Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

Chi tiết xúc động khi Nguyễn Trung Trực ra pháp trường

(Kiến Thức) - Nguyễn Trung Trực hiên ngang dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và giã từ đồng bào.

Khoảng cuối tháng 9/1868, Nguyễn Trung Trực bị địch bắt. Sau khi ông bị hành hình, dân chúng khâm phục và cảm thương vô cùng đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương, là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay.
Giỏi thay người chài...
Người đời truyền rằng, vào buổi sáng 27/10/1868, nhân dân Tà Niên, nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá vì thực dânPháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết ở đây. Nguyễn Trung Trực yêu cầu thực dân Pháp mở trói, không bịt mắt để nhìn đồng bào và quê hương trước phút ra đi. Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ thọ (chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Nguyễn Trung Trực hiên ngang dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và giã từ đồng bào.
Trước khi bị hành quyết, Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ: "Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên - Yêu gian đàm khí hữu long tuyền - Anh hùng nhược ngộ vô dung địa - Bảo hận thâm cừu bất đái thiên".
Thi sĩ Đông Hồ dịch: "Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai - Phong trần hăng hái tuốt gươm mài - Anh hùng gặp phải hồi không đất - Thù hận chang chang chẳng đội trời". 
Được tin Nguyễn Trung Trực thọ tử, vua Tự Đức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:  “Giỏi thay người chài - Mạnh thay quốc sĩ - Đốt thuyền Nhật Tảo - Phá luỹ Kiên Giang - Thù nước chưa xong- Thân sao đã mất - Hiệu khí xưa nay - Người nam tử ấy - Máu đỏ cát vàng - Hỡi ôi thôi vậy - Ngàn năm hương khói - Trung nghĩa còn đây".
Vua Tự Đức đã sắc phong ông làm Thượng Đẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng thực dân Pháp. Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài, áo vải vậy mà đã trở thành một vị anh hùng đúng với nghĩa: "Sống làm tướng và chết làm thần và anh khí như hồng, nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bẩy sắc".
Chi tiet xuc dong khi Nguyen Trung Truc ra phap truong
Tượng đài danh tướng Nguyễn Trung Trực. 
Khắp nơi lập đền thờ
Danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1882) vị quan nhà Nguyễn trong bài điếu Nguyễn Trung Trực, bằng tuyệt bút của mình đã thể hiện khá đầy đủ nhân cách và hai chiến công của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ: “Hoả hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa- Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”. Thái Bạch dịch: “Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất - Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”.
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng khâm phục và cảm thương vô cùng đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương, là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay.
Vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng màu đen đặt trước Chợ nhà lồng Rạch Giá cũ. Hiện nay, tượng thờ này được sơn lại màu nâu đỏ và đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại TP Rạch Giá.
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nhân dân đã lập đền thờ Nguyễn Trung Trực và hằng năm đều tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 - 28/8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 6/12/1989 (về hài cốt và mộ phần của Nguyễn Trung Trực, còn nhiều ý kiến khác nhau).
Tại huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, nơi diễn ra trận “Hoả hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa” của Nguyễn Trung Trực, chính quyền và nhân dân đã xây dựng và khánh thành Đền tưởng niệm Nguyễn Trung Trực ngày 14/10/2010.
Hiện nay, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Trung Trực đông đúc cả ngàn người sống rải rác khắp nơi, nhưng đông đúc nhất là ở hai xã Tân Đức và Tân Tiến huyện Đầm Dơi.
TS Nguyễn Thành Hữu

Sự thật về tên gọi của anh hùng Nguyễn Trung Trực

(Kiến Thức) - Nguyễn Trung Trực, thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, một người xuất thân từ giới dân chài, áo vải...

Nguyễn Trung Trực, thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, một người xuất thân từ giới dân chài, áo vải vậy mà đã trở thành một vị anh hùng đúng với nghĩa: "Sống làm tướng và chết làm thần và anh khí như hồng, nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bẩy sắc".
Có tên Trung Trực vì tính tình ngay thật
Nguyễn Trung Trực (1837 - 1868), thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Bộ (1861 - 1868); ông quê ở Phủ Tân An, tỉnh Gia Định; sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi 1859 đổi là Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, ông được thầy dạy học đặt tên hiệu là Trung Trực.
Nguyên quán gốc, Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định, nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát. 
Do hải quân của thực dân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cựu Cư Hạ, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới tại vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào lại, gia đình ông dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên (nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn, ông là người có thể lực khoẻ mạnh, giỏi võ nghệ vàlà người can đảm, mưu lược.
Su that ve ten goi cua anh hung Nguyen Trung Truc
Nguyễn Trung Trực.  
Chủ động đánh địch
Ngày 17/2/1859, quân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân làng chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông đã sốt sắng đi theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính, chiến đấu giữ Đại đồn Chí Hoà dưới quyền chỉ huy của Trương Định (1821 - 1864).
Sau khi Đại đồn Chí Hoà thất thủ ngày 25/2/1861, Nguyễn Trung Trực về Tân An, chỉ huy nghĩa quân chống thực dân Pháp ở vùng này. Đến ngày 12/4/1861, thành Định Tường thất thủ, quân Pháp kiểm soát Mỹ Tho, dựa vào ưu thế về lực lượng thủy quân, Pháp đưa nhiều tàu chiến án ngữ các dòng sông, ban ngày xuôi ngược tuần tra, ban đêm thả neo giữa dòng canh giữ; trong đó có tiểu hạm Expêrăngxơ (Espérance) - (Hy vọng) do viên trung uý Pacphe (Parfait) chỉ huy thường neo đậu ở vàm Nhật Tảo trên sông Vàm Cỏ Đông. 
Được sự giúp đỡ của nhân dân và các thân sĩ yêu nước Hồ Quang Minh, Hồ Quang Chiêu, sau khi điều tra nắm chắc tình hình, trưa ngày 10/12/1861, sau khi dùng kế nghi binh kéo một số lính địch rời tàu lên bờ, Nguyễn Trung Trực cùng hai sung phó quản binh đạo là Võ Văn Quang và Hoàng Khắc Nhượng chỉ huy 59 nghĩa quân đi trên 5 chiếc thuyền, giả làm thuyền buôn (cũng có ý kiến giả là đám cưới), áp sát tàu Expêrăngxơ để xin giấy thông thành rồi bất thần nhảy lên chiếm tàu, dùng vũ khí thô sơ diệt 37 tên địch, trong đó có 17 lính Pháp, sau đó nổi lửa đốt cháy tàu; bên ta 4 nghĩa quân hy sinh.
Viên trung uý chỉ huy tầu là Parfait không có mặt trên tàu nên thoát chết, nhưng sau đó, hay tin dữ đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù, đồng thời liên tiếp cho quân trên sông, trên bộ tiến công ta.
Lần đầu tiên kể từ khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, nghĩa quân ta đã chủ động đánh địch bằng vũ khí thô sơ, đốt cháy và diệt được tàu chiến Pháp. Kinh nghiệm đánh địch mưu trí, dũng cảm trong trận Nhật Tảo được truyền bá cho nghĩa quân chống thực dân Pháp nhiều nơi áp dụng. Với chiến thắng này, Nguyễn Trung Trực được triều đình Huế phong chức Quyền sung Quản đạo nên còn được gọi là quản Chơn hay quản Lịch. 

TS Nguyễn Thành Hữu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét