Vĩnh
Phúc là miền đất địa linh nhân kiệt. Vẻ đẹp của miền đất này đã in đậm
trong tâm trí của nhiều du khách khi đặt chân đến nơi đây. Miền đất này
đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự tàn phá của tự nhiên nay vẫn
còn dày đặc những di tích lịch sử trải khắp 9 huyện thành thị đã chứng
minh cho bề dày truyền thống văn hóa. Nơi đây còn có thắng cảnh nổi
tiếng và lòng hiếu khách.
Huyện Yên Lạc vốn là vùng đất cổ của Vĩnh Phúc, với
dấu ấn của người Việt đã tồn tại nơi đây hàng ngàn năm, các tầng văn hóa
tồn tại nối tiếp nhau, dày và phong phú. Nhiều nhất và đáng chú ý nhất
là những dấu ấn của thời đại Hùng Vương. Thời đại Hùng Vương là thời kỳ
khởi đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam cùng với truyền thuyết Cha Rồng -
Mẹ Tiên sinh ra 100 trứng; người con cả trở thành vua lấy hiệu là Hùng
Vương. Xã hội thời các vua Hùng nổi lên nhiều nhân vật kiệt xuất mà qua
truyền thuyết đã được nhân dân tôn thành những vị thánh như: Thánh
Gióng, Chử Đồng Tử, Lăng Thị Tiêu, Sơn Tinh, Thủy Tinh… Yên Lạc có rất
nhiều những di tích, những huyền tích mang dấu ấn của thời đại này, tiêu
biểu là Di chỉ Khảo cổ Đồng Đậu, đền Bắc Cung và đền Tranh.
Nằm ngay dưới chân ngọn núi thiêng, Yên Lạc nói riêng
và Vĩnh Phúc nói chung đều có những dấu ấn tiêu biểu của thời kỳ đầu
dựng nước. Là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đây đã in dấu chân của
người Việt cổ khi di cư đi tìm vùng đất mới. dấu ấn đầu tiên đó chính là
việc tìm thấy và khai quật thành công khu di chỉ khảo cổ Đồng Đậu. Đây
là dấu ấn quan trọng cho quá trình hình thành nhà nước đầu tiên của dân
tộc trên lưu vực sông Hồng.
Khu di tích khảo cổ học Đồng Đậu
Đồng Đậu vốn có tên là Gò Đậu (Có rất nhiều cách giải
thích khác nhau về tên gọi, có người giải thích đây là nơi trồng đậu,
cũng có người nói đây là nơi đất lành chim đậu, cây cối tươi tốt); là
một gò đất nổi cao nằm cuối thôn Trung, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc.
Đồng Đậu cách thành phố Vĩnh Yên 9km theo đường chim bay về phía Nam.
Đường giao thông liên huyện Yên Lạc – Vĩnh Tường chạy sát phía Nam di
tích. Gò có diện tích khoảng 8,5hecta, từ Nam đến Bắc rộng khoảng 215m,
từ Đông sang Tây dài khoảng 400m. Đỉnh gò cao 13,6m so với mặt nước biển
và cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 10m. Nhìn tổng quan địa thế khu
vực, gò Đồng Đậu cao ráo, xung quanh tiếp giáp với vùng đồng bằng chiêm
trũng về mạn Đông quanh năm ngập nước. Vùng trũng có diện tích khá lớn,
về phía Bắc có thể thông với đầm Vạc, về phía Nam trước kia có thể thông
với sông Hồng. Như chúng ta đã biết, sông Hồng hiện nay chảy xuôi từ
Tây sang Đông cách di tích Đồng Đậu khoảng 8km. Ngay sát chân gò có rất
nhiều ao đầm, luồng lạch mà nhân dân địa phương gọi là đầm Đậu, ao Náu,
ao Thích, chằm Quan và có thể là dấu vết của sông Loan xưa. Xa hơn nữa
là những đầm Rưng, đầm Yên Phương, đầm Vạc, hồ Đồng Văn. Từ Đồng Đậu du
khách có thể phóng tầm mắt ra bốn phương ngắm nhìn phong cảnh thiên
nhiên nơi này như một bức tranh nên thơ. Xa xa phía Tây là dãy núi Ba Vì
xanh lam đậm nét, phía Đông Bắc là dãy núi Tam Đảo vươn cao hùng vĩ.
Gần hơn là dòng sông Loan và các ao hồ lấp lánh, trước mặt là những cánh
đồng lúa nước, những ruộng rau xanh mướt, sau lưng là những xóm làng
cao ráo, trù phú được bao bọc bởi những lũy tre làng. Với địa thế là
vùng đất màu mỡ cùng với những dấu vết lưu lại cho thấy khu vực này từ
xa xưa đã nằm xát ngay trung tâm kinh tế chính trị của đất nước và cũng
có thể nơi đây chính là một trong những trung tâm văn hóa tiêu biểu thời
kỳ Văn Lang. Từ khi chưa có những phát hiện khảo cổ, người dân nơi đây
đã có những suy nghĩ mộc mạc “đụng đến gò Đậu là đụng đến mồ mả cha ông,
tổ tiên mình” nên mọi người đều có ý thức bảo vệ, giữ gìn nên khu gò
Đậu mới được nhe ngày nay.
Gò Đậu đã trải qua bảy lần khai quật bắt đầu từ tháng
11 năm 1965. Đặc biệt ở lần khai quật thứ ba, gò Đậu đã vinh dự được cố
thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm và trực tiếp chỉ đạo. Trải qua những
lần khai quật, hàng vạn hiện vật đã được phát hiện trong đó có những
hiện vật quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu như: Ngôi mộ táng
của người Việt cổ có niên đại 2000 - 3000 năm, các dụng cụ săn bắn được
làm bằng xương, đồng thau, các khuôn đúc, đồ dùng cá nhân… Qua các hiện
vật khai quật được đã phản ánh nếp sống sinh hoạt của cư dân xa xưa. Ở
Đồng Đậu, các tầng văn hóa gồm nhiều lớp nối tiếp nhau tạo nên sự phong
phú và đa dạng các hiện vật. Với những di vật được phát hiện, Đồng Đậu
là khu khảo cổ có nhiều nhất di vật bằng xương được tìm thấy trên cả
nước. Hiện nay các hiện vật đều được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Vĩnh
Phúc để nhân dân tham quan và tìm hiểu. Ngày 21 tháng 4 năm 2000, Khu Di
chỉ khảo cổ học Đồng Đậu đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa
cấp quốc gia.
Đền Thính
Một di tích quan trọng khác trên miềm đất Yên Lạc địa
linh mà du khách không thể bỏ qua trong hành trình theo dấu chân Hùng
Vương đó chính là đền Thính, hay còn gọi là đến Bắc Cung thờ vị thánh
trong Tứ Bất Tử của Việt Nam – Thánh Sơn Tinh. Sơn Tinh vốn là con rể
của vua Hùng Duệ Vương đã cùng các bậc trung thần, tướng lĩnh tài ba
trong phổ hệ bách thần sơn thuỷ từ Thuỷ Tổ Âu Cơ đánh dẹp ngoại bang xâm
lấn bờ cõi, giữ vững ổn định biên cương. Ông đặc biệt có tài trị thủy,
giúp vua cha chiến thắng thuỷ thần. Ngài là hiện thân của khát vọng làm
chủ thiên nhiên, chiến thắng thời tiết của người dân Việt cổ. Đền Thính
nằm tách biệt khỏi khu dân cư giữa cánh đồng thuộc xã Tam Hồng, cách
trung tâm huyện lỵ Yên Lạc khoảng 1km về phía Tây. Gọi là đền Thính vì
nhân dân kiêng chữ huý chữ Thánh trong bài vị Tản viên sơn Thánh, nên
gọi chệch đi. Cũng có sự giải thích khác rằng sau khi chiến thắng Thủy
Tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua
Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị
thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng,
Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá. Dân làng kéo
tới nơi Đức Thánh nghỉ chân chỉ thấy ở đó còn sót lại một số gói thính
nên sau này, đền có tên gọi là Đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng
khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dạy dân làm thịt lợn với
thính gạo nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Đền được xây dựng từ
rất lâu, nhưng theo thời gian đã bị tàn phá đi nhiều. Từ năm 1902 đến
năm 1921, các triều đại vua nhà Nguyễn đều quan tâm, trùng tu và xây mới
thêm các hạng mục công trình của đền. Trong vòng 20 năm, việc xây dựng mới hoàn thành và ngôi đền có cấu trúc như hiện nay. Trong khoảng diện tích 2000m2,
khu đền gồm tiền tế 7 gian, hậu cung 7 gian nối nhau theo kiểu chữ
“đinh”. Song song với hậu cung, hai bên có nhà hành lang, phía trước có
sân lễ hội, ao đền, ngoài cùng có nghi môn ngoại ngăn cách không gian
thờ tự trong cảnh quan thanh tĩnh, mát mẻ với hàng cây cổ thụ; cổng đền
được cấu tạo như kiểu tam quan, cổng vào đền kiến trúc kiểu 2 tầng 8
mái, toà tiền tế cũng được nâng mái theo lối “chồng diêm”, 2 nhà hành
lang tả, hữu nằm nối theo lầu chuông, lầu trống như 2 thân rồng chầu,
tạo nên bố cục tổng thể không gian kiến trúc khá sinh động. Từ tiền tế
trở vào, hậu cung gồm 7 gian, các cửa võng đục chạm cầu kỳ, sơn son thếp
vàng với các đề tài tứ linh “long - ly - quy – phụng” hoặc tứ quý “tùng
- cúc – trúc - mai”. Mỗi lớp cửa là một tác phẩm điêu khắc độc đáo,
mang phong vị riêng, cùng với kỹ thuật chạm lộng vô cùng tinh xảo đến
từng chi tiết đã thể hiện sự tài hoa tuyệt mỹ về nghề chạm gỗ dân gian
nửa đầu thế kỷ XIX. Còn có các bức chạm ở cốn mê, cốn nách, các bức phù
điêu bằng gỗ khắc hoạ hình tượng văn quan, võ tướng, là những tác phẩm
nghệ thuật quý hiếm và đặc biệt của di tích. Hai bức hình hoạ trên tường
toà tiền tế cũng là những tác phẩm nghệ thuật hội hoạ đặc sắc, với đề
tài thiên nhiên cây cảnh ấp ôm, hoà quyện với mái cong ngôi chùa làng,
ẩn hiện trong sương mờ khói toả chiều lam. Với bút pháp trữ tình, nghệ
thuật dùng màu nước trên chất liệu vôi gạch mà những bức bích hoạ tồn
tại cả trăm năm còn nguyên tươi màu sắc mới thấy hết những giá trị văn
hoá, giá trị nhân văn, giá trị truyền thống đáng trân trọng đến nhường
nào. Hàng năm, lễ hội đền Thính được diễn ra từ ngày mùng 6 đến ngày
mùng 9 tháng Giêng Âm lịch. Sau phần lễ linh thiêng và trang trọng là
phần hội với rất nhiều hoạt động phong phú như các trò chơi dân gian:
Chọi gà, đấu vật, đánh cờ người, đu cây, kéo co, bóng chuyền. Các cuộc
thi múa hát dân ca, dân vũ của các làng, trống hội. Nhân dân trong vùng
và khách thập phương từ mọi miền Tổ quốc về hội đền Bắc Cung rất đông.
Mỗi năm có trên một triệu lượt khách thập phương đến vãn cảnh, cầu bình
an, hạnh phúc. Nhân dân Tam Hồng mỗi khi xuất hành đi xa, hay xây dựng
nhà cửa, con cháu học hành thi cử đều thành tâm ra lễ đền xin được Thánh
phù hộ. Lễ hội đền Bắc Cung không chỉ là không gian sinh hoạt văn hóa,
tinh thần nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà
còn là điểm thăm quan của nhân dân Vĩnh Phúc và cả nước.
Đền Tranh
Ngoài đền Thính, Yên Lạc còn có một ngôi đền khác
trong hệ thống thờ thánh Tản Viên đó chính là đền Bắc Cung Thượng thuộc
xã Trung Nguyên.Nhân dân xã Trung Nguyên thường gọi đền Tranh do đền nằm
ở xóm Tranh (nay là xóm Hoàng Thạch). Đền nằm trên một khu đất rộng,
bằng phẳng, dưới những tán cây cổ thụ um tùm, ba mặt giáp cánh đồng;
dòng sông Phan hiền hòa, thơ mộng ngăn cách đền với khu dân cư trù phú.
Đền hướng tây nam, kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm hai tòa tiền tế và hậu
cung. Nhà tiền tế khang trang, chắc chắn theo kiểu ba gian hai dĩ, mái
lợp ngói âm dương, có gian thờ Mẫu Đức Thánh Tản và nơi nghỉ chân cho
khách thập phương đến làm lễ. Mặt trước xây thành ba cửa vòm thanh
thoát, trên đắp hình cuốn thư. Cửa giữa có đôi câu đối: “Tây Tản di
truyền trúc tượng anh linh phù quốc thịnh/ Bắc Cung hữu tích ước thư
diệu pháp hộ dân khang” (Núi Tản truyền lại có gậy thần phù nước thịnh/
Người có sách ước, nơi nào có đền thờ dân được an khang). Ba gian giữa
bộ kèo kết cấu theo kiểu giá chiêng, hai gian cuối kiểu chồng rường.
Gian chính giữa đặt bàn thờ và các đồ thờ. Hai gian bên thờ quan văn,
quan võ. Hậu cung dài 7m, rộng 5m, ngăn với tòa tiền tế bởi hai cửa
ngách và cửa võng. Hệ thống cột gỗ trong đền được đặt trên đá tảng hoặc
vuông vắn. Những bức chạm trong đền tuy không nhiều nhưng có giá trị
thẩm mỹ cao, độc đáo, tinh vi, mang đặc trưng di tích vùng Đồng bằng
trung du Bắc Bộ; nghệ thuật trang trí cuối Lê, đầu Nguyễn. Hằng năm, vào
các ngày Rằm tháng Giêng, ngày 6-2 và 6-8 (Âm lịch), đền Tranh đều tổ
chức lễ hội với nhiều hình thức diễn xướng, khai sắc nhắc lại công lao
của đức Thánh Tản Viên; tiến hành nghi lễ nông nghiệp như gieo hạt, làm
đất, chăm bón... cầu mùa màng bội thu. Trong lễ hội diễn ra nhiều trò
chơi: Đu tiên, bơi thuyền, bắt vịt, lăn vòng, leo cây, vật, cờ tướng,
thổi hiệu cốc quân... thu hút đông đảo nhân dân tham gia, phục vụ nhu
cầu hưởng thụ văn hóa vui tươi, lành mạnh và giáo dục truyền thống đoàn
kết cho thế hệ trẻ. Đền Tranh là một trong 700 di tích của hệ thống các
di tích thờ cúng các vua Hùng và tướng lĩnh, Tản Viên Sơn Thánh và Hai
Bà Trưng trong 200 làng xã của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong đền còn lưu giữ
được một số tác phẩm nghệ thuật điêu khắc dân gian có trình độ kỹ thuật,
thẩm mỹ cao, có giá trị về lịch sử với dáng dấp của nghệ thuật điêu
khắc gỗ ở cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, di tích là nơi sơ tán của một số cơ quan Trung ương. Hiện đền
còn dấu tích của hầm bí mật, nơi tụ họp của du kích địa phương trong
kháng chiến chống Pháp.
Theo dấu chân Hùng Vương trên miền đất cổ Yên Lạc có
thể sẽ trở thành tuyến du lịch đặc trưng của Vĩnh Phúc nếu được nghiên
cứu sâu hơn, được đầu tư nhiều hơn trong việc tu bổ, tôn tạo các di
tích, duy trì và làm phong phú thêm các lễ hội. Thêm vào đó có thể xây
dựng các dịch vụ du lịch, các điểm vui chơi giải trí, ăn uống, nghỉ
ngơi, mua sắm tại địa phương… thì rất có thể đây sẽ là tuyến du lịch đặc
trưng cho những du khách có khát vọng tìm về cội nguồn.
Văn Vượng - XTDL
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét