Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

10 điều thú vị và bất ngờ về Lê Hiển Tông Hoàng đế!

Lê Hiển Tông tên thật là Lê Duy Diêu, theo mô tả của sử sách, ông là người mắt phượng, râu rồng. Khi còn làm Thái tử, ông đã phải chịu hoàn cảnh nguy hiểm, nếm trải nhiều gian khổ. Lên ngôi báu, Ông trị vì gặp lúc nước nhà nhiều loạn lạc, nhưng về sau xã hội trở lại yên ổn, dân an cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là đời thái bình.
Mặc dù không có nhiều công tích nhưng cuộc đời làm vua của Hoàng đế Lê Hiển Tông cũng có khá nhiều điều thú vị.

1. Lê Hiển Tông là vị vua được lên ngôi một cách may mắn nhất. Khi còn là hoàng tử, vì có người chú là Lê Duy Mật nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, do đó ông bị Trịnh Giang nghi ngờ đem giam ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Triều đình vua Lê thời Lê – Trịnh (ảnh mang tính minh họa cho bài viết. Nguồn Internet).
Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình” (Hoàng Lê nhất thống chí). Sáng hôm sau thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc cho là ứng vào giấc mộng của mình bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng.

2. Lê Hiển Tông sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), mất tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Ông là vị vua thọ nhất triều Hậu Lê.

3. Lê Hiển Tông là một trong những vị vua ở ngôi lâu nhất và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê. Ông lên ngôi tháng 5 năm Canh Thân (1740) và mất năm Bính Ngọ (1786), làm vua 46 năm.

4. Lê Hiển Tông là vị vua cho đúc và phát hành nhiều loại tiền nhất. Trong thời gian ở ngôi ông đã cho đúc 16 loại tiền khác nhau mang niên hiệu của mình, đó là: 1. Cảnh Hưng Thông Bảo, 2. Cảnh Hưng Trung Bảo, 3. Cảnh Hưng Chí Bảo, 4. Cảnh Hưng Vĩnh Bảo, 5. Cảnh Hưng Thái Bảo, 6. Cảnh Hưng Cự Bảo, 7. Cảnh Hưng Trọng Bảo, 8. Cảnh Hưng Tuyền Bảo, 9. Cảnh Hưng Thuận Bảo, 10. Cảnh Hưng Chính Bảo, 11. Cảnh Hưng Nội Bảo, 12. Cảnh Hưng Dụng Bảo, 13. Cảnh Hưng Lai Bảo, 14. Cảnh Hưng Thận Bảo, 15. Cảnh Hưng Ðại Bảo, 16. Cảnh Hưng Ðại Tiền.
Bìa sách Hoàng Lê nhất thống chí, tài liệu cho biết nhiều điều về vua Lê Hiển Tông. (Nguồn Internet)..
5. Lê Hiển Tông là vị vua có nhiều con rể làm vua nhất. Ông có nhiều con gái, trong đó công chúa Ngọc Hân được gả cho Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung 1788 - 1792), công chúa út là Ngọc Bình gả cho Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh 1793 - 1802).

Năm Nhâm Tuất (1802) sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long (1802 - 1819). Khi chiếm được Phú Xuân, rung động trước sắc đẹp của Ngọc Bình, ông đã lấy bà làm phi. Như vậy vua Lê Hiển Tông có tới ba người con rể làm vua. Và trong số 3 người con rể ấy thú vị là có hai người là cha con: Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản!

6. Lê Hiển Tông là vị vua có niên hiệu được sử dụng lâu nhất, trong 46 năm làm vua ông chỉ đặt một niên hiệu là Cảnh Hưng. Đây là niên hiệu được sử dụng lâu nhất và điều đặc biệt nó còn được dùng cả một thời gian dài sau khi vua đã mất.

Vào thời đó, các "tập đoàn" phong kiến tranh giành lẫn nhau. Tại vùng kiểm soát của lực lượng chúa Nguyễn niên hiệu Cảnh Hưng vẫn được sử dụng trong các văn bản quản lý, chỉ đến khi Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn thì niên hiệu này mới không được dùng nữa. Sách Hoàng Lê nhất thống chí cho biết: Tháng 5, mùa hè năm ấy (tức năm 1802) chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu Cảnh Hưng, tức là từ năm Bính Ngọ (1786) trở về sau chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê. Năm Nhâm Tuất (1802) này, lúc đầu vẫn gọi là năm Cảnh Hưng, đến bây giờ mới đổi ra niên hiệu mới. Như vậy niên hiệu Cảnh Hưng được sử dụng tổng cộng trong 62 năm.

7. Ngoài các khoa thi Nho học, triều Hậu Lê còn mở khoa thi võ học với hai cấp Sơ cử và Bác cử. Bên cạnh hình thức tuyển chọn nhân tài võ thuật đó, thời Lê Hiển Tông còn bổ sung thêm một hình thức là đề cử được quy định lần đầu tiên vào năm Qúy Hợi (1743). Theo đó những năm không có khoa thi võ thì các quan võ từ cấp tam phẩm trở lên đều phải đề cử một người có tài, trí, mưu mô, khỏe mạnh, giỏi võ và quả cảm. Năm Canh Tý (1780) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên việc thi võ được quy định chặt chẽ, kỹ càng hơn trước. Phép thi được chia làm 4 kỳ: kỳ 1 thi giương cung, múa đao; kỳ 2 thi bắn cung, bắn súng; kỳ 3 thi phi ngựa bắn cung, đấu siêu đao, lăn khiêng, múa gươm, đâm giáo…; kỳ 4 thi văn sách.

Điều đặc biệt là bắt đầu từ đây lệ thi còn chú ý đến xét duyệt khí sắc, đó là tướng mạo, tiếng nói, sức chịu đựng sao cho thể hiện được sự hùng dũng, can trường.

8. Lê Hiển Tông là một trong số ít các vị vua giỏi âm nhạc, ngoài ra ông còn có rất nhiều tài khác. Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết: Nhà vua giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu, nhạc phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng.

9. Năm Canh Ngọ (1750) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học ở nước ta, các sĩ tử phải nộp lệ phí thi mới được tham dự thi Hương, khoản đó gọi là tiền thông kinh.

Lê Hiển Tông là vị vua cho mở nhiều khoa thi nhất trong lịch sử; thời gian ở ngôi ông đã cho mở 16 khoa thi, lấy đỗ 131 Tiến sĩ. Lê Hiển Tông là vị vua lấy bảng Tam khôi ít nhất. Suốt 42 năm, từ khoa thi đầu tiên của triều đại ông tổ chức năm Quý Hợi (1743) cho đến khoa thi cuối cùng tổ chức năm Ất Tỵ (1785) chỉ lấy đỗ một Bảng nhãn là Lê Quý Đôn và hai Thám hoa là Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh; không lấy ai đỗ Trạng nguyên.

Ông cũng là vị vua mở khoa thi lấy đỗ ít người nhất, đó là khoa thi năm Tân Sửu (1781), chỉ lấy hai người đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Cầu và Nguyễn Tân.

10. Năm Đinh Dậu (1777) vua Lê Hiển Tông cho ban hành bộ Quốc triều điều luật; bộ luật này được xây dựng trên nội dung cơ bản của bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) nhưng có bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với tình hình mới. Quốc triều điều luật là thành tựu lập pháp nổi bật nhất của thời Lê Trung Hưng (1533-1788) và cũng là bộ luật lớn nhất của thế kỷ XVIII.

Lê Hiển Tông cũng là vị vua cho ban hành bộ luật tố tụng đầu tiên của nước ta. Trước đó các điều khoản tố tụng chưa được phân định riêng mà vẫn nằm chung trong nội dung của các bộ luật. Đến năm Đinh Dậu (1777) bộ Quốc triều khám tụng điều lệ được ban hành, nội dung là những điều lệ về kiện tụng, quy định thẩm quyền các cấp xét xử, thời hạn xét xử, trình tự bắt người, điều tra, khám xét…
Út Tẻo (tổng hợp)(Dân Việt)

Chuyện cảm động về vua Lê Hiển Tông thăm thầy dạy mình!

Lê Hiến Tông (1461 – 1504) là một vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà. Dưới thời của ông, đất nước vẫn duy trì được sự thái bình, thịnh trị có từ thời vua cha Lê Thánh Tông. Sách Đại Nam nhất thống chí đã ghi lại một câu chuyện cảm động về đạo thầy trò trong một lần vua Lê Hiến Tông về thăm thầy cũ.
Nội dung câu chuyện như sau: Xa giá về đến cổng làng Châu Khê, nhà vua ra lệnh dừng kiệu và bước xuống đầu đường rẽ vào nhà thầy, vua chọn mấy cận thần cùng một vị quan sở tại tháp tùng vua vào nhà thầy giáo cũ. Vua ôn tồn nói với mọi người:
- Hôm nay trẫm về đây là để thăm thầy chứ không phải vi hành, công cán vì vậy cho phép các khanh về nghỉ ở công quán.
Thái Miếu trong khu di tích lịch sử Lam Kinh gắn liền với lịch sử văn hóa nhà Lê, (ảnh mang tính minh họa cho bài viết. Nguồn: Internet).
Mọi người bái tạ nhà vua rồi đi vào các quán dịch. Ở đó, các quan địa phương chuẩn bị chu đáo, có chăng đèn, kết hoa, có bàn trà nước. Nhà vua đi bộ cùng viên quan trấn và mấy quan hầu cận vào nhà thầy. Không trống phách, không nhạc nhã. Cụ Thượng thư già cùng các con cháu mũ áo chỉnh tề ra tận đầu thôn bày hương án nghênh tiếp nhà vua. Thấy thầy giáo, vua vội vàng đến gần cụ. Theo nghĩa vua tôi, cụ sụp lạy. Nhà vua hai tay nâng vai thầy lên, ôn tồn:
- Xin lão tiên sinh bình thân để cho đệ tử không bị thất lễ.
Vua nói với những người đang quỳ rạp hai bên đường:
- Cho tất cả các người đứng dậy cùng trẫm về nhà tôn sư!
Vua nhắc lại lời nói với các quân sĩ và với người thân của thầy giáo:
- Hôm nay trẫm đến đây là học trò về thăm thầy, chứ không phải thiên tử đi kinh lý, nghi lễ ở chốn triều đình dùng vào lúc khác!
Ngôi nhà thầy Nguyễn Bảo giản dị, cổ kính và gọn gàng, đúng với phong thái của chủ nhân - một bần nho trong sáng. Vua mời cụ ngồi lên sập giữa để mình đứng vấn an thầy. Cụ giật mình:
- Tâu bệ hạ đâu lại có thể như thế được. Đạo thầy là nặng, song phép nước cao hơn, xin Hoàng thượng cho lão phu này được đứng hầu! Người ngoài trông vào sao tiện ạ!
Nhà vua nhẹ nhàng:
- Thưa tôn sư, họ đã biết mục đích của trẫm hôm nay rồi. Tôn sư cho phép đệ tử ngồi chung là đã quá lắm rồi.
Văn Miếu Quốc tử giám Hà Nội (ảnh mang tính minh họa cho bài viết. Nguồn: Internet).
Nói xong, nhà vua đỡ cụ xuống cùng ngồi đàm đạo. Vua hỏi thăm sức khoẻ và đời sống của thầy cùng gia đình, xin xem những bài thơ của thầy làm khi nhàn rỗi ở chốn thôn dã. Khi người nhà của cụ giáo dâng trầu nước chỉ đứng ở sân dưới thềm, chuyển qua các thị vệ dâng lên cụ giáo và nhà vua. Vua Hiến Tông lại khoát tay:
- Thôi để họ mang thẳng lên đây, chắc họ cũng muốn gần vua một chút. Âu cũng là cái lộc của lão tiên sinh đây!
Thưởng thức chén trà ngát hương sen đồng nội, nhà vua nói với các quan theo hầu:
- Trẫm cho các ngươi lui! Chiều nay trẫm không dùng "ngự thiện", trẫm xin với lão tiên sinh cùng gia đình ăn bữa cơm quê. Trẫm muốn được ngồi chung mâm với thầy cũ cho thoả tình thầy trò, chắc lão tiên sinh cho phép.
Cụ giáo nghẹn ngào:
- Xin bái tạ đức vua! Thánh chỉ đã truyền, thần xin vâng mệnh!
Bữa cơm thầy trò chiều hôm đó diễn ra thân mật. Các con cụ đứng hầu từ xa ngắm thầy trò nhà vua đối ẩm với thứ rượu nếp quý quê nhà hương thơm sực nức, nghe thầy trò nhà vua vừa ăn vừa ngâm nga thơ phú. Cụ Châu Khê có lẽ còn vui hơn cả nhà vua, bởi lẽ là ông có học trò ở ngôi tôn quý nhất nước vẫn mực thước thuỷ chung giữ đạo nghĩa thầy trò. Ông càng hài lòng vì học trò cũ của ông dẫu ngồi trên ngai vàng vẫn không quên gốc. Nhà vua đặc biệt thưởng thức món canh cua quê kiểng, bất giác nói với cụ Châu Khê:
- Thầy cho con ăn một bát canh này thật là một niềm hạnh phúc. Hương vị cua đồng quê nhà ít có thức ăn nào sánh tày, quả là ngon.
Lời khen canh cua đồng của vua Lê Hiến Tông không phải là lời nói khéo ngoài cửa miệng. Về sau, vua nhớ món canh cua đồng đến nỗi dân Thái Bình đã phải tiến cua đồng về kinh để vua ngự thiện. Cũng vì thế dân gian ở đây mới có câu ca:
"Canh cua nấu cải thêm gừng/ Xưa nay vua chúa đã từng khen ngon".
Hai Miệt Vườn(Dân Việt)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét