Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2014

Thăm mộ Trương Vĩnh Ký - Tổng Biên tập đầu tiên trong làng báo Việt Nam

Xã hội) - Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học thông thạo 26 ngoại ngữ, nhà giáo dục học, và khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam với trên 100 tác phẩm các loại.

Khu nhà mộ và chân dung Trương Vĩnh Ký (ảnh TL)Khu nhà mộ và chân dung Trương Vĩnh Ký (ảnh TL)

Riêng đối với nền báo chí quốc ngữ, ông được coi là “ông tổ nghề báo Việt Nam”, người đặt nền móng, bởi ông chính là người sáng lập, là Tổng Biên tập tờ báo quốc ngữ đầu tiên - Gia Định báo.
Xin hãy thương tôi
Tôi tìm đến mộ Trương Vĩnh Ký vào một buổi chiều. Không như nhiều bài báo nói rằng mộ ông khó tìm, khu mộ này rất dễ tìm thấy vì nó nằm ngay góc đường Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng, quận 5, TP.HCM. Cổng chính ở số 520 Trần Hưng Đạo, còn cổng phụ đường Trần Bình Trọng đã bị bít lại. Có khó tìm chăng là do ta không biết trước, vì nơi đây không hề có bảng biển gì cho biết đây là mộ của một danh nhân. Theo tư liệu gia đình, khu mộ phần này được xây dựng trước khi Trương Vĩnh Ký mất (năm 1889), khi đó gọi là Chợ Quán, Sài Gòn. Mộ được xây dựng ngay tại khu sinh phần của dòng họ.
Bên cạnh khu mộ là ngôi nhà cổ với kiến trúc ba gian hai chái truyền thống. Bên trong có treo bức hình chụp cả nhà họ Trương trong ngày chôn cất Trương Vĩnh Ký. Theo con cháu Trương Vĩnh Ký hiện vẫn còn sinh sống tại đây, ngôi nhà này là do đích thân ông chỉ huy xây dựng. Đây cũng là nơi ông sống và làm việc vào những ngày cuối đời.
Khu lăng mộ Trương Vĩnh Ký là công trình kiến trúc độc đáo của Sài Gòn xưa. Ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa các trường phái kiến trúc Đông - Tây, kim - cổ. Cổng vào lăng mộ được xây theo kiến trúc đình, chùa phương Đông với cổng Tam quan, cột hai bên đều có câu đối chữ Hán. Nhưng trên nóc cổng lại có gắn một cây Thập giá của đạo Thiên chúa. Giữa cổng có khắc hàng chữ La tinh trích từ Cựu ước: “Miseremini mei saltem vos acimic mei” - “Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi” như một lời nhắn gửi của học giả họ Trương.
Nhưng không phải chỉ có cửa chính đề chữ La tinh, mà hai cửa còn lại cũng ghi dòng chữ lấy từ Kinh Thánh có nghĩa là “Kiến thức của con người - Đó là nguồn sống”  “Những ai sống và tin Ta sẽ không phải chết đời đời”.
Bước vào trong nhà mồ, chúng tôi ngạc nhiên về sự trống trải, khiêm nhường của nó. Chính giữa là một bàn thờ chung của gia tộc. Mộ của học giả, nhà báo Trương Vĩnh Ký không có nấm mà bằng phẳng với nền nhà, đọc bia mộ mới biết ông nằm giữa hai người thân. Bên trái là phu nhân Vương Thị Thọ, bên phải là người con trai trưởng Trương Vĩnh Thế…
nha bao truong vinh ky, mo truong vinh ky, nha bao, bao chi cach mang, phong vien, tin, bao
Bên trong nhà mộ, chính giữa là bàn thờ chung
Gia Định báo
Trương Vĩnh Ký chôn nhau cắt rốn ở Cái Mơn, Bến Tre và mồ côi cha từ năm mới 8 tuổi. Ông sớm được đi học chữ Hán với một thầy đồ trong làng. Sau đó một cố đạo chịu ơn của cha ông đã khuyên mẹ ông cho ông đi học chữ Quốc ngữ và cải theo đạo Công giáo. Vì thế, ông có tên là Pétrus Trương Vĩnh Ký, viết và gọi tắt là Pétrus Ký.
Năm 11 tuổi (1848), Pétrus Ký được theo  học một Linh mục người Pháp giữ chức Cai tại trường đạo Pinha-lu ở Phnom Penh. Ở đây, có các học sinh là người Cao Miên (Campuchia), Ai Lao (Lào), Miến Điện (Myanma), Trung Quốc... ông lân la làm quen và rồi học luôn các thứ tiếng ấy.
Năm 1851, Pétrus Ký lại được gửi vào trường đạo ở Penang (nay thuộc Malaysia). Trong khoảng thời gian theo học tại đây, ông còn học thêm các thứ tiếng khác, như: Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Mã Lai, Nhật Bản, Hy Lạp, Thái Lan, Pháp...

Ngày 8/5/1862, Pháp thành lập trường Thông ngôn, ông được nhận vào dạy. Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn do Phan Thanh Giản đứng đầu sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ,  Phan Thanh Giản đã xin Pétrus Ký đi theo làm thông ngôn.
Ông cộng tác với Pháp, mặc dù chỉ là học quan nhưng cũng khiến một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ. Nhưng sau nhiều suy tính, ông nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, trước hết là trong phương diện văn hóa, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu cách ngôn Latinh “Ở với họ mà không theo họ”, để làm phương châm khi nhận lời làm việc cho Pháp. Mặc dù làm việc cho thực dân Pháp, nhưng khi sưu tầm và chú thích bản “Gia Định thất thủ vịnh”, Trương Vĩnh Ký vẫn gọi Pháp là “giặc”.
Hoàn cảnh của ông có nét tương đồng với Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) làm thông ngôn cho Pháp nhưng luôn trăn trở  và hiến kế cho triều đình về việc chống Pháp. Nguyễn Trường Tộ từng có dự định làm nội ứng cho một cuộc nổi dậy đánh đuổi giặc Pháp, đòi lại Nam Kỳ.
Ngày 8/11/1870, Trương Vĩnh Ký có lời di huấn “Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hễ nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khói. Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong”...
Ông viết khiêm nhường vậy nhưng đóng góp của ông cho văn hóa Việt sẽ không bao giờ mất, chỉ riêng Gia Định báo thôi đã là một đóng góp hết sức lớn lao. Đây là tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt mới (chữ Quốc ngữ), được ra mắt vào ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn. Đây là phương tiện truyền thông đầu tiên hoàn toàn mới mẻ, làm cho tiếng Việt mới có cơ hội phổ biến trong dân chúng. 
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và tạp vụ, sau đó thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích cho tờ báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa mà góp phần cổ động việc học chữ quốc ngữ và lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí hiện đại Việt Nam. Vì thế sau này có người nhận xét: “Cũng như một số văn sĩ sinh ra ở miệt vườn phương Nam, nhà báo họ Trương chủ trương dùng một thứ chữ dễ dãi, như tiếng nói thường ngày, không một chút chải chuốt, sang sửa, viết như nói, không hoa mỹ, cầu kỳ, nhưng có ý thức giữ gìn sự trong sáng, phong phú của ngôn ngữ dân tộc, nhưng không dung tục, thực dụng, ngôn ngữ vỉa hè, văn chương cống rãnh, mà là ngôn ngữ của những người bình dân tự trọng, có văn hóa”.
Đến năm 1897, Gia Định báo chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lê Nguyễn nhắc lại một cứ liệu xác định Gia Định báo tồn tại đến ngày 31/12/1909 (44 năm), và chính thức đình bản vào 1 tháng 1 năm 1910.
nha bao truong vinh ky, mo truong vinh ky, nha bao, bao chi cach mang, phong vien, tin, bao
Bia mộ Trương Vĩnh Ký (Ảnh: Hoài Nhân)
Giải phóng câu văn Việt
Đứng lặng lẽ trong ngôi nhà mộ học giả uyên bác, vị Tổng Biên tập tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam nhìn ra khu mộ chung của gia tộc ông đổ nát qua biết bao nắng mưa, thay đổi, nghĩ đến lời cầu xin “Xin hãy thương tôi…” của ông mà không khỏi ngậm ngùi.
Ngôi nhà mồ đã phản ánh phần nào con người uyên bác, chủ động hội nhập với phương Tây nhưng vẫn là người Việt thuần túy từ hình thức đến tâm hồn. Bạn bè cùng thời dù hết lời khuyên can ông cũng không chịu mặc Âu phục, lúc nào cũng khăn xếp, áo the truyền thống, ông cũng quyết không chịu nhập quốc tịch Pháp. Giáo sư Thanh Lãng từng nhận xét: “Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn... Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”. Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn”.
Vậy là dù uyên thâm Hán học, tiếp thu văn hóa phương Tây nhưng trước sau như một ông là người Việt Nam sống chết, buồn vui với dân tộc mình, mang tri thức đến với đồng bào ông, dù họ là những người quần manh áo vá. Sự nghiệp đồ sộ của ông có thể còn tranh cãi nhưng chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ để hậu thế tri ân ông...

Nguồn Nguyễn Phan Khiêm (CL)

Độc đáo mộ cổ Sài Gòn: Những câu đối bên mộ Trương Vĩnh Ký

Đi trên đường Trần Hưng Đạo, đoạn gần Trung tâm chấn thương chỉnh hình (Q.5, TP.HCM), ít ai biết ở số 520, có nhà mồ cổ - nơi an nghỉ của một người nổi tiếng.

Độc đáo mộ cổ  Sài Gòn: Những câu đối bên mộ Trương Vĩnh Ký - ảnh 1Bên trong nhà mồ Trương Vĩnh Ký - ẢNH: H.Đ.N
Trong nhà mồ, ngoài tấm đá trên mộ Trương Vĩnh Ký còn rõ nét thì mặt nền của 2 ngôi mộ bên cạnh (vợ và con ông) đã bị bong tróc, khó đọc được mặt chữ. Những hậu duệ của cụ Trương hiện đang cư ngụ và buôn bán trong khuôn viên nhà mồ gồm Trương Vĩnh Tấn, Trương Minh Đạt (cháu 4 đời) đều cho biết: “Trước năm 1975, khu vực này là nghĩa trang dòng họ Trương Vĩnh. Những năm sau 1975, cũng có an táng thêm một vài người (do bối cảnh khó khăn lúc đó) nhưng sau này thực hiện đúng chủ trương, vệ sinh môi trường nên từ năm 1980 trở đi đã không còn ai trong dòng họ được chôn cất ở đây!”.
Nhà mồ này nằm ở góc ngã tư Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng, cổng chính nhìn ra đường Trần Hưng Đạo còn cổng phụ trổ ra đường Trần Bình Trọng. Đứng ngoài đường Trần Hưng Đạo nhìn vào nhiều người lầm tưởng đó là một ngôi đình hoặc ngôi miếu gì đó vì cổng được kiến trúc theo kiểu tam quan (một cửa chính, hai cửa phụ). Cổng có ba tầng mái lợp ngói ống, những mái đao cong lên trông cổ kính và rất Á Đông nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một cây thánh giá trên nóc cổng.
Bước vào trong sẽ thấy một khuôn viên khá rộng (khoảng 2.000 m2) mà trung tâm là nhà mồ, nơi an nghỉ của danh nhân Trương Vĩnh Ký - một trong 18 nhà bác học trên thế giới ở thế kỷ 19, bởi ông là người VN duy nhất và cũng là người hiếm hoi trên thế giới thông thạo đến 26 thứ tiếng.
Xin hãy thương tôi...
Nhà mồ hình bát giác (rộng khoảng 50 m2), có kiến trúc kết hợp đông tây rất hài hòa và mỹ thuật (nhà xây kiểu Pháp kết hợp các họa tiết Đông phương) trông thật trang nhã, nhẹ nhàng… Trong tám cạnh, ngoài ba cạnh là cửa vào nhà mồ còn lại là những bức tường có trổ ô thông gió. Mái lợp ngói theo hình nan hoa rẻ quạt (8 cánh) mà chóp mái (tâm điểm) là cây thánh giá. Trên những đường riềm nối mái đều đắp nổi những con rồng, đuôi rồng phía nóc mái uốn lượn xuống đầu rồng ngước lên ở phần mái đao cũng có cây thánh giá… Phần “đông tây - kim cổ” hòa điệu không chỉ ở nghệ thuật kiến trúc mà còn ở “văn chương, chữ nghĩa”, ở hai bên cửa nhà mồ phía chính diện (nhìn ra đường Trần Bình Trọng có khắc câu đối bằng chữ Hán: “Văn chương hồi địa trục/Khí phách quán thiên đường”, nhưng trên nóc cửa lại ghi dòng chữ Latin: “Fons Vitae Eruditio Possidentis” (Tri thức là nguồn sống cho ai sở hữu nó). Tương tự ở cửa phụ nhà mồ (hướng đường Trần Hưng Đạo) hai bên cửa cũng có khắc đôi câu đối bằng chữ Hán và trên cửa có dòng chữ La tinh: “Miseremini Mei Saltem vos Amici Mei” (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi). Cả hai câu La tinh, câu đầu là để khẳng định tư duy của một nhà trí thức, câu sau lại cám cảnh về một phận người rơi vào hoàn cảnh, thời điểm quá éo le và cảm thấy rất cô độc.
Chính Trương Vĩnh Ký đích thân thiết kế và coi sóc việc xây dựng nhà mồ cho mình (dòng chữ lưu dấu tháng, năm hoàn thành công trình còn được chạm nổi trên nóc nhà mồ “Decembre 1898” - cũng là năm ông mất). Ngay chính giữa nhà mồ là 3 phần mộ được lát bằng phẳng với nền nhà (nếu không tinh ý rất dễ nhầm lẫn là nền nhà). Phải nhìn kỹ mới thấy 3 tấm đá khác màu có chiều rộng khoảng 1 m, dài khoảng 2 m, nằm ngang đối diện với đài thờ sát tường trong cùng. Mộ cụ Trương Vĩnh Ký ở chính giữa, là tấm đá trắng đã ngả sang màu vàng nhạt, được trang trí quanh viền bằng một dây lá (không có hoa) đơn giản, trong vòng dây lá đó được khắc vài dòng chữ cực kỳ đơn giản: “J.B Petrus Trương Vĩnh Ký” (2 chữ viết tắt là tên thánh Jean Baptiste). Tấm “bia” nằm này không ghi ngày tháng năm sinh của ông (6.12.1837) nhưng lại ghi rõ ngày ông mất 1.9.1898. Nằm bên phải là mộ phần của vợ ông (bà Vương Thị Thọ), bên trái là con trai trưởng (Trương Vĩnh Thế), 2 phần mộ này có màu đá sậm hơn nhưng mộ của bà và con trai đã có nhiều chỗ bị tróc hỏng. Trần nhà mồ được vẽ lân mã đang vờn nhau trong vòng tròn mây gió.
Những bài thơ trên mộ chí
Bên ngoài nhà mồ, trong khuôn viên khu đất 2.000 m2, phía bên phải có một ngôi nhà gỗ lợp fibro xi măng giả ngói. Trên nóc không có hình tượng cây thánh giá mà là… trái bầu hồ lô với dòng chữ “6 Decembre 1937”. Ngôi nhà gỗ nay cùng vài căn nhà khác xây liền vách là nơi cư ngụ của con cháu, hậu duệ cụ Trương (họ tận dụng những khoảng trống còn lại trong khuôn viên để bán nước giải khát ban ngày, quán ốc ban đêm và cả làm bãi giữ xe... để mưu sinh).
Phía bên trái và phía sau nhà mồ còn có khoảng 60 ngôi mộ lộ thiên (không có nhà mồ) của dòng họ Trương Vĩnh. Đặc biệt trên bia của 2 ngôi mộ có khắc những bài thơ. Mộ của ông Paul Trương Vĩnh Trường (1888 - 1952) khắc “Marie khóc bạn”: Lòng tôi đau đớn quá mình ôi/Những lúc vui xưa đã mất rồi/Ôi trái tim tôi ròng máu chảy/Thương lòng in mãi hỡi mình ơi!”. Lời thơ mộc mạc đầy chất Nam bộ, là nỗi đau sâu kín của người vợ khóc chồng. Dù chỉ ghi là “Marie khóc bạn” nhưng chúng tôi cũng biết được danh tính đầy đủ của người phụ nữ này vì ngay bên cạnh là mộ của bà. Trên bia ghi: Bà Trương Vĩnh Trường, nhũ danh Maria Nguyễn Thị Long (1892 - 1958), bên dưới có bài thơ Cháu khóc Bà: Ngoại có nhớ những giờ phút cay nghiệt/Bà với con cùng giọt lệ chan hòa/Trong ngực bà, con thổn thức thiết tha/Con mất Ngoại, mất bao tình che chở (Monique Kim Hoa).

Độc đáo nhà mồ hình bát giác của ông Trương Vĩnh Ký giữa Sài Gòn

(TNO) Nhà mồ của ông Trương Vĩnh Ký hình bát giác, có kiến trúc kết hợp đông tây rất hài hòa và mỹ thuật, trông thật trang nhã, nhẹ nhàng…

Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 1Nhà mồ học giả Trương Vĩnh Ký tọa lạc tại số 520 Trần Hưng Đạo (góc ngã tư Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng, Q.5, TP.HCM), cổng chính nhìn ra đường Trần Hưng Đạo còn cổng phụ trổ ra đường Trần Bình Trọng. Từ ngoài đường nhìn vào nhiều người lầm tưởng đó là một ngôi đình hoặc ngôi miếu gì đó vì có cổng tam quan (một cửa chính, hai cửa phụ). Cổng có 3 tầng mái lợp ngói ống, những mái đao cong lên trông rất cổ kính và rất Á đông nhưng nếu nhìn kỹ sẽ thấy 1 cây thánh giá trên nóc cổng.
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 2Nhà mồ hình bát giác (rộng khoảng 50 m2), kiến trúc kết hợp đông tây rất hài hòa và mỹ thuật (nhà xây kiểu Pháp kết hợp với các họa tiết Đông phương) trông rất trang nhã, nhẹ nhàng… Trong tám cạnh, ngoài ba cạnh là cửa vào nhà mồ còn lại là những bức tường có trổ ô thông gió. Mái lợp ngói theo hình nan hoa rẻ quạt (8 cánh) mà chóp mái (tâm điểm) là cây thánh giá. Trên những đường riềm nối mái đều đắp nổi những con rồng, đuôi rồng phía nóc mái uốn lượn xuống đầu rồng ngước lên ở phần mái đao cũng có cây thánh giá…
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 3Nhà mồ có 3 cửa, từ đường Trần Hưng Đạo đi vào sẽ gặp cửa phụ, hai bên cửa có câu đối chữ Hán còn trên cửa có dòng chữ Latin: “Miseremini Mei Saltem Vcs Amici Mei” (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi).
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 4Cửa chính của nhà mồ hướng ra đường Trần Bình Trọng, hai bên cửa có đôi câu đối (chữ Hán): “Văn chương hồi địa trục/Khí phách quán thiên đường”, còn trên cửa có dòng chữ Latin: “Fone Vitae Eruditio possidentis” (Tri thức là nguồn sống cho ai sở hữu nó).
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 6
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 7Bên trong nhà mồ, ngay chính giữa nhà mồ là 3 phần mộ được lát bằng phẳng với nền nhà (nếu không tinh ý rất dễ nhầm lẫn là nền nhà). Phải nhìn kỹ mới thấy 3 tấm đá khác màu có chiều rộng khoảng 1m, dài khoảng 2m, nằm hàng ngang đối diện với đài thờ sát tường trong cùng. Mộ cụ Trương Vĩnh Ký ở chính giữa, là tấm đá trắng đã ngả sang màu vàng nhạt, được trang trí quanh viền bằng một dây lá (không có hoa) đơn giản, trong vòng dây lá đó được khắc vài dòng chữ: “Ci-git J.B Truong Vinh Ky Professeur de Langues Orientales Décédé J le 1er Septembre 1898 dans sa 62 année” (Nơi an nghỉ J.B Petrus Trương Vĩnh Ký, 2 chữ viết tắt là tên thánh Jean Baptiste. Giáo sư ngôn ngữ Đông phương. Mất ngày 1.9.1898, thọ 62 tuổi). Bên phải là mộ phần của vợ ông ghi: “Ci-git Maria Truong Vinh Ky née Vuong Thi Tho Décédé le 17 Juillet 1907, dans sa 68 année” (Nơi an nghỉ bà Maria Trương Vĩnh Ký, nhũ danh Vương Thị Thọ, mất ngày 17.7.1907, thọ 68 tuổi). Mộ bên trái là con trai trưởng của ông bà, ghi: “Ci-git J.B Truong Vinh The. Charvalier de la légion d’honneur. Décédé le 16 Octobre 1916 à Cho Quan, dans sa 55 année” (Nơi an nghỉ của J.B Trương Vĩnh Thế, được tưởng thưởng “Hiệp sĩ danh dự”. Mất ngày 16.10.1916 tại Chợ Quán, hưởng dương 55 tuổi). Hai phần mộ này có màu đá sậm hơn và có nhiều chỗ bị tróc hỏng.
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 8Trần nhà mồ được vẽ lân mã đang vờn nhau trong vòng tròn mây gió.
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 9Trong khuôn viên khu đất 2.000m2, phía bên phải có một ngôi nhà gỗ lợp fribo xi măng giả ngói. Trên nóc không có hình tượng cây thánh giá mà là… trái bầu hồ lô với dòng chữ “6 Decembre 1937”
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 10Phía bên trái và phía sau nhà mồ còn có khoảng 60 ngôi mộ lộ thiên (không có nhà mồ) của dòng họ Trương Vĩnh… Những hậu duệ của cụ Trương hiện đang cư ngụ và buôn bán trong khuôn viên nhà mồ gồm Trương Vĩnh Tấn, Trương Minh Đạt (cháu 4 đời) đều cho biết: “Trước năm 1975, khu vực này là nghĩa trang dòng họ Trương Vĩnh. Những năm sau 1975, cũng có an táng thêm một vài người (do bối cảnh khó khăn lúc đó) nhưng sau này thực hiện đúng chủ trương, vệ sinh môi trường nên từ năm 1980 trở đi đã không còn ai trong dòng họ được chôn cất ở đây!”.
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 11
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 12Trong các ngôi mộ trong khu nhà mồ có 2 ngôi mộ trên bia có khắc những bài thơ. Mộ của ông Paul Trương Vĩnh Trường (1888-1952) khắc “Marie khóc bạn”: Lòng tôi đau đớn quá mình ôi/Những lúc vui xưa đã mất rồi/Ôi trái tim tôi ròng máu chảy/Thương lòng in mãi hỡi mình ơi! Lời thơ mộc mạc đầy chất Nam bộ, là nỗi đau sâu kín của người vợ khóc chồng. Dù chỉ ghi là “Marie khóc bạn” nhưng chúng tôi cũng biết được danh tính đầy đủ của người phụ nữ này vì ngay bên cạnh là mộ của bà. Trên bia của ngôi mộ này ghi: Bà Trương Vĩnh Trường, nhũ danh Maria Nguyễn Thị Long (1892-1958), bên dưới có bài thơ “Cháu khóc bà”:Ngoại có nhớ những giờ phút cay nghiệt/Bà với con cùng giọt lệ chan hòa/Trong ngực bà, con thổn thức thiết tha/Con mất Ngoại, mất bao tình che chở (Monique Kim Hoa).
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 13
Mộ của một cụ ông người Pháp tên Pierre Fauquenoi mất ngày 10.11.1975 (tức sau 30.4.1975).
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 14Bên ngoài nhà mồ, trong khuôn viên khu đất 2.000 m2, là nơi cư ngụ của con cháu, hậu duệ cụ Trương (họ tận dụng những khoảng trống còn lại trong khuôn viên để bán nước giải khát ban ngày, quán ốc ban đêm và cả làm bãi giữ xe... để mưu sinh). Trong ảnh là phía bên trái cổng chính (đường Trần Hưng Đạo) được dựng nhà làm bãi giữ xe nhưng cũng không đủ chỗ, nhiều xe dựng bên ngoài.
 Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 5Cổng phụ của khuôn viên nhà mồ trổ ra đường Trần Bình Trọng luôn đóng kín, tận dụng những chỗ trống để làm nơi giữ xe
Chùm ảnh nhà mồ Trương Vĩnh Ký 16
15
Tượng Trương Vĩnh Ký trong khuôn viên Đại chủng viện Thánh Giuse (6 Tôn Đức Thắng, Q.1, TP.HCM) chụp ngày 16.9.2015
Hà Đình Nguyên 
(thực hiện)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét