Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Muôn vẻ giấy dó phường Bưởi


.
.
(VOV) - Giấy viết được sản xuất ở nước ta khoảng thế kỉ thứ III. Giấy được sản xuất từ một loại vỏ cây có hương thơm gọi là giấy Cốc Chỉ.  

Người phát minh ra giấy viết đầu tiên trên thế giới (năm 105 sau CN) là người Trung Quốc tên là Thái Luân, sống ở thời Đông Hán.
Giấy viết được sản xuất ở nước ta khoảng thế kỉ thứ III. Giấy được sản xuất từ một loại vỏ cây có hương thơm gọi là giấy Cốc Chỉ. Đặc điểm của giấy này dai, mỏng, thấm nước chậm, có hương thơm khiến cho người Trung Quốc phải ngạc nhiên khâm phục. Sách cổ ghi lại, năm Thái Khang thứ VI (281), một lái buôn người Đông La Mã lúc đó đã mua ở Giao Chỉ 8 vạn tờ để đem dâng vua Tấn.
Đến thế kỉ thứ XI dưới triều Lý, giấy dó của nước ta lại được nâng cao lên một bước về kĩ thuật. Giấy tốt và nổi tiếng không kém gì giấy của người Trung Hoa. Sứ giả nhà Lý thời đó đã dùng giấy này làm cống phẩm dâng lên vua Tống.
Người dân vùng Bưởi trên đất Thăng Long sáng tạo ra nhiều loại giấy với các chức năng khác nhau, đặc tính, đặc trưng khác nhau, loại nào cũng đáng quý.
Các loại giấy dó phường Bưởi
Các loại tốt quí nhất là giấy dó lụa, giấy quỳ, giấy lệnh và giấy sắc.
Giấy dó lụa còn gọi là giấy bản. Loại giấy này mỏng mượt như lụa, chuyên dùng cho các thầy khóa, các nho sinh học hành thi cử, chép thơ, chép kinh và cho các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian vẽ tranh, cho chữ, viết thư pháp vừa đẹp- bền vừa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc đậm đà.



Sản phẩm này chủ yếu do bàn tay khéo léo, mềm mại của những cô gái thợ xeo đất Hồ Khẩu – một làng làm giấy thịnh vượng nhất trong vùng làm ra. 
Giấy quỳ: Loại giấy này sản xuất từ vỏ cây cảnh chuyên dùng cho người làng Kiêu Kị, huyện Đông Anh, Hà Nội, gia công thêm một số công đoạn rồi dát vàng bạc vào đó, bán cho các nghệ nhân chuyên nghề chạm khắc câu đối, hoành phi, phù điêu, tượng phật và các đồ thờ tự, làm cho nó thành những sản phẩm văn hóa có giá trị cao quý, thiêng liêng toát ra từ màu sắc lộng lẫy, lung linh ánh vàng ánh bạc. Loại giấy này chỉ có dòng họ Nguyễn Thế ở thôn An Đông, phường Yên Thái xưa sản xuất.  
Giấy lệnh. Như tên gọi của giấy, giấy lệnh chỉ sử dụng trong công việc hành chính của triều đình. Loại giấy này cũng làm từ nguyên liệu giấy dó nhưng dày hơn, làm kĩ hơn. Sản phẩm này do những người thợ làm giấy phường Yên Thái sản xuất.  
Giấy sắc: Loại giấy tốt và quý nhất trong các loại giấy dó. Sản phẩm này là sản phẩm đặc biệt nhà vua chuyên dùng để phong tước, phong công cho những triều thần có công với nước và các bậc thần linh có công được tôn thánh. Đặc điểm của loại giấy này là giấy khổ to, dày, dai, không xé được thành mảnh, không thấm nước, không bị mối mọt, có thể lưu giữ được vài trăm năm.  
Giấy sắc được sản xuất cầu kì qua một số công đoạn khác như nghè giấy (dùng chầy gỗ giã nện khẽ, nhẹ, đều tay lên mặt tờ giấy dải trên một nền đá phẳng làm cho mặt giấy đanh), sau đó vẽ trang trí hoa văn hình rồng phượng chìm có dát vàng mười lên trên rồi phết lên đó một lớp hoàng liên tạo nên màu vàng, sau đó phủ lên một lớp keo làm cho giấy đanh thêm, cũng có tác dụng chống ẩm và chống mối mọt.  
Giấy sắc có nhiều cỡ to nhỏ khác nhau. Rộng nhất là khổ giấy 2m x 0,75m, nhỏ nhất là 1m3 x 0,52m. Rồng phượng được vẽ tùy theo thứ cấp phong công, phong thần mà vẽ hai, ba hoặc bốn rồng. Loại sản phẩm này là một vinh quang chúa Trịnh dành riêng cho dòng họ Lại ở Nghĩa Đô độc quyền sản xuất với số lượng nhất định. 
Giấy dó muôn vẻ và vinh quang trong lịch sử là vậy nhưng trước làn sóng đô thị hóa, ngành nghề này đã bị xóa xổ ở Thăng Long nhưng chưa phải nó đã hết sứ mệnh lịch sử. Có thể số lượng sử dụng giấy này không nhiều, nhưng không thể thiếu được trong hội họa dân gian và trong lưu trữ các tài liệu quý hiếm lâu dài. 
Vũ Văn Luân

Nghề giấy vùng Bưởi: Ông tổ không có miếu thờ, văn bia
.
Ngày trước, đi qua vùng này, lúc nào người ta cũng được nghe những âm thanh rộn rã  của tiếng chày giã dó làm giấy... "Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ". Nghề giấy vùng Bưởi, Hà Nội đã đi vào ca dao. 
Đất ba thôn và tổ nghề 
Cách đây 2.000 năm, Trung Quốc đã có một phát minh vĩ đại là phát minh ra giấy. Và không lâu sau đó, nghề giấy đã có mặt ở Việt Nam. Một số tài liệu cho biết, vào khoảng thế kỷ thứ III, nghề  giấy đã được truyền vào Giao Chỉ Quận. Người Giao Chỉ đã làm ra một loại giấy gọi là giấy trầm hương, màu trắng, bền, có mùi thơm. Vị tổ sư nghề giấy người Tàu thời Đông Hán là cụ Thái Luân.
x
Ép uốn, một công đoạn làm giấy.

Cụ tổ nghề giấy này của Trung Quốc cũng được các làng làm giấy vùng Bưởi thờ cúng cho đến tận bây giờ nhưng chỉ là bái vọng, không có đền miếu thờ, không có văn bia câu đối. Các làng thờ vọng cụ tổ nghề ở đình làng hoặc Văn Chỉ của làng mình (Văn Chỉ là nơi thờ đức Khổng Tử).

Nghề giấy đã sớm có mặt ở nước ta từ thế kỷ thứ III như vậy, nhưng nghề giấy ở vùng Bưởi chính xác có từ bao giờ thì không ai biết. Dân vùng này truyền lại tích vị Đức Thánh Tổ, là một người con cháu xa đời của cụ Thái Luân đi dọc theo dòng sông Tô Lịch từ Quảng Ninh ra Thăng Long, về tới làng Cót, Cầu Giấy ngày nay, thì truyền cho dân làng này nghề làm giấy.
Sau cụ đi tiếp về tới Nghĩa Đô, rồi rời lên làng Cả (Yên Thái), tiếp đến làng An Thọ, Đông Xã, Hồ Khẩu, tới đâu, cụ truyền dạy nghề giấy tới đó vì thấy vùng này nhiều ao hồ, người dân cần cù chịu khó, thích hợp với nghề làm giấy.

Theo ông Nguyễn Thế Đoán, thành viên Hội Di sản Thăng Long, người làng Đông Xã, hiện trông nom coi sóc đình Đông, vị Đức Thánh Tổ này đã đồng ý cho dân làng Đông thờ cúng cụ tại đình làng. Tên cụ không được phép đọc qua cửa miệng, chỉ những người trong ban lễ tiết mới biết và được đọc khấn tên cụ. Còn người dân thường thì không được phép.

Yên Thái, An Thọ, Đông Xã  gọi nôm là đất ba thôn, sau có thêm Hồ Khẩu, chuyên nghề làm giấy (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội).

Đặc ân của chúa Trịnh

Theo chỉ dẫn của nhà giáo Vũ Văn Luân, làng Hồ Khẩu, là người dày công tìm tòi, nghiên cứu lịch sử nghề giấy phường Bưởi, chúng tôi được biết trước đây vùng Bưởi bao gồm Nghĩa Đô, Yên Thái (Yên Thái lại bao gồm ba thôn là Yên Thái hay còn gọi là làng Cả, An Thọ, Đông Xã), Hồ Khẩu, Trích Sài thuộc Tổng Chung, huyện Hoài Đức, phủ Phụng Thiên Thăng Long. Vào thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8 thì thuộc huyện Hoàn Long, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Vì thế mà làng này được gọi là làng Nghè, một phần vì công đoạn nghè giấy một phần vì làng này nổi tiếng có nhiều người đỗ khoa bảng. Làng này có dòng họ Lại, là dòng họ có người làm rể chúa Trịnh nên được đặc ân sản xuất riêng loại giấy này, cung cấp cho vua Lê - chúa Trịnh. Đây là loại giấy được phủ vàng, sau đó vẽ rồng phượng, tùy theo các tước phong khác nhau mà vẽ hai hay bốn rồng. Cũng theo ông Luân, làng Nghĩa  Đô được truyền dạy nghề làm giấy sắc lệnh, phong sắc, phong thần. Đây là loại giấy khổ to, một số công đoạn cần làm kỹ. Ví như để từng tờ giấy lên tảng đá phẳng, dận đều lên gọi là nghè giấy.
Vietbao (Theo: Bee)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét