Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013

Linh thiêng ngôi đền có phiến đá bà mẹ sinh con

Tọa lạc dưới chân núi Ngũ Nhạc (thôn An Mô, xã Lê Lợi, Thị xã Chí Linh, Hải Dương), khu di tích đền Sinh, đền Hóa được biết đến là vùng thắng tích núi non hùng vĩ gắn với những câu chuyện nhuốm màu sắc huyền bí.
Đặc biệt, tại đây có khối đá hình phụ nữ đang sinh con - tương truyền là dấu tích của Đức Thánh Phi Bồng càng khiến cho ngôi đền trở nên linh thiêng. Đây là một khối đá tự nhiên, cao khoảng 3m, rộng bằng 2 chiếc chiếu.
Theo giải thích của dân làng, đây là thạch mẫu đã hạ sinh Đức thánh Phi Bồng. Khối đá tròn nằm ở vị trí trên cùng là đầu, khối đá phía dưới là bầu ngực, hai khối đá lớn, dài hai bên là đầu gối, ở giữa hai đầu gối có hai khối đá tượng trưng nơi sinh nở và bào thai đang chào đời. Hai khối đá mé ngoài cùng là bàn chân.
Theo truyền thuyết, bấy giờ là giờ thân ngày 8 tháng 5. Khi mặt trời đã gác núi, trẻ mục đồng trang Yên Mô lúc này đang tụ tập tại nơi đây chợt nghe có tiếng trẻ nhỏ khóc dưới núi bèn gọi nhau đến đó, thấy một hài nhi dáng vẻ khôi ngô, thiên tư đĩnh ngộ nằm trên chỗ lõm của hòn đá mà khóc vang như tiếng chuông lớn. Bọn trẻ bèn  lấy nón che phía trên, bế bồng mà đón về. Đến vị trí đền Hoá bây giờ, bỗng nhiên gió mưa sấm chớp đùng đùng, cát bay đá cuộn khắp nơi. Đứa trẻ đó hét lên một tiếng rồi vọt thẳng lên trời; Bọn trẻ đều nghe trên không trung có tiếng nói vọng rằng: Ta là Phi Bồng Hạo Thiên Đại tướng quân giáng hạ, nhưng đã lộ trong cõi trần thế nên lại phụng chiếu về chầu thượng đế. Bọn trẻ đều kinh sợ, khi về nói lại cho mọi người, mọi người tụ họp ở nơi đó thấy hòn đá bị mài mòn khoảng hơn một thước, rất lấy làm kinh ngạc, liền lập miếu phụng thờ. Từ đó anh linh hiển ứng, bảo hộ cho dân được khoẻ mạnh, giàu có vậy. Đến triều Trần Nhân Tông, quân Nguyên kéo sang xâm lược. Bấy giờ Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn phụng mệnh cầu đảo bách thần, dấy binh xuất chiến. Một hôm truy đánh giặc Nguyên đến đất huyện Phượng Nhãn thì gặp quân Nguyên theo đường thuỷ tiến đến. Tiết chế liền hội quân đồn trú tại Côn Sơn. Trong khi sĩ tốt nấu ăn, tiết chế bèn vào hành lễ cầu đảo tại đền thờ Yên Mô, ước nguyện được âm phù. Đêm đó nằm ngủ trước án thờ trong đền, đến nửa đêm thì gặp một ông lão râu tóc trắng xoá, đi từ phương Bắc vào trong đền, tự xưng là quan thiên thần tên là Phi Bồng Hạo Thiên giáng xuống hòn đá thời Tiền Lê, nay nghe quốc lão phụng mệnh đánh giặc Nguyên đi qua đất này nên muốn phù giúp, đợi khi bình định giặc xong mong vua ban sắc phong, ngôi  vị linh hiển. Khoảng khắc sau, tiết chế tỉnh dậy, mới biết là mộng gặp thần, liền làm lễ cảm tạ. Bỗng trời đất thay đổi, mây đen bốn bề kéo về, mưa gió ập đến, tiếng ầm ù như sét, thuyền bay lên bờ. Tiết chế vỗ tay nói: Lòng trời thương đến cho được âm phù bèn hô sĩ tốt mấy trăm ngàn cùng đuổi quân giặc đến sông Bạch Đằng quyết chiến một trận, quân Nguyên đại bại, kinh sư khải hoàn, nhà vua mở tiệc khao thưởng, phong Trần Hưng Đạo làm Quốc Lão Đại Vương. Đại vương tấu rằng: Quân Nguyên sớm bình định là nhờ sức phù trợ ngầm của thần linh. Vua nghe được truyện đó liền sai sứ giả sắc phong bách thần, sắc phong nguyên tự thần hiệu: Phi Bồng Hạo Thiên Tối Linh thượng đẳng thần, sắc chỉ ban cho thần tử ở xã Chi Ngại, Yên Mô, huyện Phượng Nhãn cùng các trang ấp nghênh đón mĩ tự của thần về lập đền, điện thờ tự.
Cũng theo người dân ở thôn An Mô, chính khối đá này cùng những câu chuyện lưu truyền trong dân gian về Đức Thánh Phi Bồng đã khởi nguồn một nghi thức tồn tại hàng trăm năm nay, đó là tục cầu tự (xin con) tại đền Sinh.  Nghi thức này xuất hiện từ thế kỷ thứ 6. Thuở ấy, có hai vợ chồng ông Chu Thức và bàHoàng Thị Ba ở trang Phấn Lôi (xã Thắng Cương, Yên Dũng, Bắc Giang ngày nay) đã ngoài 50 tuổi mà chưa sinh được một mụn con. Một đêm, ông bà được báo mộng đến miếu gianh bên trang An Mô (sau này là đền Sinh) mà cầu.  Hai vợ chồng liền sắm lễ vật sang miếu. Sau khi làm lễ, bước ra đến cửa, hai vợ chồng thấy một dấu chân. Bà Ba ướm thử thấy vừa như in, vết chân cũng biến mất. Quả đúng như giấc mộng, sau khi làm lễ, về nhà bà có mang rồi hạ sinh một cậu con trai đặt tên là Phúc Uy mặt mũi khôi ngô.

Năm 15, 16 tuổi Phúc Uy đã văn võ song toàn. Năm 19 tuổi, ông được vua Lý Nam Đế cử cầm quân đánh giặc Lương. Thắng giặc, ông được phong làm trấn thủ xứ Hải Dương. Sau, quân giặc lại kéo sang, ông tử trận bên Việt Yên, Bắc Giang và được lập đền thờ ở đó. Từ đó, những người hiếm muộn lại tìm về đền Sinh với mong muốn sinh được con.
Khánh Chi (TTVN)
Tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét