Thứ Ba, 1 tháng 3, 2011

Khái quát chung Lịch sử Việt Nam

Thời tiền sử


 Nước Việt Nam thời tiền sử bao gồm: thời đồ đá cũ, thời đồ đá mới.
♦ Thời đồ đá cũ:

Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn, Nghệ An, Yên Bái; các dấu tích của nền văn hóa Núi Đọ (Thanh Hoá), Thần Sa (Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ), cách ngày nay khoảng 10.000 - 30.000 năm trước. Khi đó con người đã biết sử dụng công cụ thô sơ bằng đá cuội, sống phân bố khá rộng, khá đông trên đất Việt Nam.

♦ Thời đồ đá mới:

Tiêu biểu với nền văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn (khoảng 6.000 - trên 10.000 năm trước). Con người đã sử dụng nhiều loại công cụ bằng đá có chức năng riêng; biết làm đồ gốm, trồng trọt sơ khai, từ giã hái lượm để sản xuất.

Thời kỳ dựng nước



Thời đại kim khí: (cách đây khoảng 4.000 năm): từ thời đại đồ đồng tới sơ kỳ đồ sắt, trên đất nước Việt Nam đã hình thành ba trung tâm văn hoá lớn đồng đại: Phùng Nguyên - Đông Sơn (Bắc bộ), Long Thạnh - Sa Huỳnh (Trung bộ) và Cầu Sắt, Dốc Chùa - Đồng Nai (Nam bộ). Ba trung tâm văn hoá này có mối quan hệ qua lại mật thiết, lâu dài và góp phần tạo nên đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam: thống nhất trong đa dạng.
♦ Nước Văn Lang: Kỷ Hồng Bàng (2879 tr.CN - 258 tr.CN), 2622 năm.
Các triều đại gồm Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời vua Hùng. Quốc hiệu là Văn Lang, kinh đô là Phong Châu (Phú Thọ ngày nay).

Trên cơ sở nền văn hoá Đông Sơn, ở Việt Nam đã xuất hiện một nhà nước sơ khai, lãnh thổ từ biên giới Việt - Trung (ngày nay) ở phía Bắc đến sông Gianh ở phía Nam. Quốc gia của người Việt cổ, đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng.

 ♦ Nước Âu Lạc: Thục Phán - An Dương Vương (257 tr.CN - 208 tr.CN), 50 năm.
Quốc hiệu là Âu Lạc, kinh đô là Phong Khê (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay).

Tiếp sau thời đại các vua Hùng là Nhà nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán thành lập vào giữa thế kỷ 3 Tr.CN. Quốc gia này đã được ghi nhận trong Sử ký của nhà sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên. Một kỳ tích của An Dương Vương là xây dựng thành Cổ Loa với ba vòng thành, ngày nay vẫn còn dấu tích.

 ♦ Nước Chămpa:
Ở Nam Trung Bộ, các văn hoá Tiền Sa Huỳnh cũng phát triển lên thời đại sắt. Tiêu biểu cho nền văn hoá này là những khu mộ chum chứa nhiều công cụ bằng sắt, cùng với đồ trang sức bằng mã não hay ngọc bích. Văn hoá này phân bố rộng từ Thừa Thiên cho đến lưu vực sông Ðồng Nai. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm, những người đã xây dựng vương quốc Chămpa. 

Giai đoạn Bắc thuộc (111 TCN - 938)

 


Năm 207 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Ðà, vua của nước Nam Việt chiếm, và đến năm 111 trước công nguyên, nước Nam Việt bị đế quốc Hán tiêu diệt. Âu Lạc bị chuyển sang tay nhà Hán và bị chia thành các quận, huyện. Từ đây, Việt Nam bước vào thời kỳ chịu sự thống trị của các đế chế Trung Hoa, kéo dài trong mười một thế kỷ.
Chính trị nhà Tây Hán: Chiếm nước ta rồi cải tên nước là Giao Chỉ và chia ra làm 9 quận, mỗi quận có quan thái thú coi việc cai trị trong quận và có quan thứ sử để giám sát các quận. Ở trong quận Giao Chỉ thì có những Lạc tướng hay Lạc hầu vẫn được thế tập giữ quyền cai trị các bộ lạc.
1. Nam Hải (Quảng Ðông).
2. Thương Ngô (Quảng Tây).
3. Uất Lâm (Quảng Tây).
4. Hợp Phố ( Quảng Ðông).
5. Giao Chỉ.     6. Giao Chỉ.
7. Nhật Nam.
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam).
9. Ðạm Nhĩ (đảo Hải Nam).

 ♦ Bắc thuộc lần thứ hai (từ năm 43 - 544):

Chính trị Nhà Ðông Hán (năm 25-220): Mã Viện đánh được Trưng Vương, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp luỹ đến đấy và cải cách chính trị trong các châu quận. Ðem phủ trị về đóng ở Mê Linh. Từ đó chính trị nhà Ðông Hán càng ngày càng ngặt thêm, quan lại sang cai trị tham lam độc ác, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu.

Ðời Tam quốc (năm 220-265):

Nhà Ðông Ngô (222-280): Nhà Ðông Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra là ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục, Ðông Ngô. Ðất Giao Châu bấy giờ thuộc về Ðông Ngô.
Nhà Tấn (năm 265-420): Nhà Tấn làm vua được 50 năm thì mất cả đất ở phía tây bắc. Dòng dõi nhà vua lại dựng nghiệp ở phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến Nghiệp (thành Nam Kinh) gọi là nhà Ðông Tấn. Ðất Giao Châu ta vẫn thuộc nhà Tấn. Những quan lại sang cai trị thỉnh thoảng mới gặp đuợc người nhân từ tử tế, thì dân mới được yên ổn. Còn thì những người tham lam độc ác làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở.
Nam Bắc triều (năm 420-588): Năm Canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Ðông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía nam. Lúc bấy giờ ở phía bắc thì nhà Ngụy gồm cả nước Lương, nước Yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam triều và Bắc triều. Bắc triều thì có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Lúc bấy giờ Giao Châu phụ thuộc về Nam triều.

 ♦ Bắc thuộc lần thứ ba (603 -939):

Nhà Tuỳ (năm 589-617): Làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất.
Nhà Ðường (năm 618-907): Năm Mậu Dần (618) nhà Tuỳ mất nước; nhà Ðường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Ðến năm tân tị (621) vua Cao Tổ nhà Ðường sai Khâu Hòa làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Nhà Ðường cai trị nước ta nghiệt ngã. Năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Ðường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.

Mười hai Châu đời Ðường:

1. Giao Châu - có 8 huyện (Hà Nội, Nam Ðịnh...).
2. Lục Châu - có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn).
3. Phúc Lộc Châu - có 3 huyện (Sơn Tây).
4. Phong Châu - có 3 huyện (Sơn Tây).
5. Thang Châu -có 3 huyện.
6. Trường Châu - có 4 huyện.     7. Chi Châu -có 7 huyện.
8. Võ Nga Châu -có 7 huyện.
9. Võ An Châu-có 2 huyện.
10. Ái Châu - có 6 huyện (Thanh Hóa)
11. Hoan Châu - có 4 huyện (Nghệ An)
12. Diễn Châu - có 7 huyện ( Nghệ An)

Theo lệ cứ hàng năm phải triều cống vua nhà Ðường. Các cuộc nổi dậy của nhân dân dành chủ quyền như: khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa của Phùng Hưng (năm 766-791).

Ðời Ngũ Quí (năm 907 - 959):
Năm Đinh Mão (907) nhà Ðường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả 52 năm, gọi là Ngũ Quí hay là Ngũ Ðại. Tại nước ta liên tục các cuộc dấy binh chống lại đô hộ của phía Bắc và các chính quyền tự chủ được thành lập.
 

Các chính quyền tự chủ (43-905)

30 / 05/ 2012, 10:05:53


Trong suốt thời kỳ này, nhân dân Việt Nam luôn nổi dậy để giành lại nền độc lập, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43). Tiếp đó là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248). Giữa thế kỷ 6, Lý Bí đã lãnh đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên, nước Vạn Xuân, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Dưới ách thống trị của các đế chế Trung Hoa đã bùng lên nhiều cuộc khởi nghĩa: Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791),... và cuối cùng, với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938, Ngô Quyền đã chấm dứt thời kỳ thống trị Trung Quốc hơn một nghìn năm, khôi phục nền độc lập cho đất nước.
♦ Chính quyền Trưng Nữ Vương (năm 40-43):

Huý là Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh (đất Mê Linh nay thuộc vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội). Thân sinh mất sớm, Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị được thân mẫu là bà Ma Thiện (cũng có truyền thuyết nói là bà Trần Thị Ðoan) nuôi dưỡng. Hiện chưa rõ Trưng Trắc sinh năm nào, chỉ biết khi Tô Ðịnh được nhà Ðông Hán sai sang làm Thái Thú ở Giao Chỉ (năm 34), thì Trưng Trắc đã trưởng thành và kết hôn với con trai của Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách (đất Chu Diên nay là vùng giáp giới giữa Hà Tây với Hà Nam). Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạo của nhà Ðông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách bị Thái Thú Tô Ðịnh giết hại, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kết khác, phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa có quy mô rất lớn. Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dân cả nước nhất tề hưởng ứng. Tô Ðịnh phải hốt hoảng bỏ chạy về nước.

Chính quyền Trưng Nữ Vương tồn tại được trong khoảng gần ba năm (từ đầu năm 40 đến cuối năm 42, đầu năm 43). Sử gia Lê Văn Hưu (1230 - 1322) viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng cũng có thể khiến được các quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hình thế đất Việt có thể dựng được nghiệp bá vương." Nhà Ðông Hán đã phải cử tên lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinh nghiệm trận mạc là Mã Viện sang đàn áp mới tiêu diệt được lực lượng và chính quyền Hai Bà Trưng.

 ♦ Chính quyền của Bà Triệu:


Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) người đất Quân Yên (nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá), sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết khi cùng anh là Triệu Quốc Ðạt khởi xướng và lãnh đạo cuộc chiến đấu chống ách đô hộ của quân Ðông Ngô (năm 248), Bà đã là một cô gái ở độ tuổi khoảng trên dưới hai mươi. Bấy giờ, nhiều người khuyên Bà nên lập gia đình, xây dựng hạnh phúc riêng, nhưng Bà đã khảng khái trả lời : " Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chớ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta". Sau câu nói bừng bừng khẩu khí anh hùng đó, Bà đã quả cảm phát động khởi nghĩa. Quân Ngô sau nhiều phen thất bại, đã tìm đủ mọi thủ đoạn xảo quyệt, thậm chí đã dùng cả tước hiệu Lệ Hải Bà Vương để chiêu dụ Bà, nhưng ý chí của Bà trước sau vẫn không hề bị lung lạc. Cuối cùng, nhà Ngô đã phải sai viên tướng lừng danh là Lục Dận đem đại binh sang đàn áp. Bà Triệu cùng hàng loạt nghĩa binh đã anh dũng hi sinh vào năm 248.

Về thực chất, bộ chỉ huy khởi nghĩa do Bà Triệu cầm đầu cũng là một guồng máy chính quyền. Bà Triệu chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, những rõ ràng, guồng máy chính quyền sơ khai do Bà Triệu lập ra, hoàn toàn biệt lập và đối nghịch sâu sắc với chính quyền đô hộ của quân Ngô.

 ♦ Chính quyền nhà Tiền Lý (542-602):

Năm Nhâm Tuất (542), Lý Bí (còn có tên gọi khác là Lý Bôn) đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy lật nhào ách đô hộ của nhà Lương (một triều đại của Nam Triều ở Trung Quốc thời Nam Bắc Triều). Chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lý Bí đã giành được thắng lợi và thiết lập một hệ thống chính quyền độc lập, tự chủ riêng. Nhiều bộ sử cũ vẫn gọi khoảng thời gian từ năm 542 đến năm 602 là thời Tiền Lý, dẫu thực tế không hoàn toàn như vậy. Xét rằng, các chính quyền khác xuất hiện trong khoảng thời gian nào, tuy không đúng là của nhà Tiền Lý nhưng lại được xây dựng trên cơ sở thắng lợi của nhà Tiền Lý, cho nên, chúng tôi cũng gộp chung mà gọi là thời Tiền Lý.

Thời Tiền Lý có mấy hệ thống chính quyền sau đây:

Lý Nam Ðế (542-548):
Họ và tên: Lý Bí (còn có tên khác là Lý Bôn).
Nguyên quán: Thái Bình (đất này nay thuộc vùng tiếp giáp giữa huyện Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây).
Hiện chưa rõ năm sinh. Năm 542, Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong vòng ba tháng đã quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Ðế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Ðại Ðức (cũng có thư  tịch cổ chép là Thiên Ðức). Liên tục trong hai năm (545 và 546), nhà Lương cho quân sang đàn áp. Sau trận thất bại ở hồ Ðiển Triệt (Vĩnh Phúc), Lý Nam Ðế giao quyền bính lại cho Triệu Quang Phục rồi tạm lánh vào động Khuất Lão (Vĩnh Phúc) và mất ở đấy vào năm 548. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Lý Nam Ðế bao nhiêu tuổi.

Triệu Việt Vương (548-571):
Họ và tên: Triệu Quang Phục
Nguyên quán: Phủ Vĩnh Tường (nay là vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc). Khi Lý Bí phát động khởi nghĩa, Triệu Quang Phục và cha là Triệu Túc cùng hưởng ứng. Khi Lý Bí xưng là Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục được phong tới chức Tả Tướng. Năm 546, sau thất bại trong trận đánh ở hồ Ðiển Triệt, Triệu Quang Phục được Lý Nam Ðế uỷ thác quyền trông coi nghĩa binh. Triệu Quang Phục đã đưa lực lượng về đầm Dạ Trạch (đầm này nay thuộc Châu Giang, Hưng Yên) và tổ chức chiến đấu tại đây. Năm 548, sau khi nghe tin Lý Bí đã qua đời, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Năm 557, Triệu Việt Vương đã đánh tan lực lượng đi càn quét của nhà Lương, giành lại quyền tự chủ cho đất nước, đồng thời, thành lập một guộng máy chính quyền độc lập do ông đứng đầu. Năm 571, do bị Lý Phật Tử tấn công bất ngờ, Triệu Việt Vương thua trận và bị giết. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Triệu Việt Vương thọ bao nhiêu tuổi.

Lý Phật Tử (556-602):
Năm 546, khi thua trận ở Ðiển Triệt, lực lượng của Lý Nam Ðế bị chia làm hai. Bộ phận thứ nhất do Triệu Quang Phục (người về sau xưng là Triệu Việt Vương) cầm đầu. Triệu Quang Phục là vị tướng được Lý Nam Ðế tin cậy mà uỷ thác mọi quyền bính. Bộ phận thứ hai do tướng Lý Phục Man cầm đầu. Lý Phục Man họ tên gì chưa rõ, ông vì có công chinh phục người Man, được Lý Nam Ðế yêu quý mà đặc tên là Phục Man, lại cho được lấy họ Lý, sử nhân đó gọi là Lý Phục Man. Ông người làng Yên Sở. Làng này nay thuộc huyện Ðan Phượng, tỉnh Hà Tây.

Cũng năm 546, nếu Triệu Quang Phục bám trụ ở đầm Dạ Trạch và chiến đấu ngoan cường với quân nhà Lương, thì Lý Phục Man đã đem lực lượng chạy vào vùng phía tây Thanh Hoá ngày nay. Năm 555, Lý Phục Man mất, một vị tướng người cùng họ với Lý Nam Ðế là Lý Phật Tử lên thay. Năm 557, khi Triệu Việt Vương đánh tan quân nhà Lương thì Lý Phật Tử cũng lập tức đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành quyền binh.

Sau nhiều trận không phân thắng bại, hai bên tạm lấy vùng đất tương ứng với huyện Từ Liêm (Hà Nội) ngày nay làm ranh giới. Từ đất này trở về Nam thì do Lý Phật Tử cai quản, trở ra Bắc thì do Triệu Việt Vương cai quản.

Lý Phật Tử cho con trai là Nhã Lang kết hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, mượn danh nghĩa thông gia để làm cho Triệu Việt Vương mất cảnh giác. Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, khiến Triệu Việt Vương bị đại bại và bị giết. Lý Phật Tử thâu tóm được mọi quyền hành. Sử cũ gọi đó là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 581, nhà Tuỳ được dựng lên. Sau một thời gian lo củng cố quyền thống trị ở Trung Quốc, năm 602, nhà Tuỳ liền dùng áp lực quân sự, khiến Lý Phật Tử phải đầu hàng. Không thấy sử cũ ghi chép gì về số phận của Lý Phật Tử sau khi đầu hàng. Chưa rõ năm sinh và năm mất nên chưa rõ Lý Phật Tử thọ bao nhiêu tuổi.

 ♦ Chính quyền Ðinh Kiến (687):

Từ năm 618 đến năm 905, đất nước ta bị nhà Ðường đô hộ. Năm 679, nhà Ðường lập ra An Nam Ðô Hộ phủ, sử Trung Quốc bắt đầu gọi ta là An Nam kể từ đó.
Năm 687, quan cai quản An Nam Ðô Hộ Phủ của nhà Ðường là Lưu Diên Hựu thu thuế rất tham tàn, khiến cho nhân dân ta rất căm phẫn. Nhân cơ hội đó, một vị hào trưởng là Lý Tự Tiên (nay vẫn chưa rõ quê quán) đã bí mật tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng cơ mưu bị bại lộ, Lý Tự Tiên bị Lưu Diên Hựu giết chết. Tiếp nối sự nghiệp của Lý Tự Tiên, một vị hào trưởng cũng là một thuộc tướng của Lý Tự Tiên đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy. Vị hào trưởng ấy là Ðinh Kiến.
Ngay trong năm 687, Ðinh Kiến đã giết chết được Lưu Diên Hựu và chiếm được phủ đô hộ là thành Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay), đồng thời, nhanh chóng thiết lập một hệ thống chính quyền do ông đứng đầu. Ðinh Kiến chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, nhưng chính quyền do ông đứng đầu thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ. Hiện vẫn chưa rõ quê quán cũng như năm sinh và năm mất của Ðinh Kiến.

 ♦ Chính quyền Mai Hắc Ðế (722):


Họ và tên: Mai Thúc Loan (còn có tên khác là Mai Huyền Thành).
Sinh quán: huyện Thiên Lộ (nay đất sinh quán của ông thuộc Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Sau gia đình ông di cư về vùng Ngọc Trường (vùng này, nay thuộc huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An). Mai Thúc Loan sinh trưởng trong một gia đình nghèo, bản thân ông luôn bị quan lại nhà Ðường bắt phải đi phu, phục dịch rất vất vả. Năm 722, ông phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa lớn. Cũng ngay năm này, Mai Thúc Loan đã cho xây dựng đại bản doanh tại Hùng Sơn (tục danh là Núi Ðụn) và lập căn cứ dọc theo bờ sông Lam (Nghệ An). Ðồng thời, để quy tụ lòng người, ông đã lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Ðế (ông vua người họ Mai, da đen). Mai Hắc Ðế đã lãnh đạo nghĩa quân, đánh cho quan đô hộ của nhà Ðường lúc ấy là Quang Sở Khách phải hốt hoảng tháo chạy về nước. Nhà Ðường đã phải huy động một lực lượng lớn mới đàn áp được Mai Hắc Ðế và nghĩa sĩ của ông. Mai Hắc Ðế mất năm 722, do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ thọ bao nhiêu tuổi.

 ♦ Chính quyền họ Phùng (? - 791):

Bố Cái Ðại Vương (?-789):
Họ và tên: Phùng Hưng tự là Công Phấn.
Nguyên quán: Ðường Lâm, Phong Châu (đất này nay thuộc huyện Ba Vì - Hà Tây).
Phùng Hưng sinh trưởng trong một gia đình đời đời làm quan lang của vùng Phong Châu. Bấy giờ, nhà Ðường đô hộ nước ta. Quan đô hộ là Cao Chính Bình khét tiếng tham lam và tàn bạo, khiến cho nhân dân ta căm phẫn, đồng thời, binh lính của Cao Chính Bình cũng chống đối quyết liệt. Nhân cơ hội đó, Phùng Hưng phát động khởi nghĩa. Hiện chưa rõ khởi nghĩa bùng nổ vào năm nào. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Phùng Hưng phát động khởi nghĩa trong khoảng từ năm 766 đến năm 779. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Phùng Hưng đã chiếm được thành Tống Bình. Sau đó, thúc đẩy các lực lượng còn lại của nhà Ðường ở trên đất nước ta, đồng thời thiết lập một bộ máy chính quyền do ông đứng đầu. Khoảng 7 năm sau khi cầm đầu guồng máy chính quyền này Phùng Hưng qua đời (năm 789). Sau khi mất, ông được truy tôn là Bố Cái Ðại Vương. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi.

Phùng An (789-791):
Con của Bố Cái Ðại Vương Phùng Hưng, không rõ sinh năm nào. Nối nghiệp cha, cầm đầu guồng máy chính quyền độc lập và tự chủ kể từ năm 789. Năm 791, nhà Ðường cử viên tướng nổi tiếng xảo quyệt là Triệu Xương sang đàn áp. Phùng An đầu hàng. Sau, không rõ số phận của Phùng An ra sao.

 ♦ Chính quyền Dương Thanh (819-820):


Dương Thanh là một vị hào trưởng của đất Hoan Châu (đất này nay thuộc Nghệ An) và cũng là người được nhà Ðường cho làm Thứ Sử của châu này. Biết Dương Thanh là người giàu lòng yêu nước, quan đô hộ của nhà Ðường là Lý Tượng Cổ đã dụng mưu kế để làm giảm uy tín của ông, đồng thời, tách ông ra khỏi dân châu Hoan. Năm 819, Dương Thanh đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn, giết chết được Lý Tượng Cổ, đồng thời thiết lập được hệ thống chính quyền tự chủ do ông đứng đầu Sau nhiều phen đàn áp nhưng bị thất bại, nhà Ðường đã dùng kế li gián để chia rẽ lực lượng của Dương Thanh. Ông bị cô lập dần, để rồi cuối cùng, bị tru di tam tộc vào năm 820. Hiện chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi. Cũng như nhiều vị thủ lĩnh kiệt xuất khác, Dương Thanh không xưng đế hay xưng vương, chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, nhưng chính quyền do ông thiết lập ra thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ.

Trên đây là những hệ thống chính quyền tiêu biểu nhất, được thành lập trong hoặc sau thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, gồm nhiều quy mô và tính chất khác nhau. Hẳn nhiên, đó cũng chưa phải là tất cả, nhưng, dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì đó cũng thực sự là tinh hoa của lịch sử chống xâm lăng thời Bắc thuộc.

Triều Ngô Vương (Từ năm 939 - 965)



Ngô Vương (939-944)
Hậu Ngô Vương (950-965)
 ♦ Ngô Quyền phá quân Nam Hán:

Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Ðình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 năm Ðinh Tỵ (897) ở Ðường Lâm (Ba Vì - Hà Tây). Cha của Ngô Quyền là Ngô Mâm, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sinh sản và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền sớm tỏ rõ trí khí phi thường hiếm thấy. Vốn thường xuyên luyện tập võ nghệ nên tiếng tăm Ngô Quyền lan rộng cả một vùng. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư mô tả Ngô Quyền “vẻ khôi ngô, sức có thể nhấc vạc, giơ cao”. Vì có tài nên Dương Ðình Nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho.
Trong 5 năm (934-938), Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho đất Ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức. Khi Dương Ðình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo đem quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để  trừ nội phản, diệt ngoại xâm. Từng hâm mộ tài đức của Ngô Quyền, hào trưởng từ nhiều nơi đem binh về với Ngô Quyền. Ðầu mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền đem quân vượt qua đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào Ðại La, bắt giết tên nội phản Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành. Thù trong đã diệt xong, Ngô Quyền rảnh tay đối phó với giặc ngoài. Ðem quân xâm lược nước ta, chưa biết thắng bại ra sao, Lưu Cung đã vội phong cho con tước Giao Vương (tước vương đất Giao Chỉ). Lưu Cung còn đích thân đốc quân ra đóng ở trấn Hải Môn để sẵn sàng chi viện. Ðể chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông Bặch Ðằng khi nước triều lên ông cho quân ra khiêu chiến, quân Nam Hán đuổi theo, thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thuỷ triều xuống sẽ dốc toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn. Tháng 12 năm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Ðằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng Tháo cũng bị đâm chết tại trận. Tin thất trận ở sông Bạch Ðằng cùng với tên Hoằng Tháo bị giết khiến vua Nam Hán kinh hoàng phải khóc lên, thu nhặt tàn binh rút chạy.
Vua Nam Hán trước tên là Nham sau đổi là Thiệp rồi sau đó “vì có rồng trắng hiện lên” nên đổi là Cung. Bị thất trận, vua Nam Hán cho tên Cung là xấu và đã đổi tên khác là Yểm tức Lưu Yểm.
Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi chức tiết độ sứ, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội). Ðể củng cố trật tự chiều chính, Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định nghi lễ trong triều. Ðáng tiếc, thời gian trị vì của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944) thì mất, thọ 47 tuổi.

♦ Dương Tam Kha:

Thời trẻ, Ngô Quyền lấy con gái Dương Ðình Nghệ. Khi Ngô Quyền lên ngôi vua, Dương Thị được lập làm Vương Hậu. Khi sắp mất, Ngô Vương uỷ thác con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy trốn vào Nam Sách (Hải Dương) vào ở ẩn nhà Phạm Lệnh Công. Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập trốn trong núi, Dương Tam Kha bắt em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn làm con nuôi. Năm Canh Tuất (950) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Ðỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Ðến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với 2 tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết chỉ giáng Tam Kha xuống làm Chương Dương Công.

 ♦ Hậu Ngô Vương (950-965):

Ngô Xương Văn gạt bỏ Dương Tam Kha xưng là Nam Tấn Vương và sai người tâm phúc đi đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông coi việc nước. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách Vương. Cả hai anh em đều làm vua, sử gọi là hậu Ngô Vương.
Làm vua được ít lâu, Thiên Sách Vương nghĩ cách trừ Nam Tấn Vương để một mình làm vua. Âm mưu đó chưa kịp thi hành thì năm Giáp Dần (954) Thiên Sách Vương mất. Ðến lúc này, thì lực nhà Ngô ngày một suy yếu, thổ hào các nơi xưng là sứ quân ra sức chống đối buộc Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm Ất Sửu (965) trong một trận giao chiến ở Thái Bình (Đường Lâm, Sơn Tây), Nam Tấn Vương không may bị giặc bắn chết, làm vua được 15 năm. Con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp lên làm vua về giữ đất Bình Kiều, Thanh Hoá. Như vậy, triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn, đến Ngô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Ðến Ngô Xương Xí trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm, 12 sứ quân đó là:

1. Ngô Xương Xí, giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hoá).
2. Ðỗ Cảnh Thạc, giữ Ðỗ Ðộng Giang (Thanh Oai - Hà Tây).
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Ðái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc).
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Ðường Lâm (Phúc Thọ, Hà Tây).  
7. Lý Kê, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh).
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lữ Ðường, giữ Tên Giang (Vân Giang, Hưng Yên).
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội).
11. Kiều Thuận, giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ).
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Ðằng Châu (Hưng Yên).

Những sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau Ðinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn sứ quân, quy giang sơn về một mối lập lên cơ nghiệp nhà Ðinh.

Nhà Đinh



Nhà Ðinh trị vì đất nước ta trong khoảng 13 năm (968-980), trải qua 2 đời vua, bao gồm:
 - Đinh Tiên Hoàng;
 - Đinh Toàn.
 ♦ Ðinh Tiên Hoàng (968-979):

Niên Hiệu: Thái Bình (970-979).
Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Ðại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con Ðinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Ðình Nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Ðinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở thường đi chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau.

Lớn lên nhờ thông minh, có khí phách, lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ giấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông, nhưng vì bất hoà với chú, Bộ Lĩnh cùng với con là Ðinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu (Vũ Thư, Thái Bình). Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô có chí khí, Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư chiêu mộ hào kiệt hùng cứ một phương.

Năm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô Vương, Nam Tấn Vương, cùng Thiên Sách Vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Ðến khi nhà Ngô mất, Ðinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Ðỗ Ðộng của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Ðinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương, chỉ trong một năm, Ðinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng Ðế đặt quốc hiệu là đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ðinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Ðinh Quốc Công, Lê Hoàn là Thập Ðạo Tướng Quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Ðinh Liễn là Nam Việt Vương.

Về ngoại giao để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân (972), Ðinh Tiên Hoàng sai con là Ðinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt Vương Ðinh Liễn là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.

Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Ðinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn sứ quân nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn, Ðinh Tiên Hoàng đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người sợ oai, phép nước được tuân thủ.

Nhưng rồi Ðinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt Vương Ðinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thủa hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Họa loạn gây nên ngay trong hoàng tộc.

Năm Kỷ Mão (979) Ðinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Ðinh Liễn bị tên Ðỗ Thích giết chết. Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước khi làm hại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Ðỗ Thích thấy vua Ðinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Ðinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Ðỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ Vương Ðinh Toàn lên làm vua.

Ðinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.

 ♦ Đinh Toàn (980):

Ðinh Tiên Hoàng có 3 người con trai: Ðinh Liễn, Ðinh Toàn (có sách gọi là Ðinh Tuệ) và Ðinh Hạng Lang. Ðinh Liễn và Ðinh Hạng Lang đã chết mặc nhiên Ðinh Toàn kế nghiệp ngôi vua. Các đại thần Ðinh Ðiền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ quyền bính nằm cả trong tay thập đạo tướng quân Lê Hoàn, lại nghi là Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương Vân Nga) nên cử binh mã đến đánh. Nhưng bị Lê Hoàn giết sạch. Giữa lúc ấy nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất, các đại thần nước Việt phân liệt tranh chấp gay gắt, có nguy cơ nội chiến, muốn thừa thế sang lấy nước Việt mới hội đại binh ở gần biên giới. Lê Hoàn sai Phạm Cự Lượng làm đại tướng đem binh đi chống giữ. Trước lúc tiến quân Phạm Cự Lượng họp cả quân sĩ lại ở trong điện nói rằng: "Bây giờ quân địch sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng ta. Dẫu chúng ta có hết sức lập được chút công nào thì rồi ai biết cho? chẳng bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh cũng chưa muộn. Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng thay cho vị vua mới 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga đã lấy trước long bào, bà choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sĩ. Sự tỏ ý nhường ngôi của Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy, đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người, thức thời có tầm nhìn xa, trông rộng xứng đáng được coi là anh hùng".

Ðinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Ðế rồi tồn tại với tước vương (Vệ Vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm Tân Sửu (1001) trong dịp cùng vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ, Thanh Hoá, Ðinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến tuyến vào tuổi 27.

Như vậy triều đình Ðinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 năm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu.
 

Nhà Tiền Lê



Nhà Tiền Lê trị vì đất nước ta trong 29 năm, trải qua 3 đời vua, bao gồm:
 - Lê Đại Hành (980-1005)
 - Lê Trung Tông (1005)
 - Lê Long Đĩnh (1005-1009)
 ♦ Lê Ðại Hành (980-1005):

Niên hiệu: Thiên Phúc (980-988); Hưng Thống (989-993); Ứng Thiên (994-1005).
Lê Hoàn sinh năm 914 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một gia đình nghèo khổ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Ðinh Liễn. Dù chỉ là lính thường nhưng trí dũng khác thường, tính tình phóng khoáng nên được cha con Ðinh Bộ Lĩnh yêu mến. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, thống nhất đất nước lập lên cơ nghiệp nhà Ðinh, Lê Hoàn được phong chức Thập Ðạo tướng quân Ðiện tiền đô chỉ huy sứ (tổng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn tròn 30 tuổi.

Tháng 10 năm Kỷ Mão (979), cha con Ðinh Tiên Hoàng bị Ðỗ Thích giết hại, Ðinh Toàn 6 tuổi lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần Ðinh Ðiền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loạn nhưng đã bị Lê Hoàn dẹp tan. Ngô Nhật Khánh, phò mã nhà Ðinh bỏ trốn vào Nam rước vua Chămpa cùng hơn nghìn chiến thuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão đắm hết. Tháng 7 năm Canh Thìn (980) đại quân Tống theo đường thuỷ bộ xâm lược Ðại Cồ Việt. Lê Hoàn lúc này đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Ðại Hành, vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu vừa sai sứ đưa thư cầu hoà. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Ðinh Toàn sang chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Ðằng, sáng tạo một Chi Lăng, thắng lớn trên cả hai mặt trận thuỷ bộ giết tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nửa quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân.

Ðại thắng năm Tân Tỵ (981) đã mở đầu kỷ nguyên Ðại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc.

Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong Lê Hoàn chống cát cứ, xây dựng cơ sở của nền kinh tế. Ðối với bên ngoài ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo khôn khéo nhưng kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là vị vua nội trị, ngoại trị đều xuất sắc.

Năm Quý Tỵ (993), nhà Tống sách phong cho vua làm Giao Chỉ quân vương rồi năm Ðinh Dậu (997) là Nam Bình Vương.

Năm Ăt Tỵ (1005) vua Ðại Cồ Việt mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm. Theo thông lệ, khi vua mất chưa đặt tên thuỵ thì gọi là Ðại Hành. Trường hợp vua Ðại Cồ Việt lấy Ðại Hành lạm thuỵ hiệu là vì Lê Ngoạ Triều và triều thần không đặt tên thuỵ cho ông.

♦ Lê Trung Tông (1005):


Vua Lê Ðại Hành có 4 hoàng tử là Long Du, Ngân Tích, Trung Tông Long Việt và Lê Long Ðĩnh (Ngoạ Triều). Vua Ðại Hành định cho người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Nhưng đến lúc vua mất, các em hoàng tử tranh nhau ngôi, đánh nhau trong 7 tháng. Ðến khi Long Việt vừa lên ngôi được 3 ngày thì bị em là Long Ðĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung Tông.

♦ Lê Long Ðĩnh (1005-1009):


Niên hiệu: Cảnh Thuỵ (1008-1009).
Long Ðĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ ở bên Tàu. Khi giết anh, chiếm được ngôi vua, Long Ðĩnh càng tàn bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi.

Long Ðĩnh làm vua được 2 năm đổi Niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Năm sau (1009) thì mất, làm vua đựoc 4 năm, thọ 24 tuổi. Long Ðĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua khởi dựng sự nghiệp triều Lý hiển hách.
Như vậy nhà Tiền Lê tồn tại trong 29 năm, trải qua 3 đời vua

♦ Thái hậu Dương Vân Nga

Khi đề cao võ công văn trị của Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không kể đến sự cống hiến của Dương Vân Nga đối với đất nước. Có thể xem Dương Vân Nga là cái đầu nối giữa Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho công cuộc thống nhất đất nước do Ðinh Bộ Lĩnh khởi xướng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy đã không được sử cũ chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ của bà. Vốn là con ông Dương Thế Hiển quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình (có tài liệu nói bà tên là Dương Thị Ngọc Vân, con gái Dương Tam Kha) rồi trở thành vợ Ðinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6 tuổi kế nghiệp Hoàng Ðế, Dưong Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt quá sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được hoàn thành, bị đe doạ từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương Bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp gay gắt có nguy cơ nổ ra nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận rõ chỉ có Thập Ðạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy. Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn bè đảng, tranh chấp, đẩy đất nước vào hoàn cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại trở thành vợ Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Vùng Hoa Lư còn lưu truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nhằm ghi nhận công lao của bà.

Nhà Lý



Nhà Lý trị vì đất nước ta được 215 năm (1010 - 1225), qua 9 đời vua, bao gồm:
- Lý Thái Tổ (1010-1028)                   - Lý Cao Tông (1176-1210)
- Lý Thái Tông (1028-1054)                - Lý Huệ Tông (1211-1224).
- Lý Thánh Tông (1054-1072)             - Lý Nhân Tông (1072-1127)
- Lý Thần Tông (1128-1138)               - Lý Anh Tông (1138-1175)
♦ Lý Thái Tổ (1010-1028):

Niên hiệu: Thuận Thiên.
Người khởi dựng triều Lý là Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn.

Công Uẩn lớn tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Thiếu Ðế bị chết, biết ông ôm thây vua khóc. Vua Ngoạ Triều khen là trung, cử ông là Tả tướng quân chế chỉ huy sứ thống lĩnh hết quân túc vệ.

Khi Lê Long Ðĩnh mất, Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kết tự Long Ðĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn chỉ huy quân túc vệ trong chốn cung cấm. Bây giờ lòng người đã oán giận nhà Lê nên quan Chi hậu là Ðào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vua Thái Tổ nhà Lý. Vua Thái Tổ thấy Hoa Lư hẹp nên bèn dời đô về La Thành. Tháng bảy năm Thuận Thiên nguyên niên (1010) vua khởi sự rời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên liền đổi Ðại La thành Thăng Long thành (tức Hà Nội bây giờ), đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ Thiên Ðức. Vua Thái Tổ chỉnh đốn việc cai trị, chia nước làm 24 lộ, hội Hoan Châu và Ái Châu là trại.

Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá cơ vùng đất văn minh, văn hiến, lại được sự nuôi dạy của những vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Ðại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.

Chùa Ứng Tâm nơi ông sinh ra bây giờ có tên là chùa Dặn.

Ngôi huyệt chỗ giếng nước ở rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông giống như hoa sen nở 8 cánh nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời.

Vua Lý Thái Tổ trị vì 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.

♦ Lý Thái Tông (1028-1054):


Niên hiệu:
- Thiên Thành (1028-1033);
- Thống Thuỵ (1034-1038);
- Càn Phù Hữu Ðạo (1039-1041);
- Minh Ðạo (1042-1043);
- Thiên Cảm Thánh Võ (1044-1048);
- Sùng Hưng Ðại Bảo (1049-1054).

Vua Lý Thái Tổ sinh 5 Hoàng Tử: Thái Tông, Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Bồ, Ðông Chính Vương Lực, Võ Ðức Vương Hoảng, Phật Mã được phong làm Thái Tử.

Vua Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ tế táng, các Hoàng Tử: Võ Ðức Vương, Dực Khánh Vương và Ðông Chính Vương đã đem quân vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Tướng Lý Nhân Nghĩa xin Hoàng thái tử đem quân ra chống cự. Khi quân của Thái tử và quân của các vương giáp trận, võ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu tuốt gươm xông tới chém chết Võ Ðức Vương, Thấy vậy, Dực Khánh Vương và Ðông Chính Vương xin về chịu tội, được vua Thái Tông tha tội và phục lại chức cũ.

Thái Tông luôn dạy dân tôn trọng phép nước, định rõ các bậc hình phạt, đối với các tội nhẹ, cho được lấy tiền chuộc tội. Hễ năm nào đói kém, hoặc đi đánh giặc về, vua đều giảm thuế cho dân. Ở trong cung, vua định rõ số hậu, phi và cung nữ: Ví như, hậu và phi: 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ: 100 người. Tất cả các cung nữ đều phải học nghề thêu, dệt gấm vóc, khuyến khích triều thần dùng chế phẩm của họ.

Thời ấy giặc giã còn nhiều nên vua phải thân chinh đi trận mạc. Năm Mậu Dần(1038), có Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên (Lạng Sơn) làm phản, tự xưng là ChiêuThánh hoàng đế, lập A Nùng làm Hoàng hậu, đặt quốc hiệu là Trường Sinh rồi đem quân đi đánh phá các nơi. Năm sau, vua Thái Tông thân đi đánh được Nùng Tốn Phúc và con là Nùng Trí Thông đem về kinh xử tội. Còn A Nùng và con là Nùng Trí Cao chạy thoát.

Năm Tân Tị (1041) Nùng Trí Cao cùng với mẹ về lấy được châu Thắng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra nước Ðại Lịch. Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được Nùng Trí Cao. Vua thương tình tha tội chết và cho làm Quảng Nguyên Mục và gia phong cho tước Thái Bảo. Nhưng năm Mậu Tý (1048), Nùng Trí Cao lại xưng là Nhân Huệ hoàng đế, quốc hiệu là Ðại Nam chống lại triều đình.Vua sai tướng Quách Thịnh Dật lên đánh. Nùng Trí Cao đem quân sang đánh Ung Châu rồi lần lượt 8 châu khác thuộc về Quảng Ðông, Quảng Tây của nhà Tống. Vua Tống cử Ðịch Thanh cùng nhiều tướng giỏi đi đánh Nùng Trí Cao. Nhưng đánh mãi không được. Chỉ đến khi người Ðại Lý vừa bắt Nùng Trí Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống, giặc Nùng mới tan. Năm Giáp Thân (1044), Chiêm Thành nhiều lần đem quân quấy rối vùng biên giới, vua thân chinh đánh dẹp, tiến vào kinh đô nước Chiêm, chém vua Chiêm.

Vua Lý Thái Tông cũng rất chú ý đến việc lập pháp. Dưới thời ông trị vì, năm Nhâm Ngọ (1042), bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta được ban hành. Ðó là bộ luật “Hình thử”. Vua Thái Tông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ (1054) thì mất, thọ 55 tuổi.

♦ Lý Thánh Tông (1054-1072):


Niên hiệu:
- Long Thuỵ Thái Bình (1054-1058);
- Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065);
- Long Chương Thiên Tự (1066-1067);
- Thiên Chúc Bảo Tượng (1068);
- Thần Võ (1069-1072).

Vua Lý Thái Tông có 2 con trai là Thái tử Nhật Tôn và hoàng tử Nhật Trung.

Vua Lý Thái Tông cũng giống các vua Lý đời trước, tuy đóng đô ở Thăng Long nhưng tình cảm thường gắn bó với đồng ruộng và thương dân. Vì vậy, đến mùa xuân vua thường về phủ Thiên Ðức xem hội hè, lễ Phật, xem cấy lúa, đánh cá, mùa hè xem gặt hái, nghỉ mát và tu dưỡng.

Vua Lý Thánh Tông thương dân nên trăm họ đều yêu mến, nước ít giặc giã. Vì muốn khai hoá cho dân, vua lập Văn Miếu, lập tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền để thờ. Văn Miếu được xây năm 1072.

Ngoài việc thực hiện nền chính trị nhân đạo thân dân, vua Lý Thánh Tông còn là người để tâm đến đạo Phật, vua đã cho xây cất nhiều chùa chiền và là người sáng lập phái Phật giáo Thảo Ðường. Lý luận của Thảo Ðường thoả mãn sự đòi hỏi của vua muốn phát triển ý thức dân tộc, muốn tự lập tự cương, chống sự xâm lăng của Bắc Tống, hoà hợp với Khổng học tạo nên sự thống nhất giữa ý chí và hành động của giới tu hành, thứ dân, nhằm xây dựng một Ðại Việt hùng mạnh. Khác với các triều đại trước, Lý Thánh Tông đem đạo vào đời, mà cuộc đời ấy theo nhà vua, phải lấy việc phụng sự dân tộc, lấy sự đồng tâm nhất trí làm mục đích để tập trung vào hành động thiết thực, cứu thế bằng đức tin. Vua đã tìm thấy Phật học triết lý sinh thành dưỡng dục dại lâu dài nối tiếp, là phương tiện dạy cho dân hiểu mình là ai, lấy ý chí tự cường để chiến thắng số mệnh, phụng sự cho sự phồn vinh bền vững của quốc gia. Cũng do vậy dân chúng Ðại Việt tìm thấy nguồn cảm hứng vừa sâu rộng vừa cao siêu của mình của tình yêu hiện thực và đại đồng Phật giáo. Ở lòng từ bi bác ái cứu nạn cứu khổ, cứu vớt chúng sinh. Nhân dân đến với đạo không phải vì chán ngán cuộc đời mà vì muốn sống cuộc đời cao cả là đời sống tâm linh. Nhưng nhà tu hành đời Lý không phải là những người chán đời đi ở ẩn mà là những người xuất thế để nhập thế, những người có học vấn muốn giúp người, Vì vậy, đời Lý người tu hành xuất hiện khắp nơi. Chùa và đình thất mọc lên khắp nước. Kiến trúc chùa chiền thời ấy rất giản dị, dịu mát ẩn dưới bóng đa linh thiêng và tôn kính.

Binh pháp thời Lý Thánh Tông có tiếng là giỏi. Nhà Tống đã phải dụng tâm học cách tổ chức phiên chế quân đội của ta.

Năm Nhâm Tí (1072), Lý Thánh Tông mất đột ngột, trị vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.

♦ Lý Nhân Tông (1072-1127):

Niên hiệu:
- Thái Ninh (1072-1075);
- Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084);
- Quang Hữu (1085-1091);
- Hội Phong (1092-1100);
- Long Phù (1101-1109);
- Hộ Tường Ðại Khánh (1110-1119);
- Thiên Phù Duệ Võ (1120-1126);
- Thiên Phù Khánh Thọ (1127).

Vua Lý Thánh Tông sinh được Thái tử Càn Ðức, con Nguyên phi Ỷ Lan. Thánh Tông mất, Càn Ðức mới 7 tuổi lên nối ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông.

Vua Nhân Tông còn nhỏ nhưng nhờ có Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, lại thêm Thái sư Lý Ðạo Thành và Phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt, những khối óc lớn thời ấy giúp sức, nên nước Ðại Việt trở nên hùng mạnh.

Về đối nội, Vua Nhân Tông cho đắp đê Cơ Xá, khởi đầu việc đắp đê ngăn lũ ở nước ta, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt.

Năm Ất Mão (1075) vua mở khoá thi tam trường, còn gọi là Minh Kinh bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy ở khoa thi đầu tiên ở nước ta chọn 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Về sau, Lê Văn Thịnh làm đến chức Thái sư (tể tướng), tỏ rõ là người có tài xuất chúng. Cuối đời vua nghi ngờ Lê Văn Thịnh làm phản, Thịnh bị đầy lên Thao Giang (Tam Nông, Phú Thọ) và đã chết oan tại đó.

Năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám-trường đại học đầu tiên của nước ta, chọn những nhà nho giỏi vào dạy. Ðến năm Bính Dần (1086) mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khóa ấy có Mạc Hiền Tích đỗ đầu, được bổ Hàn lâm học sĩ.

Năm Kỷ Tỵ (1089) vua Nhân Tông định quan chế, chia văn võ 9 phẩm, quan đại thần có Thái Sư, Thái Phó, Thái uý, Thiếu sư, Thiếu uý, ở dưới những bậc ấy, về văn ban có Thượng thư, tả hữu Tham trí, Tả hữu Gián nghị đại phu, Trung thu thị lang. Về võ ban có Ðô Thống, Nguyên Suý, Tổng quản khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng, Ðại tướng, Ðô tướng, Chư vệ tướng quân...

Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có Chư lộ trấn, lộ quan.

Năm Ðinh Tỵ (1077), khi Tống triều cử Quách Quý, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Với toàn quyền điều khiển triều đình, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan và Phụ quốc thái uý Lý Thường Kiệt đã huy động được cả dân tộc vào trận, tạo cho thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù. Nước Ðại Việt đã ra khỏi cuộc chiến tranh với hào quang chiến thắng quanh vương miện để bước nhanh trên con đường cường thịnh, văn hiến.

Vua Lý NhânTông làm vua đến năm Ðinh Mùi (1127) thì mất, trị vì được 56 năm, thọ 63 tuổi.

♦ Nguyên Phi Ỷ Lan:
Nói đến triều Lý không thể không nói đến Ỷ Lan, một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Trên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê làng Thổ Lỗi sau đổi thành siêu loại (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ tích. Sử ghi, Ỷ Lan là cô tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.

Năm Nhâm Tuất (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền tể tướng thì Ðaị Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên. Năm Ðinh Tỵ (1077), Tống triều phát đại bệnh sang xâm lược. Ðể Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Ðạo Thành từ Nghệ An về, trao chức thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình huy động sức người sức của vào trận. Nhờ vậy nước Ðại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Ðại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.

Làm nên chiến thắng này, công Thái hậu Ỷ Lan thực lớn. Nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Ðạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến đã xoá sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng trong nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.

♦ Lý Thần Tông (1128-1138):

Niên hiệu: Thiên Thuận; Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137).
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của hoàng đệ Sùng Hiền hầu Dương Hoán lên làm Thái Tử, nay kế vị ngôi Hoàng đế tức là vua Thần Tông.

Thần Tông vừa lên ngôi liền đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất tịch thu của quân dân ngày trước. Vua thực hiện chính sách ngụ binh ưa nông, cho binh lính đổi phiên cứ lần lượt 6 tháng một lần được về làm ruộng. Do vậy, sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít. Thần Tông làm vua được10 năm, thọ 23 tuổi.

♦ Lý Anh Tông (1138-1175):

Niên hiệu:
- Thiên Minh (1138-1139)
- Ðại Ðinh (1140-1162)
- Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
- Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)

Vua Lý Thần Tông có 2 con trai là Thiên Lộc và Thiên Tộ. Thần Tông mất, triều đình tôn Thái tử Thiên Tộ lên làm vua, hiệu là Anh Tông.

Lý Anh Tông kế vị ngôi vua mới có 3 tuổi. Bởi vậy thái hậu Lê Thị cầm quyền nhiếp chính. Lê Thái hậu lại tư thông với Ðỗ Anh Vũ, cho nên mọi việc lớn nhỏ trong triều đều nằm trong tay vị đại thần họ Ðỗ này cả. Ðỗ Anh Vũ được thể ra vào cung cấm, Thấy Anh Vũ lộng quyền, các quan Vũ Ðái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương Tự Minh bàn mưu trừ khử. Việc bại lộ, tất cả bị Anh Vũ giết hại. May thay triều đình lúc đó có nhiều tôi giỏi như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên tham vọng của Ðỗ Anh Vũ đã bị chặn lại. Tô Hiến Thành chẳng những giúp vua đánh Ðông dẹp Bắc, giữ cho nước được yên mà còn luyện tập quân lính, kén trọn những người tài giỏi cho làm tướng, coi quân trị dân. Bởi vậy, nước Ðại Việt hồi ấy trở nên hùng mạnh.

Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn (1171-1172), vua dầy công đi qua những vùng núi non hiểm trở, quan sát sinh hoạt của dân rồi sai quan làm tập bản đồ nước Ðại Việt.

Khi biết mình sức yếu, Vua phong cho Tô Hiến Thành làm Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự và gia phong tước vương, đồng thời uỷ thác Thái tử là Long Cán cho Tô Hiến Thành giúp dạy

Anh Tông mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần.

♦ Lý Cao Tông (1176-1210):

Niên hiệu:
- Trịnh Phù (1176-1185)
- Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
- Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
- Trị Bình Long Ứng (1205-1210)

Vua Anh Tông mất, Thái tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi. Bà Chiêu Linh thái hậu muốn lập con cả của mình tên là Long Xưởng lên làm vua bèn đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành. Nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe cứ theo di chiếu lập Long Cán, tức vua Lý Cao Tông.

Năm Mậu Thìn (1208), ở Nghệ An có Phạm Du làm phản chiêu nạp bọn côn đồ đi cướp phá của dân. Vua Cao Tông sai quan quân đánh được Phạm Du, tịch biên gia sản, đốt phá nhà cửa của hắn. Phạm Du cho người về kinh lấy vàng đút lót các quan trong triều rồi vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại người vô tội. Triều đình cho Phạm Du vào triều kêu oan. Nghe lời Phạm Du, vua Cao Tông triệu Bỉnh Di hội triều rồi bắt giam ngay. Hay tin, một bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di. Thấy biến Cao Tông vội cho giết Bỉnh Di rồi đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Phú Thọ). Thái tử Sản thì chạy về Hải Ấp (Làng Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình). Quách Bốc đem xác Bỉnh Di mai táng rồi vào điện tôn Hoàng tử Thẩm lên làm vua.

Thái tử Sản chạy về Hải Ấp vào ở nhà Trần Lý làm nghề đánh cá. Thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung khoẻ mạnh, xinh đẹp bèn lấy làm vợ và phong cho Trần Lý tước Minh Tự, Tông Trung Tự, cậu Trần Thị Dung chức Ðiện tiền chỉ huy sứ.

Anh em họ Trần mộ quân giúp Thái tử Sản thu phục kinh thành rồi lên vùng Tam Nông, rước Cao Tông về kinh được 1 năm thì mất (1210) trị vì được 35 năm, thọ 38 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần, thờ ở đền Ðô.

♦ Lý Huệ Tông:

Niên hiệu: Kiến Gia.
Thái tử Sản là con trưởng của vua Cao Tông, sinh năm Giáp Dần (1194) khi vua Cao Tông mất Thái tử Sản lên nối ngôi lấy hiệu là Huệ Tông rồi sai quan quân đi đón Trần Thị Dung về phong làm Nguyên Phi. Lúc ấy Trần Lý đã bị quân cướp giết, con thứ là Trần Tự Khánh nắm binh quyền, Huệ Tông bèn phong cho Tự Khánh làm Chương Tín hầu và Tô Trung Từ làm Thái uý Thuận Lưu Bá.

Vốn không ưa Nguyên phi Trần Thị Dung, lại thấy họ Trần nắm giữ binh quyền. Ðàm Thái hậu, mẹ vua Huệ Tông ra mặt hắt hủi Thị Dung. Trần Tự Khánh thấy em mình bị đối xử tệ bạc liền đem quân về Kinh sư xin vua rước Thị Dung đi, Lý Huệ Tông nghi Trần Tự ngự nữ. Tự Khánh thấy vận thân đến quân môn xin lỗi và vẫn xin rước đi. Huệ Tông càng nghi, vội cùng với Ðàm Thái hậu chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn). Tư Thái hậu về Bình Hợp, Ðàm Thái hậu cho rằng họ Trần muốn làm phản, thường chỉ mặt Trần Thị Dung xỉ vả và xui Huệ Tông bỏ Thị Dung, nhưng vì mê đắm Thị Dung xinh đẹp bội phần, vua không nghe. Ðàm Thái hậu mấy lần bỏ thuốc độc toan giết Thị Dung, nhưng vua đều cản được. Thường đến bữa vua ăn một nửa, một nửa dành cho người đẹp và ngày đêm giữ luôn bên mình không cho đi đâu. Về sau, Thái hậu làm dữ quá, Huệ Tông đang đêm mang Trần Thị Dung trốn đến nhà Tướng quân Lê Mịch và cho đòi Trần Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh đem quân đến hộ giá Vua về kinh. Huệ Tông phong cho Trần Thị Dung làm Hoàng Hậu, Trần Tự Khánh làm Phụ chính và người của Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.

Tháng chạp năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ Quốc thái uý, và năm sau, giao cho em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Ðộ làm Ðiện tiền chỉ huy, Từ đó, mọi việc trong Triều đều do vị tướng trẻ Trần Thủ Ðộ định đoạt.

Vua Huệ Tông về cuối đời thường rượu chè say khướt ngủ cả ngày, không quan tâm đến việc triều chính. Vua không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị chỉ sinh được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh công chúa tên là Phật Kim, mới 7 tuổi, được lập làm Thái Tử.

Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào ở chùa Chân Giáo sau mất ở đó. Huệ Tông trị vì được 14 năm.

♦ Lý Chiêu Hoàng(1225):
Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Ðạo.
Chiêu Thánh công chúa còn có tên là Phật Kim, sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần (1218).

Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224), tức là Lý Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ lên quyền binh ở cả Trần Thủ Ðộ. Trần Thủ Ðộ đưa các cháu vào cung cấm giữ các chức vụ lớn nhỏ.

Nhà Trần



Nhà Trần trị vì đất nước ta được 175 năm (1225 - 1400), qua 12 đời vua, bao gồm:

 - Trần Thái Tông (1225-1258)         - Trần Nghệ Tông (1370-1372)
 - Trần Thánh Tông (1258-1278)      - Trần Duệ Tông (1372-1377)
 - Trần Nhân Tông (1279-1293)        - Trần Phế Ðế (1377-1388)
 - Trần Anh Tông (1293-1314)           - Trần Thuận Tông (1388-1398)
 - Trần Minh Tông (1314-1329)          - Trần Thiếu Ðế (1398-1400)
 - Trần Hiển Tông (1329-1341)           - Trần Dụ Tông (1341-1369)
♦ Trần Thái Tông(1225-1258):

Niên hiệu:
- Kiến Trung (1225-1231);
- Thiên ứng chính Bình (1232-1250);
- Nguyên Phong (1251-1258).

Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần (1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng.
Nhờ Trần Thủ Ðộ thu xếp. Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh (1225), lên làm vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Bởi vậy Trần Thủ Ðộ bắt vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Trần Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Ðộ đem quần thần tới đón về. Trần Thái Tông từ chối, nói rằng: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển. Thủ Ðộ ngoảnh lại nói với các quan: Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.

Nói đoạn truyền lệnh xây dựng cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Trần Thái Tông về triều. Trần Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.

Ðược ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Ðộ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Ðộ tha cho Trần Liễu.

Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Ðinh Tỵ (1257), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Ðộ, Trần Quốc Tuấn (Tức Hưng Ðạo Vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Ðại Việt quyết chống giặc. Bản thân Trần Thái Tông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha tên đạn.

Tháng 12 năm Ðinh Tỵ (21/1/1258) vua Thái Tông cùng Thái tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần phá tan quân Nguyên ở Ðông Bộ Ðầu, giải phóng Thăng Long.

Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiên học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khoá hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.

Trong văn bản Khoá du lục, có bài. “Tự Thiền Tông chỉ nam” của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về.

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề “quốc gia xã tắc” lên trên hết, trước hết như thế. Thái độ đối với “quốc gia xã tắc” là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Ðại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên hòn đạn”, làm vua xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hoá đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho thái tử làm quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng cùng trông coi việc nước.

Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.

 ♦ Trần Thánh Tông (1258-1278):


Niên hiệu: Thiên Long (1258-1272); Bảo Phù (1273-1278).
Vua Thái Tông có 6 người con: Tĩnh Quốc Ðại vương Trần Quốc Khang, Thái tử Hoảng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông.

Thánh Tông là vị vua nhân từ, trung hậu. Ðối nội vua dốc lòng xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hoá dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy, dưới triều vua Thánh Tông không chỉ có các ông hoàng hay chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc Ðĩnh Chi. Bộ Ðại Việt Sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành vào năm Nhâm Thân (1272).

Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn.

Về đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Ðại Việt. Khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không còn bắt Ðại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt vua ta cứ 3 năm phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại ba người cùng các sản vật: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu vật là khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Ðại Việt, thật ra để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương thường trực cho nước láng giềng. Vua Trần Thánh Tông thừa biết giã tâm xâm lược của nhà Nguyên, nên tuy bề  ngoài thần phục, nhưng vẫn khẩn trương tuyển mộ binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó. Năm Bính Dần (1266), vua Nguyên cho sang giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám trị. Vua Nguyên bằng lòng bỏ việc cống người nhưng lại bắt tuân thủ 6 điều khác: Vua phải thân vào chầu khẩu, phải chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ đặt quan giám trị.

Vua Ðại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm Tân Mùi (1271), vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt nhân đổi quốc huyện là Ðại Nguyên đòi vua Thánh Tông. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Chúng cho sứ sang tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, vua Thánh Tông trả lời rằng: Cột ấy lâu ngày đã mất.

Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo cơ xâm lược của nhà Nguyên.

Năm Ðinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc). Năm sau, vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái Khâm rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.

Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.

 ♦ Trần Nhân Tông(1279-1293):

Niên hiệu:
- Thiệu Bảo (1279-1284);
- Trùng Hưng (1285-1293).

Vua Trần Thánh Tông có 3 con, Thiên Thuỵ công chúa, Thái tử Khâm và Tả Thiên Vương Ðức Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm sinh năm Mậu Ngọ (1258) kế vị ngôi vua, lấy tên là Nhân Tông.

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Ðại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm.

Ngay sau khi Trần Nhân Tông lên ngôi, nhà Nguyên liền sai Lệ bộ Thượng thư sang sứ Ðại Việt. Sài Thung đến kinh thành, lên mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, rồi cho người đưa thư trách vua Trần Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu thiên triều.

Vua sai đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến. Năm Nhâm Ngọ (1282) vua Nguyên lại cho sứ sang dụ: Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng, ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người. Trần Nhân Tông đành cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về nước. Hay tin, Trần Nhân Tông sai tướng đem quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đi làm lính. Thấy không thể thu phục được vua Trần, Nhà Nguyên liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh xâm lược vào các năm 1285, 1287 toan làm cỏ nước Nam. Trong 2 lần kháng chiến này. Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng.

Sau 14 năm làm vua, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành thuỷ tổ phái Thiền Trúc Lâm, Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhân Tông thật sự là một triết gia lớn của Phật thể hiện được đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam. Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu và táo bạo.

Anh hùng cứu nước, triết nhân, thi sĩ là phẩm chất kết hợp hài hoà trong con người Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ Nhân Tông có tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã.

Trần Nhân Tông qua đời năm Mậu Thân 1308 tại am Ngoạ Vân, núi Yên Tử (Ðông Triều, Quảng Ninh).

♦ Hưng Ðạo Ðại Vương - Trần Quốc Tuấn:

Trần Quốc Tuấn (1228-1300) là một danh nhân kiệt xuất của dân tộc đồng thời là danh quân sự cổ kim của thế giới. Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén những thầy giỏi dạy cho Quốc Tuấn, ký thác vào con hội đủ tài văn võ, mong trả mối thù sâu nặng năm nào. Lớn lên Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình, Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, 3 lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùng cứu nước. Ông luôn đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ 2, thấy rõ nếu ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ có lợi chỉ có thể là quân giặc. Bởi vậy Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo thắng quân Nguyên hùng mạnh.

Ba lần chống giặc các vua Trần đều giao cho ông quyền thiết chế. (Tổng tư lệnh quân đội), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì vậy tướng sĩ hết lòng thương yêu ông. Ðạo quân cha con ấy trở thành đội quân bách chiến bách thắng. Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư. Binh thư yếu lược và vạn kiếp tống bí truyền thư để răn dậy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết hịch “Hịch tướng sĩ”, truyền lệnh cho các tướng, dạy họ bảo họ lẽ thắng bại, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc “Ðại bút”. Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng gồm đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng trí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu, là tướng dũng ông xông pha nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo lên những trận Bạch Ðằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày tỏ trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp hoạ, cho nên, cả ba lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều sát binh mã và đều lập được công lớn.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý (1300 ) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Ðạo Vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chọn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng trồng cây như cũ. Vua gia phong cho chức Hưng Ðạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời.

♦ Thượng tướng, Thái sư - Trần Quang Khải:


Trần Quang Khải (1244-1294), là con trai vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Dưới triều vua Trần Thánh Tông (anh ruột Quang Khải), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh Ðại Vương. Năm Giáp Tuất (1274), Ông được giao chức Tướng quốc thái uý. Năm Nhâm Ngọ (1282), dưới triều vua Nhân Tông, Trần Quang Khải  được cử làm Thượng thái sư, nắm toàn quyền nội chính, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba, Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn và có nhiều công lớn. Chính Trần Quang Khải đã chỉ huy quân Trần đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm Ất Dậu (1285).

Bên cạnh năng lực quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có vị trí không nhỏ trong văn học sử Việt Nam. Ông là tác giả “Lạc Ðạo” đã thất truyền và theo lời bình của Phan Huy Chú, thơ ông “thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa, lý thú”.

Trần Quang Khải, một cuộc đời lớn, vừa làm chủ tướng, vừa làm tướng, vừa đánh giặc vừa làm thơ.

♦ Chiêu Văn Vương - Trần Nhật Duật:


Trần Nhật Duật (1253-1330), con trai thứ tư của Trần Thái Tông, người có công lớn trong việc chỉ huy quân Trần đánh thắng giặc Nguyên, từng được phong Thái uý quốc công với Chiêu Văn đại vương, từ bé đã nổi tiếng là ông hoàng hiếu học và “sớm lộ thiên tri”, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người. Có thể nói, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là những năm tháng miệt mài rèn luyện để thành tài. Vì vậy, Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Uy tín của vị vương còn vang dội cả nước ngoài do hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học biết tiếng Tống, tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những chỉ sử dụng thành thạo những ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó kể cả phong tục, tập quán của họ. Ðối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không chỉ hiểu tiếng mà còn hiểu cả về người.

 ♦ Trần Anh Tông (1293-1314):

Niên hiệu: Hưng Long.
Vua Nhân Tông có ba người con: Anh Tông Thuyên, Huệ võ vương Quốc Chẩn và công chúa Huyền Trân. Năm Quý Tỵ (1293), Nhân Tông truyền ngôi cho con cả là Thái tử Thuyên. Thái tử Trần Thuyên sinh năm Bính Tý (1276) lên làm vua lấy hiệu là Anh Tông. Năm Giáp Dần (1314) Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh rồi về làm Thái thượng hoàng ở phủ Thiên Trường đến năm Canh Thân (1320) thì mất. Anh Tông trị vì 21 năm thọ 54 tuổi.

 ♦ Trần Minh Tông (1314-1329):

Niên hiệu:
- Ðại Khánh (1314-1323);
- Khai Thái (1324-1329).

Năm Giáp Dần (1314) Thái tử Mạnh, sinh năm Canh Tý (1300) lên nối ngôi lấy hiệu là Minh Tông. Minh Tông có lòng nhân hậu, hay thương người nhưng xét việc chưa minh. Năm Ất Mão (1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau. Năm Quý Hợi (1323), mở khoa thi Thái học sinh chọn người tài ra giúp nước. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên vua Minh Tông đã có dưới trướng mình những kẻ hiền thần như Ðoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Văn Ngạn, Chu Văn An giúp rập. Tuy nhiên do quá tin vào bọn nịnh thần, vua giết oan Huệ võ vương Trần Quốc Chẩn, một người có công, đồng thời là Quốc trượng (bố vợ) mình. Trần Quốc Chẩn thân sinh ra Hoàng hậu Lê Thánh (vợ Minh Tông). Ông có công mấy lần đánh tan quân Chiêm Thành gây hấn. Như vì lúc ấy Hoàng hậu chưa sinh Hoàng tử nên trong việc chọn Thái tử triều thần phân ra làm hai phái chủ trương trái ngược nhau: một phái do Trần Quốc Chẩn đứng đầu muốn chờ Hoàng hậu sinh con trai rồi sẽ lập Thái tử. Một phái do Văn Hiến hầu Trần Khắc Chung xin lập Hoàng tử Vượng là con một quý phi làm Thái tử. Việc chưa ngã ngũ thì Văn Hiến Hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Trần Quốc Chẩn 100 lạng vàng, xui nó vu cáo Quốc Chẩn mưu làm phản. Vua Minh Tông liền bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc. Nhân đó Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chẩn đi, lấy cớ : “bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó”. Minh Tông nghe theo, không cho Quốc Chẩn ăn uống gì cả. Biết cha mình khát, Hoàng hậu Lê Thánh phải lấy áo nhúng nước mặc vào rồi vắt ra cho uống, cuối cùng Quốc Chẩn bị chết. Sau có người vợ lẽ của Trần Nhạc ghen với vợ cả tố cáo sự thật. Nỗi oan được giải nhưng một trung thần đã chết. Minh Tông làm vua đến năm Kỷ Tỵ (1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng, về làm Thái thượng hoàng.

 ♦ Trần Hiển Tông (1329-1341): 

Niên hiệu: Khai Hưu.
Thái tử Vượng sinh năm Kỷ Mùi (1319), mới 10 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Hiển Tông. Hiển Tông trị vì nhưng việc điều khiển triều chính, kể cả việc dẹp loạn Ngưu Hống ở Ðà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Hiển Tông làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm, thọ 23 tuổi.

 ♦ Trần Dụ Tông (1341-1369):

Niên hiệu:
- Thiệu Phong (1341-1357);
- Ðại Trị (1358-1369).
Hiển Tông không có con nên việc truyền ngôi báu do Thượng hoàng xếp đặt. Thượng hoàng Minh Tông có 7 con trai: Hiển Tông vương, Cung Túc vương Dục, Cung Ðịnh vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung Tĩnh vương Nguyên Trạch, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính.

Hiển Tông mất, Thượng hoàng lập người con tên là Hạo, sinh năm Bính Ngọ (1336) lên làm vua, hiệu là Dụ Tông. Những năm đầu mọi việc quyền bính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển. Bởi thế, dù có mất mùa dân đói nhưng việc chính trị còn có nền nếp. Từ năm 1358 trở đi, Thượng hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn. Bọn gian thần kéo bè, kết đảng lũng đoạn triều chính. Chu Văn An dâng “thất trảm sớ”, xin chém 7 gian thần nhưng vua không nghe, ông liền bỏ quan về dạy học. Đã thế vua Dụ Tông ham chơi bời, rượu chè, xây cung điện để đánh bạc, mở tiệc bắt các quan thi nhau uống rượu, ai uống 100 thăng thì thưởng cho 2 trật... khiến cho triều đình thối nát, loạn lạc nổi lên như ong. Nhân dân cực khổ trăm bề.

Bên ngoài nhà Minh mới đánh bại nhà Nguyên còn bận sửa sang việc nước chưa dòm ngó đến Ðại Việt. Trái lại, Chiêm Thành thấy nhà Trần suy yếu, có ý coi thường, muốn đòi lại đất Thuận Hoá. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá thành Thăng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn.

Năm Kỷ Dậu (1469) vua Dụ Tông mất thì bão táp đã nổi lên ở cung đình. Nguyên do Dụ Tông không có con. Triều đình lập Cung Ðịnh vương là anh Dụ Tông lên làm vua nhưng bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Nguyên mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy một kép hát bội là Dương Khương có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua. Nhật Lễ muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần rồi giết bà Hoàng thái hậu cùng Cung Ðịnh vương. Cung Tĩnh vương vốn nhu nhược thấy thế bỏ trốn lên mạn Ðà Giang.

Trước tình hình nội chính rối ren, các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức vua Trần Nghệ Tông.

 ♦ Trần Nghệ Tông (1370-1372):

Niên hiệu: Thiệu Khánh.
Cung Tĩnh Vương sinh năm Ất Sửu (1324), do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lên ngôi năm Canh Tuất (1370). Nghệ Tông lên vua chưa được bao lâu đã phải lao đao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Ðại Việt. Quân Chiêm vượt bể vào cửa Ðại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Ðông Ngàn (Ðình Bảng, Bắc Ninh) lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào thành đốt sạch cung điện bắt đàn bà con gái, lấy hết vàng bạc châu báu rồi rút quân về. Vua nhu nhược, bất lực không điều khiển nổi triều chính phải trao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người là Minh Từ hoàng hậu sinh ra vua Nghệ Tông, một người là Ðôn từ hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông. Vì vậy, Nghệ Tông tin dùng phong Hồ Quý Ly làm khu Mật Ðại Sứ tại gia tước Trung Truyên Hầu.

Năm Nhâm Tý (1372), Nghệ Tông truyên Ngôi cho em là Kính rồi về phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.

 ♦ Trần Duệ Tông (1372-1377):

Niên Hiệu: Long Khánh.
Trần Kính sinh năm Ðinh Mùi (1337), lên ngôi lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ Hồ Quý Ly là Lê Thị làm Hoàng hậu. Duệ Tông quyết đoán hơn nhưng không thể làm được gì vì quyền bính vẫn do Thái thượng hoàng nắm giữ. Năm Giáp Dần (1374), vua cho mở khoa thi tiến sĩ thay cho thi Thái học sinh, lấy được 50 người ban cho mũ áo vinh quy.

Việc nổi cộm nhất dưới thời Duệ Tông là chiến tranh với Chiêm Thành. Năm Bính Thìn (1376), quân Chiêm sang đánh Hoá Châu (Nghệ An). Thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi Ðại Việt, vua Duệ Tông quyết thân chinh đem quân đi trừng phạt. Vua sai quân dân Thanh Hoá, Nghệ An vận tải 5 vạn thạnh lương vào Hoá Châu rồi rước Thượng hoàng dự lễ duyệt binh. Có lẽ vì sợ, Chế Bồng Nga sai người sang cống 15 mâm vàng. Nhưng quan trấn thủ Hoá Châu là Ðỗ Tử Bình ỉm đi rồi dâng sớ nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn, vô lễ, xin vua cử binh đi đánh. Ðược tin ấy, vua Duệ Tông sai Quý Ly dốc lương vận lương thực đến cửa biển Di Luân (Quảng Bình) rồi tự dừng quân 1 tháng để luyện tập sĩ tốt. Ðến tháng giêng năm Ðinh Tỵ (1377) tiến quân vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiêu và động Kỳ Mang rồi tiến vào Ðồ Bàn, Kinh đô vua Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, cho người trá hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn xin tiến binh ngay. Duệ Tông tưởng thật truyền lệnh tiến binh vào thành. Ðại tướng Ðại Việt là Ðỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân Việt đến chân thành Ðồ Bàn, quân Chiêm từ bốn phía đổ ra đánh. Quan quân thua to. Vua Duệ Tông chết trong đám loạn quân. Bọn Ðỗ Tử Bình lĩnh hậu quân, hèn nhát không đem quân lên cứu, Hồ Quý Ly cũng bỏ chạy. Thế mà về kinh Hồ Quý Ly không hề bị trách cứ, Ðỗ Tử Bình chỉ bị giáng xuống làm lính mà thôi.

 ♦ Trần Phế Ðế (1377-1388):

Niên hiệu: Xương Phù.
Thượng hoàng Nghệ Tông được tin vua Duệ Tông chết trận bèn lập con Duệ Tông là Hiền, sinh năm Tân Sửu (1361), lên nối ngôi, Hiệu là Phế Ðế. Nhưng mọi quyền bính vẫn do Thượng hoàng nắm giữ. Nước Ðại Việt những năm này bị Chiêm Thành quấy nhiễu, cướp bóc dữ dội. Ngay sau khi giết được vua Duệ Tông, Chế Bồng Nga huy động quân Chiêm tiến đánh và cướp bóc Thăng Long.

Năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Ðại Hoàng cướp bóc Thăng Long lần nữa. Năm Canh Thân (1380) rồi năm Nhâm Tuất (1382) quân Chiêm lại xâm phạm bờ cõi Ðại Việt. Nhưng hai lần này chúng bị đánh bại. Tháng 6 năm Quý Hợi (1383), vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga lại đem quân tiến đánh Ðại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn gia giữ ở châu Tam Kỳ (Quốc Oai). Nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Thượng hoàng sợ hãi sai Nguyễn Ða Phương ở lại giữ kinh thành còn mình và vua Phế Ðế chạy sang Ðông Ngàn. Có người thấy vậy níu thuyền lại xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giặc. Nhưng Thượng hoàng không nghe. Lần nữa quân Chiêm lại tàn phá Thăng Long. Vậy mà khi giặc rút về Thượng hoàng và vua không lo việc phòng bị mà chỉ lo mang của cải đi chôn giấu. Và để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, nhà vua đã tăng sưu thuế, hơn thế nữa, nhà vua bắt mỗi suất đinh mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế, (Thuế thanh sinh ra từ đây) khiến cho muôn dân ngày càng cực khổ.

Trong khi ấy, ở phương Bắc, nhà Minh bắt đầu dòm ngó Ðại Việt. Năm Giáp Tý (1384), Minh Thái Tổ sai sứ sang Ðại Việt đòi cấp 5 ngàn thạch lương cho quân Minh ở Vân Nam, cùng nhiều cống phẩm quý giá khác.

Trước tình hình quốc chính rã rời, nhiều tôn thất nhà Trần chỉ lo cho cá nhân mình, xin về trí sĩ. Thượng hoàng nghe lời Quý Ly xuống chiếu trách nhà vua Phế Ðế trẻ con, lại có ý làm hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc nên giáng xuống làm Minh Ðức đại vương và lập Chiêu Ðịnh Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.

Thấy Thượng hoàng mê muội, một số tướng toan đem quân vào điện cứu vua Phế Ðế. Nhưng vua viết hai chữ “Giải Giáp”, ý không muốn trái lệnh thượng hoàng. Sau đó vua Phế Ðế bị thắt cổ chết, các tướng đồng mưu giết Quý Ly đều bị sát hại.
 
 ♦ Trần Thuận Tông(1388-1398):
 

Niên Hiệu: Quang Thái.
Nghệ Tông thượng hoàng nghe Quý Ly, giết Phế Ðế rồi lập con út của mình là Chiêu Ðinh vương sinh năm Ðinh Tỵ (1377) lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.

Hồ Quý Ly gả con gái Khâm Thánh cho Thuận Tông rồi chuyên quyền gài tay chân thân tín nắm giữ những chức vụ then chốt trong triều đình và trong quân đội. Thực trạng đó khiến cho lòng dân hoang mang bất phúc, nên loạn lạc nổi lên ở nhiều nơi. Kiệt liệt hơn cả là cuộc nổi dậy của nhà sư Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai  (Sơn Tây). Về sau Sư Ôn bị một bộ tướng của triều đình là Hoàng Phùng Thế đánh, bắt được.

Năm Kỷ Tỵ (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân tiến đánh Ðại Việt. Vua sai Hồ Quý Ly đem quân cự chiến. Nhưng Hồ Quý Ly thua trận phải rút chạy. Cuối năm ấy Chế Bồng Nga lại tiến vào sông Hoàng Giang để đánh chiếm Thăng Long. Thượng hoàng sai đô tướng Trần Khát Chân đem chiến binh đi chặn giặc.

Tháng giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân. Bấy giờ có hàng binh Chiêm Thành cho Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của Chiêm Thành, đặc biệt của chiến thuyền chở Chế Bồng Nga trong số cả trăm thuyền đang tiến vào trận địa. Khát Chân ra lệnh mọi loại vũ khí bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng tên chết. Quan quân được thế đổ ra đánh, quân Chiêm đại bại. Khát Chân lấy đầu Chế Bồng Nga đem dâng triều đình. Tướng Chiêm Thành là La Khải đem 5 tàn quân về nước chiếm lấy ngôi vua Chiêm. Hai người con Chế Bồng Nga chạy sang hàng Ðại Việt, được vua Trần trọng dụng.

Trừ xong giặc Chiêm Thành, Hồ Quý Ly càng thao túng triều đình. Những người không ăn cánh với mình, trừ con cái Trần Nguyên Ðán, Quý Ly đều xui Thượng hoàng giết đi. Nhiều hoàng tử, thân vương đều bị sát hại.

Tháng Chạp năm Giáp Tuất (1394) Thượng hoàng Nghệ Tông mất. Trị vì được 3 năm, làm Thái thượng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi. Người đương thời cho Nghệ Tông là ông vua “Chí khí đã không có, trí tuệ cũng kém, để cho gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những trung thần nghĩa sĩ, cứ tin dùng một Quý Ly cho được quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cả cơ nghiệp nhà Trần”.

Nghệ Tông mất rồi, Quý Ly lên làm Phụ chính thái sư dịch sách để dạy vua, thâu tóm trọn binh quyền trong triều ngoài lộ. Ðể dễ đường thoán đoạt, Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây Tây Ðô (Xã Yên Tôn, Vĩnh Lộc). Năm 1397, Quý Ly bắt vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Ðô. Tháng Ba năm sau, Quý Ly ép vua nhường ngôi để đi tu. Thuận Tông buộc phải nhường ngôi cho con rồi đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Ðại Lại (Thanh Hoá).

 ♦ Trần Thiếu Ðế(1398-1400):

Niên hiệu: Kiến Tân.

Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử Án lúc đó mới có 3 tuổi lên kế nghiệp tức là vua Thiếu Ðế. Hồ Quý Ly tự xưng là Khâm Ðức Hưng Liệt đại vương rồi sai người giết Thuận Tông, con rể mình.

Triều Trần lúc đó có Thái bảo Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng quân Trần Khát Chân lập hội tề mưu trừ Quý Ly. Việc bại lộ Hồ Quý Ly cho giết tất cả 370 người. Sau đấy, Hồ Quý Ly lại xưng là Quốc Tế Thượng Hoàng ở cung Nhâm Ngọ ra vào dùng nghi lễ Thiên tử. Ðến tháng hai năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly bỏ Thiếu Ðế rồi tự xưng làm vua, lật đổ nhà Trần lập nên nhà Hồ.

Như vậy, triều Trần kể từ Thái Tông Trần Cảnh đến Trần Thiếu Ðế, là 12 ông vua, trị vì được 175 năm.

Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ vua Dụ Tông và Nghệ Tông. Dụ Tông thì ham chơi, không lo đến chính sự, làm loạn cả kỷ cương phép nước, làm dân nghèo nước yếu để kẻ quyền thần được thể làm loạn, tự mình nối giáo cho giặc khiến cơ nghiệp nhà Trần tan vỡ. 

Nhà Hồ


Nhà Hồ tồn tại trong 7 năm (1400-1407) với 2 đời vua:
- Hồ Quý Ly (1400).
- Hồ Hán Thương (1401-1407).
 ♦ Hồ Quý Ly:

Niên hiệu: Thánh Nguyên.
Vào cuối thế kỷ 14, đất nước ở trong tình trạng rối ren. Triều Trần đã trở nên ruỗng nát, bị lung lay tận gốc. Nhân hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly, một quý tộc có vây cánh và thanh thế trong triều đã lấn át dần quyền lực nhà Trần rồi đến năm 1400, phế truất hẳn vua Trần lập ra một vương triều mới - Triều Hồ.

Hồ Quý Ly dòng dõi người Chiết Giang, Trung Quốc. Từ đời Ngũ Quý sang Việt Nam sống ở Quỳnh Lưu (Nghệ An), sau chuyển ra Thanh Hoá.

Hồ Quý Ly tham dự vào chính sự nhà Trần khoảng 28 năm, sau khi bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hoá và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn (1400) Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Ðế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Ðại Ngu. Quý Ly làm vua chưa được một năm, bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con thứ Hồ Hán Thương rồi làm Thái Thượng hoàng, cùng coi việc nước.

Trong khoảng 35 năm nắm quyền chính ở triều Trần và triều Hồ, Quý Ly đã từng bước tiến hành một cuộc cải cách rộng lớn về mọi mặt. Về mặt hành chính, Quý Ly đổi các lộ xa làm trấn, đặt thêm các chức An phủ phó sứ, Trấn phủ phó sứ cùng các chức phó khác ở các châu huyện. Ở các lộ thì đặt các chức quan lớn như Ðô hộ, Ðô thống, Thái thú quản cả việc quân sự và dân sự. Quý Ly còn đặt chức Liêm Phóng Sứ tại mỗi lộ để dò xét tình hình quân dân.

Về mặt kinh tế, cải cách quan trọng nhất của Hồ Quý Ly là phép hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, và đổi mới chế độ thuế khoá. Ðó là những cải cách tiến bộ nhằm tước giảm thế lực của bọn quý tộc Trần, giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính của triều đình. Theo phép hạn điền trừ Ðại Vương và trưởng công chúa, mỗi chủ đất chỉ được giữ 10 năm trở xuống, sổ sách phải sung công, nghĩa là khôi phục chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Ai có tội được phép lấy ruộng mà chuộc tội.

Về văn hoá xã hội, Hồ Quý Ly phản đối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt lời nói của cổ nhân để xét việc trước mắt. Năm Nhâm Thân (1392), Quý Ly soạn sách “Minh Ðạo” gồm 14 thiên đưa ra những kiến giải xác đáng về Khổng Tử và những nghi vấn có căn cứ về sách “Luận ngữ”, một trong những tác phẩm kinh điển của nho gia.

Hồ Quý Ly cũng có hoài bão xây dựng một nền văn hoá dân tộc. Ông trọng dụng chữ Nôm, dịch Kinh Thi ra nôm để dạy hậu phi và cung nữ. Ông còn quan tâm đến việc mở thêm trường học ở các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Ðông và định lại phép thi cho có quy củ.

Về mặt xã hội, Hồ Quý Ly mở “Quảng Tế Thư” một loại bệnh viện công, chữa bệnh bằng châm cứu và lập một kho bán thóc rẻ cho người nghèo. Việc ông cho ban hành cân, thước, đấu, nhưng để thống nhất đo lường cũng làm tăng thêm giá trị văn minh của đời sống xã hội.

Hồ Quý Ly đã thực hiện những cuộc cải cách ấy với một quyết tâm cao, một tài năng xuất chúng và một bản lĩnh phi thường. Và dù những cải cách đó có ý nghĩa tích cực, nhưng nhìn chung toàn bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và những đòi hỏi cấp thiết của dân tộc. Chính sách cải cách của nhà Hồ có hạn chế bớt thế lực của họ Trần nhưng lại làm lợi ích riêng cho họ Hồ, nhiều hơn là lợi ích quốc gia. Vì vậy ông đã thất bại. Cái mà ông làm ra không bằng những bài học ông để lại. Bài học lớn nhất, dẫn đến thất bại của ông là để mất lòng dân. Quý Ly đã tiến hành cải cách và đoạt chính quyền bằng bạo lực tàn bạo. Trong cuộc tàn sát các tôn thất nhà Trần và những người không ăn cánh, Quý Ly đã giết một lúc 370 người, gián tiếp và trực tiếp giết nhiều và còn tiếp tục tàn sát trong nhiều năm sau, làm cho người quen biết nhau “Chỉ nhìn nhau bằng mắt, không dám nói chuyện với nhau bằng lời”. Người đương thời cho Quý Ly là “gian giảo”. Một triều vua như vậy thật khó đứng vững.

 ♦ Hồ Hán Thương (1401-1407):

Niên hiệu:
- Thiệu Thành (1401-1402);
- Khai Ðại (1403-1407).
Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng chịu lép vế không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho con cả là Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đắp thành Ða Bang, lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi”. Chính vì họ Hồ không được lòng dân nên khi Trương Phụ và Mộc Thạch đem 20 vạn bộ binh, kỵ binh và hàng chục vạn phu dịch sang xâm lược nước ta, triều Hồ đã thất bại.

Trước các mũi tiến quân của Ðịch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm Ða Bang. Cuối năm Bính Tuất (20/01/1407) thành Ða Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Ða Bang ngày 22/01/1407, quân địch tràn xuống chiếm kinh thành Thăng Long. Quân nhà Hồ một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo bộ thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hoá.

Ðến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Ðinh Hợi (1407).

Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Ðinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ. Nước ta lại nằm trong vòng đô hộ nhà Minh.

♦ Hồ Nguyên Trừng:

Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quý Ly không chỉ là vị tướng tài mà còn là một công trình sư lỗi lạc, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu cứ điểm then chốt Ða Bang (Ba Vì) kéo dài theo bờ nam sông Ðà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400 km, đã tỏ rõ ông là một nhà quân sự kiệt xuất, Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị những hoả lực mạnh, từng khiến cho thuỷ binh giặc nhiều phen khiếp đảm. Tuy vậy, nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thường nhắc đến công sáng chế ra súng “thần cơ ” của ông.
 
Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp tổ chức những xưởng đúc lớn. Nhờ thông minh tuyệt vời và khả năng suy nghĩ phi thường, Hồ Nguyên Trừng đã đúc kế những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đó, phát minh, sáng chế ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng “Thần cơ”. Súng Thần Cơ của Nguyên Trừng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng thần công ở những thế kỷ sau này. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Ðạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn người ta nhồi thuốc súng phía đáy rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì. Súng “Thần cơ” có nhiều loại: loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa áng chừng 700 mét, Hồ Nguyên Trừng đặc biệt cho chế tạo nhiều loại thần cơ lớn gọi là “thần cơ pháo”. Thần cơ pháo thực chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động. Quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng chiến của Hồ thất bại vì không được dân ủng hộ. Trong lúc giặc giương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng “Thần Cơ”, bắt được cả nhà sáng chế ra nó. Trong “Vân Ðài loại ngứ”, Lê Quý Ðôn nhắc đến tình tiết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.

 
Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới còn đang thai nghén về súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.

Thời kỳ thuộc Minh (1414 - 1417) và Các cuộc khởi nghĩa

Thời kỳ thuộc Minh (1414 - 1417) và Các cuộc khởi nghĩa



Nếu tính từ năm Bính Tuất (1407), từ khi quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly giải về Kinh Lăng cho đến khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi năm Mậu Thân (1428), nước ta bị giặc Minh chiếm đóng trong 20 năm.
Trong thực tế, ách đô hộ của nhà Minh chỉ được yên ổn trong khoảng 4 năm (1414-1417). Bởi vì, sau thất bại của nhà Hồ, nhân dân Ðại Việt quy tụ dưới ngọn cờ của các cuộc nổi dậy đều xưng đế nên sử gọi đó là Hậu Trần (1407-1417). Nhưng sau các cuộc đánh dẹp bằng quân sự, tháng 4 năm Giáp Ngọ (1414). Tổng binh Trương Phụ, Mộc Thạnh và Thị Lang binh bộ nhà Minh là Trần Hiệp bắt được Trùng Quang Ðế, Nguyễn Suý, Ðặng Dung giải về bắc, trên đường đi, vua, tôi nhà Hậu Trần đã nhảy xuống biển tự tử để tỏ rõ khí phách, thì nhà Hậu Trần chấm dứt từ đây, Quốc thống thuộc về nhà Minh. Sử gọi đây là kỷ thuộc Minh

Tháng 8 năm đó (1414) Mộc Thạnh, Trương Phụ, Trần Hiệp về nước, việc cai trị được giao cho viên quan văn là Hoàng Phúc. Hoàng Phúc có học vấn cao, tính tình điềm đạm, vì vậy, hắn đã thực hiện một chính sách cai trị khéo léo, mềm mỏng nhưng vô cùng thâm độc.

Ngoài việc bóc lột về kinh tế, đàn áp về quân cơ như Trương Phụ, Mộc Thạnh vẫn làm, Hoàng Phúc còn dùng chính sách văn hoá để đồng hoá dân Việt.

Nắm được quyền cai trị được gần một tháng, tháng 9 năm đó (1414), Hoàng Phúc các phủ huyện, châu dựng văn miếu, lập đàn tế lễ hàng năm thờ xã tắc Phong Vân, Sơn Xuyên và các thần theo phong tục Trung Hoa. Hắn còn đặt ra luật cấm trai gái nước Việt cắt tóc ngắn. Phụ nữ phải mặc quần dài áo ngắn theo phong tục phương Bắc, cũng tháng 10 năm ấy, theo lời bàn của Tham nghị Bành Ðạo Tường, Hoàng Phúc đã cho mở trường học tiếng Trung Hoa và ra sức lôi kéo mua chuộc sĩ phu, thầy thuốc, tặng đạo để phục vụ nền đô hộ.

Năm Ất Mùi (1415) Hoàng Phúc cấp lộ phí, cho người đi theo phục dịch và bắt các quan cai trị các địa phương phải đón tiếp long trọng những người Việt sang Kim Lăng phong chức tước để về nước làm việc cho chính quyền đô hộ

Ngoài việc đào tạo và mua chuộc các quan chức, Hoàng Phúc còn thực hiện âm mưu thiêu huỷ những bi ký của những người Việt từ trước để lại, một số có giá trị lớn chúng đưa về Bắc. Hàng năm nhà Minh còn bắt các địa phương Ðại Việt phải cống nạp những nho sinh trẻ, những thợ thủ công lành nghề để đưa về Kim Lăng, hòng huỷ diệt dân tộc Ðại Việt.

Mặc dù vậy bọn cai trị vẫn không thể đồng hoá được nhân dân Ðại Việt. Một số quan lại phản động quay lại đàn áp dân chúng, bóc lột nhân dân đến thậm tệ nhưng cũng không ít những sĩ phu yêu nước vẫn ngấm ngầm hoạt động chống giặc. Chính vì vậy mà trong thời gian giặc Minh xâm lược, có rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra.

 ♦ Phong trào nghĩa binh "áo đỏ":

Phong trào này xuất hiện ở Thái Nguyên vào năm Canh Dần (1410). Nghĩa quân thường mặc áo đỏ và chiến đấu rất dũng cảm.

Từ Thái Nguyên phong trào “áo đỏ” lan rất nhanh khắp vùng Việt Bắc, Tây Bắc vào đến miền núi Thanh Nghệ (ngày nay). Những đội nghĩa binh “áo đỏ ” đã gây cho địch nhiều thiệt hại làm cho chúng không thể đặt được chính quyền trên miền núi rừng nước ta.

 ♦ Khởi nghĩa Lam Sơn:

Đến đầu năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi cùng với những người đồng chí, chính thức dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn kêu gọi người hưởng ứng đánh giặc cứu nước.

Ðể hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1419-1420 đã có nhiều cuộc dấy binh nhỏ song điển hình có 2 cuộc nổi dậy đáng lưu ý, đó là cuộc nổi dậy do nhà sư Phạm Ngọc ở chùa Ðồ Sơn lãnh đạo và cuộc nổi dậy của nô tỳ và dân nghèo vùng ven biển Ðông- Bắc khiến cho quân giặc ở đồn Bình Than, thành Xương Giang phải nhiều phen khốn đốn.

Các cuộc nổi dậy trên tuy ngắn ngủi song cũng góp phần không nhỏ cùng với khởi nghĩa Lam Sơn chấm dứt 20 năm đô hộ của giặc Minh trên đất nước ta

Thời Lê Sơ


Thời Lê Sơ trị vì đất nước ta trong vòng 100 năm (1428-1527), trải qua 10 đời vua, bao gồm:

- Lê Thái Tổ (1428-1433)                    - Lê Túc Tông (1504)
- Lê Thái Tông (1434-1442)               - Lê Uy Mục (1505-1509)
- Lê Nhân Tông (1443-1459)             - Lê Tương Dực (1510-1516)
- Lê Thánh Tông (1460-1497)           - Lê Chiêu Tông (1516-1522)
- Lê Hiến Tông (1497-1504)              - Lê Cung Hoàng (1522-1527)
♦ Lê Thái Tổ (1428-1433):

Niên hiệu: Thuận Thiên.
Ông tổ dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn -Thanh Hoá là Lê Hối. Vốn là một người chất phác, hiền hậu, ít nói nhưng cụ lại là người hiểu biết sâu xa “có thể đoán biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành”. Người cha sinh ra Lê Lợi huý là Khoáng, là người có chí khí và hào hiệp, thường nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân chúng, chu cấp người nghèo, giúp người hoạn nạn khó khăn, vì thế cả vùng đều kính phục cụ.

Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (10 tháng 9 năm 1385) là con trai thứ 3 và cũng là con út trong nhà. Ngay từ khi còn rất trẻ. Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh dũng lược, đức độ hơn người.

Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người đồng chí chính thức dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn xưng là Bình Ðịnh Vương, truyền hịch đi khắp nước kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng dưới cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước với lực lượng ban đầu không quá 2000 người, “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh, khí giới thì thật tay không”, phải đối địch với một quân địch đông đảo có trang bị đầy đủ của giặc, nghĩa quân nhiều lần bị vây khốn có lúc lương cạn hàng tuần Lê Lợi phải cho giết cả voi chiến và ngựa của chính mình để nuôi quân. Bằng lối đánh “Lấy ít địch nhiều, cả vây thành và diệt viện bằng những chiến thắng quyết định ở Chi Lăng-Xương Giang, Cần Trạm tiêu diệt hàng chục vạn viện binh giặc, cuối cùng quân đội Lam Sơn đã buộc giặc Minh trong các thành Ðông Quan, Tây Ðô, Cổ Lộng, Chí Linh phải đầu hàng”.
 
Ngày 10 tháng chạp năm Ðinh Mùi (1427), tại một địa điểm ở gần thành Ðông Quan, Vương Thông - Viên tướng chỉ huy đội quân xâm lược Minh đã phải tuyên thệ: xin rút hết quân về nước.

Ngày 29 tháng 12 năm đó, bại binh đó bắt đầu rút, đến ngày mùng 3 tháng 1 năm Mậu Thân (1428) những bóng dáng cuối cùng của quân Minh đã bị quét khỏi bờ cõi.

Thế là sau hai mươi năm sống dưới ách đô hộ ngoại bang, đất nước lại dành độc lập.

Do sức ép của nhà Minh và cũng là sách lược mềm dẻo của lãnh tụ Lam Sơn, trên danh nghĩa Lê Lợi, vẫn phải xin cầu phong cho con cháu họ Trần là Trần Cảo làm vua. Nhưng năm Mậu Thân (1428), Trần Cảo tự cho mình không có công gì trong cuộc giải phóng đất nước mà lại giữ ngôi vua vẫn thường áy náy không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy vào châu Ngọc Ma (Thanh Hoá). Quân của Lê Lợi đuổi kịp dẫn trở về, cho uống thuốc độc chết, triều đình nhà Lê sai làm tang lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua: Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428) Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, thành Ðông Ðô (tức Hà nội), xưng là “Thuận thiên thừa vận Duệ văn Anh Vũ đại vương”, đặt tên nước là Ðại Việt, đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ, ban bài cáo Bình Ngô. Khi đó ông đã 43 tuổi. Ðây là sự mở đầu một thời kỳ độc lập, lâu dài nhất trong lịch sử nước ta, để không gây sự căng thẳng với nhà Minh. Lê Lợi chưa xưng Ðế mà chỉ tự xưng Vương.

Mặc dù chỉ ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nền độc lập phồn vinh của quốc gia Ðại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Nhà vua ra lệnh cho các quan: Tư Không, Tư Ðồ, Tư Mã, Thiếu uý, Hành hiển bàn định luật lệnh trị quân dân. Nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430) Lê Thái Tổ đã cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình.

Từ những đơn vị hành chính theo chế độ quận huyện của nhà Minh, nhà Lê lại chia đơn vị hành chính nước ta thành 5 đạo, đặt các chức vệ quân, tổng quản, hành khiển... ở xã đặt xã quan. Bộ máy hành chính này sẽ ngày càng được hoàn chỉnh vào các đời vua sau, nó thực sự giúp việc quản lý và điều hành đất nước.

Một đất nước sống chủ yếu bằng nông nghiệp, việc phục hồi phát triển nông nghiệp cũng được Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm, ngay từ năm đầu lên ngôi, ông đã cho kiểm kê hộ khẩu, làm sổ điền, sổ hộ, đặt cơ sở để tiến hành chế độ quân điền.

Ðể tuyển chọn nhân tài và củng cố bộ máy cai trị, nhà Lê không chỉ quan tâm đến việc cầu hiền bằng cách tiến cử mà còn đặt ra các khoa thi. Dưới thời Lê Thái Tổ đã bắt đầu mở các khoa thi để lựa chọn các nhân tài. Vua Lê Thái Tổ còn đặc biệt quan tâm đến việc bình định và củng cố miền biên cương phía Bắc và Tây Bắc. Nhà vua từng đích thân cầm quân tiến thẳng vào tận sào huyệt một lực lượng chống đối, đặt đất đó thành châu huyện và ghi vào bản đồ quốc gia.

Về mặt đối ngoại, Lê Thái Tổ nhiều lần cử các đoàn sứ bộ sang Trung Quốc để đặt mối bang giao bình thường với nhà Minh, khéo léo giải quyết những sách nhiễu của nhà Minh về việc lập con cháu nhà Trần và vấn đề tù binh chiến tranh... Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433) nhà vua băng ở Tẩm điện, hưởng thọ 49 tuổi. Vua Lê Thái Tổ có hai người con trai là Quận Ai Vương Tư Tề là con của Trịnh Thần Phi và Hoàng Thái tử Nguyên Long là con trai của Phạm Thị Ngọc Trần. Nhà vua truyền ngôi cho con thứ là Hoàng Thái tử Nguyên Long.

Thái Tổ Phạm hoàng hậu

Bà họ Phạm, huý là Ngọc Trần, người xã Quần Lại, huyện Lôi Dương. Thanh Hoá. Bà là một trong số các bà vợ của Lê Lợi. Khi Lê Lợi mới khởi nghĩa đánh giặc Minh phải di chuyển luôn, không yên một chỗ nào, bà lặn lội theo hầu, trải qua nhiều gian khổ. Bà sinh ra Nguyên Long (vua Thái Tông sau này) vào mùa đông  năm Quý Mão (1423), tức là vào năm thứ 6 của cuộc khởi nghĩa.

 ♦ Lê Thái Tông(1434-1442):

Niên hiệu:
- Thiệu Bình (1434-1439);
- Ðại Báo (1439-1442).

Lê Thái Tông tên huý là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý Mão (1423), là con thứ hai của Lê Thái Tổ. Lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Quý Sửu (1433), lấy niên hiệu là Thiệu Bình. Khi lên ngôi nhà vua mới 11 tuổi, nhưng không cần Mẫu hậu che rèm nghe việc mà tự mình điều hành tất cả công việc triều đình. Các nhà viết sử ai cũng nhận xét “vua tư chất sáng suốt tinh khôn; khi cầm quyền chính: trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngoài dẹp yên các manh động. Trọng đạo, chuộng Nho, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ chính hình; văn vật rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền”. Chính dưới thời vua Thái Tông, vào năm Thiệu Bình thứ 5, tổ chức thi Hương ở các đạo và năm sau tổ chức thi hội tại Kinh đô. Từ đó mở đầu ra lệ cứ ba năm một lần thi làm lệ thường. Cũng chính dưới triều vua này, vào năm Nhâm Tuất (1442) bắt đầu ra lệnh dựng bia ghi tên các tiến sĩ.

Một trong những sự kiện bi thảm nhất dưới triều Lê là cái chết đột ngột của vua Thái Tông và kéo theo nó là vụ án oan nghiệt giáng xuống Nguyễn Trãi và gia đình ông vào tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) mà người đời vẫn gọi là vụ án Lệ Chi Viên (vụ án vườn vải).

Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442) vua đi tuần ở miền đông duyệt quan ở thành Chế Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Ðịnh (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp, văn chương hay, luôn được vào bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa thi hài vua về, ngày 6 tháng 8 mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngày 12 tháng 8 năm đó (1442), các đại thần nhận di mệnh là Trịnh Khải, Nguyễn Xí, Lê Thụ cùng với Lê Liệt, Lê Bôi tôn Hoàng tử Băng Cơ lên nối ngôi. Nguyễn Trãi và gia đình bị án chu di tam tộc.

Lê Thái Tông trị vì trong 9 năm, đặt niên hiệu hai lần: Thiệu Bình (1434-1439); Ðại Bảo (1440-1442).

 ♦ Lê Nhân Tông(1443-1459):

Niên Hiệu:
- Ðại Hoà (1443-1453);
- Diên Ninh (1454-1459).

Khi vua Lê Thái Tông mặc dù mới có 20 tuổi, nhưng khi mất đi đã kịp để lại bốn người con trai do bốn bà vợ sinh ra: Bà Chiêu Nghi họ Dương sinh ra Lê Ðức hầu Nghi Dân: Bà Thần Phị họ Nguyễn sinh ra hoàng tử Băng Cơ (sau này là vua Nhân Tông) bà Tiệp Dư họ Ngô sinh ra Tư Thành (sau là vua Thánh Tông) và một bà vợ khác sinh ra Cung vương Khắc Xương.

Như vậy vua Lê Nhân Tông cũng không phải là con trưởng của vua Thái Tông. Ông Huý là Bang Cơ là con trai thứ 3 của Thái Tông... Mẹ là Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu họ Nguyễn (sau này mới phong), huý anh là Anh, người làng Bố Vệ huyện Ðông Sơn (Thanh Hoá). Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441) đến ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu (1941) được lập làm Hoàng thái tử, và ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442) được lên ngôi vua đổi niên hiệu là Ðại Hoà. Khi lên ngôi vua mới lên 2 tuổi, Thái hậu phải buông rèm nghe chính sự, tạm quyết đoán việc nước. May thay Thái Hậu là người tận tâm bảo hộ, tín nhiệm đại thần, theo dùng phép sẵn có trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, trong nước bình yên. Tháng 11 năm Quý Dậu (1453), vua lên 12 tuổi có thể tự coi được chính sự. Thái hậu trả lại quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra cho chính sự, vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ hết lời ca ngợi đức độ và tài năng của vua và Thái Hậu.

Khi Chiêm Thành hai lần lấn cướp Hoá Châu thì sai tướng đem quân đi đánh, giết được vua Chiêm là Bí Cai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm chính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đình thần họp bàn tất cả rồi mới thi hành; cho nên chính trị hay giáo hoá tốt, khắp ra bốn biển trăm họ đều mến đức, đời được thái bình.

Chính dưới thời vua Nhân Tông năm Quý Hợi (1455), triều đình sai Phan Phù Tiên biên soạn Ðại Việt sử ký, viết tiếp quyển sử của thời Trần từ Trần Thái Tông cho đến khi người Minh về nước.

Nhưng mặc dù là một ông vua sáng và nhân từ, nhưng vì không tuân theo nguyên tắc dòng đích nên mùa Ðông năm Kỷ Mão (1459), Lạng Sơn Vương Nghi Dân (là anh vua Nhân Tông) đang đêm bắc thang vào tận trong cung cấm, vua và Tuyên Từ Hoàng thái hậu bị giết. Khi đó vua mới 19 tuổi, ở ngôi được 17 năm. Ðặt niên hiệu hai lần.

Nghi Dân tự lập làm vua nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Ðinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch giáng Nghi Dân xuống tước hầu rồi tìm lập một người con khác của Thái Tông lên làm vua, đó là vua Lê Thánh Tông.

 ♦ Lê Thánh Tông(1460-1497):

Niên hiệu:
- Quang Thuận (1460-1469); 
- Hồng Ðức (1470-1497).

Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua Việt Nam (38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu, (Lê Hiển Tông ở ngôi-47 năm), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Ðại Việt thời ấy.

Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa Hạo, là con trai thứ tư và cũng là con út của vua Thái Tông, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442). Mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao, con gái của Thái Bảo Ngô Tử, một trong những công thần khai quốc của nhà Lê, người làng Ðông Bàng, huyện Yên Ðịnh (Thanh Hoá).

Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi, mẹ Nhân Tông buông rèm nghe chính sự, mới cho đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên Vương, cho ở nhà Phiến để hàng ngày cùng vua Nhân Tông và các phiên vương khác học tập tại toà Kinh Diên.

Khi Nghi Dân, con cả của vua Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoán đoạt rồi giết mẹ con Bang Cơ (vua Nhân Tông) lên ngôi vua, lại phong Tư Thành làm Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây ở trong nội điện. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người bàn lập Tư Thành làm vua nhưng một viên quan là Lê Lăng can rằng: Tư Thành còn có một người anh nữa là Cung Vương Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân-Bang Cơ, triều thần đến đón Cung Vương, song ông này từ chối. Khi đó họ mới rước Tư Thành lên ngôi, bấy giờ ông vừa tròn 18 tuổi.

Trị vì đất nước năm Hồng Ðức thứ 27 năm Bính Thìn (1496) vua bị mệt nhưng tự giải quyết các việc quan trọng. Tháng giêng năm sau vua càng mệt nặng rồi mất.

Lê Thánh Tông thọ 56 tuổi và là một trong những ông vua có khá nhiều vợ và nhiều con: 14 người con trai và 20 người con gái. Nhìn toàn cục cuộc đời ông vua này là một cuộc đời hoạt động sôi nổi trên rất nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xét: “Vua từ trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hung tài lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông, Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học”. Nhờ đó mà dưới thời trị vì của ông vua này, quốc gia Ðại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.

Lê Thánh Tông là người tha thiết với chủ quyền quốc gia. Ông đã từng có câu nói nổi tiếng: “Một thước núi, một tấc sông cũng của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng”. Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quốc gia Ðại Việt đã được hoàn thành.

Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đã đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử.

Về lập pháp, đây cũng là thời đại đã cho ra đời bộ luật Hồng Ðức nổi tiếng mang tên hiệu vua Lê Thánh Tông. Các triều đại trước: Lý, Trần đều có biên soạn luật của mình, song vì chiến tranh, loạn lạc đã bị mất hết vì thế luật Hồng Ðức còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.

Dưới triều Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ mà tư tưởng trọng nông và chế độ quân điền được ban bố và thi hành đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó làm mẫu mực.

Việc giáo dục thi cử thì dưới đời ông vua này cũng được coi là thịnh đoạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam, việc học do nhà nước tổ chức được đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở trường cũng được khuyến khích. Nhà vua cho mở rộng nhà Thái học và trường Quốc Tử Giám. Các tiến sĩ thi đỗ ngoài việc được khắc tên vào bia đá (đã được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thái Tông) và được dự lễ xướng danh rất long trọng, được trêo tên bảng vàng và cấp ngựa, ban áo mũ cờ biểu để vinh quy...

Bản thân vua Lê Thánh Tông cũng là một nhà văn hoá lớn: Ông là một nhà thơ lớn và  là người rất chăm lo đến việc trước thuật. Trong thời ông, nhiều công trình biên soạn có tầm cỡ được tiến hành như Ðại Việt sử ký toàn thư hoàn thành năm Kỷ Hợi (1479), Thiên Nam dư hạ tập một công trình có tính bách khoa lớn đầu tiên, hơn 100 bài thơ của Nguyễn Trãi cũng được sưu tầm vào thời gian này. Lê Thánh Tông là người đã giải cái oan của Nguyễn Trãi, cho tìm con cháu còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai.

Lê Thánh Tông tự lập ra hội Tao Ðàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là “Tao Ðàn nhị thập bát tú” do chính Lê Thánh Tông làm nguyên soái. Khối lượng sáng tác của Lê Thánh Tông và hội Tao Ðàn rất lớn, và có vị trí rất đặc biệt.

Lê Thánh Tông không chỉ là ông vua đầy tài năng và nhiệt huyết với tất cả các thành tựu nổi bật dưới thời trị vì của ông mà tên tuổi ông không thể mờ trong lịch sử và nền văn hoá nước nhà.

Lê Thánh Tông làm vua 38 năm đặt niên hiệu hai lần.

 ♦ Lê Hiến Tông(1497-1504):

Niên Hiệu: Cảnh Thống.
Vua Lê Hiến Tông tên huý là Tranh, lại có huý là Huy, là con trưởng của Thánh Tông, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461), mẹ là Trường lạc Thánh Từ Hoàng thái hậu, họ Nguyễn, huý là Hằng, người ở hương Gia Mưu ngoại trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hoá), con gái thứ hai của thái uý Trình quốc công Ðức Trung.

Tranh là con cầu tự tại am Từ Công (Từ Ðạo Hạnh) trên núi Phật Tích, sinh ra đã có dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rồng, vẻ người đứng đắn, đẹp đẽ khác thường, được Thánh Tông rất yêu quý. Năm Quang Thuận thứ 3 - năm Nhâm Ngọ (1462) Tranh được lập làm Hoàng thái tử.

Vua cha ở ngôi tới 38 năm nên Thái tử ở ngôi Ðông cung lâu (38 năm), vì thế khi được lên nối ngôi, ông đã ở tuổi chín chắn và từng trải (36 tuổi). Trong thời gian 7 năm cầm quyền chính, ông không có gì sáng tạo so với triều vua trước. Trước một ngôi sao sáng chói ông vua con này chỉ là một cái bóng.

Ông là người chú trọng đặc biệt đến việc làm thuỷ lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều. Mỗi xã cho đặt một xã trưởng chuyên trông coi việc nông trang, làm ruộng, trồng dâu, chăn tằm. Cũng dưới thời vua này cho phép quân đội và công tượng thay phiên nhau tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng. Ông cũng chú ý đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng...

Vua Lê Hiến Tông trị vì 7 năm nhưng là ông vua cuối cùng của triều Lê Sơ còn giữ được những thành tựu từ thời Thái Tổ gây dựng.

Lê Hiến Tông cũng là ông vua đầu tiên của triều Lê lại có hướng trở về với đạo Phật: Ông cho xây dựng các điện Thượng Dương, Giám Trị, Ðỗ Trị, Trường Sinh làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay. Tuy nhiên ông cũng không tránh khỏi được lời phê của sử thần là đã ham nữ sắc quá nhiều để đến nỗi bị bệnh nặng. Ông mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý (1504), thọ 44 tuổi. Lê Hiến Tông có 6 hoàng tử, con trưởng là An Vương Tuân, con thứ hai là Uy Mục Ðế Tuấn, con thứ ba là Tự Hoàng Thuần, con thứ tư là Thông Vương Dung, con thứ năm là Minh Vương Trị, và con thứ sáu là Tư Vương Dưỡng.

 ♦ Lê Túc Tông(1504):

Niên hiệu: Thái Trinh.
Sau 76 năm kể từ khi Lê Thái Tổ lên ngôi sáng lập triều Lê đến hết đời Lê Hiến Tông, nhà Lê trải qua một chặng đường đi lên, để lại trong lịch sử dân tộc nhiều bậc vua hiền, nhiều ông vua sáng, nhiều thành tựu rực rỡ về mọi mặt. Song từ sau đó, nhà Lê bước vào thời kỳ suy vong với những ông  vua mà với thời gian không thể tẩy xoá được tiếng xấu.

Sau khi Hiến Tông qua đời, người kế vị ông là con trai thứ ba tên là Thuần năm đó vừa 17 tuổi. Ðúng là Hiến Tông đã chọn được người kế vị xứng đáng. Vua Lê Túc Tông là người dốc chí ham học, thân người hiền, vui điều thiên đáng là vị vua giỏi giữ nghiệp thái bình. Mẹ là Trang Thuận Hoàng thái hậu họ Nguyễn, huý là Hoàn, người làng Bình Lăng, huyện Thiên Thi (Hưng Yên), lên ngôi ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tý (1504), đến tháng 11 năm đó vua sai sứ thần Nguyễn Bảo Kê mang các biểu xin phong vua mới nhưng Sứ thần chưa qua khỏi cửa ải biên giới thì đã phải đổi tờ biểu khác, báo tang vua mới và xin phong cho vua tiếp theo, bởi Túc Tông đã qua đời.

Túc Tông mất ngày 7 tháng 12 năm Giáp Tý (1504), làm vua được 6 tháng.

 ♦ Lê Uy Mục(1505-1509):

Niên hiệu: Ðoan Khánh.
Túc Tông không có con nối nghiệp nên trước khi mất đã truyền ngôi lại cho người anh thứ hai của mình là Tuấn. Tuấn còn có tên huý nữa là Huyên, sinh ngày 5 tháng 5 năm Mậu Thân (1488), là con của Chiên Nhân Hoàng thái hậu họ Nguyễn, huý là Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Ðông Ngàn (nay thuộc Ðông Anh, Hà Nội).

Sau khi vua Túc Tông qua đời, trong triều có nhiều phái tranh ngôi báu, Thái Hoàng thái hậu (Mẹ của vua Hiến Tông, bà của Túc Tông) thì muốn lập Lã Côi Vương vì bà cho rằng Tuấn là con của kẻ tỳ thiếp không xứng đáng được nối ngôi, trong khi đó thì mẹ nuôi của Tuấn là Kính Phi (họ Nguyễn người xã Hoa Lăng, huyện Thuỷ Ðường) và nội thần Nguyễn Như Vi muốn lập Tuấn (tức Uy Mục). Ý định của Thái hoàng Thái hậu không thành, sau khi lên ngôi, Uy Mục sai giết Thái hoàng Thái hậu và một loạt đại thần đã không ủng hộ mình như Ðàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật...Uy Mục lấy hiệu là “Quỳnh Lâm động chủ”. Từ lúc lên ngôi Uy Mục trở thành người ham rượu chè, gái đẹp thích giết người.

Ðêm nào Uy Mục cũng vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết. Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại. Phía Ðông thì làng Hoa Lăng (Quê mẹ nuôi), phía Tây thì làng Phù Chẩn (quê mẹ đẻ), đều chuyên cậy quyền thế, dìm hãm thần liêu, có khi vì tư ý mà giết hại sinh dân, có khi dùng ngón kín mà yêu sách tiền của: phàm súc vật hoa mầu của dân gian đều cướp cả; nhà dân ai có đồ vật quý thì đều đánh dấu chữ vào để lấy. Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần.

Sự tàn bạo quá đáng của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong dân chúng và trong hàng ngũ quan lại, dòng dõi họ Lê. Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509), được sự giúp đỡ của Nguyễn Văn Lăng (là bà con với Trường lạc Hoàng thái hậu - người đã bị Uy Mục cho đánh thuốc độc chết), Giản tu Công Oanh giả xưng là Cẩm giang vương dựng cờ chiêu an. Từ Tây Ðô, Giản Tu Công Oanh đem quân chiếm lại Ðông Kinh (Hà Nội), bắt được và bắt Uy Mục tự tử tháng 12 năm Kỷ Tỵ (1509) Giản Tu Công Oanh cho người lấy súng lớn, đặt xác Uy Mục vào miệng súng, súng nổ làm tan hài cốt, chỉ lấy tro tàn đem về chôn tại quê mẹ Uy Mục là làng Phù Chẩn, giáng Uy Mục xuống làm Mẫn Lệ Công. Ðến năm Ðinh Sửu (1517) mới được truy tôn là Uy Mục đế.

Như vậy Uy Mục đế ở ngôi 5 năm thọ 22 tuổi, sử thần triều Lê bàn rằng: “Mẫn Lệ Công tín nhiệm ngoại thích, bạo ngược vô đạo, giết hại tôn thất, tàn hại nhân dân, tự chuốc hoạ diệt vong, chẳng cũng đáng sao”.

 ♦ Lê Tương Dực (1510-1516):

Niên hiệu: Hồng Thuận.
Lê Tương Dực huý là Oánh, lại có tên nữa là Trừ, là cháu nội Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Tân. Ông sinh ngày 25 tháng 6 năm Ất Mão (1455). Mẹ là Huy từ kiến Hoàng thái hậu, họ Trịnh huý là Tuyên, người làng Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hoá). Dưới thời vua Hiến Tông, ông được phong là Giản Tu Công. Ðến khi Uy Mục đế giết hại công thần và người tôn thất, ông cũng bị bắt giam, nhưng may mắn trốn thoát chạy vào Tây Ðô (Thanh Hoá). Tháng 11 năm 1509, ông cùng với Nguyễn Văn Lăng và các quần thần đem quân ra Ðông Kinh giết Uy Mục rồi tự lập làm vua.

Sau khi lên ngôi tháng Giêng năm Canh Ngọ (1510), bàn công những người ứng nghĩa, ông cho Nguyễn Văn Lăng làm Nghĩa Quốc công, những người khác như Nguyễn Hoàng Du, Trịnh Huy Ðại và Trịnh Duy Sản cũng được phong chức tước khác nhau.

Một việc làm đáng chú ý duy nhất của vua Tương Dực là ban “Trị bình bảo phạm”, gồm 50 điều vào tháng 4 năm Tân Mùi (1511) trong đó nêu lên việc củng cố kỷ cương, giáo hoà, cẩn thận hình phạt để ngăn ngừa lòng dân, khắc phục tình trạng rối loạn mục lát do đời Ðoan Khánh gây ra. Song ngoài việc làm trên, Lê Tương Dực không thi thố thêm được việc gì cụ thể để khắc phục tình trạng đất nước ngày càng thêm hỗn loạn. Các cuộc nổi dậy của các lực lượng phong kiến địa phương ngày càng lan rộng...

Không những thế, bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi truỵ lạc. Chẳng thế mà tháng Giêng năm Quý Dậu (1513) chánh sứ nhà Minh là Trần Nhược Thuỷ và phó sứ là Phạm Hi Tăng sang phong cho Tương Dực làm An Nam Quốc Vương đã thấy Tương Dực mà nhận xét: “Quốc Vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu!”.

Quả vậy, tháng 5 năm Giáp Tuất (1514) vua nghe lời tâu của Hiệu uý Hữu Vinh, giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của Mẫn Lệ Công và triều trước vào để gian dâm. Năm Bính Tý (1516) vua cho đắp thành mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa... Chắn ngang sông Tô Lịch ... Lại làm điện hơn trăm nóc, đóng thuyền chiến, sai bọn nữ sử cởi truồng chèo thuyền ở Hồ Tây cùng vua chơi đùa, lấy làm thích thú.

Bấy giờ trước tình hình đó, các thế lực phong kiến địa phương như Trần Cảo nổi lên. Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn, vua không nghe lại còn đem Sản ra đánh bằng trượng. Duy Sản bàn cùng một số quần thần khác như Lê Quang Ðộ, Trịnh Chí Sâm mưu việc phế lập. Tháng 4 năm Bính Tý (1516), Trịnh Duy Sản sai người đâm chết Tương Dực, đem thiêu xác. Khâm Ðức Hoàng hậu cũng tự nhảy vào lửa mà chết. Quân sĩ đem quan tài về, chôn ở lăng Ngự Thiên, giáng Tương Dực xuống làm Linh Ẩn Vương.

Như vậy Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 24 tuổi.

 ♦ Lê Chiêu Tông(1516-1522):

Niên hiệu: Quang Thiệu.
Vua huý là Y, lại có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, cháu đích tôn của Kiến vương Tân, con trưởng của Cẩm giang vương Sùng, Mẹ là Hoàng hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An). Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần (1506). Khi Tương Dực đế bị giết năm Bính Tý (1516) không có con nối, quan đại thần là Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập lên làm vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Nhưng khi đó kinh thành bị tàn phá, Trịnh Duy Sản phải rước vua vào Tây Kinh. Trần Cảo thấy kinh thành bỏ không đã chiếm lấy và tự xưng làm vua. Thấy vậy triều đình sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Tuy... vây đánh Trần Cảo. Trần Cảo phải chạy lên đất Lạng Nguyên (Lạng Sơn). Triều đình Lê sau khi dẹp tan được loạn Trần Cảo thì nội bộ lại càng lục đục, đánh giết lẫn nhau. Anh Hoà hầu Nguyễn Hoàng Dụ và Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy đem quân đánh nhau liên miên. Dân chúng khổ sở cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy...”Giặc bên ngoài chưa yên, các triều thần đánh, giết lẫn nhau dưới cửa khuê tứ, máu giây đầy chốn kinh sư, mặt trời vàng tối, vận nước ngày một suy”.

Trước tình hình đó, Nho giáo ngày một suy vi. Nhường chỗ cho Phật giáo và Ðạo giáo cùng các thứ ma thuật ngày càng phát triển.

Trong số các thế lực phò lập vua, mỗi người đều có những mưu đồ riêng. Càng về sau, bằng tài năng quân sự nổi bật và sự khôn khéo thâu tóm quyền hành, Mạc Ðăng Dung ngày càng trở thành một nhân vật cột trụ trong triều. Vua Lê Chiêu Tông phải tự thân hành đến phủ đệ của Mạc Ðăng Dung gia phong cho ông làm Thái Phó...Quyền uy của Mạc Ðăng Dung ngày một lớn, người người đều hướng về họ Mạc. Ðăng Dung cho con gia nuôi vào hầu trông coi điện Kim Quang. Từ đó Ðăng Dung đi bộ thì che lọng phượng dát vàng, đi thuỷ thì dùng thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm như đi vào chỗ không người, không kiêng sợ gì...

Trước tình cảnh ấy, vua Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Kế hoạch bị bại lộ, vua phải bỏ chạy khỏi kinh thành Mạc Ðăng Dung bèn cùng các quần thần khác lập em của Chiêu Tông tên là Xuân lên ngôi vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (1522). Chiêu Tông thì bị giáng xuống làm Ðà Dương vương rồi bị giết. Như vậy Chiêu Tông ở ngôi được 7 năm, thọ 26 tuổi.

 ♦ Lê Cung Hoàng(1522-1527):

Niên hiệu: Thống Nguyên.
Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 năm Ðinh Mão (1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi hoàng cung, Mạc Ðăng Dung lập ông lên làm vua, lúc đó 16 tuổi. Vì sợ Chiêu Tông ở ngoài hiệu triệu binh mã về đánh nên Mạc Ðăng Dung không dám đóng tại kinh thành mà đón hoàng đế Xuân về Gia Phúc (Hải Dương) và chuyển hết của báu trong thành về đấy, phong quan tiến tước cho các quan. Sau khi đánh bại các cánh quân Cần vương của Chiêu Tông, mùa xuân năm Quý Mùi (1523) Ðăng Dung đưa vua Cung hoàng về đóng ở hành dinh Bồ Ðề, cho các quan vào chầu. Năm đó chiều đình vẫn cho mở khoa thi hương, thi hội ở bãi giữa sông Nhị. Tháng 7 năm đó, Ðăng Dung dùng chiếu lệnh của Cung đế, phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống tước Ðà Dương vương. Năm sau, Giáp Thân (1524)  Ðăng Dung tự mình thăng lên tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm Ất Dậu (1525) Ðăng Dung tự làm đô tướng dẫn tất cả thủy lục quân vào đánh Thanh Hoá. Vua Chiêu Tông bị bắt đưa về kinh sư, và bị giết vào tháng 12 năm Bính Tuất (1526).

Sau sự kiện bi thảm đó, Ðăng Dung rút lui về Cổ Trai nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. Năm Ðinh Hợi (1527), Ðăng Dung tự thăng tước Thái sư An Hưng vương, gia thêm cửu tứ. Tháng 4 năm Ðinh Hợi (1527), Cung Hoàng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan Xuyên bá Phan Ðình Tá và Trung sứ Ðỗ Hiếu Ðễ cầm cờ mao tiết mang kim sách và mũ áo ô lọng, đai ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tán tía đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương tấn phong Mạc Ðăng Dung làm An Hưng vương. Ðăng Dung tiếp đón sứ bộ của nhà vua ở bến đò An Tháp huyện Tân Minh (Tiên Lãng, Kiến An ngày nay).

Mặc dù được vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, Mạc Ðăng Dung vẫn không chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi đế cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 năm Ðinh Hợi (1527), Mạc Ðăng Dung từ Cổ Trai vào kinh bắt vua phải nhường ngôi, giáng vua Lê xuống làm Cung vương, bắt giam vua cùng với Hoàng thái hậu ở cung Tây Nội, sau đó vài tháng buộc Thái hậu và Cung vương phải tự tử. Như vậy là Cung hoàng ở ngôi được đúng 5 năm, thọ 21 tuổi.

Như vậy là triều Lê kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu tính cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Ðịnh vương năm Mậu Tuất (1418) cộng là 110 năm. Ðây là thời kỳ các vua Lê được nắm trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học gọi là thời Lê Sơ để phân biệt với Lê Trung Hưng về sau.

Nhà Mạc


Nhà Mạc trị vì đất nước ta được 66 năm (1527-1592), trải qua 5 đời vua, bao gồm:

- Mạc Ðăng Dung (1527-1529)     - Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
- Mạc Đăng Doanh (1530-1540)  - Mạc Mậu Hợp (1562-1592)
- Mạc Phúc Hải (1541-1546)
♦ Mạc Ðăng Dung (1527-1529):

Niên hiệu: Minh Ðức.
Mạc Ðăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (Hải Dương). Cụ tổ 7 đời là Mạc Ðĩnh Chi, Một người nổi tiếng về văn chương đã thi đậu trạng nguyên dưới thời Trần, làm đến chức Nhập nội hành khiển, Thượng thư môn hạ tả bộc xạ, ông đã từng đi sang Trung Quốc, đối đáp rất thông minh, nhà Nguyên phải nể phục. Ðĩnh Chi sinh ra Dao, làm quan Tư hình viện đại phu. Sao sinh 4 con trai tên là: Ðịch, Thoan, Thú và Viễn, người nào cũng có tài năng và sức khoẻ.

Cuối đời nhà Hồ vì bất đắc chí họ đem con em đến hàng giặc Minh rồi ra làm quan cho nhà Minh. Ðến các ông Tung, Bình rồi đến Hịch thì không có ai hiển  đạt. Hịch lấy con gái Ðặng Xuân người cùng làng, tên là Ðặng Thị Hiến, sinh được 3 con trai: Mạc Ðăng Dung là trưởng rồi đến Ðốc, và Quyết. Hai em của Ðăng Dung đều làm quan, khi Ðăng Dung lên ngôi vua thì phong cả hai em tước vương.

Ðăng Dung sinh giờ Ngọ ngày Nhâm Tý (23) tháng 11 năm Quý Mão (1483). Thời trẻ Mạc Ðăng Dung có sức khoẻ lại khôi ngô. Từ một thanh niên nghèo, sống bằng nghề đánh cá, Mạc Ðăng Dung đi dự môn thi đấu vật, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù theo xe vua. Nhưng Ðăng Dung tiến rất nhanh trên đường làm quan.

Năm Tân Mùi (1511) mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên Bá. Năm Bính Tý (1516), triều đình sai Ðăng Dung làm trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê, Ðăng Dung được phong Thái sư Nhân Quốc công rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc vua Lê ươn hèn, các quan trong triều tranh giành xâu xé lẫn nhau, Mạc Ðăng Dung âm mưu giành ngôi vua. Tháng 6 năm Ðinh Hợi (1527), Mạc Ðăng Dung từ Cổ Trai lên kinh ép vua Lê nhường ngôi. Lúc này triều Lê đã quá mục nát, mất lòng dân nên số đông hướng về Mạc Ðăng Dung đã ra đón Ðăng Dung về kinh.

Những ngày sau, Ðăng Dung ra ngự ở chính điện, tế trời đất ở đàn Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương kinh, lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ bảy đời. Ông cho lập con trai trưởng là Ðăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Ðốc làm Từ vương, cả ba người em gái đều được phong công chúa: em gái lớn tên là Ngọc là Trang Hoa công chúa, thứ đến tên Huệ là Khánh Diệm công chúa và em út Ngọc Di là Tú Hoa công chúa. Cùng với việc phong tước cho con, anh em họ Mạc, vua còn phong tước cho một loạt bầy tôi có công tôn phò.

Về đối ngoại, để tranh thủ nhà Minh, vua Mạc sai sứ mang biểu sang Yên Ninh nói:

Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc cho Ðại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên dân.

Nhà Minh sai người sang dò sét thực hư, Ðăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc lo lót những viên tướng biên thuỳ nhà Minh để tranh  thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế năm Kỷ Sửu (1529) hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành. Hai viên quan đó đều chết già trên đất Trung Hoa.

Ðể hoàn thiện việc thiết lập một triều đại mới, Ðăng Dung không những phải chống chọi với phản ứng của đông đảo các cựu thần nhà Lê mang nặng đầu óc trung quân, mà còn phải chọn những người trẻ tuổi gánh vác việc nước. Vì vậy bắt chước các vua Trần, tháng 12 Kỷ Sửu (1529) Mạc Ðăng Dung nhường ngôi cho con là Ðăng Doanh làm vua được 3 năm, lúc này mới 46 tuổi.

 ♦ Mạc Đăng Doanh (1530-1540):

Niên hiệu: Ðại Chính.
Ðăng Doanh là con trưởng của Mạc Ðăng Dung. Dưới thời Quang Thiệu nhà Lê, Ðăng Doanh được phong tước Dục Mỹ hầu, giữ điện Kim Quang. Khi Ðăng Dung lên ngôi vua, Ðăng Doanh được phong làm thái tử, ở ngôi Thái tử được 3 năm thì lên ngôi vua. Tháng Giêng năm Canh Dần (1530) Ðăng Doanh làm lễ đăng quang, đổi niên hiệu là Ðại Chính, tôn bà nội là Ðặng Thị làm Thái Hoàng thái hậu, tôn cha là Ðăng Dung làm Thái thượng hoàng. Trước hết Ðăng Doanh dựng một ngôi điện nguy nga ở làng Cổ Trai cho Ðăng Dung ở. Mỗi tháng hai lần vào ngày 8 và 22, Ðăng Doanh dẫn quần thần đến trình yết. Ðăng Dung tuy về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai nhưng ngụ ý là trấn giữ một vùng đất quan trọng làm ngoại viên cho Ðăng Doanh và vẫn định đoạt những việc trọng đại của quốc gia. Từ khi Ðăng Doanh lên ngôi vua cũng là lúc ở Thanh Hoá lực lượng trung hưng của nhà Lê do Nguyễn Kim cầm đầu đã nhóm họp và ngày càng lớn mạnh. Ðăng Doanh nhiều lần trực tiếp cầm quân vào đánh, nhưng không thắng nổi. Quân Lê triều do Nguyễn Kim chỉ huy dựa vào rừng núi Thanh Hoá giáp với Lào để cố giữ và nuôi dưỡng lực lượng. Mùa xuân năm Quý Tỵ (1533) các cựu thần  nhà Lê lập Lê Trang Tôn lên ngôi vua tại Lào rồi sai sứ vượt biển sang nhà Minh cầu viện. Nhà Minh đưa quân sang đánh nhà Mạc. Trước tình hình đó Mạc Ðăng Dung liền sai người mang thư đến tỉnh Vân Nam giải thích lý do họ Mạc lên ngôi vua và bảo là Lê Ninh chỉ là con của Nguyễn Kim giả mạo xưng họ Lê mà thôi. Thấy rõ đây là một cơ hội đánh chiếm Ðại Việt. Vua Minh sai tướng Cửu Loan đem một đạo quân lớn áp sát biên giới phía Bắc nước ta. Như vậy, nhà Mạc rơi vào thế bị ép từ hai mặt: Bắc là Minh và Nam là nhà Lê. Tuy nhiên trong 10 năm cầm quyền của Ðăng Doanh, triều Mạc đã làm được khá nhiều việc mà sử nhà Lê sau này cũng phải ghi nhận.

Ðó là việc rất đều đặn cứ 3 năm một lần tổ chức các kỳ thi hội, thi đình để tuyển chọn nhân tài. Dưới triều Mạc nhiều trí thức có danh tiếng đã ra thi đỗ đạt cao như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giác Hải, Nguyễn Thiến... Thời Mạc Ðăng Doanh trị vì 10 năm, đất nước khá bình yên: phía Bắc nhà Minh cũng chỉ có ý đe doạ, phía Nam quân đội trung hưng nhà Lê chưa đủ mạnh để đem quân ra Bắc. Ðể dẹp bọn trộm cướp, Ðăng Doanh đưa ra một kế sách hay, vua ra lệnh cấm dân chúng các xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ra ngoài đường. Nếu kẻ nào trái lệnh, cho pháp ty bắt trị tội.

Ðăng Doanh chỉ làm vua được 10 năm thì mất. Người kế nghiệp Ðăng Doanh là Mạc Phúc Hải. Ðăng Doanh có 7 con trai, ngoài Phúc Hải được nối ngôi còn con thứ hai là Phúc Tư, phong làm Ninh Vương, thứ 3 là Kính Ðiển phong Kiêm Vương, thứ tư là Lý Tường, thứ 5 là Lý Hoà, thứ 6 là Hiệp Cung và thứ bảy là Ðôn Nhượng, phong ứng vương.

Phúc Hải khi lên ngôi đặt tên thuỵ cho cha là Thái Tông khâm triết hoàng đế.

 ♦ Mạc Phúc Hải (1541-1546):

Niên hiệu: Quảng Hoà.
Cuối đời Mạc Ðăng Doanh, quan hệ với nhà Minh lại trở nên căng thẳng. Tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp: quân đội Lê Trung Hưng sau 7 năm chiêu binh luyện mã đủ sức đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau năm Quý Mão (1543) đã kiểm soát được cả Tây Ðô (Thanh Hoá). Mạc Ðăng Dung phải trở lại Ðông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu (1541).

Lúc này, ở Trung Quốc, Minh Thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ con vua nên mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía Nam, rút bài học thất bại của các đời vua trước. Hộ bộ thị lang Ðường Trụ dâng sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các thời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Minh Thái Tông... Thị lang Phan Trân lại nói: “Mạc Ðăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy; nếu Ðăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được”.

Rút bài học từ cha con họ Hồ, Mạc Ðăng Dung lúc này tuy đã nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu, trở về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên: tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại bốn động, xin nội phủ... Ông già Mạc Ðăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nỗi nhục (khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều năm xương máu của cả hai bên. Sau sự kiện quá sức đó, trở về Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Ðăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu (1541). Như vậy Mạc Ðăng Dung làm vua 3 năm, làm Thái thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi.

Thời Mạc Phúc Hải theo lời bàn của thiếu sư Mạc Ninh Bang, đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ-một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều.

Trong khi đó, tại Nam Triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm tướng đã kéo ra Yên Mô (Ninh Bình), Thái sư hưng quốc công Nguyễn Kim bị đánh thuốc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu, ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ (1546), Phúc Hải chết ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn làm Hiến Tông Hiền hoàng đế.

 ♦ Mạc Phúc Nguyên (1546-1561):

Niên hiệu:
- Vĩnh Ðịnh (1547);
- Cảnh Lịch (1548-1553);
- Quảng Bảo (1554-1561).

Phúc Nguyên là con trưởng của Phúc Hải, nối ngôi vào tháng 5 năm Bình Ngọ (1548). Vì vua mới nối ngôi còn nhỏ tuổi nên mọi công việc triều chính do người chú là Kiêm vương Mạc Kính Ðiển quyết đoán. Nhưng triều Mạc đến đây đã bắt đầu lục đục. Nguyên do khi Phúc Hải mất, tướng nhà Mạc là Phạm Tử Nghi mưu lập Hoàng vương chính Trung (là con thứ của Ðăng Dung) lên làm vua, việc không thành Mạc Phúc Nguyên sai Kính Ðiển và Nguyễn Kính đem quân đi bắt Chính Trung dời về xã Hoa Dương (xã Trác Dương, Hưng Nhân, Thái Bình), nhưng bị Tử Nghi đánh thua. Sau vì thế Tử Nghi đem Chính Trung ra chiếm cứ miền Yên Quảng Ðông, Quảng Tây, người Minh không thể kiềm chế được. Sau họ phải thu xếp cho Chính Trung an cư ở xứ Thanh Viễn, hàng năm cấp phát lương thực.

Vì lục đục nội bộ, Chính Trung ở đất Minh đem việc Nguyễn Kinh chuyên tâu lên Viện đốc phủ nhà Minh. Nhà Minh ngờ Phúc Nguyên không phải là dòng dõi nhà Mạc, đem thư đòi khám xét. Vừa mới dẹp xong dư đảng của Tử Nghi ở Hải Dương, Mạc Kính Ðiển và Lê Bá Ly phải hộ tống Mạc Phúc Nguyên lên cửa Trấn Nam, dùng mọi lời lẽ thuyết phục, được quan chức Lưỡng Quảng bằng lòng phong cho tập tước, đó là năm Kỷ Dậu (1549)...

Sau sự kiện ấy có người dâng sớ khuyên Mạc Phúc Nguyên phải biết tự mình trông coi chính sự vì đã lớn tuổi rồi. Dù vậy, Phúc Nguyên không đủ sức điều hành việc nước, phải nhờ cậy vào Lê Bá Ly. Năm Kỷ Dậu (1549), vua Mạc phong cho Lê Bá Ly làm Thái tể, Phụng quốc công, từ đó Bá Ly trở thành người nắm giữ binh quyền và triều đình, uy thế ngày một lớn, con em trong nhà Bá Ly đều đảm nhận nhiều trọng trách lớn của triều đình. Và mâu thuẫn giữa các quần thần lại nổi lên: Phạm Quỳnh, Phạm Dao, cả hai cha con trước kia là tôi tớ Lê Bá Ly nay có chút vinh hiển lại ghen tức gièm pha. Mạc Phúc Nguyên đã tin theo Phạm Quỳnh, và thế là cha con Lê Bá Ly đem bộ tướng và quân gia hơn 1 vạn 4 nghìn người trốn vào Thanh Hoá xin hàng vua Lê. Từ đó, phần lớn mưu thần mãnh tướng bỏ nhà Mạc chạy theo Lê. Thanh thế quân Trung Hưng ngày càng trở nên mạnh mẽ. Mạc Phúc Nguyên thấy vậy làm lo, trao hết binh quyền cho chú là Mạc Kính Ðiển, tự mình rút về bảo vệ xứ miền Ðông.

Tháng 7 năm Ðinh Tỵ (1557), Mạc Phúc Nguyên sai Kính Ðiển đem quân vào đánh Thanh Hoá; Phạm Quỳnh, Phạm Dao đánh Nghệ An. Quân Mạc thua to. Mạc Kính Ðiển phải liều nhảy xuống sông, bơi vào ẩn nấp tại hàng núi chịu đói chịu khát suốt 3 ngày, may gặp được một người đánh cá cứu sống. Thừa thắng quân Lê-Trịnh huy động hơn 5 vạn quân thuỷ bộ tổ chức cuộc tấn công ra Sơn Nam, nhưng bị thua, quân Trịnh tan vỡ, bỏ thuyền chạy bộ. Quân Mạc lại sai tướng chẹn lối về, quân Lê-Trịnh chết đến quá nửa, hàng chục viên tướng bị giết, thuyền binh khí giới bỏ lại vô kể.

Ðến năm Kỷ Mùi (1559) quân Lê-Trịnh lại mở cuộc tấn công ra Bắc, đánh phá các tỉnh hậu phương của Mạc như Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Kinh Bắc, Hải Dương... Mạc Phúc Nguyên phải rút vào phòng thủ, bên ngoài thành Thăng Long đóng đồn trại dọc Tây sông Nhị, dinh trại liên tiếp, thuyền bè nối nhau; ngày thì gióng trống báo tin, đêm thì đốt lửa làm hiệu. Bị quân Trịnh đánh trực tiếp vào các huyện Ðông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, quân Mạc phải ra huyện Thanh Trì.

Tháng 12 năm Tân Dậu (1561), giữa lúc cuộc chiến Trịnh-Mạc đang gay go quyết liệt nhất thì Mạc Phúc Nguyên chết vì bệnh đậu mùa. Ông vua Mạc trẻ này ở ngôi được 18 năm. Ðặt niên hiệu 3 lần.

 ♦ Mạc Mậu Hợp (1562-1592):

Niên hiệu:

- Thuần Phúc (1562-1565);    - Ðoan Thái (1586-1587);
- Sùng Khang (1566-1577);   - Hưng Trị (1590);
- Diên Thành (1578-1585);    - Hồng Ninh (1591-1592).

Mạc Mậu Hợp là con cả của Phúc Nguyên, sinh năm Nhâm Tuất (1562). Khi lên ngôi mới 2 tuổi phải lấy Ứng vương Mạc Ðôn Nhượng (con trai Mạc Ðăng Doanh) làm phụ chính. Năm ấy (1562), họ Mạc ngờ Thái bảo Văn Quốc công Phạm Dao có lòng khác bèn giết đi.

Năm Bính Dần (1566) Mạc Mậu Hợp dời về ở quán Bồ Ðề, sai Lại bộ thượng thư kiêm Ðông các đại học sĩ Giáp Hải và Ðông các hiệu thư Phạm Duy Quyết lên địa đầu Lạng Sơn đón sứ thần Lê Quang Bí về nước. Nguyên là vào năm Mậu Thân (1548) Quang Bí được cử đi sứ lo việc cống tiến hàng năm. Ông đến Nam Minh, bị người nhà Minh ngờ là quan giả mạo, phải bắt chờ để tra xét thực hư. Nhưng rồi Quang Bí cứ phải lưu lại sứ quán chờ minh xét. Bấy giờ Phúc Nguyên mấy năm liền bỏ việc cống nên không dám tâu xin. Ðến Năm Quý Hợi (1563) viên quan ở Lưỡng Quảng mới sai người đưa Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng công lao và tiếp tục cuộc hành trình của sứ bộ. Khi Quang Bí tới Bắc Kinh lại bị lưu giữ chờ đợi ở sứ quán. Mặc dù chờ đợi rất lâu nhưng Quang Bí vẫn kính cẩn giữ mệnh chúa, không tỏ ra bực tức. Thấy vậy viên Ðại học sĩ nhà Minh là Lý Xuân Phương vừa nể phục vừa thương tình mới tâu vua Minh cho dâng nộp lễ phẩm và cho Quang Bí chiếm kỷ lục về thời gian đi sứ trong lịch sử ngoại giao nước Nam, cả đi về và chờ đợi hết 18 năm. Lúc ra đi tóc xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ! Người nhà Minh ví ông như Tô Vũ xưa đi sứ sang Hung nô!

Khi về đến Ðông Kinh, Bí được phong Tô Quận công.

Tháng 10 năm Quý Dậu (1573), Mạc Hậu Hợp mới 12 tuổi, từ bến Bồ Ðề qua sông vào Ðông Kinh, đắp thành ở bên ngoài cửa Nam, dựng một ngôi điện bằng tranh tre để ở. Thế rồi năm Ðinh Sửu (1577), Mạc Mậu Hợp 16 tuổi, lấy con gái của Cẩm y thư vệ sự Phú Sơn hầu Vũ Văn Khuê là nàng Vũ Thị Hoành làm vợ, lập làm Chính phi.

Vào thời điểm này, ở phía Nam triều, Trịnh Kiểm đã chết, binh quyền vào tay Trịnh Tùng. Vua Lê và Trịnh Tùng sống với nhau khá hoà thuận, chính sự được chỉnh đốn, quân sĩ tinh tráng khoẻ mạnh, khí thế đang lên. Còn phía Bắc triều, sau khi vào Ðông Kinh, Mạc Mậu Hợp ham chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ý gì đến việc nước. Rất nhiều sớ của các quan khuyên răn Mạc Mậu Hợp nhưng vô hiệu.

Ngày 21 tháng 2 năm Mậu Dần (1578), Mạc Mậu Hợp bị sét đánh vào cung, liệt nửa người, chữa mãi mới khỏi. Lúc này rất nhiều người trước kia hi vọng những gì tốt đẹp ở vương triều mới, đã ra thi thố tài năng giúp việc, đều chán nản, muốn rút về ẩn.

Thấy Giáp Trừng là người hết lòng, Mạc Mậu Hợp phong chức Thượng thư Lại bộ Luận Quận công. Ông kiên quyết từ chối... nhưng Mạc Mậu Hợp không chấp nhận.

Tháng 10 năm Canh Thìn (1580), Mạc Kính Ðiển, người có uy quyền danh vọng và là trụ cột của triều đình nhà Mạc qua đời, lòng người hoang mang. Chính quyền của Mạc Mậu Hợp bắt đầu tránh khỏi bại vong: quan lại hèn nhát, cơ hội và vô trách nhiệm chỉ ham đục khoét làm giàu. Triều thần thì không hiến được kế sách gì để chống lại địch. Ứng vương Mạc Ðôn Nhượng giữ quyền phụ chính quyết định mọi việc nhưng lại thường về sống ở Dương kinh, vì thế việc triều bê bối không ai quyết đoán. Các quan có việc đến yết kiến bẩm báo, vua không giải quyết nổi. Còn quan phụ chính thì khó gặp. Từ đó triều thần trễ nải, không tới công đường, tránh né không chịu bàn việc. Hàng đống sớ tâm huyết gửi lên khuyên Mạc Mậu Hợp thay đổi chính sự, song vô hiệu.

Giữa lúc đó quân đội Lê - Trịnh tấn công liên tiếp vào hậu cứ, quân Mạc có lúc đã phải huy động lực lượng chống trả đến 10 vạn quân, nhưng nhà Mạc vẫn thua trận. Mạc Hậu Hợp lại bỏ kinh thành Thăng Long sang bến Bồ Ðề, chia quân giữ phía Bắc sông Cái để tự vệ.

Khốn đốn là vậy mà Mạc Mậu Hợp vẫn lao vào ăn chơi trác táng. Thấy Nguyễn Thị Niên, con gái của Nguyễn Quyện, vợ trấn thủ Nam Ðạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê, em gái hoàng hậu xinh đẹp, Mậu Hợp đem lòng yêu mến, bèn ngấm ngầm tính kế giết Bùi Văn Khuê, một tướng tài thống lĩnh toàn bộ lực lượng thuỷ quân của Mạc để cướp vợ Khuê. Biết âm mưu ấy, vợ Văn Khuê mật báo cho chồng. Văn Khuê đem quân bản bộ về giữ Gia Viễn, chống lại lệnh vua Mạc. Mạc Mậu Hợp mấy lần vời không được phải cho quân tướng đến hỏi tội Văn Khuê. Văn Khuê, một mặt đem quân chống giữ, mặt khác cho con là Bùi Văn Nguyên vào hàng quân Trịnh và xin quân cứu viện. Trịnh Tùng rất mừng, thu nhận ngay và cho quân ra cứu Văn Khuê. Thế là thuỷ quân, chỗ mạnh nhất đã lọt vào tay quân Trịnh. Trịnh Tùng được Văn Khuê giúp nên rõ ràng thế  thắng đã ở trong tay!

Ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Thìn (1592), thuỷ quân Trịnh gồm 300 chiếc thuyền đánh vào huyện Kim Thành. Mạc Mậu Hợp bỏ chạy, quân Trịnh thu được rất nhiều vàng bạc, của cải, đồ dùng và con gái, bắt Thái hậu nhà Mạc giải về Thăng Long. Tới sông Bồ Ðề, Thái hậu nhà Mạc nhảy xuống sông tự vẫn. Mạc Mậu Hợp sợ đến nỗi phải trao hết quyền bính cho con trai là Toàn lên làm vua còn mình thì chạy trốn.

Mạc Mậu Hợp chạy trốn tại một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn (Bắc Ninh). Quân Trịnh sục tới, dân địa phương cho biết Mạc Mậu Hợp đóng giả sư ông, đến ẩn ở chùa Mô Khê đã 11 ngày. Quân Trịnh đến chùa thấy Mậu Hợp nghiễm nhiên ngồi xếp băng, đang tụng kinh.

Quân Trịnh dùng voi chở Mạc Mậu Hợp và hai kỹ nữ, giải về kinh sư. Sau đó, Mậu Hợp phải chịu cho sống ba ngày, xong chém đầu ở bãi cát Bồ Ðề, thủ cấp hiến hoàng đế nhà Lê ở hành tại Vạn Lại xứ Thanh Hoá, bị đóng đinh đem bêu ngoài chợ.

Mạc Mậu Hợp lên ngôi lúc 2 tuổi, ở ngôi 29 năm, khi chết 31 tuổi.

Con trai Mạc Mậu Hợp là Toàn, được Mậu Hợp nhường ngôi, tự xưng là Vũ An, nhưng không được nhân tâm ủng hộ, thế cô, ngầm trốn cũng bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến Thảo Tân.

Như vậy họ Mạc từ Ðăng Dung đến Mậu Hợp, truyền ngôi được năm đời thì mất, tổng cộng được 66 năm.

Sau đó con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng. Theo sấm trạng Trình, họ Mạc còn kéo dài được đến 96 năm nữa mới bị mất hẳn.

Ðến năm Mậu Thìn (1668), những dư đảng cuối cùng của nhà Mạc mới bị triều đình Lê - Trịnh dẹp yên.
 

Thời Hậu Lê

30 / 05/ 2012, 11:05:40
Thời Hậu Lê - thời kỳ phân tranh (1533-1788) tồn tại trong 256 năm với diễn biến như sau:

Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)
 Nam triều - Bắc triều (1533-1593):
Ðến đầu thập lục thế kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc triều chính đổ nát, cho nên trong nước loạn lạc, nhà Mạc nhân dịp này đoạt ngôi. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công đức của vua Thái Tổ và vua Thánh Tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê ở phía nam, lập ra triều đình riêng ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, để chống lại nhà Mạc. Đất nước chia ra thành hai miền: Nam triều và Bắc triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.

 ♦ Lê Trang Tông (1533-1548):

Niên hiệu: Nguyên Hoà.
Năm năm sau, kể từ ngày bị Mạc Ðăng Dung giành ngôi vua, đến năm Quý Tỵ (1533), nhà Lê lại được dựng lên, mặc dù vua ở đất Lào nhưng đã có niên hiệu, các nhà chép sử gọi đó là thời Lê Trung Hưng (Hậu Lê).

Lê Trang Tông, huý Ninh, lại có tên nữa là Huyền, là con của Chiêu Tông, cháu ba đời của Thánh Tông. Mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trì, huyện Thuỵ Nguyên (nay là Ngọc Lạc, Thanh Hoá). Khi Ðăng Dung bức Chiêu Tông về kinh thì Duy Ninh chạy về Thanh Hoá, mới 11 tuổi, Lê Quán ẵm chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyền. Lúc đó tướng cũ là Chiêu Huân công Nguyễn Kim mật mưu khôi phục, sai Trịnh Duy Thuần cùng Trịnh Duy Sản triệu tập thần dân cũ, đón Duy Ninh lập nên làm vua, bấy giờ 19 tuổi.

Năm Quý Tỵ (1533), tháng Giêng, Duy Ninh lên ngôi ở đất Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn đại tướng quân Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Ðinh Công làm thiếu uý hưng Quốc công... lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Sạ Ðẩu để nhờ vả quân, lương mưu việc lấy lại nước, sai Trịnh Duy Liêu sang Minh tâu tố Ðăng Dung tiếm loạn, chiếm giữ kinh thành, ngăn trở đường tiến công. Nhà Minh sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quan vụ, Binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ, đem quân đánh Mạc.

Tháng 12 năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về nước đánh Nghệ An, nhiều hào kiệt theo về giúp Trung Hưng. Cuối năm Quý Mão (1543), nhà Lê chiếm được Tây Kinh, tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc phải đầu hàng. Từ đó trong nước dần dần hình thành hai miền chịu sự khống chế của hai lực lượng đối lập: Thanh Hoá, Nghệ An trở vào thuộc vua Lê dưới sự giúp đỡ của các tướng họ Nguyễn rồi họ Trịnh (Nam Triều), vùng Bắc Bộ trong đó có cả kinh thành thuộc quyền Mạc (gọi là Bắc Triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1545-1592) gọi là nội chiến Nam-Bắc triều. Năm Quý Tỵ (1545), Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn Nam, đến huyện Yên Mô thì bị hàng tướng của Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền, tiếp tục sự nghiệp tranh chấp với nhà Mạc. Từ đó họ Trịnh thế tập nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ “Vua Lê chúa Trịnh” sau này... Trịnh Kiểm có toàn quyền định đoạt việc quân ở ngoài cũng như việc nội triều, tất thẩy đều tự quyết sau mới tâu với vua.

Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời lại tìm vào Thanh Hoá như Lương Ðắc Bằng, Phùng Khắc Khoan.

Năm Mậu Thân (1548), Lê Duy Ninh mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi 16 năm, quần thần dâng tên hiệu Lê Trang Tông, Trịnh Kiểm cho lập Thái tử là Duy Huyền lên nối ngôi.

 ♦ Lê Trung Tông (1548-1556):


Niên hiệu: Thuận Bình.
Tên thật là Huyên con lớn của Lê Trang Tông. Tính tình khoan rộng, thông suốt, có mưu lược đế vương. Năm 1548 Trang Tông mất, Huyên được lập lên nối ngôi khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông. Công việc trong triều đều giao cho Lượng quốc công Trịnh Kiểm quyết định. Năm Quý Sửu (1553) vua dời hành tại đến xã Yên Trường (trên tả ngạn sông Chu, thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá), bản doanh của Trịnh Kiểm, năm sau, Giáp Dần (1554), lại dời đến xã Biện Thượng (tức Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, trên sông Mã) là nơi Trịnh Kiểm ở với mẹ khi còn nhỏ. Cũng từ năm đó nhà Lê bắt đầu đặt chế khoa để chọn nhân tài, kỳ thi năm Giáp Dần (1554) lấy đỗ 5 đệ nhất giáp chế khoa xuất thân và 8 người đệ nhị giáp đồng chế khoa xuất thân. Vì quan niệm nhà Lê là chính thống, lúc đó nhiều nhà Nho dự thi và làm quan với nhà Lê như Ðinh Bạt Tuy, Chu Quan Trú... Nhà Lê cũng thu hút được một số tướng giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào phò giúp, nên thế lực ngày càng mạnh.

Tháng Giêng năm Bính Thìn (1556) vua băng hà khi mới 22 tuổi, không có con nối, Trịnh Kiểm cùng với các đại thần sai người tìm con cháu họ Lê lập nên.

 ♦ Lê Anh Tông (1556-1573):


Niên hiệu:
- Thiên Hữu (1557);
- Chính Trị (1558-1571);
- Hồng Phúc (1572-1573).

Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, là dòng dõi nhà Lê. Trước đó, anh thứ hai của Lê Thái Tổ tên là Trừ, Trừ sinh ra Khang, Khang Sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Duy Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ huyện Ðông Sơn sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất, không có con nối ngôi, Thái sư Trịnh Kiểm cùng các đại thần tìm được Duy Bang đang sống ở hương Bố Vệ (Phía Nam thành phố Thanh Hoá), đón về lập làm vua, khi đó ông đã 25 tuổi.

Khi Trịnh Kiểm còn sống, mọi quyền hành trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo. Các trận đánh lớn với quân Mạc đều do Trịnh Kiểm chia quân điều khiển. Ngay cả khi Lê Duy Hàn em vua ngầm có ý khác lẻn vào trong cung lấy trộm ấn báu, bị vua bắt, vua xá tội cho, đến khi Duy Hàn phạm tội giết người, vua cũng giao cho Thái sư Trịnh Kiểm toàn quyền xét xử.

Tháng 2 năm Canh Ngọ (1570), Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính. Lúc này tình hình nhà Lê bị chia rẽ và suy yếu. Nhưng vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành, dàn xếp các mâu thuẫn này. Các tướng nhà Lê như Lê Cập Ðệ cũng tỏ ra có năng lực và lập được nhiều chiến công, chính bản thân Lê Anh Tông cũng nhiều lần cầm quân ra trận. Mặc dù Lê Anh Tông vẫn tín nhiệm và trao quyền hành cao nhất cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền nhưng nhiều lần vua vẫn tự làm đô tướng thống đốc đại binh đem quân cùng Trịnh Tùng ra đánh nhà Mạc ở phía Bắc. Quan hệ giữa vua và chúa có phần hoà thuận, song tháng 3 năm Nhâm Thân (1572), Lê Cập Ðệ nhằm có ý khác, rủ Trịnh Tùng đi thuyền ra giữa sông mưu giết, Trịnh Tùng biết được, nên việc không xong. Từ đấy hai nhà thù oán nhau, bên ngoài giả cách hiệp sức với nhau để đánh Mạc, bên trong đều ngó nhau, đề phòng thích khách. Sau đó Trịnh Tùng lập mưu giết Lê Cập Ðệ. Một số quần thần như Cảnh Hấp và Ðình Ngạn nói với vua rằng: Tả tướng nắm binh quyền to như vậy, bệ hạ khó lòng đứng được. Vua nghe nói thế vừa sợ, vừa ngờ, bèn ban đêm chạy ra ngoài cùng bốn hoàng tử đóng ở thành Nghệ An. Trịnh Tùng cùng với bề tôi lập con thứ 5 của vua Anh Tông là Duy Ðàm lên ngôi và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua cũ. Khi về đến Lôi Dương (Thanh Hoá), Anh Tông bị giết chết.

Như vậy Lê Duy Bang ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi, đặt niên hiệu 3 lần: Thiên Hựu (1557), Chính Trị (1558-1571) và Hồng Phúc (1572-1573).

 ♦ Lê Thế Tông (1573-1599):

Niên hiệu:
- Gia Thái (1573-1577);
- Quang Hưng (1578-1599).

Vua Anh Tông có 5 người con trai, bốn người anh đã chạy cùng vua cha vào Nghệ An, còn lại Duy Ðàm là con trai thứ 5, sinh tháng 11 năm Ðinh Mão (1567), được nuôi ở xã Quảng Thị huyện Thuỵ Nguyên. Khi Anh Tông chạy ra ngoài, Duy Ðàm còn thơ ấu không đi theo được. Tả tướng Trịnh Tùng lập lên nối ngôi, mới 7 tuổi. Trịnh Tùng cho tìm danh nho vào dạy học cho vua, vua học ngày càng tấn tới, hiểu biết rộng cả việc trong sách vở và việc ngoài đời.

Tháng 8 năm Canh Thìn (1578), vua cho khôi phục lệ thi Hội để lựa chọn nhân tài, cho Nguyễn Văn Giai và 3 người nữa đỗ tiến sĩ xuất thân, Lê Quang Hoa và một người nữa đỗ đông tiến sĩ xuất thân.

Sau gần 50 năm chiến tranh Nam Bắc triều, với trên 38 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị sung lính và bị đẩy vào các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có những trận mỗi bên quân số lên đến 10 vạn người. Hai bên giằng co khá quyết liệt. Ðến năm Tân Mão (1591), tiết chế Trịnh Tùng mở một cuộc hành binh lớn đánh trận quyết định ở Ðông Kinh, bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm lại được kinh thành. Tháng 2 năm Quý Tỵ (1593), sau khi sửa sang lại được kinh thành, cung điện, Trịnh Tùng cho đón vua Lê từ hành cung Vạn lại (Thanh Hoá) ra kinh thành Thăng Long (Ðông Kinh). Ngày 16 tháng 4 năm Quý Tỵ (1593) vua lên chính điện coi chầu, trăm quan đến chào mừng, đánh dấu sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê đã hoàn thành. Vấn đề đặt ra tiếp theo là công việc ngoại giao với nhà Minh. Sau nhiều cố gắng ngoại giao, đặc biệt là tài đối đáp và thơ phú của Phùng Khắc Khoan và phái bộ sang Yên Kinh, năm Mậu Tuất (1598), vua Minh phong cho Lê Duy Ðàm là An Nam đô thống sứ, sắc phong và ấn bạc được sứ nhà Minh trực tiếp đưa sang.

Công cuộc Trung Hưng đã hoàn thành, lại được các quan thiên triều trọng vọng. Trịnh Tùng tự xưng làm Ðô nguyên suý Tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương và định lệ cấp lộc cho vua Lê chỉ được thu thuế một ngàn xã, cấp cho 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng. Còn lại quyền hành trong nước đều do Trịnh Vương toàn quyền quyết định, vua chỉ ngồi chắp tay không làm gì chỉ giữ đại cương, Từ đây thực sự bắt đầu thời kỳ mà sử gọi là Vua Lê chúa Trịnh.

Ngày 24/8 năm Kỷ Hợi (1599), vua băng hà, thọ 33 tuổi, ở ngôi được 27 năm.

Trịnh - Nguyễn phân tranh



Nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp nên dứt được nhà Mạc, tưởng giang sớm thống nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh lòng ghen ghét, gây nên mối oán thù, rồi mỗi họ hùng cứ một phương, chia nưóc ta làm hai mảng: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc. Từ đó giang sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh.
Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)  
Nhà Hậu Lê từ khi Trung Hưng lên, con cháu vẫn giữ ngôi vua, nhưng quyền chính trị nằm cả trong tay họ Trịnh. Còn ở phía nam, từ sông Linh Giang trở vào là cơ nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn phù nhà Lê.

 ♦ Lê Kính Tông (1600-1619):
 

Niên hiệu:
- Thuận Ðức (1600);
- Hoằng Ðịnh (1601-1619).

Vua Kính Tông huý là Duy Tân, là con thứ của Thế Tông. Khi vua Thế Tông băng hà, Bình An Vương Tịnh Tùng cùng với triều thần cho rằng thái tử (anh của Duy Tân) không thông minh, bèn lập con thứ là Duy Tân, khi đó mới 11 tuổi. Duy Tân được triều thần đưa lên ngôi ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1599), đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Ðức, lấy năm Canh Tý (1600) làm năm Thuận Ðức thứ nhất.

Từ năm này, bước sang thế kỷ 17, tình hình chính trị trong nước chuyển biến theo một cục diện mới. Ở ngoài Bắc, về cơ bản họ Trịnh với tài năng quân sự và thái độ cứng rắn của Trịnh Tùng đã cơ bản dẹp tan được chính quyền nhà Mạc ở kinh đô và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các dư đảng nhà Mạc thì vẫn nổi lên khắp các tỉnh trung du và miền núi Việt Bắc. Nhà Lê Trịnh vẫn phải nhiều lần phái những đội quân lớn do Thái phó Thanh quận cộng Trịnh Kháng và các thuộc tướng Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Cảnh Kiên, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Hắc, Nguyễn Duy Thì... đem quân đánh Mạc. Cũng vào thời này vấn đề tranh giành quyền lực và xung đột giữa họ Trịnh ở Ðàng ngoài và họ Nguyễn ở Ðàng trong bắt đầu đặt ra với việc Nguyễn Hoàng tự ý bỏ vào Thuận Quảng. Nhân cơ hội ấy dư đảng của nhà Mạc lại nổi lên. Trong tình hình đó, Vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Trịnh Xuân bị giam vào nội phủ, còn vua Kính Tông bị bức thắt cổ chết ngày 12 tháng 5 năm Kỷ Mùi.

 ♦ Lê Thần Tông (1619-1643):

Niên hiệu:
- Vĩnh Tộ (1620-1628);
- Ðức Long (1629-1634);
- Dương Hoà (1635-1643).

Vua Thần Tông huý là Duy Kỳ, con trưởng của Kính Tông. Mẹ là Ðoan từ Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh, con gái thứ của thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng, sinh Duy Kỳ vào ngày 19 tháng 11 năm Ðinh Mùi (1607). “Như vậy, Duy Kỳ là cháu ngoại của Bình An vương Trịnh Tùng. Khi vua Kính Tông bị buộc thắt cổ chết, Bình An vương tôn lập cháu ngoại của mình là Duy Kỳ lên làm vua, khi đó mới 12 tuổi” Duy Kỳ có tướng mạo đế vương: thông minh, học rộng, mưu lược sâu sắc, giỏi văn chương. Ðây cũng là một ông vua có quan hệ thật đặc biệt với nhà chúa, cùng với nhà chúa một nhà vui thuận êm ấm.

Tháng 7 năm Quý Hợi (1623) nhân dịp Bình An vương Trịnh Tùng mất, Trịnh Xuân lại một lần nữa đem quân nổi lên định tranh ngôi chúa, vương thế tử Trịnh Tráng cùng vua đem quân về Thanh Hoá lo dẹp loạn.

Năm Canh Ngọ (1630) vua lấy con gái của Vương là Trịnh Thị Ngọc Trúc lập làm Hoàng hậu. Việc lấy Ngọc Trúc đã để lại tiếng xấu cho vua sau này. Chẳng là trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ của vua là Cường quận công Lê Trụ, đã sinh ra được 4 người con, rồi Lê Trụ bị lỗi phải giam trong ngục, Vương lại đem Ngọc Trúc dâng vua, vua lấy vào cung. Triều thần như Trạng nguyên Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần can vua, vua không nghe.

Tháng 1 năm Quý Mùi (1643) vua nhường ngôi cho con là Lê Duy Hiệu sau 25 năm làm vua, tự lên làm Thái thượng hoàng, còn Hoàng hậu họ Trịnh lên làm Hoàng thái hậu.

 ♦ Lê Chân Tông (1643-1649):

Niên hiệu:
- Phúc Thái;
- Khánh Ðức (1649-1652);
- Thịnh Ðức (1653-1657);
- Vĩnh Thọ (1658-1661);
- Vạn Khánh (1662)

Duy Hiệu được vua cha nhường ngôi từ lúc lên 13 tuổi, lấy hiệu là Chân Tông. Trong thời gian Chân Tông ở ngôi, có một việc đáng chú ý là vào năm 1646, vua Minh cho sứ thần sang phong cho Thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương. Triều Lê Trung Hưng kể từ Lê Trang Tông đến đây mới được nhà Minh phong tước vương, trước đó chỉ phong An Nam đô thống sứ.

Năm Kỷ Mão (1649), ở ngôi được 7 năm, Duy Hiệu chết không có con nối, Thái thượng hoàng lại cầm chính, tiếp tục triều Lê Thần Tông.

Năm Nhâm Dần (1662), vua Thần Tông bị bạo bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu làm Vạn Khánh năm thứ nhất. Cũng nhân dịp này vua cho thay đổi ngôi Thái tử. Chẳng là trước đó vì chưa có con nối, vua phải lấy Duy Tào (con riêng của Hoàng hậu Trịnh Thị) làm Hoàng thái tử. Nhưng sau đó Thần Tông có con đặt tên là Vũ. Năm (1662), Nhâm Dần con đích là Duy Vũ đã lên 9 tuổi vua cho lập Duy Vũ làm Hoàng thái tử, phế Duy Tào làm thứ nhân, theo về họ mẹ.

Ngày 22 tháng 9 năm đó, vua băng hà. Như vậy vua Thần Tông nhà Lê là ông vua thứ hai sau Lê Thánh Tông có số năm trị vì dài tới 38 năm. Ông vua này trải 3 đời vương bên phủ chúa Trịnh: từ Bình An Vương Trịnh Tùng tới Thanh Vương (Trịnh Tráng) rồi đến Tây Vương Trịnh Tạc. Ðời bấy giờ cho vua Thần Tông là bậc vua giỏi, nhưng có chê ở hai điểm: chốn cung vi không có đế độ và mê hoặc phật giáo.

 ♦ Lê Huyền Tông (1663-1671):

Niên hiệu: Cảnh Trị.
Huyền Tông tên là Duy Vũ, con Thần Tông, em của Chân Tông, khi Thần Tông mất Vũ mới lên 9 tuổi, Tây vương Trịnh Tạc theo di mệnh lập nên. Duy Vũ là con do Phạm Thị Ngọc Hậu, người làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân, Thanh Hoá) sinh ra.

Năm Ất Tỵ (1665), mặc dù mới 11 tuổi, nhà vua cũng sách lập chính cung Trịnh Thị Ngọc Áng làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Áng là con thứ của Tây vương Trịnh Tạc. Khi vua lên ngôi đón vào trong cung, lấy làm Hoàng hậu.

Bấy giờ ở bên Trung Quốc, nhà Minh đã mất, nhà Thanh lên, tháng 3 năm Ðinh Mùi (1667) nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua làm An Nam quốc vương. Vua Lê sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Ðồng Tồn Trạch sang nhà Thanh  nộp lễ cống hàng năm và tạ ơn việc tặng bạc lụa. Ðây là lần đầu tiên nước ta có quan hệ ngoại giao với triều Thanh.
Ở ngôi được 9 năm, ngày 15 tháng10 năm Tân Hợi (1671) vua băng hà, lúc này mới có 18 tuổi, không có con nối.

 ♦ Lê Gia Tông (1672-1675):

Niên hiệu:
- Dương Ðức (1672-1673);
- Ðức Nguyên (1674-1675).

Vua huý là Duy Cối, con thứ của Thần Tông. Trước đấy, khi Thần Tông băng, Hoàng thái tử Duy Cối (có sách chép là Duy Khoái) mới lên 2 tuổi, vương Trịnh Tạc và vương thị là Trịnh Thị Ngọc Lung đón về nuôi ở trong vương phủ, dạy bảo, hun đúc, giúp nên đức tính. Khi Huyền Tông băng hà, không có con nối ngôi, Trịnh Tạc bèn xuống chỉ cho Tiết chế phủ và các đại thần văn võ trăm quan lập Hoàng đệ Lê Duy Cối lên ngôi vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Vua làm lễ đăng quang vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) lấy niên hiệu Dương Ðức, tôn chính phi của vương là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc thái mẫu.

Năm Giáp Dần (1674) vua tôn phong thân mẫu là Lê Thị Ngọc Hoàn (quê ở xã Phúc Lộc, huyện Thuỵ Nguyên, Thanh Hoá) làm Chiêu Nghi.

Nhà vua diện mạo khôi ngô, thân thể vạm vỡ, tính khoan hoà, có độ lượng của một ông vua. Vua ở được 4 năm, mất lúc 15 tuổi, không có con nối.

 ♦ Lê Hy Tông (1676-1705):

Niên hiệu:
- Vĩnh Trị (1678-1680);
- Chính Hoà (1681-1705).

Lê Hy Tông có tên là Duy Cáp (có sách chép là Duy Hợp), là con thứ của Thần Tông và là em của Gia Tông. Khi Thần Tông qua đời, ông còn nằm trong bụng mẹ mới được 4 tháng. Thần Tông dặn dò Tây vương Trịnh Tạc bảo hộ, sau này cho Duy Cáp nối ngôi. Lúc Gia Tông chết Duy Cáp lên 13 tuổi, được Tây vương phò lên ngôi vua. Lấy ngày sinh làm “Thiên minh thánh tiết”. Nhà vua tuân giữ cơ nghiệp có sẵn, rũ tay áo mà hưởng cuộc thịnh trị. Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc và công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân yên nghiệp làm ăn. Ðó là các năm dưới niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) và Chính Hoà (1681-1704). Người đời bấy giờ ca ngợi là bậc nhất thời Trung Hưng. Tháng 4 năm Ất Dậu (1705), sau khi ở ngôi 30 năm, vua ban chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử Lê Duy Ðường rời sang ở cung khác. Nhường ngôi rồi vua còn vui sống nhàn 12 năm nữa mới mất, thọ 54 tuổi.

 ♦ Lê Dụ Tông (1705-1728):


Niên hiệu:
- Vĩnh Thịnh (1706-1719);
- Bảo Thái (1720-1729).

Vua huý là Duy Ðường, con trưởng Lê Hy Tông, được nhường ngôi năm Ất Dậu (1705). Sau khi lên ngôi đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh.

Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp thái bình, không xảy ra binh đao vì chiến tranh Trịnh - Nguyễn tạm dừng. Trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dâng lễ vật tỏ lòng thành, Trung Quốc thì trả lại đất. Nhà vua giũ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị lúc bấy giờ người phải kể đến công lao giúp chính của chúa Trịnh Cương. Trịnh Cương cùng với các bồi tụng và tham tụng: Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ đều là người giúp việc rất đắc lực và liêm khiết, họ chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế-tài chính, thi cử, tổ chức hành chính, và quan lại... Nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì Trịnh Cương qua đời. Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729) nhà vua nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương rồi ra ở cung Kiền Thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng, khi đó vua 49 tuổi. Như vậy vua Lê Dụ Tông làm vua được 24 năm, đặt niên hiệu hai lần: Vĩnh Thịnh (1705-1719) và Bảo Thái (1720-1729). Tháng Giêng năm Tân Hợi (1731) Thái thượng hoàng mất, thọ 52 tuổi.
 
 ♦ Lê Ðế Duy Phương - Hôn Ðức Công (1729-1732):

Niên hiệu: Vĩnh Khánh Duy Phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn Ðức Công, rồi đến năm Nhâm Tý (1732) thì bị giết.

 ♦ Lê Thuần Tông (1732-1735):
 

Niên hiệu: Long Ðức.
Sau khi Hoàng thái tử Lê Duy Phương được vua cha nhường ngôi, ban lời chiếu khá dài nói về công lao khai sáng của Lê Thái Tổ, công cuộc Trung Hưng và vai trò của các chúa Trịnh... rộng ban ân điển 5 điều cho thần dân cả nước. Nhưng ngôi vua của Lê Duy Phương không đứng vững, vì sau khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa thì tình hình lại thay đổi.

Nguyên do là, trước đó con trưởng của vua là Lê Duy Tường đã 28 tuổi, được ở ngôi đông cung đã được 10 năm, lẽ ra phải được truyền ngôi. Nhưng Duy Tường còn có một người em khác mẹ là Duy Phương, 19 tuổi, do chính phi Trịnh Thị (con gái Trịnh Cương) sinh ra. Trịnh Cương muốn bỏ nguời con cả để lập cháu ngoại của mình lên ngôi, mới quanh co làm ra lời ban phong quan, ban tước rồi ép vua Dụ Tông phải nhường ngôi cho Duy Phương. Duy Phương lên ngôi, ngay lập tức tôn mẹ là Trịnh Thị lên làm Hoàng thái hậu và lại tiếp tục lấy một chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu. Nhưng khi Trịnh Giang lên cầm quyền, muốn tỏ rõ uy quyền, Giang bỏ hết các phép tắc của vua. Các chính sách thuế khoá và tài chính mà Trịnh Cương cho thi hành từ các năm 1720-1730 đều bị huỷ bỏ. Về việc định ngôi vua cũng vậy, tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) Trịnh Giang truất Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang xuống làm quận quân, vu cho nhà vua có tư tình với các cung phi của người khác, Trịnh Giang bắt ép vua ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị bớt xén đi, rồi truất vua xuống làm Hôn Ðức Công, dời đến một ngôi nhà bên ngoại thành, buộc phải thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão (1735).

Giết vua rồi, Giang cho dẫn 12 người con của Dụ Tông vào phủ đường để xem mặt. Duy Tường là con trưởng đáng được lập làm vua. Giang liền sai viên quan hộ vệ Duy Tường đến cung Tứ Thọ, làm lễ cáo Thái Miếu và lập lên làm vua, tức là vua Thuần Tông.

Duy Tường lên ngôi đổi niên hiệu là Long Ðức, đại xá trong nước, tha bỏ thuế chiếu, tha những tiền nộp để chuộc tội còn thiếu chồng chất; viên quan nào bị lầm lỡ bị truất bãi đã lâu, đều  cho xem xét dừng lại. Nhưng Duy Tường làm vua không được lâu, chỉ bốn năm sau, vua mất, thọ 37 tuổi, quần thần dâng tôn hiệu là Thuần Tông Giản hoàng đế.

 ♦ Lê Ý Tông (1735-1740):

Niên hiệu: Vĩnh Hựu.
Sau khi Thuần Tông Giản hoàng đế mất, Trịnh Giang cho lập Duy Thận, con thứ 11 của Dụ Tông, em của Thuần Tông lên ngôi. Mặc dù Thuần cũng có con đã 19 tuổi, nhưng Trịnh Giang cho rằng Duy Diên (con Thuần Tông) tuổi đã trưởng thành và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà Thái phi họ Vũ (mẹ của Trịnh Cương, bà của Trịnh Giang), trước kia vẫn nuôi nấng Thận ở trong phủ, thân cận yêu thương và có phần dễ kiềm chế hơn. Thế là Giang quyết định cho Duy Thận khi đó 17 tuổi lên nối ngôi. Bầy tôi trong triều không ai dám nói gì cả. Duy Thận lên ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Hựu.

Dưới thời cầm quyền của Trịnh Giang, tình hình trong nước lại mất ổn định. Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, không việc gì là không làm: sát hại công thần, tự cho thi tiến sĩ ở phủ đường... giết vua nọ lập vua kia... Vì thế tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738) một người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật và Duy Quý (con Lê Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) cùng một số quần thần bàn mưu đốt kinh thành nhưng việc không thành, họ phải vượt biển chạy vào Thanh Hoá. Giang cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Sau vụ đó, Duy Mật bèn chiếm cứ miền thượng du vùng Tây Nam chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm trời.

Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua, Trịnh Giang lấn quyền vua ngày càng quá quắt. Thêm vào đó lại chơi bời dâm dục không còn mức độ nào cả. Vì thế Giang bị mắc chứng bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang: chúng đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Giang ở. Từ đó Giang không bước chân ra ngoài, Công Phụ cùng đồng đảng của hắn càng có dịp chuyên quyền, lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau người bị giết, người bị phạt. Chính sự trái ngược, thuế khoá nặng nề, lòng dân mong chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp nơi: Vùng Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có Hoàng Công Chất... họ đều lấy danh nghĩa “phò Lê”. Dân ở vùng Ðông Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm. Quân khởi nghĩa vây các cấp, các thành, triều đình không thể ngăn cấm được.

Trước tình hình đó. Trịnh thái phi là Vũ Thị (vợ Trịnh Cương, mẹ Trịnh Doanh) cho triệu Nguyễn Quý Cảnh và một số quần thần khuyên Trịnh Doanh đứng ra thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong cung phủ. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm ấy Doanh ép vua truyền ngôi cho Duy Diên, con trưởng của Thuần Tông. Tôn nhà vua lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy Ý Tông ở ngôi được 5 năm, khi nhường ngôi mới 21 tuổi. Nhường ngôi rồi Ý Tông đến ở điện Càn Thọ, được 19 năm chết, thọ 40 tuổi.

 ♦ Lê Hiển Tông (1740-1786):

Niên hiệu: Cảnh Hưng.
Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông. Nhưng vì có chú là Duy Thận và Duy Mật khởi nghĩa chống họ Trịnh chuyên quyền, vì thế Duy Diên bị Trịnh Giang truất ngôi Thái tử và bị giam cầm từ lâu. Sau khi Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa Trịnh của Trịnh Giang mới sai người thả Duy Diên và lập lên làm vua, ép vua Ý Tông phải nhường ngôi cho cháu dòng đích. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Ý Tông có đoạn viết: “Nghĩ phương xa có nhiều kẻ mạnh, lòng càn rỡ, muốn cho trong ngoài bờ cõi được yên vui, thì chính là theo lễ nên tôn dòng con trưởng, để trọng tôn thống, mà thu phục lòng người”. Sau khi Ý Tông lên làm Thượng hoàng ra ở điện Càn Thọ, số xã dân cung phụng được lấy bằng 1/3 trong số chính phần của các vua Lê thời kỳ này.

Vua lên ngôi báu lúc mà trong nước gặp nhiều việc: bốn phương quân khởi nghĩa nổi lên liên tục không lúc nào yên. Nhưng nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên 10 năm sau đất nước đã trở lại yên bình, dân yên cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là thời thái bình. Phải nói rằng Lê Hiển Tông là ông vua trị vì lâu nhất lịch sử phong kiến nước ta. Số năm trị vì của ông lên tới gần nửa thế kỷ- 47 năm. Bí quyết của ông vua này là sống nhàn hạ và không quan tâm gì đến chính sự, mọi việc đều do nhà chúa quyết định từ Trịnh Doanh sau đến Trịnh Sâm. Dưới thời Doanh, vì Doanh tin vào phúc đức của nhà vua nên cố gắng tin lập và dựa vào.

Tháng Giêng năm Giáp Thân (1764) vua cho lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm Ðinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm làm Nguyên soái tĩnh đô vương. Tháng 3 năm Kỷ Sửu (1769) Sâm truất ngôi Thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769) Trịnh Sâm cho lập Duy Cận là con thứ của vua làm Thái tử.

Tháng 12 năm Tân Mão (1771) Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, tháng Giêng năm Quý Mão (1783) lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Việc này do binh lính tâm phủ làm.

 ♦ Lê Mẫn Đế (1787-1789):  ♦ Lê Mẫn Ðế (1787-1789):

Niên hiệu: Chiêu Thống.
Tên là Duy Khiêm (còn có tên Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ. Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi giam cầm về và Trịnh Khải, lập làm Thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi Ngọc Hân về việc các hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt. Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò Thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ. Lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân. Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời đời làm láng giềng hoà hiếu.

Nhưng khi Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân thì hào mục ở các nơi lại nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng Long tự lập làm nguyên soái và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng nhượng công Lê Duy Cận đứng Giám quốc và để Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.

Ðể khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân (1788) Hoàng thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin quân cứu viện. Sau khi lấy lại được Thăng Long, dựa vào thế quân thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế dân tình trong kinh ngoài trấn đều chán nản, rời rạc và lo sợ.

Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người.

Nhà Lê mất. Sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý (1804) triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn Thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.

Tháng 2 năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên thuỵ cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Ðây là ông vua cuối cùng của triều Lê

Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 265 năm trị vì.

Nhà Hậu Lê tồn tại song song với nhà Mạc từ 1533 đến 1592 và với Trịnh-Nguyễn từ 1592 đến 1789. Ðây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian.

Các đời chúa Trịnh


Các đời chúa Trịnh tồn tại trong 243 năm (1545-1787), trải qua 12 đời chúa, bao gồm:

Trịnh Kiểm  (1545-1570)         Trịnh Doanh (1740-1769)
Trịnh Tùng (1570-1623)           Trịnh Sâm (1767-1782)
Trịnh Tráng (1623-1652)          Trịnh Cán
Trịnh Tạc (1653-1682)              Trịnh Tông (1782-1786)
Trịnh Căn (1682-1709)             Trịnh Bồng (từ 9/1786 đến 9/1787)            
  Trịnh Cương (1709-1729)     Trịnh Giang (1729-1740)
♦ Thế tổ Minh Khang - Thái vương Trịnh Kiểm  (1545-1570):

Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Mặc dù không được học hành nhiều song Kiểm rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Nguyễn Kim mến tài đem con gái cưng là Ngọc Bảo gả cho Kiểm. Từ đấy nhiều việc quan trọng, Nguyễn Kim thường giao cho Kiểm. Kiểm được cầm binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông. Nhà vua thấy ông có tướng mạo khác thường, phong ông làm Ðại tướng quân, tước Dục quận công vào năm Kỷ Hợi (1539). Khi đó Trịnh Kiểm 37 tuổi.

Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim trên đường hành quân ra đánh Bắc triều ở miền Sơn Nam đến Yên Mô (Ninh Bình) thì bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Quyền bính lọt vào tay Trịnh Kiểm. Khi được vua Lê chính thức trao toàn quyền thống lĩnh binh mã với tước Thái sư Lạng quốc công, Kiểm thấy chưa đủ lực lượng tấn công Bắc triều, liền rút quân về củng cố lực lượng; lập hành tại vua Lê ở đồn Vạn Lại (huyện Thuỳ Nguyên, Thanh Hoá). Nhiều nhân sĩ tài giỏi đã tìm đến hành tại giúp vua Lê trong đó có Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan và Lương Hữu Khánh.

Vua Lê Trang Tông tuy ngồi ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ.

Năm 1548, Trang Tông mất, Trịnh Kiểm cho lập con lớn của Trang Tông là Huyên lên nối ngôi lấy hiệu là Trung Tông. Vua Trung Tông cũng chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi, Trịnh Kiểm muốn nhân dịp này tự lập làm vua. Biết tiếng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang về ẩn dật ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng) là người uyên bác về y, nho, lý, số, được người đời bấy giờ coi là bậc tiên tri, Trịnh Kiểm cho người đến hỏi ý kiến.

Sứ trở về Thanh Hoá, thuật lại từng lời nói cử chỉ của Trạng Trình, Trịnh Kiểm hiểu ra không nên thực hiện ý định cướp ngôi nhà Lê nữa mà tìm người cháu của Lam Quốc công Lê Trứ (anh ruột Lê Lợi) tên là Lê Duy Bang lập làm vua. Việc đó xảy ra vào năm Bính Dần (1556). Kiểm từ đó càng tỏ ra chuyên quyền, tìm cách hãm hại anh em họ Nguyễn: Nguyễn Uông đã bị giết, còn em lại là Hoàng cũng đang bị ganh ghét. Năm Mậu Thân (1558) Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hoá, Trịnh Kiểm đồng ý ngay với hy vọng Hoàng sẽ gặp khó khăn ở miền “Ô châu ác địa”, không ngờ từ đó mầm mống của một cuộc phân tranh mới đã xuất hiện.

Nam triều từ khi có Trịnh Kiểm cầm quân càng tỏ ra mạnh khiến Bắc triều không thể xem thường. Vua Mạc từng sai đại tướng của mình là Mạc Kính Ðiển đem quân vào đánh Thanh Hoá đến 10 lần. Ngược lại, quân Trịnh cũng kéo ra đánh đến Sơn Nam trước, sau 6 lần. Có lần (vào năm Kỷ Mùi (1559), Kiểm huy động tới 6 vạn quân đánh các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hoá, Kinh Bắc, Lạng Sơn rồi vòng xuống Hải Dương theo chiến lược phá hàng rào trước, đột nhập vào Ðông Kinh sau. Lần ấy Trịnh Kiểm tưởng đã nắm được thắng lợi trong tay, thì lại được tin quân Mạc đánh thọc vào bản doanh vua Lê ở Thanh Hoá, Trịnh Kiểm phải rút quân về cứu hậu phương.

Dưới thời Trịnh Kiểm cầm quân, Nam triều đã lấy được các huyện Yên Mô, Yên Khánh, Phụng Hoá, Gia Viễn. Năm Kỷ Tỵ (1569), vua Lê gia phong cho Kiểm làm Thượng tướng Thái quốc công và tôn làm Thượng phụ. Cũng năm đó Trịnh Kiểm ốm nặng, dâng biểu xin trao lại binh quyền cho vua Lê. Vua Lê sai con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối nắm binh quyền.

Tháng 2 năm Mậu Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, truy tôn làm Minh Khang thái vương, thuỵ là Trung Huân.

Như vậy Trịnh Kiểm mở đầu sự nghiệp nắm quyền của họ Trịnh trong 26 năm, trải giúp 3 đời vua, thọ 68 tuổi.

 ♦ Thành tổ Triết Vương - Trịnh Tùng (1570-1623):

Theo thứ tự chính thống nối ngôi chúa thuộc về Trịnh Cối, là con bà vợ cả. Nhưng Trịnh Cối ham mê tửu sắc, ngày càng kiêu ngạo càn rỡ. Các tướng dưới quyền Cối ngày càng xa lìa. Vì thế chỉ hai tháng sau khi Trịnh Kiểm mất, tháng 4 năm Canh Ngọ (1570), các quan tướng của Trịnh Kiểm như Lê Cập Ðệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách, Phan Công Tích đem quân bản bộ đến với Trịnh Tùng, yêu cầu Tùng lên thay Trịnh Cối. Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm với Ngọc Bảo, con gái Nguyễn Kim. Trịnh Tùng khôi ngô, có tài thao lược, biết cách lấy lòng các tướng sĩ, được Trịnh Kiểm rất yêu mến. Nhưng vì là con thứ nên Tùng chưa dám tranh quyền với Trịnh Cối. Ðược các quan quân tôn phò, Tùng buộc phải cùng họ đem quân và voi chạy đến hành tại Yên Trường và yết kiến vua Lê.

Phúc Lương hầu Trịnh Tùng cùng với Lê Cập Ðệ mật tâu vua rời hành tại vào cửa Vạn Lại, chia quân canh giữ đề phòng Trịnh Cối. Hôm sau Trịnh Cối đích thân đốc các tướng đem hơn một vạn quân đuổi theo đến tận cửa Vạn Lại, đóng quân bao vây ở ngoài. Hai bên cầm cự nhau vài ngày, sai người đưa thư đi lại chửi bới lẫn nhau. Cuộc tranh giành kéo dài đến 7 ngày trời, vua Lê phải cho sứ ra chiêu dụ các tướng ở bên ngoài và khuyên giảng hoà. Vua Lê biết là không thể dùng lời lẽ hoà giải được bèn sai các tướng ra sức phòng giữ. Trịnh Cối thấy đánh mãi không phá được thành, ngần ngại, tự lui quân về dinh Biện Thượng.

Biết anh em họ Trịnh đang đem quân đánh nhau để tranh ngôi chúa, tháng 8 năm Canh Ngọ (1570), vua Mạc sai Mạc Kính Ðiển đem đại quân 10 vạn người và 700 chiến thuyền đánh vào Thanh Hoá. Quân Mạc tiến như vũ bão vào tận cửa Linh Trường, Chi Lăng, Hội Triều. Quân lính Mạc đóng dinh trại tại Hà Trung, hai bên bờ sông khói lửa liên tiếp kéo dài tới 10 dặm. Trịnh Cối lo sợ bèn đem vợ con và các thuộc tướng đến hàng quân Mạc. Mạc Kính Ðiển chấp thuận và phong Cối làm Trung Lương hầu, các quan đi theo Cối thì được phong tước công.

Thế quân Mạc ngày càng mạnh, tình hình rất nguy kịch, Vua Lê sắc phong Trịnh Tùng làm Trưởng quận công tiết chế thuỷ bộ chỉ dinh, cầm quân đánh Mạc. Bản thân vua Lê cũng tạm làm tướng chỉ huy một đội quân kéo ra đóng tại huyện Ðông Sơn. Nhờ đó thanh thế của quân Nam triều lại khởi sắc, mấy lần quân Bắc triều tấn công đều thất bại. Tháng 12 năm ấy, sau 4 tháng tấn công vào thành không thắng được. Mạc Kính Ðiển lại rút quân ra Bắc. Trịnh Cối cùng mẹ và vợ con với hơn 1000 quân chạy theo quân Mạc. Quân Bắc triều rút rồi, nội bộ Nam triều lại lục đục, Lê Cập Ðệ muốn giết Trịnh Tùng để giành quyền lại cho họ Lê. Mấy lần bày mưu mời Trịnh Tùng xuống thuyền uống rượu và ngắm trăng, nhưng Tùng biết nên việc không thành. Lê Cập Ðệ bị Trịnh Tùng giết. Vua Lê thấy thế trong lòng không yên, lại nghe các quan gièm pha đang đêm đem 4 hoàng tử chạy vào thành Nghệ An, đó là năm Nhâm Thân (1572).

Trịnh Tùng cho đón hoàng tử thứ 5 của vua Lê là Duy Ðàm, lập làm vua. Vua Lê phong Tùng làm Ðô tướng tiết chế các sứ thuỷ bộ chủ dinh kiêm quản binh chương quân quốc trọng sự. Tùng nắm trọn  quyền trong triều, ngoài trấn, vua Lê chỉ là bù nhìn.

Từ khi Tùng nắm trọng binh quyền, lực lượng phía Nam triều mạnh lên nhiều, quân Trịnh bắt đầu lại mở các cuộc tấn công ra Bắc.

Tháng 9 năm Giáp Thân (1584) Trịnh Cối chết trên đất Bắc triều. Vua Mạc sai người đến làm lễ viếng; lại sai đưa trả linh cữu về quàn ở chân núi Quân Yên huyện Yên Ðịnh, đặt lễ cúng, dâng biểu xin vua Lê tha tội, truy tôn Cối là Thái phó trung quận công, cho con là Trịnh Xuân để tang bác.

Sau hơn 10 lần liên tục mở các đợt tấn công ra Bắc, cuối cùng Trịnh Tùng đã đánh bại được quân nhà Mạc, khôi phục được kinh thành Thăng Long. Trong một cuộc vây quét dư đảng của nhà Mạc, quân Trịnh Tùng dồn quân Mạc lên vùng biên giới phía Bắc. Từ đó, mặc dù lực lượng của Mạc còn khá đông nhưng không tụ lại được mà chỉ hoạt động lẻ tẻ ở các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc.

Năm Ất Mùi (1595), Trịnh Tùng vào Thăng Long bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị quy mô của bậc đế vương. Tùng cho đóng một cỗ xe rất lộng lẫy theo mẫu Nguyễn Hoàng thiết kế. Tùng sai sứ sang nhà Minh xin sắc phong cho mình là Ðô nguyên suý tổng quản quốc chính thượng phụ, tước Bình An vương. Tùng quy định cho vua Lê được thu thuế 1000 xã (gọi là lộc thượng tiến) và 5000 quân túc vệ, 7 voi và 20 chiếc thuyền rồng.

Trịnh Tùng cho lập phủ riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương lục bộ của triều vua. Phủ chúa có toàn quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính. Vua chỉ có mặt trong những dịp long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tàu mà thôi. Từ đấy bắt đầu thời kỳ “vua Lê chúa Trịnh”. Con chúa Trịnh cũng được quyền thế tập gọi là Thế tử.

Trước sự hống hách, lộng quyền của chúa Trịnh. Vua Lê Kính Tông không chịu nổi bèn cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân mưu giết Trịnh Tùng. Công việc “bại lộ, Trịnh Tùng bức Vua thắt cổ chết giữa tuổi 32, Tùng cho Hoàng thái tử  Lê Duy Kỳ lên thay ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thần Tông”.

Năm Quý Hợi (1623), Bình An vương Trịnh Tùng bị cảm, sai các quan bàn việc chọn Thế tử. Triều thần liền tâu lấy Thế tử Trịnh Tráng giữ binh quyền, còn con thứ là Thái Bảo quận công Trịnh Xuân giữ chức phó. Biết tin này, ngày hôm sau Trịnh Xuân đem quân và voi vào phá nội phủ cướp lấy voi ngựa, vàng bạc châu báu rồi bắt Trịnh Tùng phải dời ra ngoài thành rồi phóng lửa đốt phủ chúa.

Trịnh Tráng cùng em là Trịnh Khải đem vua chạy ra ngoài. Trịnh Tráng họp các quan văn võ ở chợ Nhân Mục huyện Thanh Trì bàn việc đối phó với Trịnh Xuân. Lúc đó Trịnh Tùng đã quá ốm yếu, sai em ruột là Trịnh Ðỗ dụ Trịnh Xuân đến Quán Bạc (xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) để trao cho đại quyền. Xuân đến, mồm ngậm cỏ, phủ phục ở sân. Trịnh Tùng kể tội Xuân là kẻ phản loạn thần tặc tử, truyền lệnh cho Bùi Sĩ Lâm chặt chân Xuân cho đến chết. Còn Trịnh Ðỗ em Trịnh Tùng, sai con trai mình là Trịnh Thạc đi đón thái tử Trịnh Tráng đến gặp Trịnh Tùng. Thế tử Trịnh Tráng cùng với Thạc cưỡi chung một con voi. Thấy vậy, thuộc tướng của Tráng cho biết là cha con ông chú (Trịnh Ðỗ) đang có âm mưu hại Trịnh Tráng, Tráng nghe vậy mới bảo Thạc cứ về dinh trước rồi tự mình đem quân chạy về đóng ở Ninh Giang.

Ngày 20 tháng 6 năm Quý Hợi (1623), Trịnh Tùng mất tại quán Thanh Xuân, huyện Thanh Oai, Trịnh Tráng cho đón linh cữu về Ninh Giang phát tang rồi sai 13 chiếc thuyền theo linh cữu rước về táng ở Thanh Hoá. Trịnh Tráng cũng rước vua Lê về Thanh Hoá để lo toan việc dẹp loạn

Như vậy là trong 20 năm nắm quyền, Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà Mạc, khôi phục lại cơ đồ nhà Lê nhưng cũng bắt đầu từ đây một kiểu cai trị tồn tại song song cả vua lẫn chúa.

Chúa Trịnh Tùng ngự ở Thăng Long 33 năm nữa, tổng cộng cả quãng đời chinh chiến lẫn hoà bình Trịnh Tùng cầm quyền 53 năm, khi mất đã 74 tuổi.

 ♦ Văn tổ Nghị Vương - Trịnh Tráng (1623-1652):

Dư đảng của họ Mạc do Kính Khoan đang chiếm cứ đất Cao  Bằng nghe tin Trịnh Tùng chết, các con đánh nhau giành ngôi chúa, liền từ Cao Bằng kéo xuống Gia Lâm, người theo đông đến hàng vạn. Trịnh Tráng phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hoá.

Tháng 8 năm Quý Hợi (1623), Trịnh Tráng đem quân ra phá tan quân của Kính Khoan ở Gia Lâm. Kính Khoan một mình chạy thoát thân trốn vào núi. Kinh thành lại được yên, Tráng lại rước vua Lê trở lại kinh đô. Mùa đông năm đó (1623) vua Lê phong Nguyên suý thống quốc chính Thanh Ðô vương cho Trịnh Tráng.

Trịnh Tráng lên nắm quyền ở phủ chúa là lúc quan hệ giữa họ Trịnh và họ Nguyễn trở nên căng thẳng. Tạm yên mặt Bắc, Trịnh Tráng lại phải lo đối phó mặt Nam. Lúc này ở đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã ra mặt chống lại chúa Trịnh ở đàng Ngoài. Trịnh Tráng nhiều lần lấy danh nghĩa vua Lê đem quân đi đánh Phúc Nguyên nhưng quân Nguyễn lợi dụng địa thế hiểm trở, đắp luỹ đài chống cự quyết liệt, quân Trịnh không làm gì được, phải rút về. Khi lên nắm quyền Trịnh Tráng đã cao tuổi (47 tuổi), từng trải việc quân việc đời nên trong chính sách cai trị, Tráng khéo léo và mưu mô hơn chúa trước. Ðể thắt chặt thêm quan hệ giữa Nhà chúa và vua Lê; Trịnh Tráng đem con gái của mình (trước đã lấy chồng được bốn con với chú họ của vua Lê) gả cho vua Lê, ép vua lập làm Hoàng hậu. Vua Lê đành chịu chấp nhận việc đó.

Năm Ất Dậu (1645), Trịnh Tráng tuổi đã già, xin vua phong cho con thứ hai là Tây quận công Trịnh Tạc làm khâm sai tiết chế các xứ chủ bổ thuỷ dinh chương quốc quyền binh, tả tướng Thái uý Tây Quốc công Trịnh Tạc được chọn thay quyền cha giữ ngôi chúa. Sau quyết định này vài hôm, Trịnh Tráng bị cảm mạo, các con là Trịnh Sầm, Trịnh Lịch vì không được cha truyền ngôi bèn nổi loạn. Sau cả hai người con này đều bị bắt chém. Thời kỳ cầm quyền, Trịnh Tráng có chút công lao ngoại giao đáng kể là vua Minh từ chỗ chỉ phong tước An Nam đô thống sứ cho các vua Lê Trung Hưng, đến đây đã chịu phong cho Lê Thần Tông làm An Nam quốc vương.

Năm Ðinh Dậu (1657), Trịnh Tráng mất, trải qua 30 năm cầm quyền ở phủ chúa, được vua Lê phong đến hết mức: Thượng chúa sư phụ Công cao thông đoán nhân Thanh vương, chết 81 tuổi.

 ♦ Hoằng tổ Dương Vương -Trịnh Tạc (1653-1682):

Trịnh Tạc là con thứ hai mà lại được Nhà chúa chọn làm Nguyên suý chưởng quốc chính Tây Ðịnh vương từ năm Quý Tỵ (1653) khi Trịnh Tráng còn đang sống. Sự đảo lộn thứ tự giữa Trịnh Tạc và Trịnh Toàn đã tạo nên một mâu thuẫn ngấm ngầm giữa Tạc và Toàn. Lúc này cuộc chiến giữa Ðàng Ngoài và Ðàng Trong đang ngày càng quyết liệt. Trịnh Toàn đang nắm giữ binh quyền ở Nghệ An. Năm Bính Thân (1656) Trịnh Tạc sai Căn là con trai cả làm Thế tử lĩnh chức Tá quốc dinh phó đô tướng Thái Bảo Phú Quận công đem quân vào Nghệ An tăng viện cho Trịnh Toàn và  cũng để kiềm chế Trịnh Toàn. Ngày 16 tháng 4 năm Ðinh Dậu (1657) trước khi qua đời, Trịnh Tạc cho người triệu Toàn về kinh đô mưu sát. Bộ hạ Toàn sợ bị vạ lây đã chạy sang hàng quân Nguyễn ở Ðàng Trong, riêng Toàn không biết làm sao, đem toàn bộ voi ngựa, khí giới đến cửa quân của Trịnh Căn xin cháu đoái thương. Trịnh Căn không dám quyết định. Toàn miễn cưỡng phải về kinh. Trịnh Tạc sai đình thần tra hỏi tống ngục cho đến chết. Quyền hành quân sự từ tay Toàn được chuyển hết vào tay Trịnh Căn. Căn đóng quân ở Nghệ An.

Từ chúa Trịnh Tạc trở đi, vua Lê cho phép các chúa Trịnh vào chầu không phải lạy, tờ chương tấu không phải đề tên, đặt chỗ ngồi bên tả nhà vua mỗi khi thiết triều. Sau thắng lợi dẹp được Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng tháng 9 năm Ðinh Mùi (1667) , Trịnh Tạc tự nhận công lao của mình bao trùm tất cả, càng lấn lướt vua Lê, tự gia phong Ðại nguyên soái thượng sư Thái phụ Tây vương.

Năm Nhâm Tí (1672), Trịnh Tạc ép vua Lê đem quân đánh quân Nguyễn một trận lớn ở châu bắc Bố Chính. Quân Trịnh chiếm được luỹ Trấn Ninh. Trịnh có nhiều tướng giỏi như Trịnh Căn, chỉ huy quân thuỷ, Lê Thời Hiến chỉ huy quân bộ. Trịnh huy động đến 3 vạn quân vượt sông Gianh đánh vào cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn ra sức chống đỡ nhờ vào hệ thống thành luỹ kiên cố. Tháng 12 năm Nhâm Tí (1672), Trịnh Tạc rút đại quân về chỉ để lại Lê Thời Hiến trấn giữ Nghệ An. Từ đó hai phía Ðàng Trong và Ðàng Ngoài tạm dừng binh đao, lấy sông Gianh làm giới hạn.

Trở về kinh đô, Trịnh Tạc bắt đầu chú ý đến bộ máy cai trị theo lối “chính quy”: Văn thần phải thay phiên nhau vào ứng trực tại phủ chúa để làm công việc. Việc này gọi là “nhập các”. Dưới sự tham gia, cố vấn của tham tụng Phạm Công Trứ, một loạt chính sách mới về thuế khoá, ruộng đất được ban hành để giải quyết hậu quả chiến tranh.

Nhưng cũng vào thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện nạn kiêu binh. Lính Thanh Nghệ cậy có công lao trong chiến trận sinh ra kiêu ngạo, phóng túng, nổi loạn giết bồi tụng Nguyễn Quốc Trinh, cướp phá nhà tham tụng Phạm Công Trứ. Kinh thành trở nên náo loạn.

Tháng 7 năm Giáp Dần (1674), Trịnh Tạc mất, con là Trịnh Căn nối giữ ngôi chúa. Trịnh Tạc nắm quyền 25 năm, trải qua 4 đời vua Lê. Thần Tông, Huyền Tông, Gia Tông và Hy Tông, thọ 77 tuổi.

 ♦ Chiêu tổ Khang Vương - Trịnh Căn (1682-1709):

Trịnh Căn là con trưởng của Trịnh Tạc. Lúc còn nhỏ có tội phải giam vào ngục. Về sau nhờ khéo vận động, Trịnh Căn được tha.

Dưới thời Trịnh Căn, chiến tranh giữa Ðàng Trong và Ðàng Ngoài đã tạm dừng. Vì thế, chúa Trịnh cũng có điều kiện để củng cố bộ máy cai trị ở Đàng Ngoài. Giúp cho việc cai trị của chúa Trịnh lúc đó nhiều người đỗ đạt cao, danh vọng lớn như Nguyễn Danh Nho, Nguyễn Quý Ðức, Nguyễn Tông Quai, Ðặng Ðình Tưởng... Ở Trung Quốc nhà Thanh đã lên cầm quyền, muốn mở rộng ảnh hưởng ban đầu xuống phía Nam. Họ tỏ ra có nhiều thân thiện với triều đình Lê-Trịnh: Tháng 9 năm Mậu Tý nhà Thanh sai sứ sang ban cho vua Lê dòng đại tự ”trung hiếu thủ bang” (có lòng trung thành hiếu kính để giữ nước). Ðây là sự tri ân cho nhà Lê đã từ chối không cứu viện cho Ngô Tam Quế, bầy tôi phản nghịch chống nhà Thanh. Vua Thanh còn sai sứ ban lễ phẩm cho việc tế Huyền Tông và Gia Tông. Trịnh Căn đã làm được một số việc đáng chú ý:

Năm Giáp Tý (1684) hạ lệnh cho quan lại vi hành thị sát dân tình. Trong lệnh chỉ chúa Trịnh viết: “Thương yêu dân chúng là việc làm đầu tiên trong chính sự. Dân chúng có người vì quan sở tại hà khắc, bọn quyền quý ức hiếp, có người vì oan ức mà phải phiêu tán tha hương, họ cần được vỗ về thương yêu mới phải”.

Bằng nhiều cố gắng ngoại giao, chúa Trịnh đã buộc nhà Thanh trả lại một số thôn ấp vùng biên giới. Mặc dù vậy, lợi dụng chiến tranh Trịnh-Nguyễn, vùng biên giới nước ta không được chú ý đến, quan lại trấn thủ và thổ hào từ bên kia biên giới xâm lấn khá nhiều đất đai. Trịnh Căn đã bắt đầu có ý thức đòi lại đất, nhưng chưa được bao nhiêu.

Năm Quý Dậu (1693) Chúa Trịnh cũng bắt đầu chỉnh đốn lại thể văn thi ở các khoa trường và bắt đầu đặt chức quan quản lãnh công việc ở Quốc Tử Giám, làm số “tu tri” để quản lý mọi mặt các xã thôn trong nước.

Trịnh Căn cũng rất quan tâm đến việc chuẩn bị cho người kế nghiệp, nhưng về việc này chúa gặp phải nhiều lận đận.

Năm Kỷ Sửu (1709) Trịnh Căn mất. Chắt là Trịnh Cương lên nối ngôi. Trịnh Căn giữ phủ chúa 28 năm. Mất lúc 77 tuổi truy tôn là Khang Vương, hiệu là Chiêu Tổ.

 ♦ Hy tổ Nhân Vương Trịnh Cương (1709-1729):

Trịnh Cương là con trưởng của Trần Quan vương Trịnh Bình, là chắt của Trịnh Căn được chọn để nối nghiệp chúa. Sự lựa chọn này là vừa theo nguyên tắc trực hệ vừa do hai đại thần có tiếng thời Lê-Trịnh là Nguyễn Quý Ðức và Ðặng Ðình Tướng tiến cử. Năm Kỷ Sửu (1709), Trịnh Căn mất, Trịnh Cương nối ngôi, gia phong là Nguyên soái tổng quốc chính An Ðô vương.

Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1714), Trịnh Cương lại được tiến phong Ðại nguyên soái tổng quốc chính Thượng sư An vương. Nhân dịp tiến phong, Trịnh Cương vào bái yết Thái miếu và chầu vua Lê ở điện Vạn Thọ. Ðây là cử chỉ tỏ ra Trịnh Cương là người biết giữ mối quan hệ vua Lê chúa Trịnh, không quá mức lấn quyền như các chúa trước. Ðáp lại, Lê Dụ Tông kính trọng Cương khác thường, cho tấu sớ không phải đề tên.

Thời kỳ ở ngôi chúa, Trịnh Cương rất chăm chỉ lo toan việc trị nước. Chúa trọng dụng ba đại thần rất trẻ và có tài là Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ và Nguyễn Công Hãng. Cùng với các quan này, đặc biệt là với Nguyễn Công Hãng, Trịnh Cương bàn định và ban hành hàng loạt cải cách về thuế khoá áp dụng ép thuế Tô Dung Ðiệu học của Trung Quốc, nhằm hạn chế bất công trong thuế má để lại từ trước. Sử ghi rằng có lần nửa đêm, nghĩ đến việc cải cách, Trịnh Cương sai người đánh thức hai quan Tể tướng là Công Hãng và Anh Tuấn mời vào phủ bàn việc. Có lúc làm việc kéo dài đến quá trưa.

Có lần bàn về hình thức cho các quan quần thần khuyên Trịnh Cương dùng áo màu vàng để tiếp kiến bầy tôi. Cương từ chối vì cho màu rằng màu vàng chỉ dành cho vua, mình là chúa, dùng màu tía để phân biệt với các quan trong triều là được

Gia thuộc họ Trịnh đều có quân riêng, Trịnh Cương ra lệnh giải tán, chỉ giữ lại một lực lượng thống nhất do phủ chúa cai quản nhằm đề phòng các thân thuộc đánh nhau tranh dành quyền lực. Sau đó, Trịnh Cương tổ chức lại quân ngũ của phủ chúa, đặt sáu quân doanh, mỗi doanh biên chế 800 người, bổ dụng 6 tướng chia nhau thống lĩnh. Ðầu năm 1724, Trịnh Cương được thay nhà vua tế đàn Nam Giao song không đứng vào chỗ vua Lê làm lễ. Người đương thời rất tin phục Cương.

Trịnh Cương rất chú trọng đến việc bổ dụng và làm trong sạch đội ngũ quan lại. Năm Giáp Thìn (1724), theo lời bàn của Nguyễn Công Hãng, chúa cho phép dân chúng được yết bảng góp ý kiến quan lại địa phương. Bố cáo gửi các địa phương có ghi rõ: ”Những điều yết lên bảng phải xuất phát từ lẽ công bằng, cả loạt đều cùng một giọng. Người nào yết bảng theo ý riêng mình, khen chê bậy bạ sẽ bị tội”

Một việc hiếm xảy ra trong chế độ phong kiến là tổ chức thi lại để loại trừ kẻ bất tài nhờ chạy chọt mà đỗ đạt. Năm Bính Ngọ (1726), Nguyễn Công Cơ tâu lên chúa rằng chuyện thi cử có nhiều nhũng lạm, phần lớn con em nhà quyền thế đỗ hương cống, không có thực tài, Trịnh Cương hạ lệnh cho thi lại, đánh  hỏng 28 người, trong đó có quan tham tụng Lê Anh Tuấn, con Huân quận Công Ðặng Ðình Giám, con nuôi nội giám Ðỗ Bá Phẩm... Bọn này được giao xuống cho pháp đình xét hỏi và trị tội nặng. Nguyễn Công Cơ vì dám nói thẳng, được thăng chức Thiếu bảo.

Tháng 10 năm Ðinh Mùi (1727) Trịnh Cương phong cho con là Trịnh Giang làm tiết chế, tước uy quận công còn tự soạn bài ”Bảo huấn” để ban dạy Trịnh Giang.

Về già, Trịnh Cương thường đi tuần du vãn cảnh các nơi, cho sửa dựng nhiều chùa ở núi Ðộc Tôn và Tây Thiên để du ngoạn. Cổ Bi vốn là đất nổi tiếng vùng Kinh Bắc, tiếp giáp xã Như Kinh là quê mẹ của Trịnh Cương nên chúa về thăm luôn. Chúa còn cho xây phủ đệ mới tại đó, lấy tên là phủ Kim Thành và có ý định đóng phủ chúa ở đấy.

Năm Kỷ Dậu (1729) Trịnh Cương đi chơi chùa Phật Tích rồi Như Kinh, bị bệnh chết ngay tại đó, quan quân bí mật đưa về phủ phát tang. Vị chúa có nhiều tâm huyết với công cuộc cải cách kinh tế, chính trị này mất ở tuổi 44, cầm quyền 20 năm. Về sau con cháu suy tôn chúa là Nhân vương, hiệu là Hi tổ.

 ♦ Dụ tổ Trịnh Vương - Trịnh Giang (1729-1740):

Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương. Khi Giang còn làm Thế tử, phó của Giang là Nguyễn Công Hãng đã dâng một mật sớ nhận xét rằng: Giang là người ươn hèn không thể gánh vác được ngôi chúa. Trịnh Cương đột ngột mất, Trịnh Giang với tư cách là Thế tử lên nối ngôi chúa.

Tháng 4 năm Canh Tuất (1730), Giang tự tiến phong là Nguyên soái, thống quốc chính Uy Nam vương. Sau khi lên ngôi, Trịnh Giang tôn bà nội là thái phi Trương Thị (vợ Trịnh Bính, người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, mẹ Trịnh Cương) làm Thái tôn Thái phi, mỗi khi truyền đạt lời của Thái tôn Thái phi thì gọi theo huý chỉ; tôn mẹ đẻ làm Thái phi; truy tôn ông ngoại là Tuấn quận công Vũ Tất Tố lên Tuấn Trạch công và đích mẫu Trịnh Thị (vợ cả của Trịnh Cương nhưng không có con, đã mất) làm Thái phu nhân, lập đền thờ ở kinh đô.

Năm Tân Hợi (1731) vì có điềm tai dị (Nhật thực) chúa hạ lệnh cho bày tôi trình bày ý kiến về chính sự. Bùi Sĩ Tiêm đưa ra 10 điều, lời lẽ rất thống thiết, tâm huyết, chỉ trích những mục nát trong bộ máy cai trị lúc bấy giờ. Vì thế bọn quyền thần rất ghét Tiêm. Sớ đến tay Giang, quyền thần lại nói gièm thêm, Giang giận lắm, tước bỏ hết quan, đuổi Sĩ Tiêm về quê. Sau một thời gian ngắn, Tiêm mất.

Sau 6 năm giữ quyền bính, năm Bính Thìn (1736) Trịnh Giang phong cho em là Doanh 17 tuổi là Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, chức Thái uý, tước An Quốc Công, cho mở phủ Lượng Quốc. Mỗi tháng 3 lần Doanh thay Giang triệu kiến trăm quan ở Trạch các để nghe tâu trình công việc. Giang rảnh tay vào ăn uống chơi bời. Giang cho xây dựng rất nhiều cung quán chùa chiền rất nguy nga và tốn kém: chùa Hồ Thiên, Hành cung Quế Trạo, Từ Dương, phủ đệ ở các làng ngoại như làng Tử Dương, làng Mi Thử. Nhân việc xây cất này, vì thế người làm ruộng, người đi buôn mất hết cơ nghiệp.

Trịnh Giang lao vào ăn chơi dâm loạn nên sức khoẻ ngày càng kém sút. Một hôm bất ngờ Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh “kinh quý” (chứng tâm thần bất định, hoảng hốt và hay sợ hãi). Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ nói dối rằng: Muốn không bị hạ chỉ có cách trốn xuống đất. Nhân đó bọn chúng đào hầm cho chúa, gọi là cung Thưởng Trì. Từ đó Trịnh Giang ở hẳn dưới hầm, không hề ra ngoài. Thế là Hoàng Công Phụ càng có điều kiện để lộng quyền. Quan quân muốn trừ khử lũ hoạn quan này, nên khắp các vùng dân chúng đã nổi lên: Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ... dân quê đeo bừa vác cuốc đi theo rất đông, có nơi đến hàng vạn người, triều đình bất lực, không trị nổi.

Trước tình hình nguy ngập ấy, Thái phi Vũ thị đã cùng triều thần bàn cách lập Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trấn an lòng người. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên thay quyền ngôi chúa, lấy hiệu là Minh Ðô Vương, viến tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương. Như vậy Trịnh Giang cầm quyền được 10 năm (1729-1740) sau đó lánh ở cung Thưởng Trì thêm 20 năm nữa rồi mới mất, thọ 51 tuổi, truy tôn là Thuận vương, hiệu là Dụ Tổ.

 ♦ Nghị tổ Ân Vương - Trịnh Doanh (1740-1769):

Trịnh Doanh là con thứ ba của Trịnh Cương. Giang lên cầm quyền ở phủ chúa đã lâu mà chưa có con, thấy em là Doanh văn tài võ lược mới phong làm Khâm sai Tiết chế các xứ thuỷ bộ chủ quân, thái uý An Quốc công, cho mở phủ đệ riêng đề phòng có người nối ngôi. Vì không thiết gì đến chính sự nên từ năm Bính Thìn (1736) Giang đã trao quyền nhiếp chính cho Doanh. Quan hệ anh em Giang và Doanh là tốt đẹp, không có gì đáng phải phàn nàn. Có điều là hoạn quan Hoàng Công Phụ lại ganh ghét Doanh vì Doanh sáng suốt, quả quyết, có tài văn võ và còn rất trẻ mà đã được quyền nhiếp chính, được lòng các quan trong ngoài. Công Phụ đã tìm cách hạn chế quyền lực của Doanh. Phụ hạ lệnh cho triều quan muốn tâu bầy việc gì với Doanh, không được dùng chữ “bẩm” mà phải dùng chữ “thân” (trình). Phủ chỉ cho Doanh dùng một căn nhà nhỏ ở phía Nam phủ chúa gọi là “để”.

Biết Công Phụ muốn hại mình, Doanh khôn khéo giữ gìn kín đáo và nín nhịn. Trịnh Thái phi họ Vũ cho triệu các triều thần Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Trịnh Ðạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Ðình Hoàn họ bàn trừ khử bè đảng Hoàng Công Phụ và đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa.

Lợi dụng lúc Hoàng Công Phụ đem toàn quân bản bộ ra dẹp cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển ở ngoài, Nguyễn Quý Cảnh đem hương binh vào kinh bảo vệ phủ chúa và vào chầu vua Lê, xin ra chỉ đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Sau đó hương binh của Quý Cảnh giết hết bè đảng của Hoàng Công Phụ. Trật tự trở lại trong phủ chúa. Trịnh Doanh khi đã có thực quyền trong tay, liền ban hành nhiều quyết định, hợp với lòng người, được quần thần và dân chúng ủng hộ. Chính sách cai trị dưới thời Trịnh Doanh khá chắc chắn và hoàn chỉnh. Nhiều sắc chỉ huy quy định được ban hành dưới thời Trịnh Cương (đã bị Giang bỏ) nay được dùng lại. Doanh cũng là một viên tướng giỏi có tài cầm quân. Trong vòng 10 năm cầm quyền, Trịnh Doanh lần lượt đã đánh tan và dẹp yên các cuộc khởi nghĩa khắp nơi. Ðất nước tạm lắng nạn hỗn loạn, đặc biệt là quân Thanh Nghệ mà sau này hậu quả tai hại nảy sinh là nạn kiêu binh. Chúa sau Trịnh Doanh đã phải hứng chịu hậu quả ấy. Hơn nữa, do sai lầm không thể tha thứ được là đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh các chùa chiền để đúc binh khí.

Trịnh Doanh cũng chăm chỉ lo việc chính sự; cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố cáo việc làm sai trái của quan lại; định lệ các quan từ tam phẩm đến nhất phẩm, mỗi ngày lần lượt thứ tự hai người vào phủ chúa để hỏi về chính sự và mưu sách việc quân, việc nước.

Năm Ất Hợi (1755), vua Lê gia phong cho Trịnh Doanh là Thượng sư Thượng phụ anh đoán văn trị võ công Minh vương. Tháng 12 năm Ất Hợi (1755), Trịnh Doanh muốn Thiên đô sang Gia Lâm bèn hạ lệnh sửa sang xây dựng cung miếu ở Cổ Bi. Tuy vậy vẫn chưa dọn sang vì Doanh vốn say mê với chính sự.

Một điều đáng chú ý là mỗi khi tuyển chọn và cân nhắc quan lại, Trịnh Doanh rất coi trọng thực tài, chúa là người đầu tiên quy định: bất cứ ai, trước khi bộ Lại bổ dụng cất nhắc, phải dẫn vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc làm, ai có khả năng mới trao cho chức quyền. Chúa thưởng phạt rất công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng tiêu biểu là Lê Quý Ðôn, Ngô Thì Sĩ....

Lịch sử ghi nhận những năm Trịnh Doanh cầm quyền ở Bắc Hà là những năm đất nước ổn định và thịnh đạt.

Tháng giêng năm Ðinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm nối ngôi, Hai mươi tuổi, Trịnh Doanh lên nắm quyền, mất lúc 48 tuổi, ở phủ chúa 28 năm.

 ♦ Thánh tổ Thịnh Vương - Trịnh Sâm (1767-1782):

Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh. Năm Ất Sửu (1745) Sâm được lập làm Thế tử. Trịnh Doanh tỏ ra cẩn trọng việc nuôi dạy con, bổ dụng hai tiến sĩ danh tiếng là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm. Tháng 10 năm Mậu Dần (1758), Trịnh Doanh phong cho con là Sâm là Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, Thái uý, Tĩnh Quốc Công, mở phủ Lượng Quốc và hết thảy công việc triều chính được giao hẳn cho Sâm.

Mùa xuân năm Ðinh Hợi (1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm nối ngôi, tiến phong là Nguyên Soái Tổng quốc chính Tĩnh đô vương.

Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán. Từ nhỏ, Sâm đã được học đến nơi đến chốn: có đủ tài văn võ, đã xem khắp kinh sử và biết làm thơ. Lên ngôi chúa, từ kỷ cương triều nội đến chính sự cả nước, Trịnh Sâm cho sửa đổi lại vì cho rằng phép tắc các triều trước là nhỏ hẹp, nay Sâm muốn làm to rộng hơn, nên phần nhiều tự quyết đoán, không nệ theo phép cũ.

Tại triều, ngay năm đầu Sâm lên ngôi, em là Trịnh Lệ mưu giết để thoán đoạt. Lệ cũng là người sáng suốt có cơ mưu và trí dũng. Gặp lúc cha chết, Lệ mật hẹn với Dương Trọng Khiêm và Nguyễn Huy Bá là gia khách định ngày giết Sâm. Việc bị lộ, Phạm Huy Cơ và đồ đảng bị giết, Trịnh Lệ bị tống giam.

Ngay sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm đã tìm cớ sát hại thái tử Duy Vĩ. Năm Kỷ Sửu (1769), sau hai năm lên ngôi, vì ghen ghét tài năng, đức độ và địa vị của Thái tử Duy Vĩ, Sâm đã vu tội cho Thái tử, sai người bắt giữ, truất ngôi và tống giam đến chết trong ngục.

Năm Canh Mùi (1770), sau khi đánh tan Lê Duy Mận, buộc Duy Mận tự tử, Trịnh Sâm kiêu mãn, cho mình có công lớn, bốn cõi yên ổn hơn hẳn mọi đời chúa trước nên tự tiến phong là Ðại Nguyên soái tổng Quốc chính, Thượng sư Thượng phụ, Duệ đoán văn công võ đức Tĩnh vương.

Năm Giáp Ngọ (1774), để khuếch trương thêm thanh thế, Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn. Ðể tăng cường thanh thế cho binh sĩ Nam chinh, tháng 10 năm đó, Sâm thân cầm quân kéo vào Thuận Hoá. Quân Trịnh chiếm được Thuận Hoá và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng.

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, thọ 44 tuổi, 16 năm ở ngôi chúa.

  ♦ Tuyên phi Ðặng Thị Huệ và Ðiện Đô Vương Trịnh Cán:

Ðặng Thị Huệ quê ở làng Phù Ðổng, huyện Ðông Anh, Bắc Ninh (nay là Hà Nội), là một nữ tì phục vụ trong phủ chúa. Trịnh Sâm sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa lớn, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.

Một hôm, tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỳ Ðặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước mặt chúa. Thị Huệ mắt phượng mày ngài, vẻ người rất xinh đẹp và hấp dẫn. Chúa Trịnh trông thấy đem lòng yêu mến đặc biệt. Thị Huệ ngày càng được chúa yêu. Ả nói gì chúa cũng nghe và có việc gì chúa cũng nói với Thị Huệ. Từ đó, Thị Huệ được sống cùng một nơi với chúa y như vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu quần áo của Thị Huệ đều được sắm sửa như đồ dùng của chúa.

Thị Huệ ngày càng lộng hành. Hễ có chuyện không vừa ý là xây xẩm mặt mày, kêu khóc thảm thiết khiến chúa rối lòng.

Khi Huệ có thai, chúa sai người lễ bái khắp các chùa, mong sinh con thánh. Năm Ðinh Dậu (1777) Huệ sinh con trai, chúa yêu dấu khác thường lấy tên của chúa thủa nhỏ đặt cho con là Cán, tỏ ra nó giống mình. Cán được một tuổi đã có tướng mạo rất khôi ngô đối đáp gẫy gọn. Biết chúa cưng chiều Cán, Thị Huệ âm mưu cướp ngôi Thế tử cho Cán.

Nguyên trước đó, một quý phi tên là Ngọc Hoan đã sinh con trai đặt tên là Tông. Sâm không yêu Ngọc Hoan nên không muốn lập làm Thế tử, mặc dù Trịnh Tông đã 15 tuổi. Tông rất khôi ngô nhưng chúa chẳng chú ý chăm lo dạy bảo. Việc học tập của Tông đều giao phó cho các quan. Ðến tuổi, Tông được ra ở riêng, chúa cũng lờ luôn. Ngôi Thế tử chưa định nên lòng người ly tán, chia hai phe: phe Trịnh Tông, phe Trịnh Cán. Ðặng Thị Huệ tìm được người có thế lực trong phủ chúa là Huy quận công Hoàng Ðình Bảo. Hai người này câu kết với nhau để mưu lập Trịnh Cán lên ngôi chúa.

Thế tử Tông thấy chúa lạnh nhạt với mình như vậy, lại biết được âm mưu của Ðặng Thị Huệ và Quận Huy, nên đã bắt giam hai mẹ con Ðặng Thị Huệ để dành ngôi chúa về mình. Không ngờ Trịnh Sâm lại khỏi bệnh, việc bị lộ. Thế tử Tông chịu tội giam biếm truất làm con thứ. Từ đó phe cánh của Thị Huệ ngày càng mạnh. Triều quan phần lớn hùa theo Ðặng Thị Huệ.

Thị Huệ hối thúc Trịnh Sâm lập Cán lên ngôi Thế tử. Bề tôi Trịnh Sâm cũng a dua hùn vào. Sâm đã định lập Cán, nhưng mẹ Sâm là Trịnh thái phi Nguyễn Thị can ngăn nên Sâm chưa quyết. Sau đó, do thúc giục của Huệ, Trịnh Sâm lập Cán làm Thế tử, dù Cán mới lên năm, Sâm dùng Quận Huy làm thầy dạy Cán.

Sâm bị bệnh trĩ, luôn ở trong cung không bao giờ đi ra ngoài. Ðặng Thị định xếp đặt công việc, gài tay chân giữ những cương vị then chốt trong phủ chúa. Cán là Thế tử còn nhỏ, bọn họ càng lộng quyền.

Năm Tân Sửu (1781), bệnh tình của Sâm nặng thêm và qua đời. Thị Huệ thông đồng với Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa. Tuyên phi Ðặng Thị Huệ nghiễm nhiên trở thành người điều khiển chính giúp con. Lòng người lo sợ từ phủ trở ra kinh thành, thôn dã, ai cũng biết chắc là hoạn loạn sẽ sảy ra.

Tháng 10 năm Tân Sửu (1781), binh lính Tam Phủ nổi loạn, truất ngôi Cán, giáng xuống Cung quốc công, đập phá nhà cửa, giết Ðình Bảo cùng thân thuộc phe cánh. Họ đón Trịnh Tông lên ngôi vương, phong là Nguyên soái Ðoan Nam vương. Từ đó, kiêu binh ngày càng càn rỡ, không ai trị nổi. Phe cánh Ðặng Thị Huệ bị truy lùng và trả thù. Huệ bị truất ngôi xuống thứ nhân, sau uống thuốc độc chết. Trịnh Cán bị giáng ra ở phủ Lượng Quốc, ốm bệnh chết, ở ngôi được một tháng.

 ♦ Ðoan Nam Vương - Trịnh Tông (1782-1786):

Trịnh Tông còn có tên nữa là Trịnh Khải, là con trai đầu của Trịnh Sâm và cung tần Dương Thị Ngọc Hoan, người làng Long Phúc, huyện Thạnh Hà. Chị của Ngọc Hoan vốn là cung tần của Trịnh Doanh, được Trịnh Doanh rất yêu quý. Nhờ chị mà Ngọc Hoan được kén vào làm cung tần của Trịnh Sâm (con trai Doanh).

Sâm mất, Huệ và Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa thì một bề tôi của Trịnh Tông là Dự Vũ dựa vào kiêu binh nổi dậy lập Tông lên ngôi chúa. Nạn kiêu binh hoành hành khắp kinh kỳ, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ.

Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), đang lúc phủ chúa rối ren là thế thì nghĩa quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ với danh nghĩa “diệt Trịnh phò Lê” kéo ra Bắc Hà.

Chống cự lại rất yếu ớt, quân Trịnh tan rã, bỏ chạy. Tướng Hoàng Phúc Cơ, Nguyễn Lệ rút chạy lên phía bắc. Trịnh Tông mặc nhung phục, ngồi voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, quân sĩ nhìn nhau không ai nghe theo. Chúa Trịnh phải một mình bỏ chạy lên Sơn Tây bị Nguyễn Trang cùng tay chân bắt nộp ngay cho quân Tây Sơn. Trên đường giải đến quân Tây Sơn, Trịnh Tông dùng dao tự tử. Trang đem xác Tông nộp cho Tây Sơn. Nguyễn Huệ sai người khâm liệm tống táng cho Trịnh Tông chu đáo rồi bổ dụng Nguyễn Trang làm trấn thủ Sơn Tây, tước Tráng Liệt hầu.

Trịnh Tông làm chúa được 4 năm thì bị chết, thọ 24 tuổi.

 ♦ Án Đô Vương - Trịnh Bồng (tháng 9/1786 đến tháng 9-1787):

Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác họ của Trịnh Tông. Lúc đầu Bồng được phong làm Côn quận công. Trịnh Tông thua, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Văn Giang (Hải Dương) chiêu tập binh mã đợi thời cơ. Khi Nguyễn Huệ cùng anh là Thái Ðức Nguyễn Nhạc rút về Nam, Trịnh Lệ liền đem quân qua đò Thanh Trì kéo về chiếm lại phủ chúa. Ðang đêm, Trịnh Lệ cho nổi trống triệu tập triều quan đến bàn việc lập Lệ lên ngôi chúa. Việc hấp tấp vội vàng đã không thành. Vua Lê, sau khi gắn bó với Tây Sơn không muốn chia quyền cho họ Trịnh như trước nữa, quan hệ giữa Vua Lê và Trịnh Lệ rất căng thẳng, Trịnh Lệ định mưu thoán nghịch.

Giữa lúc ấy, một số người thân cận xui Trịnh Bồng viết biểu xin về chầu vua. Trịnh Bồng bấy giờ đã 40 tuổi, tính nết hiền từ, khoan hậu được nhiều người mến mộ. Cuối đời, Trịnh Sâm, vì việc lập con trưởng, con thứ khó quyết, có lúc Sâm định lập Trịnh Bồng để trả lại ngôi chúa cho anh con nhà bác. Vì thế Sâm cho Thị Huệ nuôi Trịnh Bồng đề phòng thay Cán nếu Cán mệnh mệt. Trịnh Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò Côn Quận Công Trịnh Bồng, đã vào tận nhà để thúc ép và đón rước, Bồng đã một mực từ chối. Lúc quân Tây Sơn kéo ra, Bồng chỉ đem theo một đứa ở, một tên lính lánh vào huyện Chương Ðức, có tính chuyện đi tu. Biết Trịnh Lệ làm nhiều điều ngang ngược, trái phép, một số quan tìm gặp, khuyên Trịnh Bồng về triều giúp vua. Thấy Trịnh Bồng vào triều, triều thần theo giúp, thanh thế Trịnh Bồng ngày càng lớn. Bồng chưa có ý lấn quyền vua Lê nhưng do bộ hạ thúc giục nên đã nghe theo.

Bồng đến chầu, vua muốn Bồng trở về nhà cũ, phong làm Tiết chế thuỷ bộ chủ quân, Bình chương quân quốc trọng sự, Thái uý Côn quận công, cấp 3000 tên lính, 5000 mẫu ruộng và 200 xã dân tộc để phụng thờ họ Trịnh. Bọn Ðinh Tích Nhưỡng lại muốn Trịnh Bồng làm vương tại phủ chúa đời chúa trước kia nên đã nhiều lần gan lì sang xin vua phong vương cho Trịnh Bồng. Ngược lại, vua Lê kiên quyết từ chối. Cuối cùng do sức ép của Ðinh Tích Nhưỡng kẻ nắm binh quyền, bất đắc dĩ, vua phải y theo, phong Bồng làm Nguyên soái, tổng quốc chính, Yến Ðô vương.

Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển được công việc, do đó chính sự lại lọt vào tay Ðinh Tích Nhưỡng. Chúng khuyên Bồng lập lại phủ chúa như xưa, phủ chúa thành một triều đình riêng. Từ đó, vua và chúa ngày càng mâu thuẫn. Vua Lê định cầu viện quân ngoài trấn vào kinh dẹp Trịnh, Trịnh Bồng biết, doạ giết, lập vua khác. Tình thế hết sức nguy khốn. Vua Lê buộc phải cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An cho quân về giúp. Quân Chỉnh vào Thăng Long một cách dễ dàng. Tướng lính Trịnh bỏ chạy. Họ Trịnh từ Thái vương Trịnh Kiểm truyền đến Trịnh Sâm vừa được 8 đời thì xảy ra biến loạn, đúng với lời phán đoán về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh. Ðến án Ðô vương Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết.

Các đời chúa Nguyễn


 Các đời chúa Nguyễn tồn tại 203 năm (1600-1802), trải qua 10 đời chúa, bao gồm:

Nguyễn Hoàng (1600-1613)                  Nguyễn Phúc Ánh (1780-1802)
Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)      Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777)
Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)             Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)
Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)             Nguyễn Phúc Chú (1725-1738)
Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691)             Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)
 ♦ Nguyễn Hoàng (1600-1613):

Nguyễn Hoàng, người Gia Miều ngoại trang, Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hoá, sinh tháng 8 năm Ất Dậu (1525), là con thứ hai của Nguyễn Kim. Tổ tiên họ Nguyễn là một danh gia vọng tộc ở Thanh Hoá.

Cha Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, con trưởng của Nguyễn Hoằng Dụ, làm quan dưới triều Lê, chức Hữu vệ Ðiện tiền tướng quân tước An Thanh hậu. Khi Mạc lấy ngôi vua họ Lê, Nguyễn Kim đem con em lánh sang Ai Lao, thu nạp hào kiệt, tính cuộc trung hưng nhà Lê từ bên đất Ai Lao và được phong Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công trưởng nội ngoại sự. Năm Canh Tí (1540) Nguyễn Kim đem quân về chiếm Nghệ An. Năm Nhâm Dần (1542) ra Thanh Hoá cùng với vua Lê chiếm lại Tây Ðô, sự nghiệp trung hưng nhà Lê do tay Nguyễn Kim tạo dựng buổi ban đầu đang đà lớn mạnh. Năm Ất Tị (1545), Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 78 tuổi. Quyền hành từ đó rơi vào tay Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim.

Khi Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao thì Nguyễn Hoàng mới lên hai tuổi, được Thái Phó Nguyễn Ư Dĩ nuôi dạy nên người. Lớn lên, Hoàng làm quan cho triều Lê, tước phong đến Hạ Khê hầu, từng đem quân đánh Mạc Phúc Hải, lập công lớn, vua Lê phong cho tước Ðoan quận công.

Trịnh Kiểm là anh rể, muốn thâu tóm quyền hành nên loại bỏ uy thế các con Nguyễn Kim: Nguyễn Uông, con trưởng bị hãm hại, Nguyễn Hoàng Ðan bị ghen ghét. Hoàng biết, bèn cáo bệnh nằm nhà, giữ mình tránh ngờ.

Nguyễn Hoàng tìm cách trả thù họ Trịnh, băn khoăn chưa biết nên làm gì bèn sai người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì được tâu: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (Một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá. Ðất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệt, lại là mặt Nam, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng. Kiểm đồng ý và dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn Hoàng là trấn thủ Thuận Hoá, toàn quyền xử lý mọi việc. Hoàng đem người nhà và quân bản bộ vào Nam năm Mậu Ngọ (1558), khi 34 tuổi. Cùng đi còn có nhiều đồng hương Tống Sơn và Nghĩa Dũng, Thanh Hoá.

Thủa đầu, Nguyễn Hoàng dựng dinh trại ở xa Ái Tử, huyện Ðăng Xương (Triệu Phong, Quảng Trị). Hoàng biết khéo vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được người người mến mộ gọi là "Chúa Tiên".

Khoảng 40 năm đầu vào vùng đất mới, Nguyễn Hoàng chú trọng khai hoang lập ấp, phát triển kinh tế gây nuôi lực lượng tính kế lâu dài, bên ngoài vẫn giữ quan hệ bình thường và hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với vua Lê ngoài Bắc. Công cuộc khẩn hoang và chính sự rộng rãi của Nguyễn Hoàng đã đem lại hiệu quả rõ rệt về mọi mặt.

Tháng 2 năm Quý Dậu (1573), vua Lê sắc phong Nguyễn Hoàng là Thái phó, cần tích dự trữ thóc lúa ở biên giới, hàng năm nộp thuế 400 cân vàng bạc, 500 tấn lúa. Mỗi lần có triều thần vào kiểm tra thuế khoá của trấn, Nguyễn Hoàng khéo tiếp đãi biết lấy lòng, vì thế Hoàng chỉ đệ trình sổ sách do Hoàng sai người lập ra. Chính nhờ đó mà thu nhập của chúa Nguyễn ở Ðàng Trong ngày càng tăng nhanh. Ngoài Bắc, vua Lê liền năm phải đem quân đánh Mạc, quân dụng thiếu thốn, đất Thuận Quảng lại "liền mấy năm được mùa, trăm họ giầu thịnh". Nguyễn Hoàng còn đem tiền thóc ra giúp vua Lê.

Tháng 5 năm Quý Tị (1593) biết Lê Trịnh đã đánh tan quân Mạc, lấy lại được Ðông Ðô, Hoàng liền đem quân ra yết kiến vua Lê. Vua Lê khen ngợi công lao trấn thủ đất phía nam, tấn phong Hoàng làm Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc trưởng phủ sự thái uý Ðoan Quốc công.

Nguyễn Hoàng từng lưu lại ở miền Bắc với nhà Lê đến 7 năm, nhiều lần đem quân đánh dẹp dư đảng nhà Mạc ở Kiến Xương (Thái Bình) và Hải Dương, lập được công lớn. Người con trai thứ hai của Nguyễn Hoàng tên là Hán, được vua phong tả đô đốc Lỵ quận công, theo Nguyễn Hoàng đánh Mạc ở Sơn Nam bị tử trận. Con Hán là Hắc được lập ấm.

Nguyễn Hoàng đã nhiều lần theo hầu vua Lê lên hội khám với nhà Minh ở Trấn Nam quan để nhận sắc phong cho vua Lê. Năm Kỷ Hợi (1599) vua Lê băng hà, con thứ là Duy Tân lên ngôi, Nguyễn Hoàng được phong là Hữu tướng.

Năm Canh Tý (1600), đem quân dẹp các tướng nổi loạn: Phan Ngạn, Ngô Ðình Nga và Bùi Văn Khê ở Nam Ðịnh, Nguyễn Hoàng cùng bản bộ ra biển dong thẳng vào Thuận Hoá, để con trai thứ 5 là Hải và cháu là Hắc ở lại làm con tin. Sau đó, vua Lê sai sứ giả vào phủ dụ. Vẫn để Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế má đầy đủ. Trịnh Tùng cũng gửi thư kèm theo khuyên giữ tốt việc thuế cống.

Tháng 10 năm Canh Tý (1600), Nguyễn Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả Trịnh Tùng). Từ đó Nguyễn Hoàng không ra Ðông Ðô nữa. Trịnh Tùng cũng chẳng dám động chạm đến việc ấy nữa. Có thể nói từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng một giang sơn riêng cho họ Nguyễn. Hoàng dáo diết xây dựng vùng đất mới này có đầy đủ mọi mặt: tổ chức hành chính, mở rộng đất xuống phía nam. Một loạt chùa chiền thờ Phật cũng được xây cất trong dịp này: Thiên Mụ, Bảo Chấn... Dân chúng ngoài Bắc mất mùa đói kém chạy vào nam theo chúa Nguyễn khá đông.

Năm Quý Sửu (1613) Nguyễn Hoàng đã già và mệt nặng. Nguyễn Hoàng mất thọ 89 tuổi, có 10 con trai, trấn thủ Thuận Quảng được 56 năm (1558-1613). Sau này Triều Nguyễn truy tôn là Thái tổ Gia dụ hoàng đế.

 ♦ Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635):

Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Mẹ Phúc Nguyên họ Nguyễn. Bấy giờ các con trai của Nguyễn Hoàng là Hà, Hán, Thành, Diễn đều đã mất trước. Người con trai thứ 5 là Hứa đang làm con tin ngoài Bắc, vì thế Phúc Nguyên là con thứ 6 được nối nghiệp, bấy giờ đã 51 tuổi.

Vua Lê sai sứ giả vào viếng và truy tặng Nguyễn Hoàng là Cẩn Nghi công, cho Phúc Nguyên làm trấn thủ Thuận Quảng với hàm Thái Bảo, tước Quận công. Phúc Nguyên lên nối ngôi, sửa đắp thành luỹ đặt quan ải vỗ về quân dân, trong ngoài đều vui phụng, bấy giờ người ta gọi Nguyên là chúa Phật. Kể từ Nguyễn Phúc Nguyên, họ Nguyễn ở Ðàng Trong xưng quốc tính là Nguyễn Phúc.

Năm Kỷ Mùi (1619), Trịnh Tùng đem quân vào đánh chúa Nguyễn ở Thuận Quảng, từ đấy chúa Nguyễn không nộp thuế cống nữa.

Nguyễn Phúc Nguyên có Ðào Duy Từ giúp sức càng vững mạnh hơn. Ðào Duy Từ được Trần Ðức Hoà tiến cử lên chúa Nguyễn năm Ðinh Mão (1627) Nguyễn Phúc Nguyên mừng lắm, phong cho Duy Từ tước Lộc kê hầu, chức Nha Nội uý nội táng. Duy Từ bày cho chúa Nguyễn kế sách trả lại sắc phong của vua Lê, không chịu nộp thuế cống cho họ Trịnh, đắp luỹ Trường Dục, luỹ Thầy để phòng ngự, chống lại quân Trịnh. Kế sách của Duy Từ được chúa Nguyễn làm theo.

Ðào Duy Từ cũng bày cho chúa Nguyễn phép duyệt đinh, tuyển lính, thu thuế theo các bậc hạng, ngạch bậc khác nhau. Nhờ có việc thuế và huy động đóng góp của dân chúng được công bằng và ổn định. Tiềm lực quân sự và kinh tế của chúa Nguyễn ngày càng mạnh.

Ðào Duy Từ còn tiến cử cho chúa Nguyễn một viên tướng tài ba, mưu lược như thần: Nguyễn Hữu Tiên. Quân lực Nguyễn từ đó ngày thêm mạnh. Ðào Duy Từ chỉ giúp chúa Nguyễn 8 năm mà cơ nghiệp chúa Nguyễn thay đổi hẳn về chất, đất Ðàng Trong trở nên có văn hiến và quy củ.

Năm Giáp Tuất (1634) Ðào Duy Từ bị bệnh nặng rồi mất , thọ 63 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc, truy tặng Hiệp mưu đồng đức công thần đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, đưa về táng ở đất Tùng Châu (Bình Ðịnh). Công lao của Từ đứng đầu công thần khai quốc nhà Nguyễn.

Một năm sau, năm Ất Hợi (1635) chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng qua đời, ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi, truyền ngôi cho con thứ hai là Nguyễn Phúc Lan. Sau triều đình Nguyễn truy tôn là Hy Tông Hiến Văn Hoàng đế. Nguyễn Phúc Nguyên có 11 con trai.

 ♦ Nguyễn Phúc Lan (1635-1648):

Vợ Nguyễn Phúc Nguyên là con gái Mạc Kính Ðiển. Khi Kính Ðiển bại vong, bà theo chú là Cảnh Huống chạy vào Nam, cùng với chú ẩn ở chùa Lam Sơn, đất Quảng Trị. Nguyễn Thị Ngọc Dương, vợ Cảnh Huống lại là dì ruột của Nguyễn Phúc Nguyên, nhân đó bà tiến cháu mình vào hầu chúa Nguyễn từ khi chưa lên ngôi. Bà vợ họ Mạc này sinh được năm con trai.

Mùa hạ năm Tân Mùi (1631), Hoàng tử cả là Kỳ mất, Phúc Lan là con thứ hai được lập làm Thế tử, mở dinh Thuận Nghĩa. Năm Ất Hợi (1635), chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, Phúc Lan được nối ngôi, lúc này ông đã 35 tuổi, gọi là chúa Thượng.

Nghe tin Lan được nối ngôi, trấn thủ Quảng Nam là Anh nổi lên, bí mật đầu hàng họ Trịnh, mưu cướp ngôi chúa. Anh cho đắp luỹ Cu Ðê để cố thủ và bày thuỷ quân ở cửa biển Ðà Nẵng chống lại chúa. Phúc Lan đánh bắt được, không nỡ giết kẻ ruột thịt, nhưng tướng lĩnh đều xin giết để trừ hậu hoạ, kể cả đồng đảng có tên trong sổ "Ðồng Tâm".

 Năm Kỷ Mão (1639), vợ của Tôn Thất Kỳ là Tống Thị vào yết kiến chúa Nguyễn. Tống Kỳ xinh đẹp lại khéo ứng đối, nhân vào gặp chúa, kêu khổ, xin chúa thương tình và biếu chúa chuỗi ngọc Vạn hoa. Phúc Lan thương tình cho lưu lại trong phủ. Thị thần có người can, chúa không nghe.

Năm Canh Thìn (1640) quân Nguyễn do Nguyễn Hữu Dật thống suất đã chiếm được Bắc Bố Chính. Trịnh Tráng viết thư xin lại, chúa Nguyễn ra lệnh đồng ý. Từ đó Phúc Lan thấy việc biên cương không đáng lo nữa, rơi vào chăm vui yến tiệc, xây dựng cung thất, công dịch không ngớt, việc thổ mộc nặng nề, tốn kém, nhưng còn may là quân thần can ngăn. Tức thì bãi bỏ việc xây dựng.

Lại nói đến Tống Thị, khi đã được vào cung, đưa đón, thỉnh thác lấy lòng chúa rất khéo, của cải thị chất đầy. Chưởng cơ Tôn Thất Trung mưu giết thị. Tống Thị viết thư và gửi một chuỗi ngọc nhờ cha là Tống Phúc Tông (ở đất Trịnh) đem biếu chúa Trịnh, xin Trịnh Tráng cất quân đánh Nguyễn. Tống Thị nguyện đem gia tài giúp quân lương. Tráng nhận được thư, liền đem các đạo quân thuỷ bộ vào đánh. Nguyễn Phúc Lan phải tự cầm quân đánh lại. Về sau, Nguyễn Phúc Lan không được khoẻ, trao binh quyền cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật. Nhiều trận đánh lớn đã xảy ra, quân Nguyễn đại thắng bắt được vô số tù binh của Trịnh.

Trên đường rút quân, đến phá Tam Giang, Phúc Lan mất trên thuyền ngự. Chúa ở ngôi 13 năm, thọ 28 tuổi. Thế tử Nguyễn Phúc Tần khóc mời chú lên ngôi gánh vác việc nước. Ông chú tử tế đã khuyên cháu lên ngôi cho danh chính ngôn thuận. Nguyễn Phúc Tần theo lời, lên nối ngôi, truy tôn cha là Thần tô hiến chiêu Hoàng đế.

 ♦ Nguyễn Phúc Tần (1648-1687):

Nguyễn Phúc Lan có bà vợ họ Ðoàn, con gái thứ 3 của Thạch Quận công Ðoàn Công Nhạc, người huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam.

Nguyễn Phúc Tần sinh năm Canh Thân (1620). Lúc đầu, được phong phó tướng Dũng lễ hầu, từng đánh giặc ở cửa biển, được chúa Phúc Lan rất ngợi khen. Năm Mậu Tý (1648), được tấn phong là Tiết chế chủ quân, thay Phúc Lan phá quân Trịnh ở sông Gianh, bấy giờ 29 tuổi. Nguyễn Phúc Lan mất đột ngột, bầy tôi tôn Phúc Tần lên ngôi chúa, gọi là chúa Hiền.

Chúa Hiền là người chăm chỉ chính sự, không chuộng yến tiệc vui chơi. Phúc Tần biết trọng dụng hai tướng giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến. Nhờ đó chúa Nguyễn nhiều lần vượt sông Gianh tiến ra đất Ðàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tấn công ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An. Tự thân Nguyễn Phúc Tần đã đem quân ra đến Nghệ An, đóng tại xã Vân Cát. Quân Nguyễn còn có thể tiến sâu vào đất đối phương thêm nữa, nhưng phía nhà Trịnh, Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên ngôi đang chịu tang, chúa Nguyễn cho người sang điếu, rồi rút quân về, lưu các tướng đóng đồn từ Sông Lam trở về Nam, đắp luỹ từ núi đến cửa biển để làm thổ phòng ngự. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đất Nghệ An thêm 5 năm nữa, năm Canh Tí (1660) Trịnh mới khôi phục lại được. Từ đó Trịnh và Nguyễn cầm cự nhau suốt hàng chục năm, không phân thắng bại.

Năm Ất Mão (1675), Hoàng tử thứ tư của chúa Nguyễn là Nguyên Soái Nguyễn Phúc Hiệp mất. Hiệp là tướng giỏi cầm quân. Năm Kỷ Mùi (1679), chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Ðịch, một tướng của triều Minh cùng với Trần Thượng Xuyên... đem gia thuộc hơn 3000 người và hơn 50 chiến thuyền khai phá vùng đất Gia Ðịnh, Mỹ Tho. Từ đó mọc lên các phố xá buôn bán ở vùng đất mới này, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây phương, Nhật Bản đi lại tấp nập, do đó văn hoá ngày càng mở mang.

Những năm sau đó: Bính Ngọ (1666), Nguyễn Hữu Tiến mất, rồi năm Tân Dậu (1681), Nguyễn Hữu Dật mất, phía chúa Nguyễn bị tổn thất lớn. Riêng đối với Nguyễn Hữu Dật, sau khi chết, dân Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá.

Dưới thời chúa Hiền, nhiều kênh đào dẫn nước tưới ruộng được khơi đào, như Trung Ðan, Mai Xá. Bấy giờ bờ cõi vô sự, thóc được mùa, chúa càng sửa sang chính sự, không xây đài tạ, không cần gái đẹp, bớt nhẹ giao dịch thuế má, trăm họ vui vẻ, mọi người đều khen là đời đời thái bình.

Năm Ðinh Mão (1687) chúa không được khoẻ. Mất năm 68 tuổi, ở ngôi 39 năm, có 6 người con trai.

  ♦ Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691):

Nguyễn Phúc Tần có hai bà vợ chính. Bà họ Chu là cả, theo hầu chúa từ khi còn chưa lên ngôi chúa, sinh được hai trai một gái. Con trai là Diễn, được tấn phong Phúc Quận công; thứ hai là Thuần, được phong Hiệp Quận công; con gái là Ngọc Tào. Bà vợ thứ hai là người họ Tống, quê ở huyện Tống Sơn (Thanh Hoá), là con gái Tống Phúc Khang; người cùng quê với nhà chúa, đã được phong tới Thiếu phó. Bà vợ họ Tống sinh được hai trai, Nguyễn Phúc Trăn lại là người thứ hai, sinh năm Kỷ Sửu (1649). Khi người con trai cả do bà vợ họ Chu sinh ra chết, Nguyễn Phúc Tần cho rằng Trăn tuy là con bà hai nhưng lớn tuổi hơn và hiền đức, làm phủ đệ tại dinh Tả thuỷ. Nguyễn Phúc Tần mất, Trăn đã 39 tuổi, được nối ngôi chúa, bấy giờ gọi là chúa Nghĩa.

Nguyễn Phúc Trăn nổi tiếng là người rộng rãi, hình phạt và phú thuế đã nhẹ, trăm họ ai cũng vui mừng, quan lại cũ của tiên triều đều được trọng đãi.

Nguyễn Phúc Trăn bắt đầu quy định lại trang phục.

Thời Chúa Nghĩa, quan hệ với người Chân Lạp vẫn rất tốt đẹp sau khi đã giết được kẻ phá đám là Hoàng Tiến (người Hoa). Chúa Nghĩa không thọ được lâu, sau 4 năm cầm quyền, bị bệnh rồi mất năm Tân Mùi (1691) lúc 43 tuổi.

 ♦ Nguyễn Phúc Chu (1691-1725):

Nguyễn Phúc Chu là con cả của Nguyễn Phúc Trăn. Mẹ ông, người họ Tống quê ở huyện Tống Sơn (Thanh Hoá), con của Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh. Bà được hầu Nguyễn Phúc Trăn từ khi chưa lên ngôi. Ðến khi chồng được lên ngôi chúa, bà được thăng Cung tần. Sinh được con trai là Nguyễn Phúc Chu thì càng được chúa yêu quý và bà phi của Nguyễn Phúc Trăn (không có con) càng vì nể và đem Phúc Chu về nuôi.

Nguyễn Phúc Chu sinh năm Ất Mão (1675), được cho nuôi ăn học khá cẩn thận vì thế văn hay chữ tốt, đủ tài lược văn võ. Khi nối ngôi chúa mới 17 tuổi, lấy hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Ðây là lần đầu tiên chúa Nguyễn lấy hiệu mới mẻ, sùng đạo Phật. Quả vậy, mới lên chữ chính, chúa rất quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má giao dịch, bớt việc hình ngục. Vừa lên ngôi, chúa cho xây dựng một loạt chùa miếu; mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am. Tự chúa cũng ăn chay ở vườn Côn Gia một tháng trời; chúa phát tiền gạo cho người nghèo thiếu. Ðây là thời kỳ chiến tranh Trịnh-Nguyễn đã tạm dừng hơn 30 năm, bờ cõi yên ổn. Nguyễn Phúc Chu có điều kiện mở rộng đất đai xuống phía nam và đạt được những thành tựu đáng kể: đạt phủ Bình Thuận năm Ðinh Sửu (1697) gồm các đất Phan Rang, Phan Rí trở về Tây, chia làm hai huyện An Phúc và Hoà Ða bắt đầu đặt phủ Gia Ðịnh: chia đất Ðông Phố, lấy xứ Ðồng Nai làm huyện Phục Long, dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng Phiên Trấn, lập xã Minh Hương... Từ đó người Thanh đi lại buôn bán rất sầm uất.

Năm Mậu Tý (1708), chúa dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.

Ngoài tư cách là một vị chúa có học vấn cao thể hiện qua chính sự khá toàn diện và cởi mở. Nguyễn Phúc Chu còn là một người làm rất nhiều thơ. Ông có hàng chục bài thơ khóc vợ, tình ý rất tha thiết.

Năm Ất Tỵ (1725) Nguyễn Phúc Chu mất, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi. Phúc Chu là chúa đông con nhất: 146 người, cả trai cả gái.

 ♦ Nguyễn Phúc Chú (1725-1738):

Chắc là Nguyễn Phúc Chu có rất nhiều vợ, nhưng chỉ thấy sử sách chép chuyện hai bà: bà họ Hồ và bà họ Nguyễn.

Nguyễn Phúc Chú sinh năm Bính Tý (1696), là con bà cả. Lúc đầu Phúc Chú được trao chức Cai cơ Ðỉnh thịnh hầu. Năm Ất Mùi (1715), thăng làm chưởng cơ, làm phủ đệ tại cơ Tả Sùng. Ðến khi chúa Phúc Chu mất, ông được nối ngôi (năm 1725) khi 30 tuổi, lấy hiệu là Vân Truyền đạo nhân. Nguyễn Phúc Chú ở ngôi được 13 năm thì mất. Trong thời kỳ cầm quyền chúa không có gì nổi bật ngoài hai việc:

Năm Quý Sửu (1733), chúa cho đặt đồng hồ nhập của Tây phương ở các dinh và các đồn tàu dọc biển. Sau đó có Nguyễn Văn Tú đã chế tạo được.

Năm Bính Thìn (1736), Mạc Cửu mất, con trai là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho làm Ðô đốc trấn Hà Tiên. Tứ có tầm mắt nhìn xa biết rộng: cho miễn thuế, sai đóng ba chiếc thuyền Long bài, xuất dương tìm mua các hàng quý hiếm dâng nộp, mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi. Thiên Thứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành luỹ, mở phố chợ, khách buôn các nước đến họp đông đúc. Ông lại còn vời văn nhân thi sĩ, mở Chiêu An các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng hoạ, để lại 10 bài thơ vịnh cảnh Hà Tiên (Hà Tiên thập vịnh). Sau hợp lại thành tập 320 bài thơ của 25 tác giả Trung Quốc và 6 tác giả Việt Nam.

Năm Mậu Ngọ (1738) chúa Nguyễn Phúc Chú mất, thọ 43 tuổi, ở ngôi 13 năm.

 ♦ Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765):

Nguyễn Phúc Khoát là con Nguyễn Phúc Chú, sinh năm Giáp Ngọ (1714). Mẹ là người họ Trương ở huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, con Trưởng cơ Trương Phúc Phan. Vào hầu Phúc Chú từ khi còn chưa lên ngôi, được phong Hữu cung tần. Tính bà e lệ cẩn thận, dạy bảo nội chức có phong độ hậu phi thời xưa. Bà sinh được 2 người con trai rồi mất năm bà mới 22 tuổi.

Nguyễn Phúc Khoát là con trưởng, được phong làm chưởng dinh Dinh tiền sứ chính hầu, làm phủ đệ tại Cơ Tiến Dực ở Dương Xuân. Phúc Chú mất, Khoát được lên ngôi khi 25 tuổi, lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân.

Nguyễn Phúc Khoát bắt đầu xưng vương. Năm Giáp Tý (1774), đúc ấn Quốc vương, sau đó, ngày Kỷ Mùi, lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân, ban chiếu bố cáo thiên hạ. Bộ máy chính quyền từ trên xuống cơ sở, các chức danh, tên gọi cũng thay đổi. Tuy nhiên vua Nguyễn vẫn dùng niên hiệu vua Lê trong các văn bản hành chính. Ðối với các thuộc Cao Miên, Ai Lao, Xiêm... lại xưng là Thiên vương. Tôn hiệu các đời trước cũng được nâng lên phù hợp với cương vị mới của Quốc vương. Ðối với anh em họ hàng gần thì phong tước Quận công. Hoàng tử, cứ theo thứ tự mà xưng.

Cùng với thay đổi trên, triều phục bách quan cũng thay đổi. Các đơn vị hành chính địa phương cũng một phen thay đổi.

Từ năm Giáp Tuất (1754) để xứng đáng là kinh đô của Nguyễn vương, Phú Xuân được xây dựng thêm hàng loạt điện đài mới theo quy mô đế vương. Rõ ràng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, kinh đô Phú Xuân trở thành nơi hội lớn, văn vật thanh dung lừng lẫy, đời trước chưa từng có.

Xây dựng xong kinh đô Chúa sai nhiều văn quan đề vịnh phong cảnh cố đô. Phú Xuân trở thành một thành phố nên thơ từ ngày ấy. Chúa Nguyễn đã đón tiếp các quốc vương láng giềng ở Ðất Phú Xuân.

Nguyễn Phúc Khoát đã tự xưng vương, ở ngôi được 27 năm. Năm Ất Dậu (1765), quốc vương băng, thọ 52 tuổi. Con trai thứ 16 lên nối ngôi.

 ♦ Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777):

Nguyễn Phúc Thuần còn có tên huý là Hân, sinh năm Giáp Tuất (1754), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ (1774) bà đi tu ở chùa Phúc Thành, sau đó mất (1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư, hiệu là Thiên Long giáo chủ.

Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Thái Hoàng tử. Hiệu mất sớm con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương còn thơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng Tôn Dương hoặc Nguyễn Phúc Luân lên ngôi. Phúc Khoát có ý lập Phúc Luân, nên đã trao Luân cho một thày học nổi tiếng là Trương Văn Hạnh dạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngôi vua. Phúc Khoát mất, tình hình lại thay đổi. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân và Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Thế là Phúc Loan chọn Phúc Thuần con thứ 16 của Phúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.

Phúc Luân không được lập mà bị bắt giam. Nội hữu Trương Văn Hạnh-thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giết. Phúc Luân không được nối ngôi, lo buồn cho tính mạng mà chết khi tuổi mới 33. Ðến năm Minh Mệnh thứ hai (1821) Luân được truy tôn là Hưng tổ.

Trải 9 đời chúa, đến đây nhà chúa đã bị nạn quyền thần lấn ướt Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại không phải là người được sắp sẵn để lên ngôi, nay thật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan sắp đặt. Loan tự nhận là Quốc Phó, giữ bộ Hộ quản cơ Trung thượng kiêm Tầu vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sự đến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Ðàng Trong đều rơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Ðồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... hàng năm Trương chỉ nộp vào ngân khố 1-2 phân mười số thu được. Các thứ lâm sản thuỷ sản đều chảy vào nhà Trương. Ngày nắng Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góc trời! Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt. Quyền và tiền họ Trương lấn át cả trong triều ngoài trấn. Có quyền có tiền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược - người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.

Giữa lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín, tài năng trụ cột của triều Nguyễn qua đời (tháng 5 năm Ðinh Hợi 1767). Thế là họ Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiều việc càn rỡ, chẳng còn kiêng nể gì: bán quan buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ và căm giận. Những người có tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục, tinh thông kinh sử, thuật số, âm nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ Thuận Hoá là Ngô Thế Lân phải kêu lên triều. Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.

Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ở Quy Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy vì được dân chúng đồng tình ủng hộ. Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774) Trịnh lại đem đại quân vào đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều khẩu hiệu khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phó Hoàng Tôn Dương. Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hoá trước đó trù phú là thế mà nay trăm bề xơ xác la liệt, "mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường xác đói, người nhà có khi ăn thịt nhau".

Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hoá. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hoá có Lê Quý Ðôn (1776).

Tây Sơn tìm cách tạm hoà với Trịnh để yên mặt Bắc và có điều kiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Ðại quân Tây Sơn cả thuỷ lẫn bộ đánh vào Sài Gòn. Chúa Nguyễn chạy về Ðịnh Tường rồi lại sang Long Xuyên. Tháng 9 năm Ðinh Dậu (1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi, không có con nối.

 ♦ Nguyễn Phúc Ánh (1780-1802):

Nguyễn Phúc Ánh có tên huý là Chủng và Noãn, sinh năm Nhâm Ngọ (1762), con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân. Mẹ Nguyễn Ánh là con gái Diễn Quốc Công Nguyễn Phúc Trung (có lẽ Phúc Trung được ban quốc tính), người làng Minh Linh, phủ Thừa Thiên. Khi Nguyễn Phúc Luân bị quyền thần Trương Phúc Loan phế truất rồi bắt giam năm Ất Dậu (1765), Nguyễn Ánh còn nhỏ (4 tuổi) đang ở nhà riêng. Năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 13 tuổi, theo chúa Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777), Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Một tháng sau, Phúc Ánh tập hợp được một đội nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang, quyết tử đánh chiếm lại Sài Gòn. Giúp Nguyễn Phúc Ánh, lúc đó mới 17 tuổi, có Ðỗ Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác, Ánh ra sức xây dựng lực lượng, đắp luỹ đất ở phía Tây sông Bến Nghé, đóng cọc gỗ ở các cửa cảng để đề phòng ngừa tấn công của Tây Sơn, Ánh đã có 50 chiến thuyền.

Năm Canh Tý (1780) Phúc Ánh chính thức lên ngôi vương ở Sài Gòn, dùng ấn "Ðại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" làm ấn truyền quốc, niên hiệu thì vẫn theo chính sóc nhà Lê.

Tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), Nhạc và Huệ kéo quân vào đánh Sài Gòn. Phúc Ánh chống lại ở cửa biển nhưng yếu sức đành thua trận. Phía Phúc Ánh lần này có cả sĩ quan Pháp tử trận. Ánh phải cưỡi thuyền nhỏ chạy ra biển, đến trú ở đảo Phú Quốc. Ðại quân của Tây Sơn rút về Quy Nhơn, tháng 8 năm Nhâm Dần (1782), Ánh lại thu thập tàn quân trở lại Gia Ðịnh.

Tháng 2 năm Quý Mão (1783) Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo vào đánh cửa biển Cần Giờ, quân Nguyễn tan tác. Tôn Thất Mân, Dương Công Trừng bị bắt hoặc chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Ánh cùng với 5,6 người tuỳ tùng, 100 lính chạy về Ba Giồng.

Tháng 4 năm đó, bị Nguyễn Huệ đuổi gấp, Ánh phải cưỡi trâu lội qua sông thoát thân rồi đem mẹ, vợ con ra Phú Quốc. Thuỷ quân Tây Sơn truy đuổi đến tận đảo. Tình thế cực kỳ nguy khốn song nhờ cái cớ Lê Phúc Ðiển mặc áo ngự đứng đầu thuyền giả làm Nguyễn Vương đánh lạc hướng Tây Sơn, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Côn Lôn. Phò mã Trương Văn Ða liền kéo thuỷ quân Tây Sơn ra vây chặt 3 vòng quanh đảo, chúa Nguyễn như "cá nằm trên thớt", bỗng một trận bão lớn làm thiệt hại nặng thuỷ quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh thoát được đến hòn Cổ Cốt, sau lại về Phú Quốc. Thất bại liên tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con là Hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi cho Bá Ða Lộc làm con tin sang cầu viện người Pháp. Rồi Nguyễn Ánh từ biệt mẹ và vợ con đem quân chạy ra ngoài cõi. Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh đem theo cả mẹ và vợ con chạy sang Xiêm nương thân và cầu viện. Mùa hè năm đó, Nguyễn Ánh dẫn quân Xiêm gồm 2 vạn thuỷ quân và 300 chiến thuyền kéo về Sài Gòn, Gia Ðịnh. Nhờ có viện binh, Nguyễn Ánh chiếm lại Ba Xắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Ðéc...

Tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Nhạc được tin cấp báo, tức thì sai Nguyễn Huệ đem quân vào cứu Sài Gòn. Quân Tây Sơn mai phục ở Rạch Gầm và Xoài Mút (tỉnh Ðịnh Tường), rồi dụ quân Xiêm vào trận. Quân Xiêm đại bại, Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng vài nghìn sĩ tốt theo đường núi rút chạy về nước. Nguyễn Ánh đi Trấn Giang rồi sang Xiêm, xin trú ở Long Kỳ (người Xiêm gọi là Ðồng Khoai, ở ngoại thành Vọng Các) sai người đón mẹ và vợ con đến. Quân Nguyễn nhờ đất Xiêm mà sản xuất, trồng cấy đóng chiến thuyền, tích trữ lương thực, thu nạp quân sĩ, đợi thời cơ. Lưu trú trên đất Xiêm, Nguyễn Ánh đã giúp vua Xiêm đánh bại Diến Ðiện... Vua Xiêm thán phục, đem vàng lụa đến tạ ơn và hứa giúp Nguyễn Ánh lấy lại Gia Ðịnh. Sau trận đánh Diến Ðiện, Nguyễn Ánh còn giúp vua Xiêm đánh lại quân Chà Và.

Năm Ðinh Mùi (1787), lực lượng hùng mạnh của Nguyễn Ánh lại được Bồ Ðào Nha giúp đỡ, vua Xiêm tỏ ra không bằng lòng. Biết vua Xiêm không giúp gì hơn, Nguyễn Ánh lặng lẽ rút quân về nước, dùng kế ky gián giết Phạm Văn Tham; đuổi Nguyễn Lữ chiếm lại Sài Gòn-Gia Ðịnh tháng 8 năm Mậu Thân (1788). Thế là trong khi Nguyễn Nhạc bất lực chỉ biết bo bo giữ Quy Nhơn, Nguyễn Huệ phải lo đối phó với tình hình Bắc Hà, đánh đuổi hơn 20 vạn quân Thanh, Nguyễn Ánh ở Gia Ðịnh nắm thời cơ chuẩn bị, củng cố lực lượng. Nguyễn Ánh còn sai sứ thần Phan Văn Trọng và Lâm Ðồ mang thư và 50 vạn quân lương sang giúp nhà Thanh. Năm Kỷ Dậu (1789), Hoàng tử Cảnh từ phương Tây về, Cảnh đi cùng Bá Ða Lộc sang Pháp cầu viện, lênh đênh trên biển và hải cảng các nước, hai năm sau mới đến Paris. Hoàng đế Pháp tiếp đãi theo vương lễ song chưa giúp gì được. Vì triều đình còn gặp khó khăn. Cảnh về Gia Ðịnh vừa đúng 4 năm đi xa. Hai sĩ quan Pháp ở lại phụng sự chúa, được Ánh đặt tên là Thắng và Chấn, cấp một nghìn quan tiền trao cho chức Cai đội.

Trên lãnh địa của mình, Nguyễn Ánh đã hết sức cố gắng nhanh chóng tăng cường binh lực và mọi mặt. Một loạt chính sách được ban hành: đạt quan điền tuấn chuyên lo việc làm ruộng, thi hành phép ngư binh ư nông, trai tráng khi cần là lính chiến, hết trận về làm ruộng, định lệ khuyến nông, đặt đồn điền... Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thưởng và đãi ngộ tướng sĩ trận vong hoặc có công lao. Nguyễn Ánh đặt quan hệ tốt với các nước láng giềng, nhất là binh sĩ Xiêm nhằm tăng cường thanh thế. Ðối với Châu Âu đang giúp rập, Ánh hết sức ưu đãi. Tháng 9 năm Kỷ Mùi (1799) Bá Ða Lộc, giáo sĩ người Pháp, ân nhân của Nguyễn Ánh qua đời, Ánh cho cử hành tang lễ cực kỳ trọng thể. Thi hài được ướp thơm, quan tài bằng gỗ tứ thiết, chuyển từ Diên Khánh về Gia Ðịnh trong vòng hai tháng, làm đúng quốc tang, truy tôn là Thái phó Bi Nhu Quận công.

Nguyễn Ánh vừa ra sức củng cố vừa phát triển lực lượng, tính từ năm 1792, Nguyễn Ánh bắt đầu mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo chiến thuật "tằm ăn lá dâu" và theo từng mùa gió nồm: "Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về; khi phát thì quân lính đủ, về thì tản ra đồng ruộng". Sau cái chết của Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên. Năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh chiếm được Quy Nhơn, đổi thành Bình Ðịnh. Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu giành được thế áp đảo khiến Nguyễn Quang Toản non yếu, nội bộ lục đục không sao chống nổi. Sau khi Nguyễn Quang Toản mất vào tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế.

 

Nhà Tây Sơn


Triều Tây Sơn tồn tại được 25 năm (1778-1802), trải qua 3 đời vua, bao gồm:
 - Thái đức Hoàng đế (1778-1793)
 - Quang Trung Hoàng đế - Nguyễn Huệ (1789-1792)
 - Cảnh Thịnh Hoàng đế (1793 - 1802)

 ♦ Thái đức Hoàng đế (1778-1793):


Niên hiệu: Thái Ðức.
Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn là người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Khoảng những năm 1653-1657 quân Nguyễn đánh ra Ðàng Ngoài, chiếm được 7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và giam tại ấp Tây Sơn Nhất (nay là thôn An Khê, phủ Hoài Nhân, tỉnh Bình Ðịnh). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.

Ðến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Ðịnh). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Ðồng sinh được 3 người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia  đình ông làm nghề buôn trầu, cuộc sống cũng khá giả.

Anh em Nguyễn Nhạc đều được đi học và có thời gian đã theo học thầy giáo Hiến. Giáo Hiến nguyên là môn khách của Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới thời Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Sau vì Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, thầy giáo Hiến sợ bị liên luỵ phải chạy vào Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lòng người ai cũng căm ghét.

Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế trong vùng) nhưng vụ thuế năm Tân Mão (1771), thu được bao nhiêu Nguyễn Nhạc đánh bạc hết sạch. Ðể tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ chốn cùng hai em vào ở núi Thượng Ðạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây.

Theo anh em Tây Sơn là những người can đảm đã từng bôn ba, bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải cầm vũ khí. Lại có cả những người thuộc các dân tộc miền núi thượng du vùng nam Trường Sơn... Bước đầu nghĩa quân đã có vài nghìn người. Anh em Tây Sơn thường sai quân đi cướp của những nhà giầu trong vùng rồi phân phát cho dân nghèo. Lúc bấy giờ trong vùng Quy Nhơn có Huyền Khê là một tay giàu có, ngầm giúp họ về tài chính. Nhờ đó Tây Sơn mộ lính sắm khí giới và theo đuổi mục tiêu cao hơn: lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương. Mùa thu năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn đem quân ra đánh ấp Kiên Thành, chia đặt cơ quan cai quản trong vùng họ kiểm soát. Công việc sắp đặt và mưu mô ban đầu đều do Nguyễn Nhạc, một con người cơ trí và đóng vai trò chủ động. Bằng mưu kế trá hàng của Nguyễn Nhạc, quân Tây Sơn chỉ trong một đêm đã lấy được thành Quy Nhơn, sau đó tiến đánh Quảng Ngãi. Dưới chiêu bài tôn phò Ðông Cung Dương họ đánh chiếm được Phú Yên. Năm Bính Thân (1776), Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong cho hai em: Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm thiếu phó. Những người có công theo giúp cũng theo thứ bậc ban thưởng, Tây Sơn vương đóng đô tại thành Ðồ Bàn, trữ lương thực, luyện binh lính, điểm duyệt tướng sĩ, thu dùng những tay hào kiệt, lực lượng phát triển nhanh chóng.

Giảng hoà với quân Trịnh, năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Nhạc được phong làm Quảng Nam trấn thủ tuyên uý Ðại sứ cung Quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn lực lượng tấn công quân Nguyễn ở phía Nam. Hai đạo quân thuỷ bộ do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cầm đầu rầm rộ tiến vào Gia Ðịnh: Nguyễn Phúc Thuần và Ðông Công Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát.

Năm Mậu Tuất (1778) sau khi đã giết được chúa Nguyễn, đánh tan lực lượng của chúa Nguyễn ra khỏi cõi, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, thành lập một vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Ðức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Thế là từ lúc khởi binh năm Tân Mão (1771) đến năm Nguyễn Nhạc lên ngôi năm Mậu Tuất (1778) anh em nhà Tây Sơn đã phải chiến đấu trong 8 năm trường.

Năm Giáp Thìn (1784) quân đội Tây Sơn đã đánh tan hai vạn thuỷ binh với 300 chiến thuyền giặc Xiêm ở Ðịnh Tường. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), theo lệnh của Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại quân ra thành Thuận Hoá của quân Trịnh và một tháng sau, ngày 25/6, quân đội Tây Sơn đã tiến vào cố đô Thăng Long, thực hiện khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh”.

Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Nghe tin Nguyễn Huệ đã lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc cả sợ cho rằng Nguyễn Huệ giữ quân ở ngoài, khó bề kiềm chế nổi, liền lấy 500 thân binh ra Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Bắc. Vua Lê biết tin vua Tây Sơn thân hành ra Thăng Long, đem trăm quan ra ngoài cõi để đón. Nguyễn Nhạc thúc quân đi mau, sai người đến hẹn với vua Lê hôm khác sẽ đến ra mắt. Còn Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón tiếp và tạ tội tự chuyên của mình.

Quân lính của Nguyễn Huệ đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi. Nay Nguyễn Huệ đem binh phù nộp cả lại cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ. Từ đó tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.

Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 năm Ðinh Mùi (1787) , Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm ba: Từ núi Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ; đất Gia Ðịnh thuộc về Ðông Ðịnh vương Nguyễn Lữ; Nguyễn Nhạc đóng ở Quy Nhơn, tự xưng là Trung ương hoàng đế.

Từ đó Nguyễn Nhạc tự mãn với sự giàu sang phú quý đã đạt được, không lo gì đến thời cuộc, chỉ lao vào con đường hưởng lạc, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mâu thuẫn trong việc chia của, chia đất, đem binh đánh lẫn nhau. Từ đấy anh em phòng bị lẫn nhau, không còn để ý đến miền Nam nữa. Nguyễn Lữ tài hèn sức yếu bỏ thành Gia Ðịnh chạy về Quy Nhơn rồi mất. Trong khi Nguyễn Huệ phải đem quân ra đánh quân xâm lược Thanh, Nguyễn Nhạc ở phía Nam không phòng bị, để quân Nguyễn Ánh lấy Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh... Thế của Nguyễn Nhạc ngày càng yếu, chỉ bo bo giữ được các thành Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên mà thôi.

Khi vua Quang Trung mất năm Nhâm Tý (1792), Nguyễn Nhạc cũng không thể ra viếng em trai được vì quân đội của Nguyễn Quang Toản ngăn cản và lo phòng bị tấn công.

Một năm sau khi Nguyễn Huệ-Quang Trung từ trần, năm Quý Sửu (1793) quân Nguyễn Ánh vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm sai con là Bảo đem quân chống giữ, tình hình rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản, Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chiến chia đường tiến vào cứu viện. Quân Nguyễn Ánh phải rút lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng bạc mỗi thứ một mâm khao quân. Thái uý của Quang Toản là Phạm Công Hưng bèn biên kê kho tàng, thu lấy giáp đinh và giữ thành. Trước việc làm đó Nguyễn Nhạc uất quá thổ ra máu mà chết, Quang Toản phong cho con Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu công, cắt cho huyện Phù Ly để làm đất ăn lộc, gọi là Tiểu Triều. Từ đó Bảo có chí muốn hàng quân Nguyễn Ánh, bị quân của Quang Toản bắt được, cho uống thuốc độc chết.

Như vậy Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm.

 ♦ Quang Trung Hoàng đế - Nguyễn Huệ (1789-1792):

Niên hiệu: Quang Trung.
Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu (1752), là em của Thái Ðức hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm.

Dưới quyền của Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc, ông được phong là Long Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột của vương triều Tây Sơn. Khi mà vua Thái Ðức đang phải lo củng cố xây dựng triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Ðông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thắng lớn vang dội của quân Tây Sơn đều gắn liền với tên tuổi của vị tướng trẻ tài ba này.

Ðem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập ngự mà hỏi thăm yên ủi.

Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê Phiêu, Uông Sĩ Ðiền ra tiếp chủ suý Tây Sơn. Sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên lòng, chợ lại họp, ruộng lại cày, tình hình trong nước dần dần ổn định.

Theo lời Nguyễn Hữu Chỉnh vẽ, Nguyễn Huệ xin vua Lê cho thiết lễ đại triều ở điện Kính thiên để Nguyễn Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ lòng cho toàn thiên hạ rõ việc tôn phò đại thống. Cử chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua cao tuổi Lê Hiển Tông vô cùng xúc động, chứng kiến việc ban bố chiếu thư “nhất thống.”

Ðáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyễn Suý Dực chính phù vận Uy Quốc công.

Tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), vua Lê Hiển Tông qua đời ở tuổi thọ 70.

Trái với những người muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Duy Kỳ, Cả triều đình nao núng ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo rằng sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi.

Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, rồi được phong làm Bắc Bình Vương.

Lần ra Bắc thứ hai năm Mậu Thân (1788), khi Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh thành chạy ra ngoài, Bắc Bình Vương cũng đã nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống, đã triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song không thuận lợi. Ông cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa những danh sĩ có tên tuổi đã được Bắc Bình Vương trọng dụng như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp  Bắc Bình Vương như Trần Bá Lâm, Võ Huy Tấn..

Sau khi đã lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam.

Thế rồi trong không đầy 6 tháng sau, Bắc Bình Vương đang ở thành Phú Xuân thì được tin Lê Chiêu Thống đã dẫn đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Ðại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy phải tạm rút lui về đóng ở Tam Ðiệp-Biện Sơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thứ ba ra Thăng Long. Lần này ông ra Bắc với tư cách Quang Trung hoàng đế. Thể theo lời khuyên của các tướng sĩ và lòng mong mỏi của ba quân cùng thần dân, Bắc Bình Vương cho chọn ngày, lập đàn trời đất, thần sông, thần núi và lên ngôi Hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm đó kéo cả quân bộ, quân thuỷ ra Bắc diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thăng Long và Bắc Hà.

Ðúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng binh, ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân đội của hoàng đế Quang Trung đã vui vẻ ăn Tết tại thành Thăng Long.

Việc binh lại giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích. Lần thứ ba Nguyễn Huệ đã ra Bắc rồi lại về Nam. Lần này với tư thế là Hoàng đế, Quang Trung gấp rút tiến hành việc xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, nơi mà từ xưa là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc. Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao đã được Quang Trung vạch ra: bình thường mối bang giao với nhà Thanh. Triều đình Quang Trung đã buộc sứ Thanh phải vào Thuận Hoá phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi Hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 của vua Càn Long nhà Thanh, nhiều chính sách về xã hội, chính trị và kinh tế được ban hành khá độc đáo, mở ra những triển vọng cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu, căn bệnh đột ngột và hiểm nghèo đã cướp đi cuộc sống của ông vua đầy tài năng, có những dự định lớn lao, mới ở tuổi 40.

Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái tổ Vũ hoàng đế. Thi hài ông được táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau này Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân đã sai quật mồ mả lên để trả thù.  Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Ðường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.

 ♦ Cảnh Thịnh Hoàng đế:

Niên hiệu:
- Cảnh Thịnh (1792-1801);
- Bảo Hưng (1801-1802).
Quang Trung mất ở tuổi 40 mà các con còn nhỏ. Quang Toản là con trưởng mà cũng mới lên 10. Bình sinh Quang Trung đã lập Quang Toản lên Thái tử. Sự lựa chọn này có lẽ là chính xác.

Năm Quý Sửu (1793) Quang Toản chính thức lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, sai Ngô Thì Nhậm sang nhà Thanh báo tang  và xin sắc phong. Vua Thanh vốn đã sắc phong cho Quang Toản làm thái tử khi vua Quang Trung còn sống nên lập tức xuống chỉ phong Toản làm An Nam Quốc vương. Án sát Quảng Tây được lệnh làm sứ thần đến Bắc Thành, Quang Toản cũng sai người đóng giả nhận thay. Sứ thần Thanh có biết việc song không có phản ứng gì.

Quang Toản lên ngôi vua, vẫn để hai em là Quang Thuỳ và Quang Bàn giữ tước vị, dùng cậu là Bùi Ðắc Tuyên làm Thái sư Giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài; Thái uý Phạm Công Hưng giữ việc quân;

Trung thủ phụng chính Trần Văn Kỷ làm ở Trung thư cơ mật và Trần Quang Diệu giữ việc văn thư lệnh thị. Quang Toản tuổi còn nhỏ, mọi việc đều quyết định bởi Bùi Ðắc Tuyên. Từ đó Ðắc Tuyên ngày càng chuyên quyền trong ngoài đều oán. Ðại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau, Quang Toản không ngăn nổi đành chỉ khóc lóc mà thôi. Giữa lúc ấy lại có cận thần gièm pha rằng, oai quyền của Trần Quang Diệu quá lớn, mưu đồ cướp ngôi... Quang Toản tin là thật liền rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu gửi thư mật vào Quy Nhơn hẹn với Lê Văn Trung đem quân ra phế hạ Quang Toản, lập Quang Thiệu lên ngôi. Việc không thành, Quang Thiệu bị giết; Lê Văn Trung bị chém. Con rể Lê Văn Trung là Lê Chất sợ hãi, bỏ Tây Sơn sang hàng Nguyễn Ánh. Về sau Lê Chất đem quân của Nguyễn Ánh ra đánh thắng Tây Sơn tịch thu hết quân trang, quân dụng.

Năm Canh Thân (1800) Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng. Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn đổi là trấn Bình Ðịnh, giao cho Võ Tánh và Ngô Tòng Chu giữ thành. Quân Tây Sơn bao vây nhiều tháng mà không hạ được vì Võ Tánh và Ngô Tòng Chu liều chết giữ thành.

Năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Ánh ra đánh Phú Xuân. Quang Toản dốc sức chống đỡ không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Tháng 8 năm đó, Quang Toản đem quân bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và quân Thanh Nghệ vào đánh Nguyễn Ánh, lại thua, vội rút về Thăng Long.

Ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Ánh ra đánh Thăng Long, khí thế rất mạnh, Quang Toản cùng em là Quang Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị thổ hào Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thăng Long. Quân Tây Sơn đến đây hoàn toàn tan rã. Mùa đông năm đó (1802) Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo lễ tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo và hèn hạ, Quang Toản và những người thân bị hành hình... ấp Tây Sơn đổi thành ấp An Tây, mọi dấu ấn Tây Sơn đều bị họ Nguyễn xoá sạch.

Quang Toản lên ngôi vua  năm Quý Sửu (1793) đến năm Nhâm Tuất (1802) thì mất, ở ngôi 10 năm, chết ở tuổi 20
.

Nhà Nguyễn


Nhà Nguyễn (1802-1945), trải qua 13 đời vua, bao gồm:

Gia Long Hoàng Ðế (1802-1819)
Minh Mệnh Hoàng Ðế (1820-1840)
Thiệu Trị Hoàng Ðế (1841-1847)
Tự Ðức Hoàng Ðế (1848-1883)
Dục Đức Hoàng Ðế (1883, 3 ngày)
Hiệp Hòa Hoàng Ðế (1883, 4 tháng).
Kiến Phúc Hoàng Ðế (1883-1884)
Hàm Nghi Hoàng Ðế (1884-1885)
Đồng Khánh Hoàng Ðế (1886-1888)
Thành Thái Hoàng Ðế (1889-1907)
Duy Tân Hoàng Ðế (1907-1916)
Khải Định Hoàng Ðế (1916-1925)
Bảo Đại Hoàng Ðế (1926-1945)
 ♦ Gia Long Hoàng Ðế (1802-1819):

Niên hiệu: Gia Long.
Nguyễn Ánh lấy được Gia Ðịnh năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Ðịnh được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Ðà (gồm cả Ðông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hoà và từ đây quy định hàng năm cứ ngày rằm và mùng một thì thiết đại triều; các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn của một quốc gia thống nhất, Gia Long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Ðể tránh lộng quyền, ngay từ đầu vua bãi bỏ chức vụ Tể tướng. Ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các Thượng thư đứng đầu và Tả hữu tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc.

Quản lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ Trung ương xuống.

Cả nước chia làm 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc Thành gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn); Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Ðịnh thành gồm 5 trấn; ở quãng giữa là các trấn độc lập: Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh, Phú Yên, Bình Hoà, Bình Thuận; đất kinh kỳ đặt 4 doanh: Trực Lệ Quảng Ðức doanh (tức Thừa Thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc thành và Gia Ðịnh thành có Tổng trấn và Phó tổng trấn. Mỗi trấn có Lưu trấn hay Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục. Trấn chia ra phủ, huyện, châu có trên một lãnh thổ thống nhất, các tổ chức hành chính được sắp đặt chính quy như vậy.

Quản lý đinh khẩu, ruộng đất và thuế khoá áp dụng theo mẫu hình thời Lê Sơ nhưng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, có quy củ hơn. Ðáng chú ý là việc làm sổ ruộng (địa bạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư... chép thành 3 bản nộp lên bộ Hộ. Bộ đóng dấu kiềm, lưu một quyển, tỉnh giữ một, xã giữ một. Năm năm làm lại địa bạ một lần. Ðến nay còn lưu giữ khá đủ toàn bộ địa bạ Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra kê cứu địa chỉ các địa phương. Cả nước gồm 4 đại hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản... năm Bính Dần (1806), vua Gia Long sai biên soạn và ban hành bộ "Nhất thống đại dư chí" gồm 10 quyển.

Năm Ất Hợi (1815) bộ "Quốc triều hình luật" gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.

Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long được tiếp tục. Nhà nước đã bỏ tiền đào kênh thoát nước Thuỵ Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như sông Vĩnh Tế huy động sức người, sức của cả dân Việt và Chân Lạp dọc hai bờ có sông chảy qua. Việc trị thuỷ vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng được Gia Long chú ý ngay từ đầu. Năm Giáp Tí (1804), trên đường ra Bắc làm lễ thụ phong của nhà Thanh, Gia Long cũng nêu vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà bàn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết định đắp đê. Thời Gia Long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước.

Ðối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặt khác lại tạo quan hệ đàn anh với Chân Lạp và Ai Lao. Ðối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quý Hợi (1803), nước Anh xin mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn (Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. Sĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đãi, giữ chức tại triều, mỗi người có 50 lính hầu, gia đặc ân buổi chầu không phải lạy... Còn yêu sách khác của chính phủ Pháp đều bị khước từ. Năm Ðinh Sửu (1817) tầu buôn Pháp tên là "La paix" (hoà bình) chở hàng sang bán nhưng hàng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, được miễn thuế. Ðến khi tàu Cybèle vào Ðà Nẵng đưa thư Hoàng đế Pháp nhắc lại việc thi hành điều ước ký năm Ðinh Mùi (1787) (Bá Nha thay mặt Nguyễn Ánh, có khoản Nguyễn Ánh nhường cho Pháp cửa biển Ðà Nẵng và đảo Côn Lôn). Gia Long kiên quyết bác bỏ viện lý rằng: Ðiều ước tuy đã ký song thủa đó phía Pháp không thực hiện thì nay không còn giá trị nữa! Nhà Nguyễn cấm hẳn các thuyền buôn phương Tây song cũng không mời chào khuyến khích hoặc có một chính sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.

Một trong những tai tiếng và gần như là căn bệnh của mọi vua, chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những người có công như Nguyễn Văn Thành và Ðặng Trần Thường đều bị giết hại giữa lúc Gia Long đang trị vì.

Tháng 11 năm Kỷ Mão (1819), vua không được khoẻ, Hoàng Thái tử và cận thần vào hầu, vua hạ chiếu cho Hoàng Thái tử quyết đoán việc nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, bệnh nguy kịch, vua gọi Hoàng Thái tử và các hoàng tử và đại thần Lê Văn Duyệt, Phạm Ðăng Hưng vào hầu.

Ngày Ðinh Mùi tháng 12, vua băng ở điện Trung Hoà, thọ 59 tuổi. Gia Long tiếp tục ngôi chúa trong 25 năm, làm vua cả nước được 18 năm tổng cộng 43 năm.

 ♦ Minh Mệnh Hoàng Ðế (1820-1840):

Niên hiệu: Minh Mệnh.
Vua huý là Hiệu, lại có tên là Ðởm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Tân Hợi (1791), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), Hoàng thái tử Ðởm lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Ðại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh, khi ấy 30 tuổi. Minh Mệnh có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Từ khi lên ngôi, ông ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay phê rồi mới thi hành.

Minh Mệnh muốn quan lại các cấp phải có đức độ và năng lực, nên mới lên ngôi đã đặt ra lệ mà về sau khó ai thực hiện nổi. Quan lại ở Thành, Dinh, Trấn, văn từ Hiệp trấn, Cai bạ, Ký lục, Tham hiệp; võ từ Thống quản cơ đến Phó vệ uý..., ai được thăng điệu, bổ nhiệm... đều cho đến kinh gặp vua trước khi nhậm chức để nhà vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo...

Là người tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử tuyển chọn nhân tài. Dựng Quốc tử giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tỵ (1821), mở lại thi Hội thi Ðình năm Nhâm Ngọ (1822). Trước đó, 6 năm một khoa thi nay rút xuống 3 năm. Vua còn cho đặt đốc học ở Gia Ðịnh thành, dùng thày giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm phó đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam Bộ.

Minh Mệnh cho lập Quốc Sử Quán để biên soạn lịch sử dân tộc và các triều đại.

Trong việc dùng người, Minh Mệnh đặc biệt chú trọng đến học thức. Chế độ tiền lương cho quan lại cũng được quy định khá chi tiết, từ Chánh nhất phẩm đến tòng Cửu phẩm cách nhau chừng 18 bậc, tiền lương cũng chênh nhau khoảng 18 đến 20 lần. Ngoài ra, Tri phủ, đồng Tri phủ, Tri huyện, Tri châu còn có khoản tiền "dưỡng liêm" từ 20 đến 50 quan tuỳ theo cương vị khác nhau, nhà vua nghiêm trị bọn quan lại tham nhũng. Có viên quan không dùng thước để gạt đong thóc thuế, thường dùng tay để dễ bề lạm dụng, biết chuyện nhà vua lập tức sai chặt tay tên lại đó.

Minh Mệnh rất quan tâm đến võ bị, đặc biệt là thuỷ quân. Ngay những năm đầu lên ngôi, vua đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và quyết tâm làm cho người Việt tự đóng được tàu theo kiểu Tây Âu và biết lái tàu vượt đại dương, các quy chế luyện tập thuỷ quân, khảo sát vị trí bờ biển, hải cảng cũng được chú ý. Hàng năm, nhà vua thường phái nhiều tàu vượt biển sang các nước và các cảng lớn vùng biển Ðông như Jakarta, Singapore, Malaisia... để bán hàng, mua hàng, luyện tập đi biển và xem xét tình hình các nước. Minh Mệnh đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyên nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ, lập hai huyện mới Kim Sơn và Tiền Hải. Công cuộc khai hoang và thuỷ lợi ở Nam Bộ cũng được đẩy mạnh. Minh Mệnh đã thử nghiệm giải pháp bỏ đê phía Nam Hà Nội..., đào sông thoát lũ Cửu An (Hưng Yên)...

Trên cơ sở đã có từ thời Gia Long, nay Minh Mệnh củng cố và hoàn thiện hơn bộ máy quản lý đất nước: đặt nội các trong cung điện để khi cần, vua hỏi han và làm giấy tờ: biểu sắc, chế cáo năm Kỷ Sửu (1829); đặt cơ mật viện năm Giáp Ngọ (1834) dùng 4 đại thần, đeo kim bài để phân biệt chức vị. Cơ mật viện cùng vua bàn bạc và quyết định những việc quan trọng nhất. Năm Tân Mão (1831), Minh Mệnh cho tiến hành cải cách hành chính trên quy mô lớn, chia cả nước ra làm 31 tỉnh. Từ đây, tỉnh là đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước, có cương vực và địa hình khá hợp lý. Mỗi tỉnh có Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, án sát để trông coi công việc. Các châu miền núi được chia theo đơn vị hành chính thống nhất với miền xuôi.

Tuy vậy dưới thời Minh Mệnh nhiều cuộc khởi nghĩa nổi ra với nhiều loại khác nhau. Nông dân nghèo nổi lên chống quan lại nhũng nhiễu, hà khắc như Phan Bá Vành ở đồng bằng Bắc Bộ. Cựu thần nhà Lê như Lê Duy Lương nổi lên chống lại triều đình. Các tù trưởng người thiểu số như Nông Văn Vân hoặc họ Quách ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá... Minh Mệnh phải cử Trương Minh Giàng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Ðức, Nguyễn Công Trứ cầm quân đi dẹp loạn.

Năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh ở Gia Ðịnh chống lại triều đình. Khôi sai người sang cầu cứu, người Xiêm mang thuỷ bộ sang giúp Lê Văn Khôi đánh lại quân Nguyễn. Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân Ðại phá được quân Xiêm, đuổi ra khỏi bờ cõi. Không dừng lại ở đó, năm Ất Mùi (1835), nhà Nguyễn còn tiến quân sang tận Nam Vang (Phnôm Pênh), bắt vua Chân Lạp là Nặc Ông Châu đổi Chân Lạp làm Trấn Tây để cai quản. Nhà Nguyễn chiếm Chân Lạp khoảng 5 năm, khi Minh Mệnh mất, quan quân đã bỏ trấn Tây Thành, rút về An Giang.

Về đối ngoại, Minh Mệnh đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh. Lễ thụ phong của vua ở thành Thăng Long được tổ chức cực kỳ trọng thể. Ngày 10 năm Tân Tỵ (1821), nhà vua dẫn đầu một đoàn tuỳ tùng có 1782 người gồm Hoàng thân, bá quan văn võ và 5150 lính (tổng cộng 6932 người) rời Phú Xuân ra Thăng Long để nhận sắc phong của "thiên triều". Hành trình kéo dài 33 ngày đêm. Ðoàn người đông đúc đó phải nằm chờ ở Thăng Long mãi từ khi sứ Thanh đến và xong lễ. Thủ tục đón tiếp và chiêu đãi sứ Thanh diễn ra hết sức chu đáo và long trọng.

Ðối với các nước phương Tây, nhà vua lại tỏ ra lạnh nhạt và nghi kỵ. Chính sách thụ động như vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Trị vì 21 năm, Minh Mệnh lo toan công việc thường như một ngày, sức làm việc phải nói là đáng ngạc nhiên! Mọi phê bảo, dụ chỉ, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, khi rỗi rãi ông còn làm thơ viết văn. Vua còn để lại 5 tập thơ và 2 tập văn.

Tháng 12 năm Canh Tí (1840), ốm nặng, vua cho vời Hoàng tử, các thân công và cơ mật viện đại thần Trương Ðăng Quế vào hầu, dặn dò rồi mất, thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thánh Tổ.

 ♦ Thiệu Trị Hoàng Ðế (1841-1847):

Niên hiệu: Thiệu Trị.
Trong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh, có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Văn Bôi, quê huyện Bình An, tỉnh Biên Hoà. Hồ Văn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu. Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô con gái họ Hồ về làm vợ Hoàng tử Ðởm. Là người trang kính, chín chắn, thận trọng, hiền hoà,... được Minh Mệnh hết lòng yêu quý, phong là Thuận đức Thần phi. Bà sinh Hoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Năm Quý Mùi (1823), theo phép đặt tên của đế hệ, Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. Tháng Giêng năm Tân Sửu (1841), Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hoà, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, vừa đúng 34 tuổi.

Thiệu Trị hiền hoà, không hay bày việc. Vả chăng mọi quy chế đã được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mệnh, Thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉ răm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bầy tôi cũ từng giúp Minh Mệnh nay vẫn là vây cánh, chân tay của Thiệu Trị như Trương Ðăng Quế, Lê Văn Ðức, Doãn Uốn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp... Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của Thiệu Trị chỉ đủ để giải quyết một số hậu quả để lại từ thời Minh Mệnh.

Thứ nhất là khắc phục hậu qủa của giải pháp bỏ đê ở Bắc Bộ. Vào năm Quý Tỵ (1883), sau nhiều cố gắng củng cố và hoàn thiện hệ thống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mệnh mạnh dạn áp dụng giải pháp "đào sông thay đê". Vua cho phá bỏ đê điều vùng trũng phía Nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ vùng Hải Dương, Hưng Yên nhưng vô hiệu. Theo ý nguyện thần dân địa phương, Thiệu Trị lại cho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là giải quyết vấn đề Chân Lạp. Cuối thời Minh Mệnh, thành Trấn Tây là mối lo cần giải quyết. Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Ðức, Nguyễn Công Trứ đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì thế ngay năm đầu lên ngôi, triều quan như Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe theo, xuống chiếu bãi binh. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Tháng 6 năm Ất Tỵ (1845), Chân Lạp bị Xiêm chiếm đóng, đáp lời cầu viện của Chân Lạp, triều đình lại cử binh sang buộc tướng Xiêm là Chất Tri Ký hoà ước rồi hai nước cùng bãi binh. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn rút quân về đóng ở Trấn Tây, Năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ðơn Ông sai sứ sang dâng biểu và cống phẩm. Tháng Hai Ðinh Mùi (1874), triều đình Nguyễn phong Nặc Ông Ðơn Cao Miên quốc vương và Mỹ Lâm quận chúa, Cao Miên quận chúa. Lại xuống chiếu cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ đó, Chân Lạp lại có vua và phía Tây nam bắt đầu yên dần.

Vấn đề thứ ba là quan hệ với phương Tây. Khi Thiệu Trị lên cầm quyền thì việc cấm đạo có nguôi đi ít nhiều. Một số giáo sĩ bị bắt giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình nay được tự do nhờ sự can thiệp của hải quân Pháp. Năm Ðinh Mùi (1847) Pháp sai một đại tá, một trung tá mang hai chiến thuyền vào Ðà Nẵng xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho tự do tín ngưỡng. Ðang trên bàn thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm tàu thuyền của Việt Nam neo đỗ bên cạnh rồi chạy ra bể. Trước sự kiện đó, Thiệu Trị vô cùng tức giận, ban thêm sắc dụ cấm người nước ngoài giảng đạo và trị tội người trong nước đi đạo. Sau đó, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1847), Thiệu Trị bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 7 năm thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ chương hoàng đế, có 54 người con (29 hoàng tử và 25 hoàng nữ)
 
 ♦ Tự Ðức Hoàng Ðế (1848-1883):

Niên hiệu: Tự Ðức.
Vua huý Thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Nhậm, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), con thứ hai của Thiệu Trị. Mẹ họ Phạm, con gái Thượng thư bộ Lễ Phạm Ðăng Hưng, người huyện Tân Hoà (Gia Ðịnh). Tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 3, năm Quý Mão (1843), 14 tuổi, được phong làm Phúc Tuy công, lấy vợ là con gái Vũ Xuân Cẩn. Khi ấy Yên Phong công Hồng Bảo tuy đã lớn nhưng lại là con của vợ thứ và ít học, chỉ ham vui chơi. Ngược lại, Hồng Nhậm nhân hiếu, thông sáng và chăm học, được vua cha rất yêu quý, bảo có nhiều tính giống mình nên có ý truyền ngôi cho. Hồng Nhậm, vì thế thường được vua gọi vào chầu riêng để dạy bảo. Tháng 10 năm Ðinh Mùi (1847), Hồng Nhậm lên ngôi ở điện Thái Hoà, lấy niên hiệu là Tự Ðức, lúc 19 tuổi. Vì cho con ít tuổi lên nối ngôi, nên Hồng Nhậm và Hồng Bảo tranh chấp nhau, Bảo thua, sau bị chết.

Tự Ðức ốm yếu, phải luôn sống tại cung điện Huế, trừ mỗi năm hai lần nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ đi xa một chuyến, đó là gịp phò giá vua cha ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thăng Long năm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Chính vì kém sức khoẻ nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Thanh phải biện luận khó khăn để buộc sứ Thanh phải vào Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Ðức.

Có những lần đích thân vua phải đứng làm chủ tế nhưng mệt lại phải sai Xuân thọ công Miên Ðịnh hoặc An Phong công Hồng Bảo làm thay.

Cũng chính vì lý do trên mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu, mệnh lệnh. Bù lại sự yếu kém về sức khoẻ. Tự Ðức lại rất thông minh và có tài văn học. Vua thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Có thể nói Tự Ðức là một trong những người uyên bác nhất thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học.

Tự Ðức trị vì đất nước trong bối cảnh gặp nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc, mà triều thần tuy có người thanh liêm và có người thực quyền như Trương Ðăng Quế song lại bảo thủ. Trên thế giới, khoa học và công nghệ đã phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thế mà đình thần quanh vua chỉ chăm lo việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì lấy Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương, Chu xa xưa làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê thiên hạ là ngoại di. Vì thế, Tự Ðức cấm buôn bán ngày càng gay gắt hơn. Ðến khi Gia Ðịnh đã rơi vào tay Pháp, nhà vua hỏi đến việc Phú Quốc cường binh thì triều thần không đưa ra được kế sách gì. Cũng có những người đã đi ra ngoài du học hoặc được tiếp xúc, có cách nhìn mới, muốn thay đổi, cải cách như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ (1864), Nguyễn Trường Tộ (1866), Ðinh Văn Ðiền (1868), Nguyễn Hiệp (1867), Lê Ðĩnh (1881)... dâng điều trần xin nhà vua cải cách mọi mặt: chính trị, kinh tế và quân sự... theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng và các nước phương Tây. Ðình thần hoặc cho là nói càn, bàn nhảm hoặc không cho là hợp thời thế hoặc còn để hỏi xem các tỉnh và làm từ từ...

Xét việc thì nên cẩn thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm như thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến thoái là vậy!

Vua phê chuẩn học tiếng nước ngoài, sức cho làm ngay. Tháng 11 năm Mậu Dần (1878), cùng với sứ bộ sang Xiêm có một số thanh niên do Hồ Khắc Hài dẫn đầu sang học tiếng Xiêm...

Nhận ra và làm đến lúc đó đã quá chậm, thế nhưng, quần thần vẫn chần chừ, ngại cải cách, nếu có làm, lại dè dặt, nửa chừng... Triều đình chia làm hai phe: Cách tân và bảo thủ, người chủ trương cách tân dù rất kiên quyết nhưng trong điều kiện quá chênh lệch về lực lượng nên cuối cùng bị thất bại.

Khi đất nước sa vào tay Pháp lại nảy sinh hai phe: chủ chiến và chủ hoà. Những người chủ chiến, phải chiến đấu trong điều kiện chênh lệch về lực lượng và vũ khí nên cuối cùng thất bại.

Năm Nhâm Ngọ (1882), triều đình cử Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật đi sứ Thiên Tân (Trung Quốc) cầu viện nhà Thanh đánh Pháp. Trung Quốc đang bị các nước phương Tây xâu xé, chẳng những không cứu được mà còn muốn nhân dịp này chiếm các tỉnh phía Bắc nước ta.

Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), Tự Ðức mất, trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Ðức Tôn Anh Hoàng đế. Triều đình Huế phải ký hoà ước Quý Mùi (1883) rồi hoà ước Patơnốt (1885), đất nước bị chia làm ba kỳ dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp.

Giai đoạn thuộc Pháp


 Năm 1857 chính phủ Pháp thông qua quyết định đánh chiếm Việt Nam. Nhưng do sự đánh trả quyết liệt của những người yêu nước Việt Nam, phải sau 30 năm, thực dân Pháp mới thiết lập được quyền thống trị của họ trên toàn lãnh thổ Việt Nam (1887).
Năm 1887, Liên bang Ðông Dương thành lập, gồm 5 xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào. Ðến đầu thế kỷ 20, các hoạt động kinh tế xã hội của Pháp ở Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh. Người Pháp tập trung đầu tư vốn vào các ngành khai thác mỏ và một số kỹ nghệ. Ðã xuất hiện những đồn điền rộng lớn. Và bên cạnh cây lúa, đã xuất hiện cây chè, cây cà phê, cao su, thầu dầu,... Sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp bắt đầu trở thành hàng hoá. Gắn liền với những biến chuyển kinh tế là sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và giai cấp công nhân Việt Nam.

Về giáo dục năm 1915, Pháp bãi bỏ chế độ thi cử cũ và quy định ba bậc học ở phổ thông (ấu học, tiểu học, trung học) và năm 1917, chính thức mở trường đào tạo quan chức theo "ngạch Tây".

Còn đối với nhân dân lao động, nhất là nông dân, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị khắt khe, tàn bạo, thông qua hệ thống quan lại và mật thám. Người dân phải đóng nhiều thứ thuế. Chính sách ngu dân của thực dân giam hãm họ trong u tối.

 Những người yêu nước Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Lớp này ngã xuống thì lớp khác lại vùng dậy. Cho đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, đã sáng lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, sau đổi tên là Ðảng Cộng sản Ðông Dương, và từ đấy những người cộng sản lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc.

Nước Việt Nam (từ năm 1945)


Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Ðình (Hà Nội), khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam đã phải đương đầu với những âm mưu và hành động xâm lược của nhiều kẻ thù bên ngoài. Năm 1946, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược Ðông Dương. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (tên của Ðảng Cộng Sản Việt Nam thời đó) và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của mình. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ lần thứ nhất của nhân dân Việt Nam. Với Hiệp định Genève (1954), độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được thế giới chính thức thừa nhận.

Sau khi Thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc, nước Việt Nam vẫn bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra) là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. ở miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào gọi là Việt Nam Cộng hoà, vẫn diễn ra cuộc chiến tranh giữa một bên là nhân dân miền Nam và một bên là chính quyền Sài Gòn và quân đội Mỹ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải chịu đựng một cuộc chiến tranh ác liệt trong gần 20 năm để giành lại độc lập dân tộc. Sau hiệp định Pari (1973), quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam. Với chiến thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Ðất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Dân tộc Việt Nam bắt tay vào khắc phục những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Ngày nay, dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.

Tổng cục du lịch


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét