín lẫn nhau .Khi cac chủ lò cần tiền bạc , vật tư  có thể đến chủ vựa ứng trước ( chưa có sản phẩm để giao ) cũng được chấp nhận dễ dàng ,hoặc sản phẩm giao xong của vài kì lò chủ vựa mới giao tiền cho chủ lò cũng là chuyện bình thường .
Sau giải phóng , trật tự mua bán này tiếp tục duy trì được một thời gian , cho đến những năm 1978-1979 thì hoàn toàn bị phá vỡ ,bị triệt tiêu ,bởi chính sách cải tạo tư sản thương nghiệp  lúc bấy giờ . Việc cung ứng vật tư thu mua sản phẩm được thiết lập theo một trình tự , trật tự mới hoàn toàn theo ý chí chủ quan áp đặt , từ việc giao chỉ tiêu ,định giá thu mua sản phẩm không theo quy luật thị trường . Một tổ chức của nhà nước được thành lập để làm việc này có tên gọi là  “ công ty sành sứ tỉnh Sông Bé ‘’.

II /Vài Nét Sơ Lược Về Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Ngành Sản Xuất Gốm Sứ Bình Dương
Trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ tạo nên những sắc thái riêng của đời sống kinh tế văn hóa xã hội của Bình Dương .Vậy gốm đã có từ bao giờ , ngành nghề tiểu thủ công gốm sứ từ đâu đến đất này , là những vấn đề cần lý giải : 

1/Gốm cổ trên đất Bình Dương 
 Theo tài liệu khảo cổ và các di vật khảo cổ tìm đươc cho thấy trên đất Bình Dương cách nay hàng ngàn năm trước đã có con người sinh sống ,có các công cụ phục vụ đời sống ,trong đó nhiều nhất là các công cụ ằng đồ gốm .Di tích khảo cổ ở Dốc Chùa ( chùa Tân Uyên ) đã tìm thấy trên trên 250.000 mảnh vỡ và hàng trăm mảnh khác tìm thấy ở Bến Lớn (Tân Định –Bến Cát ) đã chứng tỏ nghề thủ công sản xuất đồ gốm đã khá phổ biến , rất quan trọng trong đời sống cư dân Biên Hòa lúc bấy giờ .Nghề gốm đã tồn tại như là một ngành chuyên môn thực sự . Ở đây đã có những người thợ có trình độ kỹ thuật , có kinh nghiệm khéo tay chuyên làm những vật dụng bằng gốm như nồi , vò , bình , bát , chậu …(18-173). Khéo tay chuyên làm những vật dụng bằng gốm như nồi , vò , bình , bát , chậu …(18-173) .Về trang trí các hoa văn gốm còn thô sơ : chỉ có loại hoa văn  khắc ,vạch , ô vuông , dạng dây thừng . Cũng theo di chỉ khảo cổ , người ta biết rằng dân cư ở Dốc Chùa là loại hình nhân chủng Indonesia , mà hậu duệ của họ ngày nay còn tồn tại , đó là các dân tộc Stieng , Châu Mạ …
Thế nhưng khoảng hơn 2000 năm sau ,dấu tích nghề gốm trên vùng này chưa tìm thấy . Như vậy nghề gốm cổ gắn liền với cư dân bản địa đã xuất hiện và do biến cố nào đó đã mai một đi , không còn phát triển liên tục cho đến ngày nay .
 Cũng trên đất Bình Dương , ở Tân vạn Biên Hòa , một phần là Dĩ An Bình Dương  , theo lời truyền lại trong dân gian thì nơi đây là vùng gốm dân dụng lâu đời trước khi nghề gốm của người Hoa du nhập vào xứ sở này . Điều đó được chứng minh cho đến nay còn nhiều lò sản xuất gạch ngói nổi tiếng và sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác được chế tạo từ đất sét đang hoạt động , mà những chủ nhân của các lò cũng không biết chính xác nghề  và lò của họ do ông cha để lại từ bao giờ .
Như vậy nghề sản xuất gốm trên đất Bình Dương cùng với cư dân bản địa đã từng tồn tại , nhưng để trở thành làng nghề với quy mô lớn , sản xuất ra sản phẩm hàng hóa thì phải có sự góp phần quan trọng của sự du nhập nghề gốm của người  Hoa vào Bình Dương . ba làng gốm đã hình thành và phát triển cho đến ngày nay gốm : Tân Phước Khánh ( Tân Uyên ) , Lái Thiêu ( Thuận An ) và Chánh Nghĩa ( Thị Xã Thủ Dầu Một )

2/Các làng nghề truyền thống về gốm sứ của Bình Dương :

a/ Làng nghề gốm Tân Phước Khánh ( tân Uyên ):

Theo truyền thuyết trong dân gian kể lại , cách nay trên ba thế kỷ có người dân tộc ít người (có thể là người stieng ) ở vùng tân Uyên đi đào củ rừng ven suối ,khi đào sâu xuống đất , mũi trỉa ( một loại dụng cụ chuyên đào củ rừng ) bị dính chặt  bởi một loại đất lạ màu trắng .Người ấy lấy đất thoa lên tay và mặt thấy đẹp và mưỡi rừng không đốt nữa . Từ đó cả ộ tộc ấy thường lấy đất trắng này thoa lên người để trừ muỗi và làm dấu để nhận ra nhau  khi đi săn ắn , hái lượm trong rừng .
Vào thời ấy ,được sự cho phép của Chúa Nguyễn (cụ thể là Chúa Nguyễn Phước lan năm 1633 đã kí lệnh cho mở thêm 3 thương cảng ) các thương thuyền của nước ngoài thường đến các thương cảng mới như Hội An , Đà Nẵng để lung mua hàng hóa trong nội địa Việt Nam .Trong số các thương thuyền nước ngoài Chúa Nguyễn ưu ái hơn đối với các thương thuyền người Trung Hoa ,nên họ được đi sâu vào đát liền để tìm mua hàng ( 9) . Có một thương nhân người Hoa thường đưa thuyền buôn của mình vào cửa rạch Bến Nghé rối ngược lên thượng lưu sông Đồng Nai , đến quãng Tân Uyên ( ngày nay )thì bắt gặp những người trong bộ tộc thường xoa đất trắng trên người . Thấy lạ , ông ta quan sát  , đi tìm và thấy đó là loại đất quý , làm được gốm sứ .Từ đó các chuyến hàng sau ông ta mang một số người Hoa khác đến vùng này định cư ,mở lò sản xuất gốm sứ . sản phẩm làm ra bán cho kinh thành Huế và thành Gia Định sử dụng , số khác đưa lên thuyền mang về bán ở Trung Hoa (2 ).
Vào năm 1867 một ngôi chùa của số lưu dân người Hoa được  xây dựng ở Bình Dương . gọi là chùa nhưng không phải theo kiểu đạo Phật  mà thực ra đó là cái miếu lớn thờ bà Thiên hậu Thánh Mẫu (*)hàng năm vào ngày rằm tháng giêng ở đây có tổ chức lễ hội lớn , thu hút trên cả triệu người ( đa số là người Hoa các nơi ở nam bộ ) đến viếng chùa Bà này . Trong số đồ cúng nhân ngày khánh thành ngôi “ChùaBà “ còn có lư hương và bình hoa bằng gốm .trên chiếc bình hoa còn vẽ hình Bát Tiên và có in chữ “Tân Khánh Thôn’’.Điều này chứng minh rằng người Hoa đến đây lập lò sản xuất gốm khá lâu  trước khi ngôi chúa Bà được thành lập . theo một số vị cao niên thì chủ nhân của hai hiện vật dâng cúng Chùa Bà kể trên là ‘’Chú Màu’’ gốc Quảng Đông chủ lò gốm hiệu Thái Xương Hòa nay vẫn tồn tại ,đang sãn xuất gốm sứ ở Tân Phước Khánh .

b/ làng gốm sứ Lái Thiêu :
theo nhà văn , nhà ghiên cứu Sơn nam và qua ý kiến một số nghệ nhân gốm sứ thì nghề gốm du nhập vào lái Thiêu Bình Dương vào cuối thế kỷ XIX do những người Hoa theo chân các đoàn thuyền buôn vào , và qua đường bộ từ Móng Cái sang vùng Gia Định lập nghiệp .Trong số lưu dân người Hoa đó có những người vốn là thợ gốm họ thấy vùng Lái Thiêu  thuận lợi cho việc sản xuất gốm nên họ định cư và mổ lò sản xuất gốm .
Phù hợp với ý kiến trên trong niên giám và địa lý Thủ dầu Một do thực dân Pháp để lại cho thấy rằng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX ‘’Ở Thủ Dầu Một còn có mỏ cao lanh , 10 lò gốm và nhiều mỏ đá ‘’(3). Khi đó các lò gốm được xây dựng dọc theo bờ rạch Tân Thới với đia6 hình có các triền gò cao dần lên từ bờ rạch , rất thuận lợi cho việc xây dựng lò gốm .Sản phẩm làm ra từ lò gốm lúc ấy gồm các loại lu , hũ , khạp vại , chậu ,xiêu nấu nước …với da men màu đen và màu da lươn .Một số hiệu lò nổi tiếng nhất như Anh Ký , Quảng Thái Xương , Kiến Xuân ,Liên Hiệp Thành từ xưa cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại và làm ăn hiệu quả .Chủ lò gốm Vương Kiến Xuân hiện nay tên Vương Thế Hùng cho biết lò gốm của ông ta được truyền nối từ đời ông cố nội tên là Vương Tổ từ Phước kiến sang đây lập nghiệp đến nay đã có đến trên 130 năm .

Mặc dù các tài liệu thành văn từ xưa để lại không ghi cụ thể những lò gốm lái Thiêu có từ năm nào , nhưng những nguồn gốc như trên đã nêu có tính thực tế hơn , bởi theo nhà văn Sơn Nam có nêu gốm lái Thiêu được truyền lên từ gốm Cây mai – Chợ lớn ( Sài Gòn ). Bởi vì Lái Thiêu chỉ cách vùng gốm trên dưới 15 km . Thế nhưng ý kiến này không đủ độ tin cậy lắm , vì gốm Cây Mai ( theo tài liệu khảo cổ gần đây ) chủ yếu sản xuật ra sản phẩm trang trí trong các Đình , Chùa của người Hoa ở Việt Nam . Trong khi đó gốm Lái Thiêu sản xuất ra các sản phẩm thông dụng cung cấp cho nhân dân sử dụng .Như vậy trên thực tế từ các sản phẩm sản xuất ra gốm Cây Mai , và gốm Lái Thiêu khác nhau hoàn toàn ,nên khó có thể khẳng định rằng nghề gốm Lái Thiêu là do gốm Cây Mai dời lên để sản xuất ở đây được .

Ngày nay nghề gốm Lái Thiêu phát triển khá phong phú đa dạng , số cơ sở sản xuất gốm sứ Lái Thiêu chiếm số lượng khá lớn trong toàn thể ngành nghề sản xuất gốm sứ của Bình Dương.

c/ Làng gốm sứ Chánh Nghĩa ( Thủ Dầu Một ) .

Làng gốm Chánh Nghĩa thời xa xưa còn gọi là gốm Bà Lụa thuộc thôn Phú Cường huyện Tân Bình ( dưới triều Nguyễn ) . Dưới thời Pháp thuộc  , làng gốm này thuộc làng Phú Cường tỉnh Thủ Dầu Một chính trong giai đoạn này xuất hiện câu ca dao mà nhiều người Bình Dương đều biết :

‘’Chiều chiều mượn ngựa ông Đô 
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về 
Đưa về chợ Thủ bán hũ , bán ve 
Bán bộ đồ chè , bán cối đâm tiêu’’.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (4/1975) làng gốm Chánh Nghĩa nắm trong phường Chánh Nghĩa thị xã Thủ Dầu Một ,tỉnh Bình Dương như hiện nay .
Về nguồn gốc và thời điểm hình thành làng gốm Chánh Nghĩa cũng có hai loại ý kiến khác nhau .
Loại ý kiến thứ nhất mà đại biểu là nhà văn , nhà nghiên cứu  Sơn Nam và trong sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Sông Bé , thì cho rằng nguồn gốc gốm Chánh Nghĩa được du nhập đến từ làng gốm Cây Mai ,Gia Định và từ Lái Thiêu chuyển lên , khoảng thời gian giữa thế kỷ XIX . Loại ý kiến này chưa đủ cơ sở chứng minh .
Loại ý kiến thứ hai :căn cứ vào chứng tích cụ thể còn lại của làng gốm Chánh Nghĩa thì cho rằng vào những năm 1840-1850 tại làng Chánh Nghĩa có ba lò gốm xuất hiện đầu tiên ở đất này ,để sau đó nghề gốm dần dần định hình phát triển thành làng nghề đông đúc cho đến ngày nay .
Ba lò gốm đó có lịch sử như sau :
-Cơ sở thứ nhất có tên là lò Vương Lương , dân gian là lò Ông Tía đặt gần cảng Bà Lụa ngày nay . Ông Vương Lương người tỉnh Phước Kiến sang Việt Nam .Lò được xây dựng trên ngọn đồi thấp bên cạnh môt con rạch rất thuận lợi cho việc vận chuyển đường thủy ra sông Sài Gòn .Chủ lò Vương Lương lúc ấy là ông nội của ông Vương Lăng ( thường gọi là út Lăng ) ông đã 92 tuổi và ông chết năm 1998, như vậy giả sử cha ông lớn hơn 30 tuổi , ông nội lớn hơn cha 25 tuổi thì tính ra có khoảng 140 -150 năm ( 90 ,30,25  bằng 145 ), đó cũng là số năm mà lò gốm Vương Lương xuất hiện .Lò Vương Lương ngày nay không còn tồn tại , nhưng con rạch cạnh lò gốm đến nay vẫn còn và tên con rạch ấy chính là tên gọi khác của chủ lò gốm đầu tiên của xứ này : rạch ‘’Vàm Ông Tía’’.

-Cơ sở thứ hai còn tên là lò Chín Thận .Người ta không còn nhớ họ tên thật của người này , chỉ nghe truyền lại ông thứ 9 tên Thận , là một người Việt rất vui tính , cởi mở , hào phóng , vốn là người giàu có và có uy tín trong khu vực , ông thường tiếp xúc với chủ lò ở vùng Tân Khánh ,Lái Thiêu .Về sau ông chiêu mộ một số thợ giỏi các nơi (dĩ nhiên số thợ này là người Hoa ) về mở lò gốm tại khu đất cách chợ Thủ khoảng hơn 1km.dần dần lò gốm nơi đây được nhân ra , trở thành khu lò chén ngày nay .Riêng lò của ông Chín Thận hiện nay cũng không còn ,dấu tích còn lại chỉ còn một cây cầu trên con lộ đi vào khu lò chén có tên của ông : ‘’Cầu Chín Thận’’.

-Cơ sở thứ ba có tên là lò Tứ Hiệp Thành ,chủ nhân lò gốm này Trần Lâm , người Hoa trong số con cháu của những lưu dân trong đoàn quân của tướng Dương Ngạn Địch ,Trần Thượng Xuyên định cư ở Cù Lao Phố ngày xưa ,do vậy chủ lò này thường xuyên trao đổi kỹ thuật ,trao đổi công nhân qua lại với lò gốm trong thân tộc ở Biên Hòa –Đồng Nai ,để tồn tại và phát triển . Hiện nay tên lò Tứ Hiệp Thành ( Tứ Hòa ) vẫn còn tồn tại ,là một cơ sở gốm sứ làm ăn cũng khá phát đạt .

Từ ba lò gốm đầu tiên ,cùng thời gian xuất hiện đã nêu trên dần dần đã taọ nên làng gốm sứ Chánh Nghĩa Thủ Dầu Một ngày nay .Cùng với làng gốm Lái Thiêu , làng gốm Tân Phước Khánh , làng gốm Chánh Nghĩa xuất hiện trên đất Bình Dương đã tạo nên một ngành nghề có giá trị kinh tế , gí trị lịch sử văn hóa khá quan trọng của địa phương .

Qua xem xét nguồn gốc hình thành của từng làng gốm đã cho thấy có một nét chung nhất về gốm sứ Bình Dương như có cùng thời gian xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XIX ,các chủ nhân lập lò đa số là những   lưu dân người Hoa – từ miền duyên hải Trung Hoa sang Việt Nam – và khởi nguồn đầu tiên sản xuất gốm sứ Bình Dương có thể xem các lò gốm ở vùng Tân Phước Khánh là phù hợp hơn với các lý do :Tân Phước Khánh gần Cù Lao Phố là nơi đầu tiên những lưu dân người Hoa đến sinh sống , có mỏ cao lanh và rừng rậm nhiều củi đốt , thuận lợi cho việc mở lò sản xuất gốm 

d/ Các trường phái gốm sứ :

Ngoài việc phân iệt rành mạch gốm , sành , sứ có sự khác nhau rất rõ ràng , giới gốm sứ Bình Dương còn có sự phân định khác cũng khá lý thú .Sự phân định này tồn tại từ lúc mới hình thành các làng gốm sứ cho đến thời gian gần đây .Sự phân định này thường được gọi là ‘’trường phái ‘’gốm sứ . Xuất phát từ nguồn gốc của các chủ nhân lò gốm sứ ,họ đến từ các địa phương khác nhau , từ các tộc khác nhau , họ mang theo vốn tay nghề sẵn có và kinh nghiệm truyền thống chỉ làm ra một chủng loại hàng gốm sứ mang sắc thái riêng từ đó người ta gọi là ‘’trường phái’’. Cơ bản có các ‘’trường phái ‘’như :

-Trường phái Quảng :(Đa số người chủ lò gốc ở Quảng Đông )nét nổi bật của trường phái này là việc sử dụng men có nhiều màu sắc , hoa văn trang trí trên sản phẩm đẹp , cách điệu và trang nhã …Họ chuyên sản xuất các tượng trang trí , các loại chậu hoa , đôn voi các loại …
-Trường phái Triều Châu (Chủ lò người gốc Triều Châu ,một số là người Hẹ ) . trường phái này thường sử dụng men xanh trắng có nét vẽ đa dạng phong phú và hoa văn bình dị ,các cảnh sơn thủy hữu tình , hình ảnh các con vật nhỏ như rồng , gà ,hoặc cây tre , tùng bách có tính nghệ thuật gợi cảm . Sản phẩm làm ra đa số là đồ dùng gia dụng , thường dùng cho nhu cầu hàng ngày trong đời sống con người như  chén , đĩa , tô , tộ các loại độc bình trang trí cắm hoa .

-Trường phái Phúc Kiến : sản phẩm đa số sử dụng men màu đen , màu da lươn ,hoa văn trang trí đơn giản , cách tạo hình sản phẩm đa dạng , dáng đẹp khá sinh động .các loạin sản phẩm tiêu biểu theo trường phái này gốm có : Ché đựng rượu , lu , vại chứa nước , các đồ dùng nhỏ như hũ ,vịm , chậu vv..,
Ngày nay các trường phái hầu như không còn có sự phân định rõ ràng như thời gian đầu của các làng gốm sứ , bời lý do có sự phát triển công nghệ , về thị trường yêu cầu , nên các làng gốm sứ , các trường phái đã có sự pha trộn xâm nhập lẫn nhau .các chủ sản xuất nếu muốn tồn tại và phát triển , họ phải liên tục cải tiến mẫu mã , men màu , hoa văn tạo dáng sản phẩm ,kể cả phải thay đổi chủng loại mặt hàng , sãn xuất nhiều chủng loại thuộc các ‘’trường phái’’ khác trong cơ sở của mình để có thể cạnh tranh trên thị trường . 
Trên đất Bình Dương ngoài các làng gốm sứ đã nêu trên ,còn có một loại lò sản xuất gốm sứ khác , mà nếu không nêu ra đây  thì quả thật là một thiếu sót lớn . Đó là lò  sản xuất gạch ,ngói và các vật dụng phục vụ trong xây dựng . Có một điều khác biệt lớn ở đây là các lò sản xuất loại sản phẩm xây dựng này đa số là người Việt ,địa điểm xây dựng ngoài khu Tân vạn ra , thì các lò tọa lạc rải rác trên toàn đại bàn Bình Dương, không tập trung thành các làng như gốm sứ tiêu dùng như của người Hoa .
Trong giới  nghiên cứu khi nói đến gốm sứ , mặc nhiên hiểu rằng đó là gốm sứ tiêu dùng , chứ không đề cập đến gốm sứ xây dựng . Về quản lý của chính quyền khi thống kê , quy hoạch , kế hoạch sản xuất  chung của địa phương thường gộp chung cả gốm sứ tiêu dùng và gốm sứ xây dựng 
VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP SẢN XUẤTGỐM SỨ BÌNH DƯƠNG .
I  / KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ,ĐỊA DANH  BÌNH DƯƠNG
1/– Tên gọi Bình Dương , lịch sử hình thành tỉnh Bình Dương :
Bình Dương , một cái tên thân thương , hiền hòa để gọi một địa danh nhỏ trên đất liền , thế nhưng nó lại là một cái đuôi của tên một đại dương bao la :’’ Biển Thái Bình Dương ‘’.
Từ xa xưa Bình Dương là tên gọi của một nàng công chúa xinh đẹp con của vua ( nhà Lê ) . Trong Đại Việt Sử Ký Toàn thư có ghi :’’Tống Thiện Thành năm thứ 7(1029) tháng 3 ngày mồng 7 gả công chúa Bình Dương cho Châu Mục Châu Lang là Thân Thiện Thái ( 17-383 t.1 ) . BÌnh Dương cũng là tên gọi một con sông . Theo bản đồ do Trần Văn Học vẽ khu vực Gia Định Thành tháng 4/1815 , và mô tả của Trịnh Hoài Đức  trong  ‘’ Gia Định thành Thông Chí ‘’ ( 1820 ) thì sông Bình Dương ở phía nam trấn Gia Định .Đoạn sông này nay đã mang tên mới là Rạch Bến Nghé .
Từ một cái tên của một nàng công chúa , được  gọi tên một dòng sông  ,đến cái tên ấy được gọi là địa danh làng : Năm 1882 M.Derbers có thống kê lò gốm ở Nam Kỳ và có kêu ở Biên Hòa có 5 lò gốm nằm ở làng Bình Dương và An Xuân (20-348). Ở cấp độ đơn vi hành chánh cao hơn . tên Bình Dương có lúc cũng được đặt cho một huyện .Như Trịnh Hoài Đức  đã mô tả trong “Gia Định Thành Thông Chí “( 1820): “Hai huyện Bình Dương ,Tân Long dân cư trù mật , chợ phố liền lạc , nhà tường , nhà ngói liên tiếp cùng nhau (72-29).
Cách đây hơn ba trăm năm , khi Thống Soái Nguyễn Hữu Cảnh được cử vào kinh lý Nam kỳ , đã cho lập phủ Gia Định gồm hai huyện Phước Long  và Tân Bình . “ Lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định Phủ ,lập xứ Đồng nai làm huyện Phước Long , dựng dinh Trấn Biên , lập xứ sài Gòn làm huyện Tận Bình , dựng dinh Phiên Trấn (72-43).
Đến năm 1808 huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ gồm có 4 huyện , Bình Dương , Tân Long , Thuận An , Phước Lộc (42-56)
Năm 1834 toàn bộ nam Kỳ được chia đặt thành 6 tỉnh ( gọi nam kỳ lục tỉnh ) , huyện Bình Dương nằm trong Phiên An . Năm 1836 Phiên An được cải thành Gia Định . Đến năm 1841 – huyện Bình Dương lại được tách ra làm hai huyện : Huyện Bình Dương và Bình Long . Cho đến thời Pháp thuộc Nam Kỳ Lục Tỉnh sau này được chia ra làm 20 tỉnh mới .hai bên bồ sông Sài Gòn là hai tỉnh Sài Gòn và Thủ Dầu Một . Đến khi kháng chiến chống Pháp thành công (1954)miền bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội , miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào ) lập thể chế cộng hòa theo Mỹ .Chính quyền Sài Gòn ra sắc lệnh số 143/NV( ngày 22-10-1956) thay đổi tên gọi và địa danh các tỉnh miền Nam .
Do đó tên tỉnh Bình Dương được thiết lập ,về địa giới chỉ còn quận Trị Tâm ( xứ Dầu Tiếng ) thuộc huyện Bình Dương  xưa kia , còn lại đại bộ phận của huyện Bình Dương trước đó đều nằm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay .
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ( 1954-1975) phía cách mạng không gọi Bình Dương mà gọi là Thủ Dầu Một .
Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam , thống nhất đất nước (30-4-19750, tên tỉnh Bình Dương ,, cả tên Thủ Dầu Một cũng không còn tồn tại , thay vào đó là tên Sông bé (gồm ba tên cũ sát nhập lại :Thủ dầu Một , Bình Long và Bình Phước .
Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1996 , tại kỳ họp thứ 10 Quốc Hội khóa IX đã quyết định tách tỉnh Sông bé ra làm hai tỉnh : Bình Phước và Bình Dương . Thế là cái tên hai chữ Bình Dương hiền hòa được trở lại với tỉnh nhà từ đấy .
2/-VỊ TRÍ ĐỊA LÝ , DÂN SỐ , THỔ NHƯỠNG KHÍ HẬU BÌNH DƯƠNG 
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền đông Nam bộ ,nó nối giữa dãy Trường Sơn nam với các tỉnh còn lại của Nam Bộ , do vậy địa hình có dạng thoải thấp theo hướng từ Bắc xuống Nam .Hiện nay Bình Dương là một trong các  tỉnh , thành thuộc vùng trọng điểm phát triển kinh tế phía Nam của Việt Nam .
Diện tích Bình Dương là 2.681,01 km vuông và dân số 712.790 người (58-15). Trong đó người Việt gốc Hoa khoảng 17.456 người , họ tập trung tại các thị xã , thị trấn và sinh sống chủ yếu bằng nghề buôn bán và sản xuát tiểu thủ công nghiệp mà phần lớn là sản xuất gốm sứ .tên các làng gốm nổi tiếng xưa nay là Tân Phước Khánh ( huyện Tân Uyên ) , Chánh Nghĩa ( thị xã Thủ Dầu Một )và Lái Thiêu ( huyện thuận An ) đa số dân cư là người gốc Hoa .Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng ,nền địa chất ổn định vững chắc , gần đầu mối giao lưu quốc tế .( như sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất , cảng biển Vũng Tàu …)nên thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu .Trong lòng đất Bình Dương khá giàu về khoáng sản , đa sồ là khoáng sản phi  kim loại trong lớp trầm tích phù sa cổ dễ khai thác , có chất lượng cao và khối lượng nhiều , đặc biệt là đất sét để sản xuất và vật liệu xây dựng , cao lanh để sản xuất gốm sứ . Trữ lượng cao lanh ước tính khoảng 104 triệu tấn (32-40).
Tỉnh Bình Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo :nắng nóng , mưa nhiều , có hai mùa rõ rệt ,đó là mùa khô và mùa mưa .
Do đặc thù về vị trí địa lý , thổ nhưỡng , khí hậu thuận lợi cho nên từ lâu Bình Dương đã là mộttrong hai vùng sản xuất chủ yếu cung cấp sản phẩm gốm sứ phục vụ tiêu dùng cho Nam Bộ và xuất khẩu nước ngoài 
3/ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG ĐỒNG NAI –GIA ĐỊNH , ĐÔNG NAM BỘ :
Bình Dương từ xưa vốn gắn liền với Gia Định- Đồng Nai trong miền Đông nam Bộ , tuy nhiên với những điều kiện  môi trường sinh thái cụ thể nên cũng có đặc điểm riêng từ lịch sử hình thành đến các nhóm nghề sinh sống cũng như các truyền thống văn hóa , cách hành xử trong đời sống của cư dân Bình Dương .
Vùng đất Bình Dương ngày nay đã từng là vùng đất của một bộ phận cư dân thời cổ đại ,là chủ nhân của một trong ba nền văn hóa kim khí nổi tiếng . Văn hóa Đồng Nai – Kim Sơn – Sa Huỳnh từ 4000-2500 năm  qua . sau đó có sự phát triển giao lưu và đã góp phần tạo nên văn hóa Óc Eo . Di tích khảo cổ ở Cù Lao Rùa –Gò Đá – Tân Uyên ,di tích Dốc Chùa – Tân Uyên  đã thể hiện có khu cư trú lâu dài ,qua khu mộ táng còn nhiều di vật đồ đồng ,khuân đúc đồng đã chứng tỏ điều đó (32).
Có thể do một biến cố địa chất nào đó mà những cư dân bản địa , chủ nhân nền văn hóa Óc Eo Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói riêng đã bị chôn vùi trong bùn lầy ven biển Nam Bộ . Sau đó với một khoảng thời gian dài , cho đến đầu công nguyên , rải rác trên vùng đất Bình Dương đã có sự cư trú của các dân tộc ít người như Stieng , Mạ , Châu Ro …Có thể đã có vương quốc Mạ từng tồn tại dọc theo hai bên sông Đồng Nai , Các tộc người này do điều kiện sinh sống dần dần họ lùi về vùng đất cao hơn , và mãi đến ngày nay vẫn còn tộc người này đang sinh sống ở một vài xã phía bắc tỉnh Bình Dương - ở tỉnh Bình Phước – vùng Nam Tây Nguyên (59-63).
Cho đến trươc thế kỷ XVII cơ ản vùng Đông Nam Bộ  , Bình Dương vẫn là vùng chưa được khai phá . Trong “Phủ biên tạp lục ‘’của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVII) có miêu tả vùng này như sau :’’từ các cửa biển Cần Giờ , lôi lạp , Cửa Đại  , Cửa Tiểu đi vào toàn là rừng rú hàng ngàn dặm ‘’ .
‘’Đồng Nai xứ sở lạ lùng
Dưới sông sấu lội , trên bờ cọp um’’
Vào cuối thế kỷ thứ XVI đầu thế kỷ XVII trở về sau này vùng đất Bình Dương hiện nay cũng như Mô Xoài , Cù Lao Phố ,Bến Nghé là nơi mà các lớp cư dân (dần dần từ ít đến nhiều ) từ miền Bắc và nhiều nhất là miền trung (vùng Thuận Quảng ) tìm đến .’’họ là những nông dân nghèo khó không chịu đựng nỗi cơ cực lầm than chốn quê nhà ,là những người chạy trốn sự truy đuổi của chính quyền phong kiến , những người trốn lính , trốn thuế  vv…Nhìn chung là vì bức xúc của cuộc sống mà bất chấp nguy hiểm đi tìm nơi nương thân , muốn lập cuộc sống mới (59-63). Con đường đi của họ là men theo bãi biển xuôi xuống phía nam ,rẽ vào các cửa sông ,gặp nơi thuận tiện thì lên bờ định cư . Đặc biệt trong các đợt di dân vào vùng đất mới ,có hai đợt là người Hoa cũng đến đây sinh sống .Đợt đầu có gần 3000 lính , gia đình của các nhóm Trần Thượng Xuyên , Dương Ngạn Địch phản Thanh phục Minh chạy sang Việt Nam được chúa Nguyễn cho vào sống ở vùng Đồng Nai , Mỹ Tho ( Hà Tiên có nhóm Mạc Thiên Tứ , Mạc Cửu ). Đợt sau vào những năm 30-40 đầu thế kỷ XX do chiến tranh loạn lạc , đói khổ , nhóm cư dân duyên hải Lưỡng Quảng chạy sang Việt Nam và có một số đến Bình Dương để định cư , mưu cuộc sinh tồn .
Tựu trung lại , dân cư Bình Dương ,chủ thể tạo nên lịch sử Bình Dương,từ thưở khai phá cho đến nay ở vùng đất này do nhiều nguồn,nhiều đợt từ nhiều vùng địa lý khác nhau đến nhưng có nhiều mẫu số chung tạo nên sắc thái riêng của người Bình Dương là tính đa dạng , sự hòa hợp được tính đa dạng ấy ,vừa khoáng đạt vừa quật khởi , năng động và nhạy cảm , thủy chung , giàu tình nghĩa . Huỳnh văn Nghệ ( vừa là danh tướng vừa là nhà  thơ giữa thế kỷ XX) đã khắc họa :
‘’Từ thưở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long’’
Trong cái đa dạng ấy ,do địa thế thuận lợi , khí hậu thiên nhiên ưu đãi , trong lòng đất giàu mỏ đất sét , cao lanh ,nên các làng nghề gốm sứ đã bén rễ , đâm chồi phát triển tạo thêm nét đặc sắc cho Bình Dương qua các thời kỳ .










.
    .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét