Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

Thuốc hay từ rết


Con rết được Đông y sử dụng làm thuốc với tên gọi là Ngô công từ rất lâu đời, đã được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh. Rết còn gọi với nhiều tên khác nhau như Thiên long, Bạch túc trùng, Bạch cước, có tên khoa học là Scolopendra Subspinipes mutilans L.Koch; tiếng Anh gọi rết là Centipede.
Là loài sống hoang trên mái nhà mục nát, dưới gầm tảng đá, hay các khúc gỗ mục… Tại Trung Quốc hay Triều Tiên người ta nuôi rết để làm thuốc và xuất khẩu. Những con to béo chân đỏ nâu là loại tốt. Dược liệu từ rết được sử dụng cả con đem phơi hay sấy khô để làm thuốc trị bệnh.
Đông y cho rằng vị thuốc từ rết có vị cay, tính ấm, có độc và đi vào kinh Can. Theo các y thư cổ như sách Bản kinh nói vị cay, tính ôn. Danh Y biệt lục nói có độc. Ngọc thư dược giải nói vị cay hơi ôn. Bản thảo cương mục nói nhập quyết âm kinh. Y lâm soạn yếu thâm nguyên nói nhập can, tâm.
Người ta cũng đã phân tích thành phần của con rết thấy chủ yếu là toàn thân nó có hai nọc độc như nọc độc của ong giống chất histamine và chất protide tán huyết. Ngoài ra còn delta-hydroxylysine taurin, acide amine, dầu mỡ và cholesterol.
Cũng theo Đông y tác dụng dược lý của ngô công là tức phong chỉ kinh (chống co giật), giải độc, tán kết, thông lạc, chỉ thống (cầm đau). Chủ trị các chứng kinh phong cấp hay mạn, phong đòn gánh, trúng phong, động kinh, sang độc, loa lịch ác sang, rắn độc cắn, đau đầu khó khỏi, phong thấp tý thống… Trong y thư cổ như sách Bản kinh nói chủ trị các chứng độc do rắn cắn, trùng, cá. Danh y biệt lục nói Trị tâm phúc hàn nhiệt kết tụ, trụy thai, khử ác huyết. Bản thảo cương mục nói Trị trẻ em co giật, tề phong, cấm khẩu, đơn độc, loa lịch, trĩ lậu, rắn cắn.
Y học hiện đại cũng đã nghiên cứu dược lý của rết thấy có tác dụng chống co giật, thể hiện trên thực nghiệm ở chuột dùng ngô công và toàn yết (bọ cạp) hai thứ lượng như nhau có tác dụng chống co giật do strychnine. Song lại có khả năng ức chế ở mức độ khác nhau đối với trực khuẩn lao và nấm ngoài da. Đặc biệt thuốc có khả năng kháng hoạt tính ung thư. Có tác dụng tiêu sưng, tiêu độc.
Để tham khảo và tùy điều kiện thích hợp có thể áp dụng các phương thuốc giới thiệu sau đây.
* Trị trẻ quấy khóc, chân tay co giật: Dùng ngô công, toàn yết và chu sa ba thứ lượng bằng nhau tán bột mịn trộn đều. Mỗi lần uống 0,5 – 1,5g chiêu với nước ấm.
* Trị uốn ván: Dùng phương Ngô công tán, gồm ngô công, chế nam tinh, phòng phong, bong bóng cá, các vị có lượng bằng nhau tán bột mịn, trộn đều, mỗi lần uống 2 – 4 g chiêu với rượu.
Hoặc dùng khương hoạt 10g, xuyên khung 10g, đại hoàng 10g, bán hạ 10g, phòng phong 10g, chế xuyên ô 10g, cương tằm 10g, chế nam tinh 10g, bạch chỉ 10g, ngô công 3 con, xác ve 10g, bạch phụ tử 12g, toàn yết (con bọ cạp) 10g, thiên ma 10g, cam thảo 10g. Cho nước vào sắc mỗi thang làm ba lần lấy mỗi lần 1 bát (3 lần ba bát ứng với 600ml). Ngoài ra lấy hổ phách 3g, chu sa 3g, tán bột mịn chia 3 phần. Uống 3 lần trong ngày. Mỗi lần uống 200ml nước thuốc sắc cùng một phần thuốc bột này. Cách 6 – 8 giờ lại uống 1 lần.
* Trị liệt thần kinh mặt: Ngô công 1 – 2 con (ứng với 1 – 2g rết khô), cam thảo 3g, tán bột mịn, trộn đều uống với nước sôi để nguội.
* Trị liệt thần kinh mặt, đau nhức tê thấp, trẻ em cấm khẩu không bú được: Lấy rết (bỏ đầu, chân), tán bột mịn, trộn với lượng bột cam thảo bằng với bột rết hồ làm viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 0,5g chiêu với nước lọc.
* Trị mụn nhọt: Dùng rượu rết (lấy con rết ngâm vào cồn 90 độ để ít nhất 1 tuần hãy dùng). Dùng bông thấm vào rượu rết, bôi vào nơi mụn nhọt, ngày 2 – 3 lần.
* Trị rắn cắn, mụn, chốc lở đầu ở trẻ em: Dùng dầu rết: Lấy rết sống (tám phần) và hai phần muối cho vào dầu vừng (mè) ngâm trong 2 tuần là sử dụng. Lấy dầu này bôi vào vết rắn cắn băng lại, bôi nơi mụn nhọt, chốc lở đầu.
* Trị lao khớp: Dùng phương kết hạch tán gồm ngô công 6g, toàn yết 9g, thổ miết (yếm ba ba) 9g, tất cả tán bột mịn, mỗi lần lấy 3g chưng với trứng gà để uống.
* Trị ung thư gan sưng đau: Lấy ngô công tán bột mịn, mỗi lần lấy 1,5 – 3g chưng với trứng gà mà uống. Ngày uống 1 – 2 lần.
* Trị ung thư dạ dày, thực quản: Lấy ngô công 20 con, hồng hoa 6g, rượu trắng 60 độ(500ml) cho tất cả vào ngâm sau 26 ngày mới sử dụng. Mỗi lần uống cứ 6 phần rượu thuốc hòa vào 4 phần nước sôi nguội mà uống. Ngày 1 – 2 lần.
Lưu ý: Liều uống trung bình mỗi lần cho dạng thuốc bột là 0,6 – 1g, mỗi ngày uống 1 – 3g. Thuốc ngô công tuy có tác dụng chống co giật và giảm đau mạnh, nhưng độc mạnh, do vậy dùng trong thường dùng toàn yết thay, mà ngô công chỉ sử dụng trị bên ngoài.
Thuốc gây tán huyết, choáng dị ứng, với lượng nhỏ gây hưng phấn cơ tim, lượng lớn gây liệt cơ tim, ức chế trung khu hô hấp.
Triệu chứng nhiễm độc biểu hiện nôn, buồn nôn, đau bụng tiêu chảy, mỏi toàn thân, mạch chậm, hồi hộp khó thở, thân nhiệt hạ, huyết áp tụt, hôn mê…
Nếu xảy ra nhiễm độc cần sử dụng phương pháp giải độc:
- Lấy phượng vĩ thảo 100g, kim ngân hoa 100g, cam thảo 20g, sắc uống ngày 2 thang, mỗi thang chia 2 lần, cách nhau 4 giờ 1 lần uống.
- Nếu mạch chậm khó thở: Dùng nhân sâm 10g, phụ tử 10g, ngũ vị tử 10g, cam thảo 10g. Sắc uống mỗi thang chia 2 lần cách nhau 4 giờ uống 1 lần, cần uống 2 thang trong ngày.
- Nếu có hiện tượng dị ứng cần sử dụng thuốc kháng histamine, thuốc an thần, nặng dùng Hydrocortisone…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét