Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

TỐ NỮ KINH TOÀN TẬP


Bản dịch của cố nhà nghiên cứu Lê Văn Sửu


LỜI NHÀ BIÊN SOẠN

Từ hai nghìn năm trước đây, học giả Nữ tính đầu tiên của Trung Quốc là “Tố Nữ” sáng lập việc nghiên cứu sinh hoạt tính và biên soạn “Tố Nữ kinh” vấn thế, trong đó có tính mở mang trí thức, suy ngẫm tinh tế. Trải qua các thời đại, trong hoàng thất (các cung điện nhà vua) và học giả không thể không coi là của quý báu.

Gần đây, bác sĩ Kim Trại (Jĩn - Sài) ở nước Mỹ phát biểu về hành vi giới tính của nam nữ, đã có tiếng vang trên toàn cầu, thời đó đều là để xướng giáo dục giới tính, khởi phát trí thức về giới tính nam nữ, cho nên đặc biệt là đem sách này hiến cấp cho nhân sĩ trong xã hội, đã nhanh chóng thu được kết quả, may mà không bị xếp vào thư mục dâm tiết!

Sau khi xem qua thấy được ích lợi của nó, xin giới thiệu cùng bè bạn.

Sách còn không nhiều, muốn mua được phải nhanh chóng.
Mỗi quyển định giá hai đồng, các nơi đều có đại lý bán.


Nhật Bản tính Y học viện nghiên cứu xã khải


LỜI NÓI ĐẦU

Giao tiếp âm dương trong tự do tự tại, riêng loài người được nhiều một cách khác thường, bất kỳ lúc nào cũng có thể giao hợp, không như cầm thú việc động dục chỉ có từng thời kỳ. Hình thái giao hợp của con người cũng rất lắm cách như giao hai mặt vào nhau, giao bên cạnh, đứng giao, cúi xuống giao, ngồi giao, ngồi xổm giao, giao phía lưng, giao phía sau..., không như cầm thú chỉ biết giao phía sau lưng và phía sau mà thôi. Sự giao tiếp của loài người như thế đã tiện lại làm cho khoái cảm đạt được đến cực độ tốt đẹp, đó mà chỗ mà vạn vật không đạt tới được, vì vậy sinh dục mới làm cho người con gái đẹp đẽ ra, mới giữ gìn được cái tinh nhanh (linh) của con người trong vạn vật, quý hóa thay. Thật là sung sướng! Giao tiếp âm dương của loài người là một cái Đạo, thật là đáng quý đối với đàn ông, cái may mắn riêng trong vườn vui thú, làm sao lại có thể không biết cái đạo đó ngồi để mất cơ hội tốt, có phụ cái trời cho đó không? Huống hồ người ta sống không quá trăm năm, riêng nói về sáng tối nghỉ ngủ đã hao đi mất một phần ba trong đó, khi nhận giao tiếp với người càng thuộc loại ngắn tạm, thành thật là nên lợi dụng thêm đạo đó để cầu lấy sự khỏe mạnh vui vẻ, đầy đủ ý nghĩa của sự sống con người, tăng thêm nhiệt tình nam nữ, tăng tiến đến giống nòi khỏe mạnh, quốc gia hùng mạnh, mong rằng sự giao tiếp của loài người càng sáng trí tính dục càng tốt, càng ngu độn tính dục càng nhạt nhẽo. Người sáng trí thì trong hàng nghìn, hàng vạn không quá số mấy người. Số người sáng trí đó là nam nữ, có thể hội âm dương, cái đạo giao tiếp, lại ít như căn phòng buổi sớm (hựu liêu nhược thần ốc). So đọ với vạn người ngu độn, không biết cái đạo đó, ăn mà không biết mùi vị món mình ăn, làm thô bạo con đường trời cho, làm hư một mức cõi đời, có khi còn lạm làm giao tiếp, làm tàn hại thân thể, mắc bệnh chết non, một cuộc sống khổ não, làm tính hy sinh, càng không bàn! Ta đây không như họ, từ mấy nghìn năm nay ở nước ta có dính líu với hiểu biết về giao tiếp nam nữ, là thú tính tự tư và đạo đức giả đã ngăn cản, nhà trường cấm không giảng, cha mẹ kiêng tránh mà không nói, tránh không như sâu, chỉ có mài rách cái đen tối biết được sự tồn tại của tính giao, mà không lý giải quy luật cơ bản của tính giao, trước hết không biết hưởng thụ hợp lý tính giao. Cho nên nói rằng biết là khó khăn, phải nên trước hết cầu sự biết, biết rồi sau đó mới làm, vốn là có thể biết tất có thể làm, biết và làm hợp với nhau thành một, dùng được cái đạo đó, tự con người vào được thiên đường đẹp lạ lùng vậy.

Đồng liêu của tôi là Trùng Quang Thứ Lang, tuổi đã cổ lai hy, tóc đen mặt như trẻ nhỏ, nhìn chỉ thấy như như mới ngoài bốn chục tuổi. Các thế hệ trước làm đến tướng trong cung, con cháu hiển quý, là quý tộc của Nhật Bản, thê thiếp đầy nhà, nuôi gần nghìn người hầu. Thứ Lang khi còn trai trẻ, thích đi chơi với người hầu, thoạt đầu không biết đạo giao tiếp, tự làm cho thể chất phiền chán, trăm bệnh phát sinh chồng chéo lên nhau. Từ khi có được trên giá đựng sách cuốn “Ngọc phòng bí quyết Tố Nữ kinh”, xem xét kỹ lý luận, nhiều lần thực tiễn, làm đúng theo đạo đó. Ngoài thì tìm hoa bẻ liễu, duyệt qua hàng trăm con gái, trong thì tiếp nàng hầu phần lớn là chọn vào còn tân. Ngày đêm chưa thỏa, thường có một đêm qua mười người con gái trở lên. Mỗi lần giao tiếp với một nữ, lại tất là rất sướng mới dừng, bốn mươi năm như thế không ngừng, con trai con gái khôn lớn, thể lực thêm khỏe, vững mạnh như thời trai tráng, nay vẫn còn có thể một ngày ngự mấy người con gái, già nhưng không suy, làm cho con người khỏe đẹp. Người con gái được giao đó, cũng không thể không nghiêng lòng yêu say đắm, cái có ích trùm lên vốn là ở sự dạy dỗ của đám sách vở đó.

Đám sách này từ đời Tùy Đường trở về trước, hàng nghìn năm đó là yếu chỉ lâm sàng, nhưng trong cung giữ kín gốc, nhà vua dùng để ngự ba nghìn cung nữ. Ở Nhật Bản trong những năm Khoan Bình, lưu truyền sang Nhật Bản, nhưng thường giữ kín không cho mọi người thấy, khó mà nhìn trộm thấy tất cả, họ coi là quốc túy đáng truyền, một tấc cũng không rời mà chỉ truyền lưu trong tầng lớp phong kiến thừa kế. Từ sau khi bác sĩ Kim Trại ở nước Mỹ phát biểu về hành vi tính nam nữ, bắt đầu Nhật Hoàng đồng ý cho thụ mệnh nhiếp Tố Nữ kinh, Tố Nữ phương, Ngọc Phòng bí quyết, Ngọc Phòng chỉ yếu, Động Huyền Tử, và Thiên Địa Âm Dương giao hoan đại lạc phú, cung cấp cho mọi trai gái trong dân nước, nhằm thu về được sự biết và làm đúng theo một năng lực hoạt động tốt, làm giao tiếp thích đáng, cùng đưa thêm tuổi thọ và vững mạnh vào thế giới cực lạc, làm cho tươi tốt tài trí khỏe đẹp người con gái đời sau. Chúng ta đây xin bái nhận sự ban ân của Hoàng Thượng.

Nhật Bản Tính Y Học viện Kính ngôn


TRUNG QUỐC TỐ NỮ KINH TỰ
(Lời tựa Tố Nữ kinh của Trung Quốc)

Sách đời Tùy trong Kinh tịch chí (thư mục), bộ Tý, loại Y gia, có ghi Tố Nữ bí đạo kinh một quyển, lời ghi chú rằng đây không phải là Huyền Nữ Kinh. Lại thấy trong Tân Cựu Đường chí có ghi Tố Nữ một quyển. Tất cả đều không có chép theo vào đó. Duy chỉ có những năm Khoan Bình ở Nhật Bản trong thư mục có ghi Tố Nữ Kinh một quyển, mà không có Huyền Nữ Kinh, Tố Nữ phương, nghi rằng cả hai thứ đó chỉ là một quyển, không chia vụn ra. Niên hiệu Khoan Bình ở Nhật Bản rõ ràng là vào thời Tống của Trung Quốc. Thời đó nước ấy coi như sách quý, có dính líu tới Đạo. Cho nên sau thời loạn Ngũ Đại, nước ấy lấy mất sách, đều có chuyện nói về việc ấy. Kinh đó tuy chưa thấy có bản san (ván khắc), nhưng mà lại thấy ở nước đó vào năm thứ hai Vĩnh Quan có Đan Ba Khang Lại dâng bộ sách Y Tâm Phương gồm hai mươi tám quyển, xuyên suốt từ đầu đến cuối giống như một cặp sách. Năm Vĩnh Quan thứ hai là vào Tống Thái Tông Hy nguyên niên, cách đời Đường chưa xa, ở đó sử dụng Ngọc Phòng Bí Quyết, Ngọc Phòng Chỉ Yếu, Động Huyền Tử, các kinh đó đều nói về công việc trong buồng, lại có các thiên dưỡng Âm Dương, đại để như hai chí của Hán, Tùy, so với sách xưa thì mười phần cũng được tám, chín. Ngày nay các học giả về môn vệ sinh ở các nước Âu Tây, ngoài việc nghiên cứu tỉ mỉ về ăn uống, nam nữ, còn soạn dịch ra những sách mới về vệ sinh hôn nhân, giao hợp bộ máy sinh dục nam nữ, những người không biết thì lấy làm lạ và cho là quý báu. Họ rất là không biết rằng con cháu của thánh đế thần quân ở Trung Quốc đã được tìm học và nghe giảng về vấn đề đó từ bốn nghìn năm trước đây. Trong Vỹ Thư có chép, Khổng Tử Khuê phòng ký một cuốn sách, tuy không thấy truyền ở đời, nhưng cũng biết về cái học đó của cổ nhân. Lại như trong bộ Xuân Thu Phồn lộ đại tái lễ đã nói rằng: “Cổ nhân thai giáo chi pháp, không phải không khởi đầu từ tính tình, rộng mối nối tiếp, để đến cuối cùng là công năng của ngôi sinh đẻ” (Cổ nhân thai giáo chi pháp, vô phi đoan tính tình, quảng tự tục, dĩ tận vị dục chi công năng). Tính học mà tinh, mở đầu cho đời sau Lý học đi vòng qua Nho để mà liếc nhìn thấy cái yếu diệu đó. Như là một kinh Tố Nữ, từ đó mà suy ra nó như cái xe lớn chở đạo đó. Trong kinh lẫn lộn những câu hỏi và trả lời của Huyền Nữ, Thái Nữ, ta thấy rằng Tố Nữ, Huyền Nữ vốn hợp làm một kinh, phù hợp với thuyết Tùy Thư gộp quyển. Văn ở đó phần đầu nhiều đoạn mào như Ngọc phòng bí quyết, Ngọc phòng chỉ yếu, Thái thanh kinh, Sản kinh, tất là từ mọi sách được dẫn ra. Quyển sách đó là tổ đầu tiên về thuật trong buồng, các nhà viết sách đều viện dẫn, làm cho người người đều được thấy, cho nên cũng không còn là của riêng để truyền trong dòng họ nữa. Tố Nữ phương chép trong quyển thứ mười bảy bộ Ngoại Đài Bí yếu đời Đường, xưng tên rõ ràng là Tố Nữ kinh tứ quý phương. Tôn tinh diễn lục, khắc vào Bình Tân quán tùng thư, độc giả nhờ bởi bộ sách xưa đời Tùy, Đường để tìm đoạn văn của cổ nhân chế thuốc cấm tình (chế dược cấm tình), cái đạo cần thiết cho nòi giống lâu dài, làm cho hoa chờ đợi ở tộc loại, giàu đẹp ở thần châu, hòa bình sống lâu khảo ở hưu chủy (nghỉ trưng) đủ thừa ở hợp với thời gian vô tận, đời có người đạt tới đọc thuộc mà học được điều bí mật (diên niên chủng tử chi yếu đạo, tỳ hoa tư chi tộc loại, phồn diễn ư thần châu, hòa bình thọ khảo chi hưu trưng, xung dật ư trụ hợp, thế hữu đạt nhân thục tụng nhi tiềm học yên). Đó là cái nghĩa đầu cuối của âm dương, nghĩ rằng được quá nửa. Lấy làm lời tựa.

Phụ ở trong có: Tố Nữ kinh, Tố Nữ phương, Ngọc Phòng bí quyết, Ngọc Phòng chỉ yếu, Động Huyền tử - Phòng trung thuật, Thiên địa âm dương đại hân đại lạc phú.



YẾU CHỈ - YẾU MỤC

1. Tố Nữ Kinh chi yếu chỉ

Biết đạo giao tiếp âm dương, tất thành vui khỏe, cái đạo đó thêm sống lâu dài không chết, không thể để cho lâu dài mà không có giao tiếp, giao tiếp mà quản thúc tinh, cái đạo giao tiếp đó, nam có tám tiết, nữ có cửu cung, muốn giao tiếp mà dương vật (ngọc kinh) không cương lên, có thể tránh bảy thứ tổn, hành cái đạo tám thứ ích, mỗi lần tiếp là cương lên, cái dáng vẻ của cách giao tiếp âm dương và cái đạo hành chín chín, dương vật có đạo ngũ thường là nhân nghĩa lễ trí tín, biết khi con gái khoái cảm, có năm cái trưng, năm cái muốn và mười cái động. Dương vật có bốn cái phải đến mức (tứ trí), bốn cái mức phải tới mà đến là sức sống dấy lên mạnh mẽ của dương vật (ngọc kinh nỗ), to, rắn, cứng, nóng, biết như thế nào là chín cái khí của con gái.

Dáng vẻ đẹp của chín cách giao tiếp có chín loại:

1 - Long phiên    (con rồng quay ngược lại)
2 - Hổ bộ    (con hổ bước đi)
3 - Viên bác    (con vượn chạy)
4 - Thiền phụ    (con ve bám)
5 - Quy đằng    (con rùa bay lên)
6 - Phượng tường    (con phượng liệng)
7 - Thỏ duẩn    (con thỏ bú)
8 - Ngư tiếp lân    (con cá tiếp vẩy)
9 - Hạc giao cảnh    (con hạc giao cổ)

Dáng vẻ đẹp của giao tiếp tám cái ích có tám loại:

1 - Cố tinh    (giữ tinh không cho chảy tùy tiện).
2 - An khí    (giữ hơi thở cho đều đặn).
3 - Lợi tạng    (làm cho tạng khí hoạt động dễ dàng).
4 - Cường cốt    (làm cho cứng xương).
5 - Điều mạch    (làm cho mạch được điều hòa).
6 - Súc huyết    (nuôi dưỡng được máu tốt).
7 - ích dịch    (thêm chất dịch trong người).
8 - Đạo lễ    (có đạo lễ).

Dáng vẻ đẹp của giao tiếp trị bảy thứ tổn có bảy loại:

1 - Tổn gọi là tuyệt khí       (mất khí lực).
2 - Tổn gọi là dật tinh       (tràn tinh dịch).
3 - Tổn gọi là tập mạch       (mạch bị bó bọc lại).
4 - Tổn gọi là khí tiết       (khí chảy ra).
5 - Tổn gọi là cơ quan khuyết thương    (các bộ máy bị hư hỏng).
6 - Tổn gọi là bách bí       (trăm thứ bế tắc lại).
7 - Tổn gọi là huyết kiệt       (khô cạn máu).

Khi giao tiếp không kể xiết cái hiệu quả, cái động trên giao tiếp không kể xiết cái vui, thân thể mạnh yếu, trạng thái tuổi già với kỳ hạn số ngày giao tiếp và số lần giao tiếp, con trai biểu hiện chứng thịnh suy. Nam có năm thứ suy, cách trị năm thứ suy, giao tiếp âm dương cần tránh chín cái vạ (cửu ương), cách giao tiếp để cầu con, đáng tránh kỵ khi giao tiếp, trị bệnh giao với quỷ, ăn uống uống các thứ thuốc có hiệu cho giao tiếp, bài thuốc chữa con gái âm dương khí thịnh. Cái lẽ trong văn có nói rõ tinh tế.


2. Tố Nữ Phương chi yếu mục

Bảy điều kỵ khi giao tiếp:

1 - Ngày cuối tháng trăng (nhật nguyệt hối minh).
2 - Khi có sấm sét gió mưa.
3 - Vừa mới ăn uống no.
4 - Vừa mới đi tiểu tiện tinh khí nhỏ yếu.
5 - Làm việc và đi bộ thân thể mệt mỏi.
6 - Vừa mới tắm gội xong.
7 - Nói chuyện với con gái.

Con trai thất thương (bảy thứ bị hại):

1 - Hạ bộ có mồ hôi (âm hãn).
2 - Âm suy (hạ bộ teo nhỏ).
3 - Tinh trong (trong không có màu đặc).
4 - Tinh ít.
5 - Dưới bìu có mụn ghẻ ẩm ngứa.
6 - Đi đái nhiều lần mà ít nước.
7 - Dương vật mềm rụt lại.

Trị thất thương ở bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng bốn loại phương bổ ích:

- Ba tháng xuân dùng Cánh sinh hoàn
- Ba tháng hạ dùng Bổ thận Phục linh hoàn.
- Ba tháng thu dùng Bổ thận Phục linh hoàn (phương này và phương dùng trong mùa hạ không giống nhau).
- Ba tháng đông dùng Thừa mệnh Phục linh hoàn.

Không tránh lạnh, nóng, cả bốn mùa thông thường uống Phục linh tán, Tô phương, Phục linh cao phương (phụ - Thiên Hùng hoàn Tương Tư tỏa Thái Bình công chúa Vạn Thanh Kiều v.v... Phương pháp của các phương này có nói rõ ở trong phần văn cuối sách).


3. Ngọc Phòng Bí Quyết chi yếu mục

Tố Nữ nói rằng: Đàn ông muốn lấy âm bổ dương, phải ngự (giao hợp) với con gái còn nhỏ (đồng nữ), không thể riêng chỉ giao với một nữ, nhiều nhiều con gái khác nhau, một nam thay đổi từ trên mười nữ là tốt nhất. Vương Mẫu dưỡng âm mà đắc đạo, lấy dương dưỡng âm, trăm bệnh được tiêu trừ, không già mà cứ mãi như trẻ nhỏ, có thể nhịn ăn chất bột mà sống lâu dài (khả dĩ tuyệt cốc trường sinh).

(Trong sách này có phụ thêm cách chữa cực tình sính dục tổn thương bằng giao tiếp, chữa bệnh bằng cách giao tiếp, chữa chứng đau lưng bằng cách giao tiếp, chữa chứng đau đầu bằng cách giao tiếp, chữa sau khi ăn no bằng cách giao tiếp, chữa chứng say rượu bằng cách giao tiếp, chữa chứng đái buốt (lậu) bằng cách giao tiếp, trị bệnh trĩ bằng cách giao tiếp, trị chứng giao tiếp mà gặp phải phong tà nhập vào thân thể bằng cách giao tiếp, làm cho người ta sáng mắt bằng cách giao tiếp, làm cho tai người ta không điếc bằng cách giao tiếp, điều ngũ tạng bằng cách giao tiếp, cách giao tiếp làm cho hoàn tinh trở lại thành chất dịch mà không cho chảy ra.

Làm chín nông một sâu, vào mềm ra cứng, để lấy khí của con gái, làm cho dương vật cứng như sắt, nóng như lửa, cách giao tiếp đó trăm trận đánh không gặp nguy hiểm.

Giao tiếp âm dương có bảy điều cần tránh:

1. Tránh lúc sấm gió trời đất cảm động.
2. Tránh ngày đầu tháng và ngày cuối tháng trăng.
3. Tránh lúc vừa ăn cơm và uống rượu.
4. Tránh lúc vừa mới đi tiểu tiện.
5. Tránh lúc mới làm mệt vác nặng.
6. Tránh lúc vừa mới tắm gội xong.
7. Tránh cơn giận dữ cứng rắn của người lính.

Cách giao tiếp khi bị chứng sinh con câm điếc.
Cách giao tiếp khi bị chứng sinh con tử thương (chết khi sinh).
Cách giao tiếp khi bị chứng sinh con điên cuồng.
Cách giao tiếp khi muốn đẻ con trai.
Cách giao tiếp khi muốn sinh con trai thông minh.
Cách giao tiếp khi muốn sinh con gái thanh hiền.
Cách giao tiếp để giàu sang trường thọ.
Cách giao tiếp giữa ông già và con gái trẻ hoặc giữa bà già và con trai trẻ để sinh con đều thọ.
Cách giao tiếp làm cho người đàn bà sinh con trai.
Cách giao tiếp thích hợp với con gái.
Cách giao tiếp có tổn hại cho đàn bà.
Có mười bảy chứng bệnh của người con gái không thể giao tiếp.
Khí hậu của trời đất, sông núi và quỷ thần trưng hiện có quan hệ không thể giao tiếp.

- Nguyệt sát không thể giao tiếp.
- Ngày phá không thể giao tiếp, và ngày huyết kỵ không thể giao tiếp.
- Phương thuốc trị chứng đàn ông liệt dương, dương vật mềm không thể cương cứng lên được.
- Phương thuốc làm cho dương vật của đàn ông to và dài ra.
- Phương thuốc trị chứng đau do bị thương bởi giao lần đầu.
- Phương thuốc trị chứng con gái sưng cửa mình đau đớn.


4. Ngọc Phòng Chỉ Yếu chi mục

Hoàng Đế giao với hai ngàn con gái mà lên tiên, nhưng được bảy tám con gái cũng có ích lớn. Cái đạo giao tiếp nghiên cứu (vân) Đan điền, cầu đúng cái miệng đó, ấn sâu lắc nhẹ, người con gái khi giao tiếp cảm trạng thái của dương, dịch của ngũ tạng ở lưỡi, gọi cái đó là ngọc tương, có thể tuyệt cốc (thôi không ăn chất bột) thường chứa dịch trong lưỡi, làm cho trong dạ khai thông, cái đạo giao tiếp, việc phải làm trước hết là từ từ chơi đùa, làm cho thần và ý cảm, một ngày giao với số chục nữ mà không mất tinh, mọi bệnh đều khỏi hết, thêm thọ lâu dài là cách hoàn tinh bổ não.

Phương thuốc trị làm cho nam một đêm giao trên chục lần không phải thở dồn. Phương thuốc trị làm cho dương vật to và dài ra. Phương thuốc làm cho cửa mình con gái (ngọc môn) nhỏ lại. (phụ: Đồng nữ đơn, bảy loại phương Thôi xuân).


5. Động Huyền Tử - Phòng Trung Thuật yếu mục

Người ta đến mức trên hết, không qua việc phòng dục (tình dục trong phòng). Cái đạo giao tiếp, có hình co duỗi nằm ngồi, thế mở giãng (khai trương) ngửa sấp, cách nghiêng lưng trước sau, quy định ra vào nông sâu, nam xoay trái mà nữ quay phải, nam xông lên mà nữ tiếp xuống, tiến thoái kéo dẫn, trên dưới đón đưa, trái phải qua lại, ra vào thưa dày (sơ mật), vào việc liệu chừng cho phù hợp (lâm sự chế nghi), không nên cứng nhắc (bất khả cố thủ). 

Trước khi giao tiếp thì cầu tình, theo thể thức khi giao lần đầu, hình thế giao tiếp có ba mươi dáng vẻ như sau:

1 - Tự trù mưu       (tụ hội bàn mưu).
2 - Khiển quyến       (quấn quít khó gỡ).
3 - Bạo tai ngư       (cá phồng mang).
4 - Kỳ lân giác       (sừng kỳ lân).
5 - Tàm triền miên       (tằm dăng tơ).
6 - Long uyển chuyển    (rồng uốn lượn).
7 - Tỷ mục ngư       (cá đọ mắt).
8 - Yến đồng tâm       (chim yến đồng lòng).
9 - Phỉ thúy giao       (chim bói cá giao).
10 - Uyên ương hợp    (chim uyên họp).
11 - Không phiên điệp    (bướm bay trên không).
12 - Bối phi phú       (vịt trời bay ngược lại).
13 - Yển cái tùng       (nằm ngửa buông nắp đậy).
14 - Lâm đàn trúc       (gặp cái bệ cao bằng trúc).
15 - Loan song vũ       (chim loan múa đôi).
16 - Phượng tướng sô    (chim phượng đem gà đi).
17 - Hải âu tường       (chim hải âu lượn).
18 - Dã mã dược       (ngựa hoang chạy).
19 - Ký sánh túc       (chân ngựa mở ra).
20 - Mã dao đề       (ngựa lắc móng).
21 - Bạch hổ đằng       (hổ trắng nhảy).
22 - Huyền thuyền phụ    (con ve đen bám).
23 - Sơn dương đối thụ    (dê núi nhằm vào cây).
24 - Côn kê lâm trường    (chim côn kê gặp bãi).
25 - Đan huyệt phượng du    (chim phượng chơi ở huyệt đỏ).
26 - Huyền minh bằng chử    (mưa bay chéo chim bằng bay lên).
27 - Ngâm viên bão thụ    (vượn rên rỉ ôm cây).
28 - Miêu thử đồng huyệt    (mèo và chuột cùng trong một huyệt).
29 - Tam xuân lư       (con lừa ba tuổi).
30 - Thu cẩu       (chó mùa thu).
(Phụ: ba mươi loại dáng vẻ giao tiếp và chú giải tên gọi, mọi điều sẽ thuật rõ ở đoạn văn dưới).

Hình thức giao tiếp có chín loại:

1. Nhược mãnh chi phá trận       (mạnh mẽ như phá trận).
2. Nhược dã mã chi khiêu gián    (ngựa hoang nhảy qua khe núi).
3. Nhược trục ba chi quần âu       (như đám chim hải âu đuổi sóng).
4. Nhược nhã cữu chi tước uế    (như mỏ chim sẻ giao tình…).
5. Nhược đại thạch chi đầu hải    (như hòn đá lớn ném xuống biển).
6. Nhược đông xà chi nhập huyệt    (như con rắn bị lạnh đi vào huyệt).
7. Nhược kinh thử chi thấu huyệt    (như con chuột sợ hãi chui qua huyệt).
8. Nhược thanh loan chi du giảo thỏ    (như con loan xanh lôi con thỏ gian).
9. Nhược đại phàm chi cuồng phong    (như buồm lớn gặp gió xoáy).

Khí thế giao tiếp có sáu loại:

1. Nhược phẫu thạch chi tầm mỹ ngọc    (như chẻ đá để tìm ngọc đẹp).
2. Nhược cắt bạng nhi thủ minh châu    (như cắt con trai để lấy ngọc sáng).
3. Nhược thiết chử chi đầu dược cữu    (như chày sắt giã vào cối thuốc).
4. Nhược ngũ chùy chi sát thiết thạch    (như năm cái búa rèn đập sắt đá).
5. Nhược nông phu chi khẩn thu nhưỡng (như nông phu vỡ đất mùa thu).
6. Nhược lưỡng nham chi tương khâm    (như hai mỏm núi cao cung kính nhau).

Cách tiết chế tinh dịch cho chảy ra nhiều ít

Hai nam sinh con gái và ngày giờ giao tiếp. Nam nữ cần đồng thì chảy tinh, khi người con gái đã mang thai và thai giáo. Tuổi đàn ông nhiều hơn nữ tổn nữ. Tuổi đàn bà nhiều hơn con trai tổn con trai. Tổn hay có ích của giao tiếp có quan hệ với phương hướng và ngày giờ.

Phương Tú kê tán chữa con trai ngũ lao thất thương, dương vật mềm không cương cứng lên được. Phương lộc giác tán chữa lưng và thắt lưng đau lạnh.


6. Phụ có: Thiên Địa Âm Dương Giao Hân Đại Lạc phú



Nguyên bản đúng gốc
(Nguyên bản chân bản)


TỐ NỮ KINH


Toàn tập


Nhật Bản Tính Y học viện nghiên cứu xã trân tàng
Hoàng Hán Y học gia Đan Ba Khang Lại cung trứ


Hoàng Đế hỏi Tố Nữ: “Ta khí suy nhược không hòa, trong tâm không vui, thân thường sợ nguy, nên sẽ như thế nào?”.

Tố Nữ nói: “Người ta nói chung sở dĩ suy vi, đều do đường giao tiếp âm dương gây hại. Nữ mà thắng nam, do thủy thắng hỏa, biết làm cái việc đó như phá nồi vạc có thể trộn đều ngũ vị, lấy làm cái thìa múc nước nấu, có thể biết con đường âm dương, lấy làm thành năm thứ vui, nếu không biết cái đó, thì thân mệnh sẽ yểu (chết non), vui sướng sao được? Khá chẳng nên cẩn thận lắm sao!”.

(Chú giải)(1)
Bộ máy sinh dục của nam nữ làm giao tiếp để đẻ con, nhưng khi dùng đắc đạo, gọi là thuận với trời, thuận với trời thì còn (Thuận thiên giả tồn). Dùng mất cái thời của đạo đó gọi là nghịch với trời, ngược với trời thì mất (Nghịch thiên giả vong).


Tố Nữ nói: Có người Thái Nữ rất diệu thuật đạo, nhà vua sai Thái Nữ hỏi Bành Tổ cách để sống lâu thêm thọ.

Bành Tổ nói rằng: “Yêu cái tinh để dưỡng thần, uống ăn các loại thuốc, có thể được sống lâu. Nhưng nếu không biết cái đạo giao tiếp, tuy có uống thuốc cũng không ích gì. Trai gái cùng thành, do trời đất cùng sinh vậy. Trời đất được đạo giao hội, cho nên không có cái hạn cuối cùng. Người ta mất đi cái đạo giao tiếp, cho nên gẫy non dần dần. Có thể tránh việc gây hại chậm, mà được thuật âm dương, là cái Đạo Bất Tử”.

(Ái tinh dưỡng thần, phục thực chúng dược, khả đắc trường sinh. Nhiên bất tri giao tiếp chi đạo, tuy phục dược vô ích. Nam nữ tương thành, do thiên địa tương sinh dã. Thiên địa đắc giao hội chi đạo, cố vô chung cánh chi hạn. Nhân thất giao tiếp chi đạo, cố hữu yểu chiết chi tiệm. Năng tị tiệm thương chi sự, nhi đắc âm dương chi thuật, tắc bất tử chi đạo.)

Thái Nữ lại lạy mà nói: “Xin muốn được dạy cho những điều cần biết”.

Bành Tổ nói: “Đạo rất là dễ biết, người ta không thể tin mà làm theo. Nay vua chúa ngự hàng vạn vùng ngoại thành (kỳ), trị thiên hạ, tất không thể đủ thời gian để làm theo các thứ đạo. May mắn thay là lại có nhiều hậu cung, nên biết cách giao tiếp cách cốt yếu là ngự ở nhiều con gái trẻ, mà không để chảy tinh nhiều lần, làm cho nhẹ mình, bách bệnh cũng trừ hết được”.

Tố Nữ nói: “Ngự địch gia (ngự người bị đem đến cho giao tiếp), phải coi địch như ngói đá, tự coi mình như vàng ngọc, như tinh đó động, phải nhanh chóng bỏ cái hưởng đó, ngự con gái phải như cầm dây cũ nát mà cưỡi con ngựa đang chạy, như gặp chỗ lõm dưới sâu có dao chém, sợ rơi vào trong đó, nếu như biết yêu quý cái tinh, mạng sống cũng sẽ không có cùng”.

(Chú giải)
Đó là lời dạy người ta yêu tiếc cái “tinh”, ví dụ như trên trận giao phong (mũi nhọn gặp nhau), coi dịch nhân như ngói đá, tự mình tiếc “tinh” như vàng ngọc, nếu như sẽ gần tới vọt tinh ra phải đem rút dương vật ra, tất cần nhạc ngựa khi gặp sườn núi, làm cho sống lâu dài mà khỏe mạnh.

Hoàng Đế hỏi Tố Nữ rằng: “Nay ta muốn lâu dài kiêng không giao tiếp nên làm như thế nào?”.

Tố Nữ nói: “Không thể thế được, trời đất có mở đóng, âm dương có chuyển hóa, người ta có phép âm dương, tùy theo bốn mùa, nay muốn không giao tiếp, thần khí không được rải ra khắp, âm dương bị bế cách, lấy gì để tự bổ? Luyện khí làm số, bỏ cũ nạp mới, để tự giúp. Dương vật không động, là đem lại sự chết chóc, vì vậy thường làm là thường đạo dẫn (luyện phép dẫn khí trong kinh mạch), có thể động mà không cho (mất khí), gọi đó là Hoàn Tinh Bổ Ích, đạo sống mới rất hay."

Tố Nữ kinh nói:

Hoàng Đế rằng: Giao tiếp âm dương, điều độ phải như thế nào?

Tố Nữ đáp: Đạo giao tiếp, như có hình trạng, nam đến mức không suy, nữ trừ bách bệnh, tâm ý vui sướng, khí lực mạnh mẽ. Nếu không biết làm, dần dần suy tổn, muốn biết đạo đó, ở nơi định khí, an tâm, hòa chí, ba khí đều đến mức, thần minh quy về một mối, không lạnh không nóng, không đói không no, ninh thân định thể, tính tất thư trì (thong thả không vội vã), trong ngoài từ từ động, ra vào muốn thưa thớt (dục hi), nữ khoái ý, nam không suy, lấy đó làm mức.

(Chú giải)
Giới tính của nữ có thể phát triển và phản ứng thông thường so với nam là rất chậm, nam nữ đôi bên cần triền miên đến chết, chờ đợi đạt đến khoái cảm cao nhất, động thời chảy tinh ra là dừng.

Tố Nữ kinh nói:

Hoàng Đế hỏi Huyền Nữ rằng: Ta học cái thuật âm dương của Tố Nữ, bắt đầu có phép, muốn làm lại mệnh, để cho hết cái đạo đó.

Huyền Nữ nói: Ở trong khoảng giữa trời và đất, động cần âm dương, dương được âm mà hóa, âm được dương mà thông, một âm một dương, cần nhau mà làm, cho nên nam cảm rắn chắc, nữ cảm giãn mở ra, hai khí giao tinh, dịch chảy thông nhau. Nam có tám điều cần hạn chế, nữ có cửu cung, nếu mất cái mức độ đó, nam sẽ mọc ung thư, nữ thì hại kinh nguyệt, trăm bệnh nảy ra và lớn lên, mệnh thọ bị tiêu mất, có thể biết cái đạo đó, vui mà lại khỏe, tuổi thọ thì tăng lâu dài, sắc tươi như hoa nở.

Hoàng Đế hỏi: Đạo giao tiếp âm dương, như thế nào?

Tố Nữ nói: Đạo giao tiếp vốn là có hình trạng, nam để hứng khởi khí, nữ để trừ bệnh, tâm ý vui thích, khí lực thêm khỏe, nếu không biết đạo đó, thì cái suy lấn vào, muốn biết cái đạo đó, ở chỗ yên tâm, hòa chí, tinh thần quy về một mối (an tâm, hòa chí, tinh thần thống quy), không nóng không lạnh, không đói không no, định thân ý ngay thẳng (bất hàn bất thử, bất bão bất cơ, định thân chính ý), tính tất là thong thả chậm chạp (tính tất thư trì), trong sâu động từ từ, ra vào muốn thưa thớt (thâm nội từ động, xuất nhập dục hy, dĩ thị vị tiết), lấy đó làm hạn chế. Cẩn thận không liều lĩnh làm trái cái đó, nữ sẽ vui thích, nam thì không suy (thận vô cảm vi, nữ ký hoan hỷ, nam tắc bất suy).

Hoàng Đế nói: Nay muốn giao tiếp mạnh mẽ, mà dương vật không cương cứng lên, mặt thuận mà ý sai, mồ hôi ra như hạt châu, tâm tình tham muốn, lấy tay giúp sức mạnh, làm thế nào cho cứng lên, muốn nghe cái đạo đó.

Tố Nữ nói: Chỗ mà Đế hỏi, mọi người cũng có thấy như thế. Nói chung muốn tiếp nữ, vốn có đầu mối, tất trước hết phải hòa khí, dương vật mới dấy lên thuận theo ngũ thường đó, có chín bộ cảm. Nữ có ngũ sắc, xét chỗ gõ chân (thẩm sở túc khấu). Lấy tinh đó tràn ra, lấy dịch ở miệng, tinh khí hóa trở lại, lấp đầy tủy não, tránh điều cấm về thất tổn, làm cái đạo tám thứ ích, không ngược với ngũ thường, thân mới có thể giữ được, chính khí đầy đủ ở trong, làm sao mà bệnh tật không phải bỏ đi, tức là phủ tạng được yên ổn, da dẻ sáng bóng, mềm mại, mỗi lần tiếp là lấy cương lên, khí lực gấp trăm lần, địch nhân phục tùng theo, làm sao mà phải thẹn? (hà tàm chi hữu: có gì mà phải thẹn).

(Chú giải)
Điều cốt yếu ở đây là tâm bình tĩnh hơi thở êm ái, không thể gấp gáp nhiều, đợi dương vật cương vươn lên cao mới có thể hành sự.

Huyền Nữ kinh nói:

Hoàng Đế rằng: Khi giao tiếp hoặc không vui, chất đó không động, dịch đó không ra, dương vật không cứng, nhỏ mà không có thế, sao nó lại như thế?

Huyền Nữ nói rằng: Cái âm dương nó tương cảm mà tương ứng, cho nên dương không được âm thì không vui, âm không được dương thì không dấy lên, nam muốn tiếp mà nữ không vui, nữ muốn tiếp mà nam không muốn, do đó bất ngờ lên mà xuống cũng nhanh chóng, sung sướng chưa trọn vẹn. Nam muốn cầu nữ, nữ muốn cầu nam, tình ý hợp cùng nhau, đều có lòng vui, làm cho chất của nữ trương lên cảm nhận dương vật của nam, thế của nam to lớn, gò gõ đáp ứng tất đủ cho chuột (doang khấu du thử tất bị), tinh dịch chảy tràn, dương vật mềm nhẽo, đột nhiên nhanh đột nhiên chậm, cửa mình mở ra kẹp vào (co bóp cơ), hoặc làm nhiều mà không mệt, cường địch mắt chồng (cường địch mục phu), hít tinh dẫn khí, rải tưới khắp nhà đỏ. Tám việc xưa nay, phép đó đã đủ, duỗi co sấp ngửa, trước và ngược lại gấp gẫy. Đế xem xét lại mà làm theo cái đó, cẩn thận không để trái mất.

(Chú giải)
Theo giải thích của Huyền Nữ, âm dương cần phải giúp nhau cảm ứng, dương không được âm thì không vui, âm không được dương thì cũng không hứng khởi, giúp nhau yêu thích mới sướng khoái. Con gái cảm thụ dương khí mà động tình, con trai cũng cảm đến âm khí dương vật mới bắt đầu có thể vươn dài được lâu. Con trai sau khi vươn dài và cứng rắn, như con chuột chui qua tường, ra vào tự như, trai gái lúc đó càng thích nhiều.

Tố Nữ kinh nói:

Hoàng Đế rằng: Âm dương quý ở cái có phép chăng?

Tố Nữ thưa rằng: Khi vào cuộc ngự con gái, trước hết làm cho người con gái đặt mình nằm ngay ngắn, gập hai chân, con trai vào giữa, ngậm cái miệng đó, mút cái lưỡi đó, phụ đập dương vật chọc vào trên dưới và hai bên cửa mình, cần như thế, từ từ cho vào trong, dương vật to béo thì cho vào một thốn rưỡi, yếu nhỏ thì cho vào một thốn, không lắc động, từ từ ra lại vào, trừ trăm thứ bệnh, không làm cho bốn bên cạnh chảy ra, dương vật vào trong cửa mình, tự nhiên sinh nóng lên rất nhanh, thân người đàn bà thường tự động lắc, lên cùng với con trai, sau đó là vào sâu, bách bệnh của nam nữ đều giảm. Đâm nông ở cầm huyền, vào ba thốn rưỡi, phải ngậm miệng mà đâm một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, rồi nhân đó vào sâu tới cạnh côn thạch dừng lại ở đó, miệng phải hít hơi của miệng đàn bà, làm cái đạo chín lần chín, xong đợt đó lại làm lại như thế.

(Chú giải)

Nam nữ giao tiếp, con gái nằm ngửa, con trai úp lên trên, đó là dáng vẻ chính thống. Ngày nay nói rằng bộ máy làm tình của nam giới không ngoài dương vật và dịch hoàn. Dương vật là một cái gân thịt xốp, thường co giãn ở đó rải ra nhiều mạch máu, so với thân thể thì nó rất là nhỏ bé, nhưng mà thần kinh thì rất là sắc nhạy cảm, mỗi khi tính dục xung động, là nó đầy ắp huyết dịch, lập tức trương giãn to lên. Bình thường khi chưa bị kích thích dài chừng ba đến bốn thốn, vòng tròn và bề dài bằng nhau, khi mà bị kích thích nở trương dài và cất cao lên, dài sẽ khoảng sáu đến bảy thốn, đường kính ngang khoảng một thốn rưỡi đến hai thốn, phần đầu to mà gốc rất nhỏ, vùng cổ quy đầu có gân chằng rải ra (khoáng ước cân), tính nhạy cảm rất cao, dịch hoàn (cao hoàn) do một tuyến hình tùy viên làm thành, to như trứng chim bồ câu, bên ngoài là một túi da, gọi là thận nang, công dụng là bảo hộ an toàn cho dịch hoàn, thông thường dịch hoàn bên trái hơi cao lên so với dịch hoàn bên phải, công dụng của cái đó là để khi hai đùi kẹp lại thì viên bên trái có thể trượt lên mặt trên của viên bên phải, làm cho cái đó không bị chèn vỡ, tiện cho giao tiếp.

Âm bộ của con gái chia làm hai vùng trong và ngoài. Vùng ngoài là tổ chức môi lớn, âm hạch và âm hộ, là ba phần. Môi cửa mình có hai đôi, tức là môi lớn và môi nhỏ, mỗi đôi có hai mảnh trái và phải. Môi lớn to và dầy, môi nhỏ nhỏ mà mỏng, mặt ngoài mọc đầy lông nhung. Âm hạch là một loại tuyến, vị trí của nó ở giữa miệng âm hộ, giữa hai môi lớn. Vị trí của âm hộ ở phần rất thấp, là phần âm hộ thẳng đến âm đạo. Các vùng đó đều rải đầy khắp thần kinh nhạy cảm, cảm giác ở đây nhạy cảm khác thường, các môi và âm hạch lại rải đầy khắp những huyết quản. Đang lúc hưng phấn tình dục, là huyết dịch tràn đến đầy khắp mà trương giãn ra được dương vật xông vào cọ xát, sướng như vật xốp mềm chà vào đám ngứa, lập tức chuyền tới toàn thân, như say như ngây dại.

Ngoài cái đó ra là âm đạo của con gái và dạ con, âm đạo là một cái ống như một xoang trong người, từ âm đạo tới dạ con dài chừng bốn tấc Anh lại bảy phân, nông nhất là chừng ba tấc Anh và năm sáu phân, sâu nhất có năm tấc Anh và hai phân, bề to nhỏ của xoang đó vừa đủ chứa dương vật cắm vào không thừa chỗ để co giãn, tử cung giống như quả lê xoay chéo, vị trí ở trong huyệt tử cung, khi người con gái chưa bị chửa, phía trên nó có đường kính hai thốn, càng xuống càng nhỏ, do những thớ thịt rắn bền làm thành, rải đầy thần kinh mẫn cảm và những mạch máu có tính co giãn được, phía dưới cái quả đó là cổ dạ con, nối liền với âm đạo. Hình của buồng trứng giống như dịch hoàn, có hai cái, ở hai bên phải trái phía trên của dạ con, có ống thông vào dạ con, cái trứng từ đó du nhập dạ con, cho nên còn gọi là vòi dẫn trứng (du noãn quản).

Người con gái khi giao hợp, được kích thích nhiều nhất ở xung quanh âm môn, ở bờ mép phía trong môi âm và âm hạch. Phần lớn con gái thủ dâm chỉ cọ xát môi âm và âm hạch, đã đủ làm chứng. Một chỗ kích thích nhiều nhất của con trai ở dương vật là quy đầu, các bộ phận khác rất ít. Công dụng lông quanh dương vật của đàn ông là để phòng khi giao tiếp cọ xát, dòng điện lưu ở vùng xương sống trốn mất, để tăng thêm khoái cảm.

“Án” cầm huyền, tức là đoạn sâu trong âm hộ một thốn, hai thốn gọi là mạch xỉ, ba thốn gọi xú thử, bốn thốn gọi là côn thạch, năm thốn gọi là cốc thực. Một đến chín là làm cọ xát chín lần.


Hoàng Đế nói: Thế nào là Ngũ Thường? (Năm đức tính tốt của người Quân Tử theo quan niệm của Nho Giáo cổ đại: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín)

Tố Nữ đáp: “Dương vật đúng là có đạo Ngũ Thường, ở nơi sâu kín, náu ẩn giữ lấy sự hạn chế, ôm ở trong đó cáiĐức. Thí làm không thôi, đó là nói dương vật muốn có ý làm với người là Nhân. Ở trong có trống rỗng là Nghĩa. Ý muốn thì cương dấy ngay lên, không muốn là dừng ngay là Tín. Nghiêm chỉnh có hạn chế là Lễ. Khi gặp thấp mà ngửng lên là Trí. Cho nên Chân nhân bởi lúc thường mà hạn chế cái nhân đó rất giỏi, tức là thường biết cái đạo giao tiếp âm dương, cho nên mới có thể theo Ngũ Thường, thân mới thọ”.

Hoàng Đế nói: Làm thế nào mà biết được người con gái sướng?

Tố Nữ đáp: Có "Năm hành vi" (Ngũ vi), "Năm ham muốn" (Ngũ dục), lại có "Mười hành động" (Thập động), lấy việc xem họ chịu mà biết được như thế.

"Năm hành vi" có biểu hiện (hậu):
1 - Một là thấy mặt đỏ thì từ từ hợp.
2 - Hai là vú rắn lại mà mũi có mồ hôi thì từ từ cho vào trong.
3 - Ba là họng khô mà cổ họng có nước bọt, thì từ từ lắc.
4 - Bốn là trong cửa mình trơn, thì từ từ cho vào sâu.
5 - Năm là ở xương đuôi có dịch chảy tới, thì từ từ dẫn (cho ra cho vào là dẫn).

(Chú giải)
Cái hình ảnh để gọi là vi như sau:
1 - Thấy mặt con gái đỏ lên, tức là họ nghĩ đến giao hợp.
2 - Gõ dương vật nạp vào âm hộ.
3 - Cho vào rồi thấy họ như thế thì lắc động dương vật.
4 - Tức là cho vào sâu.
5 - Là nói về tinh dịch chảy xuống đến mông.


Tố Nữ nói: "Năm ham muốn" phải biết để mà đáp ứng:
1 - Một là ý muốn, thì ngưng thở ngưng khí.
2 - Hai là âm hộ muốn, thì mũi và miệng trương ra.
3 - Ba là tinh muốn phiền phấn chấn rung động mà ôm lấy đàn ông.
4 - Bốn là tâm muốn thỏa mãn, thì mồ hôi chảy ra ẩm ướt cả quần áo.
5 - Năm là sướng mà muốn đến cực độ hơn thì mình cứng ra mà mắt thì buồn ngủ.

(Chú giải)
Tố Nữ nói rõ năm cái muốn của người con gái, tức là có thể xem cái biểu hiện tình cảm bằng cử động để biết được.


Tố Nữ nói: "Mười cái động" là hiệu quả của cảm giác như sau:
1 - Một là, hai tay ôm người ta, là muốn thân thể cùng mỏng đi, âm hộ và dương vật đúng vào nhau.
2 - Hai là duỗi hai ống chân để khép xát cọ phía trên.
3 - Ba là bụng trướng là muốn tiết (chảy nước ra từ từ).
4 - Bốn là động xương đuôi, là sướng đó.
5 - Năm là nâng hai gót chân lên quặp lấy người ta, đó là muốn vào sâu hơn nữa.
6 - Sáu là kẹp chéo hai đùi lại, là ở trong ngứa râm ran.
7 - Bảy, lắc sang bên cạnh là muốn vào sâu bên trái hay bên phải.
8 - Tám là nâng thân lên ép người ta, là rất thích đến tột cùng
9 - Chín, thân mình mềm nhẽo ra, là chi thể khoái.
10 - Mười, dịch trong âm hộ trơn là tinh đã nhỏ ra.
Thấy những dấu hiệu đó để biết người con gái đã khoái.

(Chú giải)
Giao tiếp nam nữ, làm cho con gái đạt đến dấu hiệu ngũ vi, ngũ dục, thập động, mặt khóa hồn đãng phách, mới là cái khoái lạc của giao hợp tính dục thành công rực rỡ, cả đôi nam nữ đến được thiên đường đẹp đẽ diệu kỳ.


Hoàng Đế hỏi: Thế nào gọi là Tứ chí?

Huyền Nữ nói:    
- Dương vật không có sức sống mạnh mẽ, thì hòa khí không đến (bất chí).
- Sức sống không nhiều, thì cơ khí không đến.
- To mà không rắn, thì cốt khí không đến.
- Rắn mà không nóng, thì thần khí không đến.
(Ngọc kinh bất nỗ, hòa khí bất chí. Nỗ nhi bất đại, cơ khí bất chí. Đại nhi bất kiên, cốt khí bất chí. Kiên nhi bất nhiệt, thần khí bất chí)

- Cho nên có sinh khí thì tinh sáng sủa.    (cố nỗ giả tinh chi minh)
- To thì tinh đóng lại.          (đại giả chi quán)
- Cứng là cái cửa của tinh.          (kiên giả tinh chi hộ)
- Nhiệt là cửa rộng của tinh.       (nhiệt giả tinh chi môn)

Bốn khí đến mà hạn chế để giữ lấy đạo, mở máy mà không lung tung, mở tinh mà không cho chảy ra. (Tứ khí chí nhi tiết chi di đạo, khai cơ bất vọng, khai tinh bất tiết hĩ)

Huyền Nữ kinh nói:

Hoàng Đế hỏi: Tốt đẹp thay! con gái có Chín khí, làm thế nào để biết được?

Huyền Nữ trả lời: Xem xét để biết chín cái khí đó.

1 - Người con gái thở dài mà yết có nước bọt là phế khí về đến.
2 - Kêu ôi lên mà mút người ta là tâm khí về đến.
3 - Ôm mà giữ lâu lấy người ta là tỳ khí về đến.
4 - Cửa mình trơn ướt như ao nước là thận khí đã về đến.
5 - Ân cần gọi cho vào là cốt khí về đến.
6 - Chân quắp lấy người là cân khí về đến.
7 - Sờ mó chơi ở dương vật của con trai là huyết khí về đến.
8 - Giữ chơi ở vú của con trai là nhục khí về đến.
9 - Giao tiếp với nhau lâu dài, chơi đầy đủ mà cảm được cái ý đó, chín khí đều đến.

Có trường hợp không đến, thì mặt buồn rầu. Cho nên nếu không đến có thể làm mấy lần để chữa cái đó.
________________
(1) Tất cả các "Chú giải" trong cuốn sách này đều là do người Nhật thêm vào, không có trong nguyên bản Tố Nữ Kinh.

Tố Nữ kinh nói rằng:

Hoàng Đế nói: Cái chỗ nói “Chín Phép” ấy ta chưa được nghe về phép đó, muốn vì ta mà bày cho rõ ràng, để mở cái ý, cất vào nhà đá, làm theo cách thức đó.

Tố Nữ nói: Chín phép:

1. Một là: Rồng quay ngược lại (Long phiên)
Bảo người con gái nằm ngửa hướng lên, nam nằm úp trên đó, mông dấu ở dưới giường, nữ vịn vào cửa mình đó, để nhận dương vật, đâm đúng vào hang đó, lắc động chậm chạp khắp một lượt, tám nông hai sâu, số tử qua số sinh lại, thế bụng mới cứng, nữ thì vui nhiều, cái thích đó mới dấy lên, đến mức tự đóng chắc lại, bách bệnh tiêu vong.

2. Hai là: Con hổ bước đi (Hổ bộ)
Bảo người con gái làm như con nghê cúi, đuôi ngửa lên mà đầu gục cúi xuống, nam quỳ đằng sau, ôm lấy bụng, và nạp dương vật, thúc vào trong cho hết mức, phải làm cho sâu và khít vào, tiến thoái cùng từ từ thưa thớt, làm bốn lần số tám (tám nông hai sâu), độ mức đó tự được, cửa mình của nữ bế trướng lại, tinh dịch chảy tràn ra ngoài (nd - nước của nữ), xong thì nghỉ dừng, bách bệnh không phát, nam thịnh thêm.

3. Ba là: Con vượn chạy (Viên bác)
Bảo người con gái nằm ngửa, nam gánh cái mông đó, đầu gối lại vòng lên qua ngực, đuôi và lưng đều nâng lên, bấy giờ mới cho dương vật vào trong, thúc cho đến xú thử (con chuột hôi), nữ lại lắc động, nước ra như mưa, nam ấn vào sâu, khí thế rất khỏe, nữ khoái mới dừng, trăm bệnh tự khỏi.

4. Bốn là: Con ve bám (Thiền phụ)
Bảo người con gái nằm sấp, duỗi thẳng thân mình, nam nằm sấp đằng sau, cho dương vật vào trong sâu, nâng đuôi ít một, để mà gõ ở đó (xích châu: viên ngọc đỏ), làm sáu lần số chín (chín nông một sâu), nữ có nhiều nước chảy ra, ở trong cửa mình co động nhanh, ở ngoài thì mở giãn ra, nữ khoái mới dừng, chứng thất thương tự trừ.

5. Năm là: Con rùa bay lên (Quy đằng)
Bảo người con gái nằm thẳng, gấp hai đầu gối co vào, nam mới đẩy vào, cái chân nữ lên đến vú, dương vật vào sâu, đâm vào con gái còn nhỏ (anh nữ), nông sâu phải có mức, làm cho đúng với trong đó, con gái mới cảm thấy vui, thân mình tự lắc mà nâng lên, nước chảy tràn ra, mới cho vào sâu nhất, nữ khoái mới dừng, làm mà không mất, tinh lực tăng gấp trăm lần.

6. Sáu là: Con phượng liệng (Phượng tường)
Bảo người con gái nằm ngay ngắn, tự nâng chân lên, nam quỳ ở giữa hai đùi, hai chân đặt xuống giữ lấy chiếu, cho dương vật vào trong, đâm vào đến (côn thạch) đám đá nhiều hòn, dương vật rắn và nóng keo lôi ở trong, làm cho con gái động lên, làm ba lần số tám (tám nông hai sâu), đuôi co lên cùng thưa thớt, cửa mình con gái mở giãn ra, tự nôn ra nước dịch, nữ khoái mới dừng, trăm bệnh tiêu diệt.

7. Bảy là: Con thỏ ăn lông (Thỏ xuyết hào)
Nam nằm ngay thẳng ngửa lên, duỗi thẳng hai chân, con gái cưỡi lên trên đó, đầu gối để sang hai bên, lưng và đầu con gái về hướng chân, đầu cúi xuống chiếm chiếu, dương vật cho vào trong, đâm đến cầm huyền, nữ khoái, nước dịch chảy ra như suối, mừng vui cùng thích, động cả đến thần hình, nữ khoái mới dừng, trăm bệnh không sinh.

8. Tám là: Cá tiếp vảy (Ngư tiếp lân)
Nam nằm ngửa ngay ngắn, nữ cưỡi lên trên, hai đùi hướng về phía trước, đặt từ từ vào trong, hơi vào một ít lại dừng, mới chịu không sâu, như trẻ con ngậm vú, để cho riêng một mình nữ lắc, phải làm cho giữ được lâu, nữ mà khoái thì nam lùi, chữa mọi thứ kết tụ.

9. Chín là: Chim hạc giao cổ nhau (Hạc giao cảnh)
Nam ngồi như ngồi giần (cơ tọa), nữ cưỡi lên đùi, tay ôm cổ nam, cho dương vật vào, đâm ở mạch xỉ (răng lúa mạch - tức là vào trong âm hộ hai thốn), phải làm cho trong đó đúng thế, nam ôm lấy đuôi nữ, giúp cho nâng lắc, nữ tự cảm khoái, nước dịch chảy tràn, nữ khoái mới thôi, thất thương tự khỏi.

Tố Nữ nói rằng: Âm dương có Bảy cái tổn, Tám cái ích:

(Tám cái ích - Bát ích:)

1. Ích thứ nhất là Cố tinh:
Bảo nữ nằm ngửa giang đùi ra, nam nằm nghiêng ở trong đó, đâm vào khe hai đùi, làm hai lần số chín (tức là hai lần từ một đến chín), hết số thì dừng.
Làm cho nam cố tinh lại. Lại chữa con gái bị chứng chảy máu
Ngày làm hai lần, mười lăm ngày thì khỏi.

2. Ích thứ hai là An khí:
Bảo người con gái nằm ngay ngắn, gối cao, duỗi giang hai ống chân, nam quỳ ở giữa hai đùi mà đâm, làm số ba lần chín (tức là ba lần từ một đến chín), hết số thì dừng.
Làm cho khí trong người êm đều. Lại chữa chứng cửa mình của con gái lạnh.
Ngày làm ba lần, hai mươi ngày thì khỏi.

3. Ích thứ ba là Lợi tạng:
Bảo người con gái nằm nghiêng, gập hai mông, nam nằm ngang, đâm quay trở lại (khước thúc), làm bốn lần số chín (bốn lần từ một đến chín), số xong thì dừng.
Làm cho khí trong người êm đều.
Ngày làm bốn lần, hai mươi ngày thì khỏi.

4. Ích thứ tư là Cứng xương:
Bảo người con gái nằm nghiêng, gập đầu gối chân trái, duỗi ống chân phải, nam gập cúi xuống mà đâm, làm năm lần chín số, xong số thì thôi.
Làm cho các khớp trong người điều hòa. Lại trị con gái bế huyết.
Ngày làm năm lần, mười ngày thì khỏi.

5. Ích thứ năm là Điều mạch:
Bảo người con gái nằm nghiêng, gập đầu gối bên phải, duỗi ống chân bên trái, nam chiếm chiếu mà đâm, làm sáu lần chín số, xong số thì dừng.
Làm cho huyết mạch trong người thông lợi. Lại chữa chứng cửa mình người con gái rộng ra.
Ngày làm sáu lần, hai mươi ngày thì khỏi.

6. Ích thứ sáu là Nuôi huyết:
Nam nằm ngửa ngay thẳng, bảo người con gái đội xương đuôi quỳ lên trên, nạp hết mức vào, bảo người nữ làm bảy lần số chín, xong số thì dừng.
Làm cho người ta có sức mạnh. Lại chữa con gái kinh nguyệt không lợi.
Ngày làm bảy lần, mười ngày thì khỏi.

7. Ích thứ bảy là Ích dịch:
Bảo người con gái nằm sấp nâng phía sau lên, nam ở trên, làm tám lần số chín, xong số thì dừng.
Làm cho xương được lấp thêm những chỗ còn thiếu.
Ngày làm tám lần, (?) ngày thì khỏi.

8. Ích thứ tám là Đạo thể:
Bảo người con gái nằm ngay thẳng, gập hai ống chân, bàn chân ép ở dưới xương đuôi, nam để ống chân ở bên sườn mà đâm vào, để làm chín lần số chín, số xong thì dừng.
Làm cho xương người ta đầy đủ (thực). Lại chữa cửa mình nữ hôi.
Ngày làm chín lần, chín ngày thì khỏi.

Tố Nữ viết:

(Bảy cái tổn - Thất tổn:)

1. Tổn thứ nhất gọi là Tuyệt khí:
Tuyệt khí là tâm ý không muốn mà dùng mạnh mẽ, thì ra mồ hôi mà ít hơi, làm cho tim nóng mắt hoa lên.
Cách chữa:
Bảo người con gái nằm ngay ngắn, nam ấp lên đùi đó ấn sâu vào, bảo người con gái tự lắc, nước tinh của con gái ra thì dừng. Nam không dược sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

2. Tổn thứ hai gọi là Dật tinh:
Dật tinh là tâm ý tham chịu, âm dương chưa hòa mà dùng, tinh ở giữa đường tràn ra, lại đang no say mà giao tiếp, thở xuyễn khí loạn mà hại phế, làm cho người ta ho ngược lên, khí lên mà tiêu khát, hay cáu giận hoặc buồn thảm, miệng khô mình nóng mà không đứng được lâu.
Cách chữa:
Bảo người con gái nằm ngay thẳng, gập hai gối kẹp người nam lại, nam đâm nông, dương vật ở trong một thốn rưỡi, bảo người con gái tự lắc, nước tinh của người con gái ra thì dừng. Nam không được sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

3. Tổn thứ ba gọi là Tập mạch:
Tập mạch là dương vật không cứng mà lại dùng rất mạnh, giữa đường tràn tinh ra mạnh, tinh khí kiệt, và ăn no mà giao tiếp, hại tỳ, làm cho người ta ăn vào không hóa, dương vật teo mềm mà không có tinh.
Cách chữa:
Bảo người con gái nằm ngay ngắn, lấy gót chân quắp lấy nam, ở xương đuôi, nam thì chống xuống chiếu mà nạp vào, bảo người nữ tự lắc, nước tinh của nữ ra thì dừng. Nam không được sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

4. Tổn thứ tư là Khí tiết:
Khí tiết là làm mệt mỏi mà mồ hôi ra chưa khô đã giao tiếp, làm cho người ta bị chứng bụng nóng môi khô.
Cách chữa:
Bảo người con trai nằm ngay ngắn, nữ cưỡi lên trên, người nữ hướng về phía chân chống xuống chiếu, nạp dương vật vào nông, bảo người nữ tự lắc, nước tinh của nữ ra thì dừng. Nam không được sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

5. Tổn thứ năm là Cơ quan khuyết thương:
Cơ quan khuyết thương là vừa mới đại tiểu tiện, thân thể chưa định mà đã dùng mạnh mẽ, tức là hại gan và chết ngất (bạo tệ), bệnh lâu ngày gặp nhau (trì tật giao hội), tạo cơ hội mỏi mòn (bất lý lao bì) gân cốt, làm cho người ta mờ mắt, và lại mọc mụn nhọt, làm khô tuyệt số lớn đám mạch, lâu dài thì sinh ra khô một bên người, dương vật mềm yếu không cứng lên được.
Cách chữa:
Bảo người nam nằm ngay ngắn, nữ cưỡi lên đùi, ngồi xổm hướng về phía trước từ từ ấn nạp vào, không cho người nữ tự lắc, khi nước tinh của người nữ ra (thì dừng?). Người nam không được sướng
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

6. Tổn thứ sáu gọi là Bách bế:
Bách bế là người con gái dâm dật, tự dùng mà không biết hạn chế, giao tiếp rải rác không có điều độ, khô mất tinh khí, dùng sức mà làm mạnh mẽ, tinh hết mà không ra, trăm bệnh cùng sinh ra, miệng khát mắt hoa.
Cách chữa:
Bảo người nam nằm ngay ngắn, người con gái cưỡi lên trên, gấp sấp chống xuống chiếu về phía trước, bảo người con gái nạp dương vật vào rồi cùng lắc, nước tinh người con gái chảy ra thì dừng, người con trai không được sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

7. Tổn thứ bảy gọi là Huyết kiệt:
Huyết kiệt là sức làm nhanh gấp, mệt bởi ra mồ hôi, bởi giao hợp, lúc xong lại đều nằm ngửa, đẩy sâu không có gốc (thôi thâm mỗi bản?), làm nhanh mạnh dữ dội, bệnh bởi đó mà phát, làm liền liền không dừng, huyết khô khí kiệt, làm cho da dẻ người ta nhăn nheo, dương vật đau thấp, tinh bị làm huyết (nước tinh ra như máu).
Cách chữa:
Bảo người con gái nằm ngay thẳng, lấy cái gối kê cao ở xương đuôi, duỗi giạng hai đùi, nam quỳ ở giữa đó đâm sâu vào, bảo người nữ tự lắc, nước tinh nữ ra thì dừng, nam không được sướng.
Ngày làm chín lần, mười ngày thì khỏi.

(Chú giải)
Trong các thứ dáng vẻ con gái nằm ngửa, nam nằm sấp lên trên, nữ ôm lấy nam, để gót chân đặt vào kheo sau đầu gối nam, nam lấy tay và đầu gối đỡ sức nặng thân thể của mình, làm cho người con gái không phải chịu sức nặng thân thể của người con trai đè xuống, hai đùi con gái có thể tự do lắc động, trên tống xuống, dưới đón lên, hoặc đặt sang bên trái, xát sang bên phải, hoặc xoay chuyển về phía trước phía sau, cảm giác sướng không kể xiết. Nếu như sức nặng của người con trai ép đè lên người con gái, chân làm cho phạm vi hoạt động hai phía bị thu hẹp lại, giảm bớt khoái cảm. Các cách giao tiếp kể trên so với các loại dáng vẻ giao tiếp trong quyển Động Huyền Tử (xem phía sau) đều đúng, nhưng có bị bó buộc vì coi trọng lễ giáo của người con gái ngày xưa, phản đối người chồng đó dùng thử, đến nỗi không cảm thấy hứng thú của giao tiếp, điều đó đáng tiếc lắm. Rất nhiều đôi trai gái cưới nhau đã lâu ngày, thậm chí suốt đời không dám liếc nhìn trộm cho thấy rõ, so sánh với giao tiếp hai giới khác càng thấy có giá trị của tiếp xúc và khoái lạc, lỗi ở chỗ không biết đổi mới cách thức giao tiếp.

Thái Nữ hỏi rằng: Giao tiếp lấy chảy tinh ra làm thích, nay bế mà không cho chảy ra, làm thế nào mà thấy thích sướng?

Bành Tổ đáp rằng: Tinh xuất thì thân thể mệt mỏi, tai kêu ù ù, mắt mỏi muốn ngủ, hầu họng khô khan, các khớp xương như rời ra, tuy có đem lại cái khoái tạm thời, nhưng rốt cuộc lại không vui. Nếu như động mà không cho chảy ra, khí lực có thừa, thân thể nhanh nhẹ, tai tinh mắt sáng, tuy tự giữ ngưỡng tĩnh, ý yêu càng nặng, mãi mãi như không có bắt đầu, sao lại bảo là không vui!

Hoàng Đế nói rằng: Muốn hỏi động mà không cho chảy ra (bất thí), học cái đó như thế nào?

Tố Nữ nói rằng:

1. Một là động mà không cho chảy ra, thì khí lực mạnh.
2. Động lần thứ hai mà không cho chảy ra thì tai tinh mắt sáng.
3. Động lần thứ ba mà không cho chảy ra thì mọi thứ bệnh tiêu trừ.
4. Động lần thứ tư mà không cho chảy ra, thì năm thần hoặc được yên.
5. Động lần thứ năm mà không cho chảy ra, thì huyết mạch được đầy đủ và lớn.
6. Động lần thứ sáu mà không cho chảy ra, thì lưng dưới lưng trên rắn cứng.
7. Động lần thứ bảy mà không cho chảy ra, thì xương đuôi và mông thêm sức.
8. Động lần thứ tám mà không cho chảy ra, thì thân thể sinh ra ánh sáng.
9. Động lần thứ chín mà không cho chảy ra, thì mạng sống lâu chưa tới điểm giữa.
10. Động lần thứ mười mà không cho chảy ra, thì thông với thần minh.

(Chú giải)

Giao tiếp tự bế không cho chảy tinh ra, hoặc động mà không chảy ra, là khắp cả trùm lên phương diện tâm lý và tinh thần, nhục thể chỉ chiếm vài ba phần, khi giao tiếp mà không cho tinh chảy ra. Nếu như thường làm được như thế, thì không tổn thể lực, và có thể hưởng thụ được cái khoái lạc tối cao trên tinh thần. Giao tiếp loại đó, cùng giúp dựa thân quen nhau, cùng nhau giúp ôm lôi, nghìn chiều trăm nịnh, vạn kiểu thân ái, phóng lãng không gò bó, mi mắt chuyền tình, chạm môi mút lưỡi, vuốt ve khắp người, từ tóc tơ, cổ phấn, tay ngọc, mỏm vú, lưng liễu, đùi như bột, mông mỡ, rồi tuột xuống âm hộ, âm đạo. Lúc đó toàn thân người con gái mềm nhũn ra, người con trai như ngây dại say sưa, hai thứ dương vật và cửa mình giãn trương cứng nóng, nước của con gái chảy ra ròng ròng, tràn khắp vùng xuân, ở đầu quy của con trai tất là ra dịch của tuyến nhiếp hộ, như dãi, như giọt nước, sau đấy dương vật và âm hộ tự nhiên giao hợp, cùng tụ về một nơi, rút ra tống vào mài xát, chầm chậm ra vào, cần làm cho đạt đến đỉnh điểm mà ra tinh (nước của nữ), có thể lâu dài đến không kể thời gian nào.

Nếu như có kinh nghiệm giao hợp mà khống chế loại đó, không kể là giao hợp mấy nghìn lần thứ, cũng có thể không để cho tinh chảy ra. Tốt nhất là mỗi đêm khi đi ngủ có thể giao hợp một số phút, hoặc kéo dài tới một vài giờ, lâu đến khi ngọc quỵ mới mệt mỏi mà ngừng động cọ, dương vật và âm hộ có thể thấy cùng chụm ở một chỗ, chìm vào trong cảnh mộng, âm hộ ngậm bọc lấy dương vật, mãi đến khi vào giấc ngủ, dương vật tự nhiên do trơn mà tuột ra khỏi âm hộ, vùng âm của cả hai cũng tự nhiên mà nghỉ dừng, đó mới là một đêm vợ chồng đi đến cảnh đẹp. Có người cho rằng những người tình mong gặp được cách hay nhất. Nếu như sáng sớm trước khi dậy khỏi giường, cũng theo cách như thế, giao tiếp mươi phút hoặc hai mươi phút, phải làm lúc còn sớm, mới làm cho một ngày được sảng khoái tinh thần.


Hoàng Đế hỏi: Đạo cần không muốn cho xuất tinh, nêu cao ý yêu quý dịch, thế thì khi muốn cầu con, làm thế nào mà không thể cho chảy ra?

Tố Nữ nói rằng: Người ta có mạnh và yếu, tuổi có trẻ và già, tất cả đều tùy ở khí lực, không muốn sướng mạnh, sướng mạnh thì có chỗ hại của nó.

Cho nên con trai mười phần, to lớn thì có thể một ngày làm hết sức của mình, gầy yếu thì có thể ngày làm một lần.
Tuổi hai mươi, thịnh thì ngày làm hai lần, gầy yếu thì có thể ngày làm một lần.
Tuổi ba mươi, thịnh thì có thể ngày làm một lần, hèn kém thì hai ngày làm một lần.
Tuổi bốn mươi, thịnh thì ba ngày làm một lần, hư thì bốn ngày làm một lần.
Tuổi năm mươi, thịnh thì năm ngày làm một lần, hư thì mười ngày làm một lần.
Tuổi sáu mươi, thịnh thì mười ngày làm một lần, hư thì hai mươi ngày làm một lần.
Tuổi bảy mươi, thịnh thì có thể ba mươi ngày làm một lần, hư thì không cho chảy ra
(chữ làm một lần trong các câu trên là làm cho chảy tinh ra để có con - ND).

Phép của Tố Nữ:

Người ta ở tuổi hai mươi, bốn ngày một lần tiết tinh.
Tuổi ba mươi, tám ngày một lần tiết tinh.
Tuổi bốn mươi, mười sáu ngày một lần tiết tinh.
Tuổi năm mươi, hai mươi mốt ngày một lần tiết tinh.
Tuổi sáu mươi, xong rồi, bế tinh không cho chảy ra nữa. Nếu như thể lực còn như tuổi trẻ, thì một tháng một lần cho tiết tinh ra. Phàm khí lực của người ta, tự nghĩ thấy có sự to khỏe hơn người, cũng không thể nhịn mãi được, để lâu dài mà không cho tiết ra, để đến nỗi mọc ra mụn nhọt. 
Nếu như tuổi đã quá sáu mươi, mà cứ một số tuần không được giao tiếp, trong ý thấy bình bình, có thể bế tinh không cho tiết.

Thái Nữ hỏi: Nam thịnh suy, dấu hiệu của nó như thế nào?

Bành Tổ trả lời rằng: Dương thịnh đắc khí thì dương vật phải nóng, dương tinh đậm đặc mà ngưng.

Cái sự suy có năm điều:

1. Một là tinh tiết mà ra, thì khí bị hại.
2. Hai là tinh trong mà ít, cái đó là thịt bị hại.
3. Ba là tinh xanh mà hôi, đó là gân bị hại.
4. Bốn là tinh ra mà không bắn vọt ra, đó là xương bị hại.
5. Năm là dương vật mềm không dấy lên được, đó là thân xác bị hại.

Phàm đám tổn hại đó đều do không từ từ khi giao tiếp, mà đột nhiên làm thô bạo cho chảy tinh ra.
Cách chữa: Chẳng qua chỉ là ngự mà không cho chảy tinh ra, không quá một trăm ngày tất khí lực lại tăng lên gấp trăm lần.

Hoàng Đế nói rằng: Người ta khi mới sinh ra, vốn là ở thai hợp âm dương, khi thai hợp âm dương tất phải tránh"Chín cái nguy hại" (ương), chín cái nguy hại (lúc giao hợp thụ tinh sinh con) đó là:

1. Đứa con thụ tinh giữa ngày, sinh ra thì hay nôn mửa, đó là một.
2. Đứa con thụ tinh nửa đêm, thiên địa bế tắc, không câm điếc thì mù, đó là hai.
3. Đứa con thụ tinh ngày nhật thực, thân xác khi bị đâm thì hủy hại (hoại tử), đó là ba.
4. Đứa con thụ tinh khi có sấm sét, trời giận dữ nổi oai lên, tất dễ bị cuồng, đó là bốn.
5. Đứa con thụ tinh ngày nguyệt thực, cả mẹ và con đều gặp hung, đó là năm.
6. Đứa con thụ tinh lúc có cầu vồng (hồng hoàng ??), sẽ làm việc chẳng lành, đó là sáu.
7. Đứa con thụ tinh ngày đông chí, hạ chí, sống làm hại cha mẹ, đó là bảy.
8. Đứa con thụ tinh ngày huyền vọng, tất sẽ làm loạn binh gió mù (tất vi loạn binh phong manh), đó là tám.
9. Đứa con thụ tinh lúc no say, tất làm bệnh hủi nhọt (lại thư), trĩ có mụn, đó là chín.
(chữ thụ tinh ở các đoạn trên là lúc giao hợp mà thành thai).

(Chú giải)
Khi tâm lý sợ hãi thì sẽ thụ tinh ra con nhiều hư nhược. Giao hợp man rợ mà làm thành đứa con tính mãnh liệt mà giảo hoạt, bởi vì khi giao hợp xuân tình mãnh liệt cho nên thế. Khi sự nghiệp thất bại mà thụ tinh con thường cứng rắn lẫn lộn với giảo hoạt. Khi say rượu mà thụ tinh con thường hay điên cuồng. Khi lương tâm bị hỏng mất (bại hoại), thụ tinh con thường có tính ác. Khi mắc bệnh hủi thụ tinh con thường bị điên. Khi mắc bệnh hoa liễu ác hóa thụ tinh con thường có bệnh hoa liễu. Khi ý dâm với nét mặt người đàn bà nào đó thì khi thụ tinh con có thể nét mặt giống như ý dâm đó. Khi giao tiếp để sinh con cái, phải biết như thế nào thì chuyền tính tốt, như thế nào thì chuyền tính ác, phải nên xem xét cẩn thận từng việc. Cho nên khi không tỉnh táo thì không thể giao tiếp được.

Tố Nữ nói: Phép cầu con, tự có sự bình thường của thân thể, bỏ sạch những mối lo xa, để yên quần, áo, ý nghĩ trống rỗng trai giới, để đàn bà hành kinh xong ba ngày, vào lúc sau nửa đêm, trước lúc gà gáy, vui đùa làm cho đàn bà động lên thật nhiều, mới đi theo, đúng đạo lý, cùng nhau đến khoái lạc, lùi thân lại mà cho chảy khí ra, lúc này đầu dương vật không quá mạch xỉ, nếu vào xa hơn thì qua cửa tử cung, không vào được trong cổ dạ con, nếu làm đúng như đạo vừa kể, sẽ có được con trai hiền tốt và thọ cao.

Tố Nữ nói: Người ta khi hợp âm dương, phải tránh những điều cấm kỵ, thường dư thừa sinh khí, không thể không sống lâu. Nếu cả cha và mẹ đều già quá, tuy sinh hóa vẫn có con trai, nhưng các con đó đều không sống lâu.

(Chú giải)
Vợ chồng giao hợp, phải tránh cấm kỵ. Nếu vợ quá già, đẻ ra con trai cũng không sống lâu được, vì đứa con đó tiên thiên bất túc (khí huyết của cha mẹ không đủ).

Hoàng Đế nói rằng: Nhập tướng nữ nhân nói: Thế nào gọi là việc đó?

Tố Nữ nói rằng: Nhập tướng nữ nhân:

Tính trời uốn nắn thuận,
Hơi của tiếng nói mềm đi,
Tóc như tơ đen,
Thịt mềm xương nhỏ,
Không dài không ngắn (cao hoặc lùn),
Không to không nhỏ,
Vú ở chỗ cao,
Phía trên cửa mình không có lông,
Nhiều nước tinh,
Tuổi từ hai nhăm đến ba mươi trở lại,
Chưa sinh đẻ.
Khi giao tiếp nước tinh chảy thừa ra, thân thể lắc động, không thể tự định, mồ hôi ra bốn lần (ra rồi lại trốn mất), theo người ta mà nâng lên hoặc dừng, tuy người nam chẳng làm phép gì đó, được người như thế là tốt nhất mà không có tổn hại.

Những điều cấm kỵ:

Ngày hối sóc của tuần trăng (đầu cuối tháng trăng - Mùng 1 và 30 hoặc 29).

Ngày thượng huyền (ngày 7 và 8 ), hạ huyền (ngày 22 và 23), ngày vọng (rằm - ngày 15), sáu ngày bính, sáu ngày đinh, ngày nhật phá, ngày 28.

Ngày gió to, ngày mưa dữ, ngày động đất, ngày sấm sét chớp giật.

Các ngày tiết đại hàn, tiểu thử, xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí, trong vòng năm ngày tống nghinh.

Những điều cấm hành âm dương trong hành niên bản mệnh thì cái cấm đó càng phải coi làm trọng, sau ngày hạ chí mà vào Bính tý, Đinh sửu (nguồn dẫn điều đó dựa vào “Dưỡng nữ tập yếu” cuối câu là Bính ngọ, Đinh tỵ, hạ hữu pháp vân. Nay dựa vào “Ngọc phòng bí quyết” nói là Bính ngọ, Đinh mùi. Hoàng Đế vấn “Tố Nữ kinh” là Bính tý, Đinh sửu. Theo đó thì “Tố Nữ kinh” và “Dưỡng sinh tập” lời văn trong đó giống nhau, duy chỉ có cuối câu là khác nhau). Sau đông chí thì kiêng ngày Canh thân, Tân dậu.

Và vừa mới gội đầu, vừa mới đi xa, mệt mỏi, quá vui quá giận, đều không thể hợp âm dương.

Cho đến năm mà người đàn ông có suy kỵ không thể ngóng vào đó mà cho xuất tinh.

Tố Nữ luận rằng: Ngày mười sáu tháng năm là Ngày trời đất đực cái (16/5 Âm lịch), không thể làm việc phòng sự, phạm vào việc đó không ngoài ba năm tất phải chết! Làm sao mà biết được như thế? Hãy lấy một xích (: xích - thước cổ = 1/3 mét) vải mới, đêm hôm đó treo lên tường phía đông, sáng ngày hôm sau xem đó tất có màu máu, cho nên nhất thiết kiêng tránh đi !!!

Thái Nữ nói: Tại sao lại có Bệnh quỷ giao?

Bành Tổ đáp: Do âm dương không giao, mà tình dục sâu nặng, thì quỷ mị giả làm hình ảnh mà giao thông, với lối giao thông đó, nó thắng người ta, chỗ đó lâu dài thì mê cảm, đã phạm phải lại giấu đi, không nói ra với mọi người, tự cho như thế là đẹp, cho nên đến khi chết cũng chỉ ở có một mình mà không biết.

Nếu bị bệnh như thế, thì cách chữa như sau: Bảo người con gái và người con trai giao nhau, mà nam không cho chảy tinh ra, cứ thế làm ngày làm đêm không nghỉ. Khó khăn lắm cũng không quá bảy ngày thì khỏi.

Nếu như thân thể mệt mỏi không thể ngự một mình được, thì ấn sâu vào mà không động cũng tốt.

Không chữa thì chết người không quá mấy năm.

Muốn nghiệm sự thực, đến giữa xuân giữa thu, vào trong một cái đầm lớn trong khe núi sâu, không có làm gì hết, hướng về phía xa hết tầm, ý nghĩ chỉ chứa giao hội âm dương, sau ba ngày ba đêm, thì thân thể hấp cái hàn nhiệt đó, tâm phiền mắt hoa, con trai nhìn thấy con gái, con gái nhìn thấy con trai, sẽ làm việc giao hợp âm dương, cái đẹp thắng người ta, tất nhiên bệnh khó chữa, cái khí oán nó trống rỗng, làm cho tà khí có chỗ lấn chiếm, đời sau tất phải có như thế.

Nếu như ở nơi người con gái nhà dòng dõi quý tộc, không được giao cùng với con trai, để trị được chứng đó phải lấy mấy lạng Thạch lưu hoàng, đốt để hun ở cửa mình người đàn bà đó, và cho uống sừng hươu tán nhỏ, đong thuốc bằng phương thốn chủy (chừng một phần ba thốn khối) thì khỏi, phải nhìn thấy quỷ chảy nước mắt nước mũi mà đi.

Lại có một phương nữa: Uống Lộc giác bằng phương thốn chủy, ngày ba lần, lấy khỏi làm mức.

(Chú giải)
Phương thốn chủy là một loại đồ dùng để đong thuốc bột thời xưa, nó giống như cái trâm cài tóc của đàn bà, nếu đem cái trâm cài tóc mà hót bột thuốc lên, vuông đúng một thốn, gọi đó là “phương thốn chủy”.

Thái Nữ nói rằng: Việc giao tiếp, đã được nghe, giám hỏi Ăn uống các thứ thuốc như thế nào cho có hiệu quả?

Bành Tổ đáp: Làm cho người đàn ông khỏe mãi không già, việc trong phòng không lao tổn, khí lực và nhan sắc không suy, đó là Sừng hươu già.

Cách đó lấy sừng hươu cạo cho nhỏ mười lạng, nghiền chung với một củ bát giác phụ tử sống, uống bằng phương thốn chủy, ngày ba lần thì rất tốt (nhật tam đại lương).

Cũng có thể đun sừng hươu làm cho chín vàng, uống riêng nó thôi, cũng làm cho người ta sống lâu không già, nhưng sức của thuốc chậm không bằng dùng phụ tử, uống cái đó hai mươi ngày thì thấy công hiệu (đại giác).

Cũng có thể dùng Lũng tây đầu Phục linh, chẻ ra giã nhỏ rồi rây lấy bột, uống bằng phương thốn chủy, ngày uống ba lần, làm cho người ta trường sinh, việc trong phòng (giao hợp) không bị suy.

Hoàng Đế hỏi Tố Nữ đáp lại rằng: Người con gái ở tuổi hăm tám, hăm chín, hoặc hăm ba, hăm bốn, âm khí thịnh, muốn được con trai, không thể tự kìm hãm được, ăn uống không biết ngon, trăm mạch ở thân người đều động, tim mạch thực, mồ hôi ra bẩn cả quần áo, trong cửa mình người con gái, có sâu như đuôi ngựa, dài ba phân, đầu đỏ thì bứt rứt (muộn), đầu đen thì có bọt.

Phương chữa cái đó: Dùng miến làm thành cái dương vật, dài ngắn to nhỏ thì tùy ý, lấy tương và quả bông kết hai thứ lại, nạp vào trong cửa mình, thì trùng làm cho ra lại, ra thì lại cho vào, như là được chồng, trùng đó nhiều thì có ba chục con, ít thì chừng hai chục.

Hết Tố Nữ kinh
__________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét