Sự 'hèn nhát' vĩ đại

   Trong các bộ chính sử nước ta, có không ít những ghi chép gây tranh cãi, nhưng tốn nhiều giấy mực tranh cãi nhất có lẽ là những ghi chép về nhà Mạc.

Đại Việt sử ký toàn thư phần liên quan đến nhà Mạc, do các sử gia Lê – Trịnh viết, đã không đưa nhà Mạc thành một Kỷ riêng mà chỉ ghép làm một phần phụ của nhà Lê trung hưng, coi nhà Mạc là “ngụy” tiếm quyền. Các sách khác như Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú… khi đề cập đến nhà Mạc cũng dùng những lời lẽ không mấy tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ, có thể thấy  ĐVSKTT và các bộ sử nói trên vẫn ghi nhận tương đối khách quan một số việc làm của nhà Mạc đối với đất nước. Riêng cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì chê bai nhà Mạc cực kỳ thậm tệ và lược bỏ hết những việc làm tích cực của nhà Mạc, trừ bản di chúc của Mạc Ngọc Liễn mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần dưới.
Ông Trần Trọng Kim viết về Mạc Đăng Dung : “Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn-ở của loài người, là không có nhân-phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang-sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh-vực mặc lòng, một cái cơ-nghiệp dựng lên bởi sự gian-ác hèn-hạ như thế, thì không bao giờ bền-chặt được”.
Việt Nam sử lược là cuốn sử đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Trước đó, tất cả các bộ sử đều được viết bằng chữ Hán (cũng có cuốn viết bằng chữ Nôm như Đại Nam quốc sử diễn ca, nhưng cuốn này chỉ nêu sự kiện và nhân vật, không có nhiều chi tiết). Số đông người Việt chúng ta trong thế kỷ 20 đều biết lịch sử dân tộc từ cuốn sử bằng chữ quốc ngữ này. Một thời gian dài cuốn sách được dùng làm sách giáo khoa hoặc dựa vào đó để viết sách giáo khoa lịch sử.
Khoảng vài chục năm gần đây, một số nhà sử học đã thu thập tài liệu trong và ngoài nước và đánh giá lại nhà Mạc, thẳng thắn và có sức thuyết phục nhất là ý kiến của giáo sư Trần Quốc Vượng. Tuy vậy, những đánh giá khách quan này chỉ được công bố tại các cuộc hội thảo và đăng lẻ tẻ trên các phương tiện truyền thông, không đủ lấn át sự ảnh hưởng rộng lớn và sâu đậm của Việt Nam sử lược. Đến nỗi, gần đây chính quyền thành phố Hà Nội đã lấy hai vị vua Mạc đặt tên cho hai con đường của Thủ đô, nhưng trước khi quyết định vẫn vấp phải sự phản đối của một “nhà sử học” có tên tuổi đối với trường hợp Mạc Đăng Dung.
Tôi bắt đầu nghĩ khác về nhà Mạc khi thầy dạy sử của tôi ở Trường Đại học tổng hợp Huế nói vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước : “Thời nhà Mạc, nước ta đã bỏ ngăn sông cấm chợ”. Tôi nhớ mãi câu nói này, vì trước đó tôi học trường Sĩ quan chính trị ở Bắc Ninh, anh bạn cùng lớp mỗi khi đi phép bao giờ cũng tranh thủ mang một ba lô khoai tây từ Hà Nội về Đà Nẵng bán kiếm được một khoản chênh lệch kha khá. Cả nước lúc đó ngăn sông cấm chợ, đến nỗi chúng tôi không dám nhắc tới việc bạn mình đã “buôn lậu” mấy ki-lô khoai tây, còn Bí thư Thành ủy TP.HCM Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ phải bật đèn xanh xé rào cho bà Ba Thi “buôn lậu” đưa lúa gạo về thành phố bán cho dân để cứu đói với lời bảo đảm “Nếu chị đi tù, tôi sẽ đưa cơm”. Sau này khi nghĩ đến công cuộc đổi mới, tôi lại nghĩ đến nhà Mạc. Gần 500 năm trước, cha con ông Mạc Đăng Dung đã thực hiện những chính sách kinh tế mà ngày nay chúng ta phải thử nghiệm, phải xé rào, phải vượt qua biết bao gian truân mướt mồ hôi sôi nước mắt mới làm được, đó là các chính sách của công cuộc đổi mới.
Không chỉ xóa ngăn sông cấm chợ, các vua Mạc còn khuyến khích phát triển chợ búa, khuyến khích giao thương với nước ngoài. Nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trở thành sản xuất hàng hóa, các sản phẩm hàng hóa này được giao thương với hàng chục nước trên thế giới (có tài liệu ghi 28 nước).
Dù coi nhà Mạc là “ngụy”, nhưng ĐVSKTT vẫn phải chép : “Họ Mạc ra lệnh cấm người các xứ trong ngoài cầm giáo mác và dao nhọn. Ai vi phạm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”.
Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận xét : ““Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung đã chấm dứt thời kỳ “ức thương”, mở rộng giao thương với nước ngoài. Ông đề cao hoạt động thương mại, và thực sự đã có nhiều chính sách mới mẻ. Minh chứng cụ thể là đồ gốm sứ trở thành mặt hàng được nhiều nước mua. Hiện nay, đồ gốm sừ thời Mạc có mặt ở bảo tàng nhiều nước: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,…và con tàu đắm ở Cù lao Chàm mới được tìm thấy có rất nhiều đồ gốm sứ thời này. Điều đáng nói là các sản phẩm gốm sứ thời Mạc đều có khắc tên người làm, địa chỉ xưởng sản xuất và nơi cung tiến. Tôi  cho rằng, nếu nhà Mạc tiếp tục tồn tại và phát triển, Việt Nam có thể đã có một cuộc cải cách giống như thời Minh Trị của Nhật Bản, nhưng từ rất sớm” (Trích bài trả lời phỏng vấn báo SGGP, 6-11-2004)
Việc Mạc Đăng Dung “cướp ngôi” nhà Lê đã mục nát khi ấy là hợp quy luật, ngày nay không có gì phải tranh cãi, nhưng sự kiện gây tranh cãi nhiều nhất là việc ông quỳ gối đầu hàng nhà Minh. ĐVSKTT chép : “Mùa đông, tháng 11 (năm 1540), Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi (…) qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước…”.
Sở dĩ có việc “đầu hàng” này là do trước đó đám quân thần nhà Lê vừa “trung hung” sang tố cáo và rước quân Minh về. Lợi dụng “lời mời” này, nhà Minh đã cử Cừu Loan và Mao Bá Ôn đem đại quân sang “hỏi tội”. Đất nước đối mặt với họa xâm lăng từ phương Bắc. Khác với bối cảnh cuộc kháng chiến chống Tống thời Lê Hoàn và cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thời Trần, Mạc Đăng Dung không đủ sức vừa đối phó với nội chiến bên trong vừa chống xâm lược bên ngoài. Ông buộc phải chọn cách chịu nhục để giữ nước. Nếu đánh thì chắc chắn ông không thắng được giặc, ông có thể tuẫn tiết như một anh hùng nhưng dân tộc phải bị dày xéo dưới ách quân xâm lược. Còn việc ông “dâng đất” cho giặc thì sao ? Những khảo cứu sau này cho thấy, những cái động ông dâng cho nhà Minh là “dâng khống”, biên giới lúc ấy không rõ ràng, các tù trưởng  khi thì theo bên này khi thì theo bên kia và trong thực tế những vùng này không do ta quản. Đầu hàng giả, dâng đất khống, chịu nhục với sử sách để bảo vệ độc lập thật cho đất nước, Mạc Đăng Dung là hèn nhát hay vĩ đại ? Câu trả lời còn tùy vào những cách nhìn, tùy vào cách đọc lịch sử. Đối với tôi, nếu gọi ông là “hèn nhát” thì sự “hèn nhát” đó cũng thật là vĩ đại.
Cuối cùng, sau khi nhà Mạc bị quan quân Lê-Trịnh truy cùng giết tận, con cháu họ Mạc nhiều người phải đổi họ để sinh tồn, một số phải lánh nạn sang Trung Quốc, nhưng trước sau nhà Mạc không nhờ vả ngoại bang, càng không rước ngoại bang về dày xéo quê hương. Sự nhất quán đó thể hiện ở lời di chúc của Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn dặn vua Mạc Kính Cung trước khi lâm chung : “Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời. Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế ! Bọn ta nên tránh ra ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai con hổ tranh nhau tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng” (ĐVSKTT).
Có lần gặp thiền sư Lê Mạnh Thát, tôi hỏi ông đánh giá như thế nào về nhà Mạc, ông bảo hãy nhìn ông Nguyễn Bình Khiêm, dù học rộng tài cao nhưng dứt khoát không chịu đi thi dưới triều Lê bấy giờ đã ruỗng nát, ông chỉ đi thi khi nhà Mạc lên thay, lúc  đã hơn 40 tuổi và làm quan cho nhà Mạc. “Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là hình ảnh của nhà Mạc”, thầy Lê Mạnh Thát nói.
Ảnh: Mạc Đăng Dung trong buổi gặp sứ nhà Minh (lấy từ An Nam lai uy đồ sách)
Tự do yêu đương thời nhà Trần
   Nhà Trần là triều đại khoan dung và tự do nhất trong lịch sử dân tộc. Tự do yêu đương chỉ là một trong những biểu hiện.

Đọc lịch sử ít ai để ý vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có một “vết xấu” mà các sử gia Lê - Nguyễn chê bai. Đó là chuyện ông yêu công chúa Thiên Thành, nhưng Thiên Thành lại bị vua đem gả cho Trung Thành Vương. Trần Quốc Tuấn không chịu, “đương đêm lẻn vào tư thông với công chúa” (ĐVSKTT). Chuyện “hủ hóa” này không những không bị vua Trần Thái Tông trị tội mà còn đem Thiên Thành gả luôn cho ông. Vua Trần Thái Tông tôn trọng tự do yêu đương, nhưng Ngô Sĩ Liên cho đây là cuộc “hôn nhân bất chính”, còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì bình luận: “Trần Quốc Tuấn là người văn võ toàn tài, đủ cả trung lẫn hiếu, duy phải một vết xấu này, nên không được là người hoàn toàn. Có lẽ thói chung chạ của nhà Trần đã ăn sâu vào đầu óc người ta, đến nỗi họ cho việc ấy là tự nhiên, không có gì là quái lạ”.
Chuyện bắt đầu từ Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, người mà giáo sư Trần Quốc Vượng bảo là đã để cho dòng họ mình “bám váy” vào triều đình, từ đó khai sinh ra nhà Trần. Bà Trần Thị Dung có nhiều mối tình lãng mạn trước khi trở thành hoàng hậu của nhà Lý và sau khi nhà Trần thay nhà Lý bà lại tái giá với thái sư Trần Thủ Độ. Hai người con gái của bà với vua Lý Huệ Tông là công chúa Chiêu Thánh (tức nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng) lấy Trần Cảnh, sau đó nhường ngôi cho Trần Cảnh, và công chúa Thuận Thiên lấy anh của Trần Cảnh là Trần Liễu. Vì lo lắng cho tương lai của triều Trần khi Chiêu Thánh chậm sinh con, Trần Thủ Độ và bà đã bàn với nhau ép Trần Liễu nhường công chúa Thuận Thiên khi ấy đã mang thai về làm vợ Trần Cảnh, rồi ép Trần Cảnh phế hoàng hậu Chiêu Thánh, đem Chiêu Thánh gả cho Lê Phụ Trần. Kết quả của cuộc cưỡng ép hôn nhân trái khoáy nhất trong lịch sử này là công chúa Thuận Thiên trở thành mẹ của vua Trần Thánh Tông và là bà nội của vua Trần Nhân Tông. Bà Trần Thị Dung chính là bà ngoại và bà cố ngoại của hai ông vua anh minh này. Bà không những có công khai mở triều Trần mà còn có công lớn đối với đất nước, là người trực tiếp tổ chức hậu cần cho cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông.
Các sử gia nho sĩ thời Lê – Nguyễn đã lên án kịch liệt “thói chung chạ” này, gọi đó là “đầu têu dâm loạn”. Chuyện Trần Thủ Độ vì quốc gia đại sự mà ép Trần Cảnh lấy chị dâu của mình ngày nay có thể còn nhiều tranh cãi, bản thân Trần Cảnh lúc ấy cũng phản đối cuộc hôn nhân trái khoáy này, nhưng việc bà Trần Thị Dung và công chúa Chiêu Thánh tái giá thì rõ ràng là thể hiện sự tôn trọng khát vọng làm vợ làm mẹ chính đáng của người phụ nữ.
Phải thừa nhận vua quan nhà Trần rất “thông thoáng” trong chuyện trai gái, điển hình là chuyện của Trần Khánh Dư và công chúa Thiên Thụy. Trần Khánh Dư là một vị tướng quân tài giỏi, vua Trần Thánh Tông vì mến tài nên nhận làm con nuôi (Thiên tử nghĩa nam), được phong làm Nhân Huệ Vương. Công chúa Thiên Thụy là vợ của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, là con dâu của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thế mà Trần Khánh Dư lại ngang nhiên “thông dâm” với công chúa Thiên Thụy. Tội lớn đó không thể tha, vua lại sợ làm phật lòng Trần Quốc Tuấn, nên “sai đánh chết” Khánh Dư, nhưng lại dặn đánh nhẹ tay không để chết, sau đó tước hết quan chức đuổi làm dân thường, về làm nghề đốt than và buôn bán ở Chí Linh. Sau này Khánh Dư được vua Trần Nhân Tông phục chức, ông đã lập công lớn bằng việc đánh chìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, bẻ gãy xương sống của quân xâm lược, tạo bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Trong chuyện “thông dâm” này rõ ràng không thể là chuyện đơn phương của Trần Khánh Dư mà chắc chắn là phải có sự chủ động của công chúa, điều này cho thấy những người con gái thời Trần “thông thoáng” như thế nào trong chuyện yêu đương, chẳng khác mấy so với con gái bây giờ.
Dù “thông thoáng” trong chuyện yêu đương trai gái nhưng nhà Trần lại hết sức chú trọng bảo vệ sự bền chặt của gia đình. Bản thân các vua Trần là tấm gương về lòng hiếu thảo, về tình anh em. Không những vậy, vào tháng 5-1315, vua Trần Minh Tông ngay sau khi lên ngôi đã ban chiếu “cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được tố cáo lẫn nhau”. Lần đầu tiên trong lịch sử đã có một chiếu lệnh nhân văn như vậy. Đến thời Lê, vua Lê Thánh Tông đã kế thừa truyền thống đó và đưa vào bộ luật Hồng Đức. Tiếc rằng, truyền thống nhân văn này một thời gian dài đã bị bãi bỏ gây ra biết bao nhiêu bi kịch, điển hình là việc con tố cha vợ tố chồng thời cải cách ruộng đất, mãi cho đến năm 1999, Quốc Hội nước ta mới đưa tinh thần “người thân không tố cáo nhau không có tội” vào Bộ luật hình sự năm 2000 để kế thừa truyền thống nhân văn của tổ tiên.
Cần biết, thời nhà Trần, nho giáo chưa thống trị xã hội, tự do cá nhân chưa bị câu thúc, những người khai sinh triều Trần lại xuất thân là những người đánh cá có cuộc sống phóng khoáng. Bản thân vua Trần Thái Tông không muốn làm vua, ông coi ngai vàng như “chiếc giày rách”, ông từng rời bỏ nó lên Yên Tử, do  Trần Thủ Độ và quần thần đến cầu khẩn, lại được thiền sư Viên Chiếu khuyên “phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình” (*), ông đành miễn cưỡng lên ngôi vua trở lại, nhưng ông cũng chỉ ở ngôi đến 40 tuổi thì thoái vị. Theo gương ông, các vua Trần không ai tham quyền cố vị, không ai ở ngôi quá tuổi 40, trừ trường hợp đặc biệt là Trần Nghệ Tông 49 tuổi mới làm vua nhưng chỉ ở ngôi 2 năm thì nhường lại cho con.
Và người coi ngai vàng như “chiếc giày rách” đó đã mở ra một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc với ba lần đánh thắng đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ là quân Nguyên - Mông. Nhà Trần còn là triều đại khoan dung và tự do nhất trong lịch sử dân tộc mà tự do yêu đương chỉ là một trong những biểu hiện.

Hoàng Hải Vân
(*) Dẫn từ Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Thái Tông, NXB tổng hợp TP.HCM, 1999.
Ảnh: Một phần của bức thư họa “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” vẽ cảnh Phật Hoàng (vua Trần Nhân Tông) đang trên đường xuống núi giáo hóa chúng sinh.