Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Kỳ bí lăng mộ cổ: Lăng danh tướng người Khmer được phong thống chế

Lăng Thống chế Nguyễn Văn Tồn cùng phu nhân - Ảnh: L.C.T
Lăng Thống chế Nguyễn Văn Tồn cùng phu nhân - Ảnh: L.C.T
Lăng Nguyễn Văn Tồn, còn gọi là lăng Ông hay lăng Tiền quân Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn, tọa lạc trên giồng Thành Bạch, ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Khu lăng mộ có diện tích 8.000 m2, gồm nhiều công trình kiến trúc: hồ nước, nhà võ ca, nhà tiền tế, đền thờ và khu lăng.
“Hách hiển linh uy ...”
Lăng mộ thuộc loại hình song táng, xây bằng hợp chất có bình đồ hình chữ nhật, dài 12,5 m, rộng 8,2 m. Từ ngoài vào trong kết cấu kiến trúc gồm: cửa lăng, bình phong tiền, sân tế, cửa mộ, nhang án, nấm mộ và kết thúc là bình phong hậu. Nấm mộ Nguyễn Văn Tồn và phu nhân được tạo dạng hình chữ nhật giật cấp. Ở nấm mộ của Nguyễn Văn Tồn, sau sập thờ đúc hộp bia mộ dạng mô hình cuốn thư, ở chính giữa đúc ô hộc hình chữ nhật tạo bia. Trên bia có khắc chìm chữ Hán với nội dung: mộ của Tiền quân Thống chế điều bát tướng quân Nguyễn Văn Tồn, người được phong tước Hầu, sinh năm 1763 tại Trà Vinh, mất ngày 4 tháng 1 năm 1820. Hai bên cuốn thư đắp nổi hình hoa văn lá hóa rồng cách điệu và chữ Hán có nội dung: “Hách hiển linh uy; Hương phi vô thần”.
Lăng mộ Nguyễn Văn Tồn được xây dựng theo kiểu thức thời triều Nguyễn mà không theo các hình thức táng tục của người Khmer bản địa (hỏa táng, thủy táng hoặc điểu táng...). Điều này cho thấy có sự tham gia của thành thần Gia Định trong việc đại diện cho triều Nguyễn thực hiện một phần tang lễ và xây cất lăng mộ cho một vị công thần của triều đình thuộc tộc người Khmer Nam bộ.
Tài liệu Ban Quản lý di tích tỉnh Vĩnh Long ghi lại: Mùa hè năm 1820, sau khi Nguyễn Văn Tồn qua đời, vùng đất Nam bộ chịu một trận dịch lớn kéo dài từ Trấn Tây (Campuchia - Lào) qua, lan tới tận kinh đô Huế, hàng vạn người chết vì dịch bệnh. Người dân vùng đất Trà Ôn - Mân Thít hoang mang vô cùng, làm lễ đến cúng vái ông tại lăng, mong người che chở, ngài liền hiển hiện sự linh thiêng, vì thế mà toàn bộ vùng đất rộng lớn trong khu vực không bị dịch bệnh...
Người dân Kinh, Hoa, Khmer trong vùng cho biết, ông rất linh thiêng và là vị thần bảo hộ che chở cho sinh dân trong khu vực. Ông Từ Hoàng Đương (Ban Quản lý lăng Nguyễn Văn Tồn) cho biết: Hằng năm, vào những ngày đầu năm, cộng đồng cư dân Việt, Hoa, Kh’mer ở khắp các vùng và khách thập phương tập trung về lăng mộ Nguyễn Văn Tồn tổ chức cúng giỗ, lễ hội. Khu di tích như là một cơ sở sinh hoạt văn hóa gắn kết cộng đồng các sắc tộc.
Vị thần bảo hộ
Năm 1996, Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp hạng di tích lăng ông Thống chế điều bát Nguyễn Văn Tồn là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay, do ít được quảng bá và giới thiệu đến với du khách và các nhà nghiên cứu, di tích cũng chỉ được biết đến trong phạm vi khu vực Trà Ôn - Mân Thít và vùng phụ cận, cũng không nhiều người biết đến công đức của ông.
Chính sử triều Nguyễn có khá nhiều chi tiết ghi chép về Thống chế Nguyễn Văn Tồn như sau: Người phủ Trà Vinh nước Chân Lạp, nguyên làm nô trong cung cấm. Mùa xuân năm Giáp Thìn (1786), theo vua sang Vọng Các (Bangkok, Thái Lan) làm cai đội... Khi trước có tên là Duyên, không có họ, được vua Gia Long ban cho họ và tên.
Mặc dù xuất phát từ nô bộc nhưng Nguyễn Văn Tồn lại tỏ rõ là một vị tướng tài đầy mưu lược. Năm 1802, Nguyễn Văn Tồn được vua Gia Long thăng làm cai cơ, kiêm quản cả 2 phủ Trà Vinh, Mân Thít lệ thuộc vào Vĩnh Trấn (trấn Vĩnh Thanh)... Năm 1810, triều đình đổi đồn Xiêm binh làm đồn Uy Viễn, ông được giao làm thống đồn.
Năm 1811, Nguyễn Văn Tồn được vua Gia Long triệu về Huế để hỏi thăm và được thăng chức thống chế. Năm 1819, Nguyễn Văn Tồn phụ giúp Thoại Ngọc Hầu đốc lính khơi sông Vĩnh Tế.
Năm 1820 ông chết, vua Minh Mạng thương xót, sai người tới dụ tế, cấp cho 7 phu coi mộ. Sau đó người con kế vị của ông tên là Vỵ được kế nghiệp cha, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ do triều đình giao phó tại vùng đất Mân Thít - Trà Ôn kéo dài cho tới cửa biển Định An.
Tuy nhiên, năm 1833, cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi khắp thành Gia Định đã lôi kéo Vỵ làm theo, dẫn tới sau khi bị triều đình dẹp loạn, toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Văn Tồn để lại cũng bị tiêu vong, triều Nguyễn đã xóa bỏ đồn Uy Viễn và không cho người Khmer cai quản như xưa nữa. Từ đó khu di tích cũng không còn hậu duệ chăm lo thờ tự, trở thành khu lăng mộ vô chủ.
Nhưng, với những ghi nhận công lao của Nguyễn Văn Tồn, nhân dân trong vùng đã tôn ông như một vị thần bảo vệ và che chở cho sinh dân trong vùng với sự tham gia chăm sóc thờ tự của cả cộng đồng người Việt, người Hoa, người Khmer.
Lương Chánh Tòng

Lễ hội Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn

“Nhớ về thăm lại Trà Ôn
Tháng Giêng mùng 4 giỗ Ông Ngọc Hầu!”
Đó là lời nhắn nhủ nhớ đến tham dự Lễ hội Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều Bát Nguyễn Văn Tồn. Đây là lễ hội đầu năm duy nhất diễn ra ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Lễ hội diễn ra liên tục trong ba ngày ba đêm, bắt đầu từ sáng mồng 2 Tết Nguyên đán hằng năm, thu hút hàng ngàn lượt khách xa gần tham dự. Phần lễ trang trọng với nghi thức cổ truyền của đình miếu xưa. Phần hội rôm rả với nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa dân gian, như: gói bánh tét - đặc sản của đồng bào lưu vực sông Cửu Long. Ngày hội gói bánh tét với sự tham gia của những người giỏi tay nghề, biểu diễn nghệ thuật ẩm thực cổ truyền của gia đình mình trước sự dự khán của khán giả mộ điệu. Các cuộc thi đấu bóng chuyền, các trò chơi dân gian: kéo co, đẩy gậy, đá bóng mù... cũng thu hút đông đảo bà con. Không khí càng thêm sôi động với lễ hội dâng bông. Dâng bông là cổ tục đẹp dành dâng cúng rước thần linh tại các đình vào những ngày lễ kỳ yên trọng đại trong năm. Trong tiếng trống, tiếng kèn, tiếng thanh la, não bạt rền vang, các bà đồng trong trang phục rực rỡ, trang điểm đẹp, liên tục biểu diễn nghệ thuật uốn dẻo và giữ thăng bằng. Tài nghệ điêu luyện của họ đã hớp hồn người dự khán. Không khí buổi lễ trở nên êm đềm vào buổi tối với các buổi biểu diễn đờn ca tài tử của các câu lạc bộ văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Người xem hòa lắng hồn mình trong tiếng nhạc, điệu kèn, lời ca trong cung bậc ngũ âm dặt dìu quyến rũ. Rồi các đoàn lân nhào lộn ngoạn mục, rộn ràng trong tiếng trống thúc giục lòng người. Thống chế Điều bát là người dân tộc Khmer nên có năm đoàn nghệ thuật Khmer địa phương biểu diễn các điệu múa dân gian như múa rô-băm, múa trống sa-dăm, hát dù-kê... Cũng như các buổi cúng đình khác, năm Giáp Ngọ (2014), Đoàn hát bội Minh Khai ngày nào cũng trình diễn tuần tự các vở tuồng, như: “Thạch Kim kê đả hổ”, “Ngọc kỳ lân xuất thế”, “Tiêu Anh Phụng”, “Đào Tam Xuân”... Tất cả thể hiện bản sắc văn hóa Việt, Hoa, Khmer một cách hài hòa, rất mực tôn kính ông Nguyễn Văn Tồn.
Nguyễn Văn Tồn được vua nhà Nguyễn ban chức Thống chế Điều bát, người Trà Ôn tôn gọi là “Ông”, “Ông Lớn”, lăng gọi là “Lăng Ông”. Khu lăng mộ Thống chế Điều bát được xây dựng năm Canh thìn (Minh Mạng nguyên niên, 1820), rộng khoảng 8.000m2, cách thị trấn Trà Ôn 2km với nhiều cổ thụ quý như sao, dầu, dương, da cùng các loại hoa kiểng tạo không khí mát trong, thanh thoát. Khu lăng Ông gồm hai phần chính: đền và lăng mộ.

Lăng mộ Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn với kiểu mộ táng triều Nguyễn. 
Từ ngoài nhìn vào, cổng tam quan và hàng rào quanh lăng Ông Thống chế Điều bát được xây dựng năm 1963, phục dựng năm 1994. Hai bên cổng có cặp liễn đối: “Huân danh chiếu nhật tự cập thiên thu/ Đức nghiệp sơn hà tình thương tứ hải”, tạm dịch: “Muôn đời công danh sáng chói truyền tụng hằng ngày /Sự nghiệp với non sông yêu thương bốn biển”. Bên trong khuôn viên có bức bình phong vẽ hình long hổ. Trước chánh điện là võ ca và cột cờ cao 10m treo cờ Soái. Võ ca xây dựng năm 1953 bằng vật liệu nặng, có 4 cột tròn. Các đầu mái võ ca trang trí hình đồng tiền bằng sành. Mái võ ca lợp ngói âm dương, bên trên có tượng lưỡng long tranh châu, cặp cá hóa long. Hai bên cửa võ ca đặt tượng hai kỳ lân oai dũng. Nổi bật là tấm hoành phi sơn son thếp vàng với bốn đại tự “Hộ quốc an dân”.

Bàn thờ Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. 
Chánh điện rộng khoảng 200m2, có tứ trụ nâng đỡ tạo thành mái hình bánh ít, xuyên câu. Mái lợp ngói âm dương. Đầu mái có hoa văn đồng tiền sành. Trên nóc có đôi rồng chầu nhật nguyệt. Có ba cửa vào chánh điện. Bên trên cửa chính có bảng khắc chữ nổi “Mỹ Thanh hội quán”. Hai bên cửa có cặp liễn đối diễn tả ý nghĩa Mỹ Thanh: “Mỹ đức tất hữu lâm châu liên bích hợp/ Thanh lý an nghiệp ngọc túy kim hòa năng” (Đất Thiện Mỹ luôn tốt đẹp như viên ngọc/Giồng Thanh Bạch được an cư lạc nghiệp). Giữa chánh điện là bệ thờ Hội đồng, gồm: ảnh Hồ Chủ tịch, Tả quân Lê Văn Duyệt, Bình Tây Đại nguyên soái Trương Công Định. Hai bên là lỗ bộ bằng đồng sáng bóng. Sau bệ thờ Hội đồng là hương án thờ Ông Thống chế Điều bát, gồm một khánh chạm trổ rất tinh xảo, một tráp gỗ sơn son thếp vàng đựng sắc phong, một chân dung Ông Dung Ngọc hầu Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Trên đầu khánh thờ là tấm bảng chữ vàng “Cung thánh chúc”, hai bên có 2 câu đối: “Vạn cổ uy danh lưu vương khí/ Thiên thu linh tích kiều anh phong” (Vạn năm còn uy danh tốt/ Muôn đời là vị anh hào).
Dung Ngọc hầu Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn tên thật là Thạch Duồng, sanh năm Quý Mùi (1763) tại làng Nguyệt Lãng, xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, dưới thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Tướng mạo khôi ngô, võ nghệ cao cường, tính tình cương trực, ông được Nguyễn vương phong chức cho trấn thủ ở Oai Viễn đồn (Trà Ôn) và đạo Trấn Giang (Cần Thơ), kiêm quân xuất hai phủ Trà Vinh và Mân Thít. Binh đoàn của ông chiến đấu dũng mãnh, xuất sắc. Năm 1787, ông theo chúa Nguyễn Ánh chạy sang Vọng Các (Bangkok, Thái Lan) tránh quân Tây Sơn. Năm sau, ông trở về nước, theo Lê Văn Quân đánh Tây Sơn ở bảo Ba Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh trở về nước, ông được phân công trở về Trà Vinh, Mân Thít chiêu mộ dân binh (gồm toàn đồng bào Khmer), được giao quyền làm Nội thuộc Cai đội Thống quân, đóng đồn tại Cầu Kè, Trà Ôn, tiến hành khai khẩn đất hoang trồng trọt hoa màu. Năm 1810, Cao Miên xảy ra nội chiến, quân Xiêm nhân cơ hội xâm lấn bờ cõi xứ nầy, ông phụng lệnh triều đình theo đại quân Thoại Ngọc Hầu sang chiến đấu với quân Xiêm ở thành Lavek (Cao Miên). Thắng trận, uy danh ông vang lừng và được ban ở lại trấn thủ thành Nam Vang với trọng trách bảo hộ xứ Cao Miên. Một thời gian sau, ông được trở về trấn thủ Trà Ôn, Cầu Kè. Dịp này, ông cùng dân binh ra sức khai hoang mở đất. Năm Gia Long thứ 10 (1811), ông được triệu về kinh nhận ban thưởng và được thăng hàm Thống chế, tước Dung Ngọc hầu. Năm 1819, ông được triều đình bổ vào chức Điều bát nhung vụ, dẫn một đoàn dân binh Khmer đến Châu Đốc để cùng Thoại Ngọc hầu, Tuyên Trung hầu lo việc đào kinh Vĩnh Tế dài trên 100km. Đây là con kinh có vị thế chiến lược vô cùng quan trọng về kinh tế và quân sự ở biên giới Tây Nam đất nước... Do có công lao to lớn, Nguyễn Ánh ban cho ông “tứ danh” Nguyễn Văn Tồn.

Đoàn lân Lăng Ông trổ tài trước sự háo hức dự khán của bà con. 
Do lao tâm lao lực với đất nước, với nhân dân, ngày mùng 4 tháng Giêng năm Canh Thìn (1820), Tiền quân Nguyễn Văn Tồn bị bệnh, mất tại Trà Ôn. Triều đình Huế phái đại thần mang phẩm vật vào làm lễ tế với nghi thức long trọng trong 3 ngày. Ông được triều đình sắc phong Thành hoàng Bổn cảnh Trung dũng Thiên trực. Nhân dân Trà Ôn thương tiếc, tôn kính ông như một bậc tiền hiền có công khai hoang mở cõi mảnh đất này. Năm 1828, vua Minh Mạng sắc phong ông là Trung đẳng thần, hàm ân Trung dũng Thiên trực, tước Dung Ngọc hầu.
Phía sau chánh điện là lăng mộ Ông Bà Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn, song táng theo kiểu “càn khôn hiệp đức”, được xây dựng năm 1820 có kết cấu bằng vôi và ô dước, mật ong, đường. Mộ Ông cao hơn mộ Bà. Trước mộ có tấm bình phong với hai câu đối: “Hoa di cộng ngưỡng/ Mân Quảng đồng tri ân” (Người Hoa, người Khmer đồng ngưỡng mộ/Người Việt, người Hoa đều nhớ ơn). Phu nhân Thống chế Điều bát được trọng vọng như vậy là vì lúc sinh thời đã giúp chồng nhiều công việc binh cơ và làm nhiều việc nghĩa đối với nhân dân trong vùng như xây dựng chùa, miếu, cấp gạo, thực phẩm cho dân nghèo... Bà được vua Minh Mạng ban mỹ tự Hiền thục phu nhân Thống chế đại quan chi thần vào năm 1828...
Lăng Ông Thống chế Điều bát được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1996. Hằng năm, cứ vào ngày mồng 2, mồng 3 và mồng 4 tháng Giêng âm lịch, lễ giỗ ông được tổ chức rất trọng thể, quy tụ hàng chục ngàn người dân xa gần đến cúng bái. Đây là ngày hội trùng vào dịp đầu xuân, vừa mang ý nghĩa cầu phước, vừa mang ý nghĩa văn hóa truyền thống dân gian. Lễ giỗ với các nghi thức cổ truyền: túc yết, chánh tế, tế tiền hiền – hậu hiền, xây chầu, đại bội và hát bội, tỏ lòng nhớ công lao tiền nhân trong bước đường khai hoang mở đất, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, là đạo nghĩa của dân tộc ta. Đến thị trấn Trà Ôn (huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long), đều nghe câu hát:
“Lịch thay cuộc địa Trà Ôn
Miếu Ông Điều Bát lưu tồn đến nay
Đất giồng Thanh Bạch xưa kia
Có đền Ông Lớn với bia lưu truyền”
Bài, ảnh: CÁT LỘC

 Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát


Từ quốc lộ 54 rẽ vào hướng Trà Ôn có con đường mang tên Thống chế Điều bát. Nằm cạnh con đường này có Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều bát tọa lạc trên mảnh vườn cây cao bóng mát, xung quanh có tường rào bao bọc rộng đến 8ha. 
 
  
Hai cổng chính vào Lăng Tiền quân Thống chế Điều bát /// Ảnh: Hoàng Phương
Hai cổng chính vào Lăng Tiền quân Thống chế Điều bát
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Lăng Ông Tiền quân Thống chế Điều bát có 2 cổng chính ra vào, thuộc ấp Mỹ Hòa, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 1
Hai cổng chính vào Lăng Tiền quân Thống chế Điều bát 
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Tín ngưỡng dân gian
Nguyên thủy đây là ngôi từ đường, nơi an nghỉ của vợ chồng Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn, về sau trở thành ngôi miếu thờ và được tổ chức lễ hội khá qui mô. Đây là dạng tín ngưỡng dân gian, giao lưu văn hóa giữa người Việt, Khmer và Hoa, đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa vào năm 1996.
Theo Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca chú thích của Nguyễn Liên Phong, Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn (1763-1820) tên thật là Duồng, người Khmer ở làng Nguyệt Lãng, huyện Càn Long, tỉnh Trà Vinh. Trước năm 1802 ông theo Nguyễn Ánh, được phong chức Cai đội quản đồn Xiêm binh ở Trà Ôn, có công nên được chúa Nguyễn Ánh ban quốc tính. Năm 1802 ông được thăng Cai cơ, lập đồn ở bảo Trà Ôn, kiêm quản hai phủ Trà Vinh và Mân Thít thuộc doanh Vĩnh Trấn. Đến năm 1810 vua Gia Long cho đổi đồn Xiêm binh thành đồn Uy Viễn. Năm 1811 ông được phong làm Tiền quân Thống chế Điều bát Dung Ngọc hầu, coi việc hậu cần, lương thực. Năm 1819 ông được Thoại Ngọc Hầu phân công đốc thúc dân phu đào kinh Vĩnh Tế và mất vào năm 1820.
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 2
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 3
Lăng Tiền quân Thống chế Điều bát 
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Khi ông mất, triều đình cử người đến điếu phúng, tống táng theo nghi lễ và xây cất từ đường thờ phụng. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì Thống chế Nguyễn Văn Tồn bị nhiễm bệnh dịch trong lúc tham gia đốc thúc đào kinh Vĩnh Tế. Năm đó có dịch lớn, giết chết hàng ngàn dân phu và lan rộng ở nhiều tỉnh Nam Kỳ. Vợ chồng Thống chế Nguyễn Văn Tồn mất cùng một ngày sau Tết Canh Thìn 1820.
Thống chế Nguyễn Văn Tồn có một người con tên Vy, được vua Minh Mạng phong làm Vệ úy ở đồn Tịnh Biên, Châu Đốc. Sau biến cố Lê Văn Khôi làm loạn, có người tố cáo Vy theo giặc Khôi nên bị bắt giam và chết trong ngục. Vua Minh Mạng không tiếp tục truy cứu, nhưng hậu duệ của ông bị suy sụp. Từ đó việc hương hỏa miếu Thống chế Điều bát do dân địa phương lo liệu.
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là sau khi vợ chồng Thống chế Điều bát mất thì dịch bệnh tự dưng chấm dứt. Bấy giờ người dân vùng Trà Ôn - Mân Thít cho rằng ông hiển linh phù hộ dân làng khỏi dịch bệnh nên kéo đến lăng mộ làm lễ cúng vái ông, mong được che chở và tín ngưỡng thờ ông Thống chế Điều bát xuất phát từ đó.
Khoảng năm 1904, có một vị Hương cả đứng ra trùng tu lại từ đường rồi một số người Hoa tụ họp thành lập “Mỹ Thanh hội quán” để lo việc hương hỏa cho vị công thần này và từ đường biến thành miếu thờ. Sau đó dân làng tiếp tục làm đơn xin triều đình Huế cấp sắc. Tuy nhiên, lúc bấy giờ đất Nam Kỳ đã thuộc Pháp nên mãi đến năm 1944, vào triều Bảo Đại, Thống chế Điều bát mới được phong là Quang ý Dực bảo Trung hưng Trung đẳng thần. Và đạo sắc này mãi đến năm 1950 mới về tới Vĩnh Long, được người dân tìm thấy rước về thờ.
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 4
Lăng Thống chế Điều bát được trùng tu tôn tạo nhiều lần vào các năm 1953, 1960, 1994 và gần đây nhất là năm 2005

Gian truân giữ gìn hiện vật
Về kiến trúc, phần lăng có chính tẩm, võ ca và nhà khách, được xây cất theo lối đình Nam bộ với vật liệu bằng gỗ, lợp ngói, nền gạch, vách tường. Trong chính tẩm, bàn thờ giữa thờ tượng chân dung Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn, bên phải thờ tượng phu nhân Thống chế Điều bát. Bên trái thờ Bình Tây phó tướng Nguyễn An. Trước bàn thờ chính là bàn Hội đồng thờ các danh nhân như Tả quân Lê Văn Duyệt, Bình Tây tướng quân Trương Định, Anh hùng Nguyễn Trung Trực… Việc bố trí các bàn thờ theo bố cục truyền thống của đình làng Nam bộ.
Phần mộ của Tiền quân Thống chế Điều bát và phu nhân tọa lạc phía sau lăng, được xây theo kiểu song táng, xung quanh xây tường vôi, bình phong, trụ đá… trang trí hoa văn hình lá, giao long và cặp kỳ lân đứng hầu nơi cửa. Khu vực này được giữ nguyên trạng từ xưa đến giờ.
Theo ông Nguyễn Văn Phước, Phó ban Quản lý di tích lăng thì việc đem các danh nhân vào thờ chỉ mới những năm gần đây, hồi xưa không có. Những pho tượng chân dung Tiền quân Thống chế Điều bát và phu nhân thì do nghệ nhân địa phương đắp theo hình vẽ tưởng tượng. Riêng sắc phong được cất giữ cẩn thận trong hộp, mỗi năm được thỉnh ra làm lễ cúng.
Sau khi được công nhận di tích lịch sử văn hóa, lăng Thống chế Điều bát được nhà nước hỗ trợ kinh phí trùng tu. Khu vực chánh tẩm được tô lại bằng xi măng, làm mới sân khấu, tôn tạo và lót lại nền gạch, lợp lại mái ngói, cất nhà hậu, nhà khách, đắp lại hoa văn, bổ sung hoành phi câu đối… Hiện vật xưa còn lại là sắc phong thời vua Bảo Đại, cái mão quan - tương truyền là mão của Tiền quân Thống chế Điều bát và giàn lỗ bộ bằng đồng có khắc chữ “Mỹ Thanh hội quán”.
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 5
Độc đáo đình, chùa, miếu miền Tây: Tín ngưỡng Lăng Ông Thống chế Điều bát - ảnh 6
Ngày thường vẫn có nhiều người vào lăng thắp nhang, cúng viếng 
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Nhưng theo ông Phước thì việc gìn giữ đạo sắc và chiếc mão cũng khá gian truân. Thời chiến tranh, sợ bị bom pháo làm hư hại, bà Dương Thị Vạn đã thỉnh đạo sắc và chiếc mão về nhà thờ phụng. Sau năm 1975, Huyện đội Trà Ôn mượn lăng miếu làm chỗ đóng quân. Sau đó giao lại cho Ban cải tạo Nông nghiệp huyện làm trụ sở hội họp. Lúc bấy giờ người giữ lăng là ông Nguyễn Văn Sáu tiếp tục đem sắc phong và mão về nhà thờ cúng. Vì vậy hằng năm, nhớ ngày giỗ dân làng tụ họp ở nhà ông Sáu để cúng bái.
Cũng theo ông Phước thì tín ngưỡng của người dân địa phương đối với Tiền quân Thống chế Điều bát rất lớn nên khu vực lăng không ai lấn chiếm, cây cối bị tàn phá sau chiến tranh được trồng lại. Những năm gần đây, ngày giỗ Thống chế Điều bát là ngày lễ hội lớn ở Trà Ôn. Từ đêm giao thừa, dân các nơi đổ về tham dự, có năm lên đến hàng chục ngàn người.
Trong những ngày lễ hội có nhiều sư thầy và phật tử các chùa Khmer ở Trà Ôn đến đọc kinh cầu an cùng với các lễ Túc yết, chánh tế, tế Tiền hiền, Hậu hiền, xây chầu, Đại bội theo nghi thức cúng đình của người Việt. Phần hội thì có hát bội, nhạc lễ của người Việt, múa lân, nhạc ngũ âm của dân tộc Hoa và Khmer. Do trùng với những ngày Tết Nguyên đán nên lễ giỗ Thống chế Điều bát còn mang ý nghĩa cầu tài, cầu lộc.
Điều đáng chú ý là cho đến bây giờ, ngay cả ngày thường vẫn có nhiều người, trong đó có cả nam nữ thanh niên, học sinh vào lăng Tiền quân Thống chế Điều bát thắp nhang, cúng viếng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét