Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

Trên mặt trận ngoại giao với triều đình phương Bắc

Cha ông ta từng chỉ huy liên quân Đông Nam Á chống lại phương Bắc


   Vua Chân Lạp là Hồ A Khiêm cho tướng Tham Ninh Na và vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Dĩnh cho tướng Chư Hương An thống lĩnh quân đội, mỗi nước 10 vạn người sang Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa của Đại đế Mai Thúc Loan
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta thì ngoài nghệ thuật dùng binh thì còn một nghệ thuật khác đáng được ca ngợi. Đó là chính sách ngoại giao uyển chuyển. Để đối phó với những thế lực phương Bắc mạnh hơn nhờ đất rộng người đông thì ta phải lúc nhu, lúc cương, lúc đánh kiểu tiên hạ thủ vi cường như Lý Thường Kiệt đánh vào Ung châu, khi thì dùng kế vườn không nhà trống kiểu vua tôi nhà Trần. Bên cạnh đó, ta còn biết kết hợp với việc dùng chính sách liên kết với các nước láng giềng để đối phó với phương Bắc.
Ngay từ trước thời có nền độc lập lâu dài (thời trước Ngô Quyền xưng vương), các vua nước ta đã thực hiện việc ngoại giao với các nước Đông Nam Á để chống kẻ thù chung. Năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713), Mai Thúc Loan tiến hành cuộc khởi nghĩa tại Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn (Nghệ An). Tháng 4 năm 713, Mai Thúc Loan lên ngôi vua, sử gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông cho xây thành lũy, lập kinh đô Vạn An (thuộc xã Vân Diên và thị trấn Nam Đàn hiện nay), tích cực rèn tập tướng sỹ.
Bên trong, ông cho người đi các châu huyện báo tin thắng trận và kêu gọi nhân dân 32 châu trong cả nước cùng nổi dậy phối hợp chiến đấu. Tinh thần đại đoàn kết của ông được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Ông đã tập hợp được quân của cả 32 châu để cùng đánh giặc. Sử Trung Quốc ghi chép rằng: "Mai Thúc Loan đã dấy quân 32 châu” (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện).
Về đối ngoại, theo cuốn "Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước" của Nguyễn Lương Bích, Mai Hắc Đến đã tiến hành vận động liên minh quân sự với nước ngoài để cùng đánh giặc. Đây là nét độc đáo trong kế sách đối ngoại của Mai Thúc Loan. Sử Trung Quốc ghi rằng ông đã liên minh được với các nước Lâm Ấp (thuộc Huế hiện nay), Chân Lạp (tức Campuchia ngày nay) và Kim Lân (tức Malaysia ngày nay) (Tân Đường thư (sách sử Trung quốc), q.207, Dương Tư Húc truyện).
Truyền thuyết của ta kể lại cụ thể: Mai Đại Đế khởi nghĩa năm Quý Sửu (713) thì năm sau là năm Giáp Dần (714) , cử một tướng là Tiết Anh làm Lâm Ấp thông vấn sứ và một tướng là Hoắc Đam làm Chân Lạp cáo dự sứ. Hai tướng chính thức đi sứ sang hai nước Lâm Ấp, Chân Lạp để thông báo chiến thắng và đề nghị hai nước liên minh quân sự cùng đánh giặc. Với hai nước láng giềng phía nam này thì ngay từ khi chuẩn bị khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã cho một tướng là Ba Đội Hầu sang liên hệ. Theo truyền thuyết thì hai nước Chân Lạp và Lâm Ấp đều nhiệt liệt hưởng ứng liên minh.
Vua Chân Lạp là Hồ A Khiêm cho tướng Tham Ninh Na và vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Dĩnh cho tướng Chư Hương An thống lĩnh quân đội, mỗi nước 10 vạn người sang Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ đại nghĩa của Đại đế Mai Thúc Loan (Chư Cát Thị: Tân đính hiệu bình Việt điện U linh tập).


Con số 10 vạn người có vẻ hơi khó tin nhưng ngày xưa, việc phao lượng quân lớn cho kẻ thù khiếp sợ cũng là bình thường. Nhưng cũng không ngạc nhiên nếu Chân Lạp và Lâm Ấp huy động một lượng quân lớn sang chống phương Bắc cùng quân của Mai Hắc Đế. Các nước phía nam hiểu rằng thời điểm đó nếu người Việt chống được làn sóng đô hộ từ phương Bắc thì chính họ sẽ thoát khỏi nguy cơ bị đô hộ. Cái này chính là giúp người để giúp mình.
Sách An Nam chí lược cũng xác nhận: "Sơ niên hiệu Khai Nguyên (713-714), của Huyền Tông, Soái trưởng Giao Châu là Mai Thúc Loan làm phản, hiệu xưng là Hắc Đế, ngoài thì kết giao với quân của Lâm Ấp và Chân Lạp, tập họp được 30 vạn quân sĩ, chiếm cứ nước An nam. Vua Huyền Tông ra lời chiếu sai quan Tả Giam Môn Vệ tướng quân là Dương Tư Miễn và quan đô hộ là Nguyên sở Khách qua đánh".
Sau thời Mai Hắc Đế là đến lượt Phùng Hưng chống lại phương Bắc. Cuốn Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước ghi: "Năm 769, người Côn Lôn, tức người bán đảo Mã Lai và người Chà Và, tức người đảo Ja-va thuộc Indonesia ngày nay, cùng đưa quân vào đánh lực lượng đô hộ nhà Đường trên đất nước ta. Họ đánh vào tới sào huyệt của bọn đô hộ tại Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay). Được sự giúp sức cùng chiến đấu của hai đạo quân nước ngoài, nghĩa quân Phùng Hưng phất cờ khởi nghĩa, chiếm giữ châu Đường Lâm và các châu huyện xung quanh (gồm vùng Hà Nội bây giờ), xóa bỏ chính quyền địch xây dựng chính quyền độc lập của ta".

Đinh Tiên Hoàng tự coi là cửa trên khiến phương Bắc bực dọc

Đền thờ vua Đinh
   Trong các văn bản quan hệ ngoại giao với nhà Tống thì Đinh Tiên Hoàng lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà Tống. Kiểu đó thực không khác gì coi Triệu Khuông Dẫn như bậc con cháu cả.
Trong lịch sử Việt Nam, triều Đinh tồn tại trong một thời gian không dài, chỉ 12 năm từ 968 đến 980 và cũng chỉ có duy nhất một đời vua thực sự nắm quyền là Đinh Tiên Hoàng (Đinh Phế Đế là vua thứ 2 chỉ ở ngôi được 1 năm khi còn quá nhỏ rồi bị truất). Tuy nhiên, những dấu ấn của triều Đinh thì không phai mờ trong lịch sử dân tộc. Triều Đinh mà cụ thể là vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt nền móng ngoại giao ngang bằng và vững chắc của dân tộc ta trước các triều đại Trung Quốc.
Dấu ấn thể hiện sự ngang bằng của Đinh Tiên Hoàng ở việc ông đặt tên nước (quốc hiệu) là Đại Cồ Việt. Đại là từ Hán-Việt và có nghĩa “vĩ đại”; Cồ là một chữ Việt cũng có nghĩa “to lớn, vĩ đại“. Cần nhớ trước đó và sau này các triều đại ở Trung Quốc chỉ xưng quốc hiệu là Đại Tần, Đại Tấn, Đại Đường, Đại Tống... thì cũng chỉ có một chữ đại. Riêng Đinh Tiên Hoàng lại dùng đến hai chữ Đại và Cồ ở trước tên nước thì có lẽ nhà vua không chỉ muốn nước ta sánh ngang với phương Bắc mà còn kỳ vọng to lớn hơn, vĩ đại hơn.
Ngoài ra, vua còn tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế. Trước đó trong lịch sử thì cũng có hai vua nước ta xưng đế chính là Lý Bí (Lý Nam Đế) và Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế). Còn các vua khác chỉ xưng Vương như Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương), Phùng Hưng (được con tôn là Bố Cái đại vương)... Đến ngay như Ngô Quyền sau khi đánh tan quân Nam Hán mở ra thời kỳ độc lập lâu dài thì cũng mới chỉ xưng là Ngô Vương (Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục). Còn nhà họ Khúc hay Dương Đình Nghệ tuy đã mở thời kỳ người Việt làm chủ đất Việt nhưng chỉ xưng là Tiết độ sứ để khỏi phát sinh lôi thôi với chính sách bành trướng của triều đình phương Bắc. Theo quan điểm của phương Bắc thời đó thì chỉ có vua của họ mới được xưng là Đế còn các nước xung quanh chỉ được xưng là Vương, tức dưới Đế một bậc.
Các vua nước ta là Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế tự xưng Đế là để khẳng định ta không phụ thuộc gì với triều đại bên Trung Quốc nhưng Đinh Tiên Hoàng lại còn tiến xa hơn một bước khi xưng là Hoàng Đế. Danh Hoàng Đế là do Tần Thủy Hoàng nghĩ ra, chữ Hoàng có nghĩa là người thống trị bậc cao nhất, chữ Đế trước đó chỉ dùng để gọi Trời mà không dùng để gọi Vua. Tần Thủy Hoàng muốn khẳng định mình có uy quyền thống trị toàn bộ thế gian vì đã thôn tính được 6 nước khác thống nhất Trung Hoa qua việc đổi xưng Hoàng đế. Do vậy có thể thấy Đinh Tiên Hoàng khi xưng Hoàng đế cũng muốn khẳng định ông có uy quyền thống trị không kém gì các vua ở phương Bắc.
Hai năm sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi thì Tống Thái Tổ (tức Triệu Khuông Dận) bắt đầu xua quân xuống phía nam đánh Nam Hán. Năm 971, Nam Hán bị diệt và biên giới Tống sát với nước ta. Ngay từ đó, hai bên Việt - Tống đã có ngoại giao qua lại. Cuốn Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước của Nguyễn Lương Bích ghi nhận: "điều đặc biệt trong đường lối, phong cách ngoại giao của Đinh Tiên Hoàng là ông vẫn làm vua, vẫn cầm quyền trị nước, nhưng trong các văn bản quan hệ ngoại giao thì ông lại cho con trai là Đinh Liễn đứng tên, tức là ông cho con ông ra mặt giao thiệp với hoàng đế nhà Tống". Kiểu đó thực không khác gì coi Triệu Khuông Dẫn như bậc con cháu cả. Trên thực tế, Đinh Tiên Hoàng sinh năm 924 thì cũng chỉ hơn Triệu Khuông Dẫn 3 tuổi. Thái độ đó của Đinh Tiên Hoàng, có thể triều Tống không bằng lòng, nhưng nhà Tống chưa làm gì được vì khi đó phải bận dẹp nội chiến.
Về sau, nhà Nguyên bên Trung Quốc cũng cay cú với việc nhà Trần chỉ cho vua con ra tiếp thư, nhận chiếu của họ chứ vua cha tức Thái Thượng hoàng thì không thèm tiếp. Thật ra, nhà Trần có truyền thống nhường ngôi cho con sớm để con lo việc điều hành nước nhưng quyền lực tối cao vẫn trong tay Thái thượng hoàng. Chỉ có điều theo chính danh, vua con là người đứng đầu triều đình thì chịu trách nhiệm làm việc với triều đình phương Bắc là điều đương nhiên. Nhưng phương Bắc lại cho rằng bị người nước ta chơi xỏ nên suốt một thời gian trong các văn thư qua lại, họ không chịu thừa nhận vua nước ta là vua mà chỉ coi là thái tử, và coi thái thượng hoàng mới là vua.

Sứ giả phương Bắc bị hù dọa không dám bước chân vào nước ta

Rất khó khăn để bắt sống cọp mang về hù sứ nhà Tống (ảnh minh họa)
   Trong bài viết trước, chúng tôi có kể sơ qua câu chuyện vua Lê Đại Hành mang cọp ra hù sứ giả nhà Tống khiến hai viên Tả chính ngôn là Tống Cảo, Hữu chính ngôn là Vương Thế Tắc tim đập chân run. Nhưng đó không phải là lần duy nhất và cũng không phải là lần đầu tiên mà triều đình nước ta cách đây 1.000 năm dọa nạt sứ phương Bắc.
Nếu tính từ thời độc lập bắt đầu do Ngô Quyền tạo dựng thì lần đầu tiên triều đình ta hù dọa sứ phương Bắc phải là Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền. Năm 951, sau khi dẹp loạn Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn lên ngôi vua lấy hiệu là Nam Tấn Vương. Năm 954, Ngô Xương Văn cho sứ sang giao hảo với Nam Hán. Vua Nam Hán lúc ấy là Lưu Thịnh cho ngay cấp sự trung là Lý Dư làm sứ sang nước ta để dò xét tình hình nước Việt toan tính âm mưu kiếm cớ xâm lược tiến tới chiếm đóng nước ta.
Được tin ấy, Ngô Văn Xương cho ngay người đi sang chặn sứ Nam Hán lại trước khi tới biên giới, và dọa sứ Nam Hán rằng: giặc biển đương làm loạn, đường đi rất khó, đừng sang mà chết! (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Sứ Nam Hán hoảng sợ quay về. Mộng bành trướng của Nam Hán tới đây thật sự chấm dứt.
Phải nói rằng việc Ngô Xương Văn hù sứ giả nhà Nam Hán khi đó là rất cần thiết và kịp thời. Nếu để Lý Dư sang dò xét tình hình nước ta khi đó thì thật là hỏng hết đại sự. Cần nhớ là thời điểm đó, nước Việt đang loạn lạc trong khi Ngô Xương Văn tự xét mình không thể có tài cầm quân như cha là Ngô Quyền. Bản thân Ngô Xương Văn dẹp được Dương Tam Kha giành lại được ngôi vương cũng nhờ mưu chứ không phải nhờ dũng. Nếu để phương Bắc thấy rõ tình hình nước ta đang chia 5 xẻ 7 mà tiến quân thì e rằng cơ nghiệp của Ngô Quyền đã tan thành mây khói.
Sau nhà Ngô đến nhà Đinh, rồi đến thời Lê Hoàn hay Lê Đại Hành. Đến thời vua Lê Hoàn thì giang sơn đã thống nhất, có thể yên tâm tiếp sứ Trung Quốc. Nếu sứ thần là người biết điều như Lý Giác thì ta cũng rất lịch sự mà dùng cao tăng Đỗ Thuận để đối đáp. Nhưng nếu sứ thần hống hách ngạo mạn thì ta cũng 'trừng trị' thẳng thừng.
Năm 990, vua Tống lại cho một đoàn sứ giả sang ta, mang chiếu thư của vua Tống phong thêm chữ trong chức cho Lê Hoàn. Việc chỉ có thế mà nhà Tống phái một đoàn sứ giả đi, đứng đầu là Tống Cảo chánh sứ và Vương Thế Tác phó sứ. Hai viên chánh, phó sứ này tỏ ra ngạo mạn, hống hách. Chúng báo sang là ta phải cho thuyền sang đón chúng tại Liêu Châu (thuộc Quảng Đông).
Ta đáp lại bằng cách cho thuyền sang đón nhưng đi từ Quảng Đông về đến Hoa Lư mà mất cả tháng trên thuyền. Trước hết là để hành xác cho mấy vị sứ giả ngạo mạn này bớt tác oai tác quái. Quan trọng hơn là để cho chúng cảm thấy muốn dùng thủy quân tiến đánh nước ta thì gian khó vô cùng.
Sứ giả đến nơi thì được tiếp đón hết sức sơ sài.  Nơi sứ quán đồ cung cấp không được đầy đủ. Khi sứ bộ nhà Tống sắp vào thành thì mới có gian nhà lợp tranh đề chữ “Mao kính dịch” (trạm qua đường lợp tranh). Cho sứ ở đơn sơ nhưng vua Lê Hoàn lại kỳ công cho quân tinh nhuệ diễu võ giương oai làm cho sứ nhà Tống mất mật. Bởi vậy khi đưa chiếu vua Tống sang, vua Lê Hoàn không thèm lạy mà bảo đang đau chân. Sứ Tống cũng phải im.
Ấy vậy mà lúc sau, vua Lê Hoàn cho đặt yến tiệc tại bãi biển, để chủ và khách vừa ăn yến, vừa liên hoan múa hát, lấy trò bắt cá làm vui. Rồi Lê Hoàn tuy là vua, nhưng tự cởi mũ áo, bỏ giày, đi chân không lội xuống nước đâm cá không hề có dấu hiệu đau chân gì cả.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sau bữa tiệc ở bãi biển, vua Lê Hoàn lại cho người khiêng một con trăn lớn, dài vài trượng đến sứ quán, nói với sứ nhà Tống: "Nếu ăn được, sẽ cho làm cỗ để mời". Sứ khiếp sợ, không dám nhận. Một buổi khác, Lê Hoàn cho dắt hai con hổ tới sứ quán để cho sứ thần vui chơi. Sứ càng sợ, không dám nhận (Những chuyện ta tiếp sứ Tống Cảo đều có ghi trong tờ tâu của Tống Cảo với vua Tống và chép trong Tống sử).
Khi Tống Cảo, Vương Thế Tác xin phép về nước, Lê Hoàn bảo thẳng vào mặt sứ: "Sau này có quốc thư thì nên để giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa" (Đại Việt sử ký toàn thư). Vua Tống biết chuyện cũng phải bằng lòng sau khi nghe 2 sứ kể về sức mạnh quân sự của Đại Việt lúc ấy.

Vua Tống chém tướng kiếm chuyện ngoài biên giới để làm vui lòng Đại Việt

   Việc vua Lê Hoàn lên ngôi thì trong giới sử học đời sau còn nhiều ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, các sử gia đời sau đều phải thừa nhận vua Lê Đại Hành là người giỏi việc dùng binh mà cũng là người rất cương quyết trong vấn đề ngoại giao.
Trong bài trước, chúng tôi đã nói về việc vua Lê Đại Hành hù dọa sứ giả nhà Tống khiến họ về nước mà tim đập chân run, khiến vua Tống cũng phải thầm khiếp sợ sức mạnh quân sự nhà Tiền Lê. Nhưng vua Lê Hoàn không dừng lại ở hù sứ giả mà còn đem quân nắn gân nhà Tống.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép: Bấy giờ (năm 996)  nhà Tống ngại việc chinh chiến, vua cậy có núi biển hiểm trở, hơi buông thả cho dân biên giới lấn cướp vào cõi của nhà Tống. Mùa xuân năm ấy, Chuyển vận sứ Lộ Quảng Tây nước Tống là Trương Quan, Binh mã giám áp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu là Vệ Chiêu Mỹ đều tâu rằng chiến thuyền của Giao Chỉ hơn trăm chiếc, xâm phạm trấn Châu Hồng, cướp bóc cư dân và lương thực rồi đi.
Nếu chỉ dựa vào đoạn này thì khó biết được vua Lê Hoàn có cho người sang Tống quấy rối hay là quan quân nhà Tống báo cáo bậy. Nhưng về sau, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thừa nhận: Bấy giờ nhà vua dong túng dân nơi biên giới lấn cướp bờ cõi nhà Tống. Chuyển vận sứ Quảng Tây lộ là Trương Quan, và binh mã giám áp ở trấn Như Hồng là Vệ Chiêu Mỹ đem việc đó tâu về triều, vua Tống ý muốn vỗ về cho yên, nên cũng bỏ qua không hỏi đến.
Thêm chi tiết nữa cho thấy vua Lê Hoàn bật đèn xanh cho việc để quân vượt biên vào Tống là chi tiết được Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu nước ta lại đem 5 nghìn hương bình xâm lược Ung Châu nước Tống". Riêng chữ lại ở câu trên là đủ thể hiện trước đó đã có chuyện đưa quân vào Tống. Hơn nữa, mang đến 5.000 quân vào đất Tống thì khó có chuyện không thỉnh thị ý kiến từ Hoa Lư (lúc đó kinh đô nước ta vẫn là Hoa Lư).
Những chi tiết đó chứng tỏ vua Lê Hoàn rất coi thường quan quân nhà Tống, sau khi đã đánh tan quân Tống, giết chết tướng giặc Hầu Nhân Bảo năm 981. Ngoài vụ khủng bố tinh thần sứ giả về sức mạnh quân sự Đại Việt khi đó thì vua Lê Hoàn còn rất chịu khó sang thông tin cho nhà Tống những vụ quân ta đánh tan quân Chiêm Thành để cho nhà Tống thấy sức mạnh Đại Việt khi đó, dập tắt dã tâm.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: Năm ấy (Đinh Dậu, 997), nước Chiêm Thành cướp nơi biên giới. Nhà vua đi đánh, quân Chiêm thua chạy, mới  đem sản vật  địa phương sang biếu nhà Tống, nhân tiện dâng biểu  đại lược nói: "Giao Châu chúng tôi giáp giới với Chiêm Thành, trong một hai năm nay, Chiêm Thành thường khuấy rối miền lân cận, cướp nhà thuế hộ, xâm lấn lương dân; nước tôi thường phải dùng đến binh khí để ngăn cản chúng". Nhà Tống đáp lại một cách ưu hậu, ban cho đai ngọc, áo giáp và ngựa.
Vì vua Tống ngại sức mạnh quân sự Đại Việt nên dù quan lại báo cáo việc Lê Hoàn cho quân khiêu khích ở biên giới cũng không dám làm gì. Khi sứ nhà Tống sang có ý trách móc việc này thì vua Lê Hoàn đáp rất kẻ cả rằng: "Trước đây xảy việc cướp trấn Như Hồng là do giặc ở ngoài biên giới, chẳng hay hoàng đế có biết cho không? Giả sử Giao Châu chúng tôi nổi lên chống lại, thì trước hết kéo sang Quảng Châu, rồi vào mọi quận ở Mân Châu, chứ có khi nào chỉ nhằm một trấn Như Hồng mà thôi?".
Vua Tống là thế nhưng các tướng ngoài biên giới thì không, tìm cách kiếm chuyện với nước ta. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: (997) Trương Quan lại dâng thư nói rằng nhà vua bị họ Đinh xua đuổi, thu nhặt đám quân còn sót, ra ở nơi hải đảo, cướp bóc để độ thân, nay đã mất rồi. Vua Tống sai thái thường thừa là Trần Sĩ Long làm Thái phóng sứ, sang dò hư thực, mới biết những lời Trương Quan đều dối trá cả, bèn xuống chiếu nghị tội bọn Trương Quang. Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ hơn: Nhà Tống xử tội bọn Trương Quan, Quan đã ốm chết, chém Vệ Chiêu Mỹ ở trấn Như Hồng.
Bằng cách này, nhà Tống muốn cho Đại Việt thấy họ không dung túng cho các viên tướng ngoài biên xách động bang giao hai nước. Vua Lê Đại Hành nhận thấy nhà Tống không còn dám vọng động đến Đại Việt nên cũng không cần phải làm phép thử nắn gân nào thêm.

Vua Tống sợ trái ý Ngọa Triều nhà Lê


Vua Lê Ngọa Triều bị hậu thế nhìn thiếu khách quan
   Đại Việt sử ký toàn thư chép: (Vua Long Đĩnh) sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại, nhưng sợ trái ý vua, sai đợi cho sứ nước ta về rồi thả ra biển. Vua lại xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua Tống bằng lòng cho.
Nhắc đến vua Ngọa Triều (từ giờ gọi là Long Đĩnh cho hợp phép ghi sử) nhà Tiền Lê thì chúng ta thường liên tưởng đến một vị hôn quân với những chuyện hoang dâm bạo ngược. Nhưng điều này không hẳn đã đúng vì sử sách mô tả ông do các sử gia nhà Lý viết thì không khách quan còn về sau này thì lại không có tư liệu để khắc họa chính xác một đấng quân vương trong lịch sử. Những việc như kiểu vua hành hạ tù binh bằng cách nhốt trong cũi cho thủy triều dâng lên thì chết đuối (khá giống cách tử hình của IS bây giờ) hay cho thuồng luồng ăn thị, bắt (tù nhân) treo lên cây cao rồi sai người ở dưới chặt cây, rồi chuyện, nhà vua đặt mía trên đầu bậc tu hành là đức Tăng thống Quách Mão mà róc, rồi giả vờ sút tay dao phập vào đầu Quách Mão chảy máu ra, vua cười rầm lên.... mà Việt Nam sử lược dẫn đều cần phải bàn lại trong dịp khác.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ nói về chính sách ngoại giao của Long Đĩnh. Long Đĩnh vốn là con thứ của vua Lê Hoàn, cũng không được vua chọn là người truyền ngôi. Sau khi Long Việt (tức Lê Trung Tông) nối ngôi được 3 ngày thì Long Đĩnh sai người hại chết. Mấy anh em còn đánh nhau mãi rồi Long Đĩnh mới giữ vững được ngôi. Có thể thấy việc Long Đĩnh lên ngôi là không chính danh và đó là cái cớ mà nhà Tống có thể mang quân vào với chiêu bài dẹp phản thần, tặc tử...
Thực tế thì quan quân nhà Tống khi đó chưa khi nào thôi dã tâm xâm chiếm nước ta. Đại việt sử ký toàn thư chép: Mùa hạ, tháng 6 (1006), trí Quảng Châu là Lãng Sách dâng thư nói: "Này nhân Giao Chỉ có loạn, xin cho thần và Duyên biên an phủ sứ Thiệu Việp cùng nhau bàn tính công việc tâu lên. Bọn thần dựa theo lời của bọn Hoàng Khánh Tập hơn nghìn người ở Giao Chỉ, do Liêm Châu4 đưa đến, nói  rằng các con của Nam Bình Vương (tức vua Lê Hoàn) đều đặt trại sách phân tán các nơi, quan thuộc lìa tan, nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp, bọn Khánh Tập nguyện làm tiên phong, có thể hẹn ngày lấy được. Nếu triều đình chuẩn lời thỉnh cầu, thì xin lấy binh đóng đồn ở các châu tuộc Quảng Nam (thuộc Quảng Đông, Quảng Tây) và cho thêm 5 nghìn quân mạnh ở Kinh Hồ, thủy bộ cùng tiến, có thể bình định được ngay".
Cũng theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Từ cuối niên hiệu  Ứng Thiên (1004), Minh  Đề vâng mạng sang Tống, vì trong nước rối loạn, không về được, phải đóng lại Quảng Châu. Đến đây, vua Tống xuống chiếu bảo An phủ sứ là Thiệu Việp cấp người và thuyền để cho về. Thiệu Việp nhân dịp này, tính chiếm lấy nước ta, bèn dâng bức địa đồ thuỷ lục từ Ung Châu đến Giao Châu. Vua Tống đưa bức địa đồ ấy cho các cận thần xem và bảo: Giao Châu là nơi lam sơn chướng khí, nếu đem quân sang đánh, chắc sẽ tổn hại nhiều. Vậy ta chỉ nên cẩn thận giữ lấy đất đai của ông cha".
Vua Tống khi đó một là lo chống các thế lực từ phía bắc nên không muốn phát động chiến tranh phía nam, hai là cũng sợ sau lần Hầu Nhân Bảo thua Lê Hoàn (cũng tranh thủ lúc nước ta rối ren đến xâm lược và thảm bại). Nhưng nếu chỉ cần nhận ra nước Việt kiệt quệ thì nhà Tống sẽ không ngần ngại xuất binh để xâm lược.
Và trong chính sách ngoại giao, vua Long Đĩnh rất khôn khéo để chặn dã tâm của nhà Tống, làm vua Tống không dám mơ tưởng xâm lược nước ta. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: (1007) Nhà vua sai Minh Sưởng và chưởng thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh sách đại tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả.
Đại Việt sử ký toàn thư nói rõ thêm: Sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại, nhưng sợ trái ý vua, sai đợi cho sứ nước ta  về rồi thả ra biển. Vua lại xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua Tống bằng lòng cho.
Khi đọc đến đây thì ta chỉ thấy vua Tống lúc đó cũng sợ làm mếch lòng Đại Việt nên không dám khước từ lễ vật, phải tặng đồ hậu hĩnh. Nhưng suy nghĩ thêm thì chúng ta có thể thấy ẩn ý của Long Đĩnh trong việc đổi chác khi cho người đi sứ. Việc tặng tê ngưu (thực ra là tê giác) là bằng chứng để cho nhà Tống thấy bờ cõi Đại Việt đã yên, dẹp được những vùng xa xôi nên mới có vật quý hiếm là tê giác để mang sang biếu.
Việc xin kinh tạng cũng có hàm ý sâu xa. Theo quan niệm của người Trung Quốc xưa thì mỗi triều đại giai đoạn đầu sẽ là dùng "võ công" để lấy thiên hạ, khi thiên hạ bình yên thì sẽ thực hiện chính sách vỗ về gọi là "văn trị". Việc Long Đĩnh xin kinh tạng là muốn cho nhà Tống thấy Đại Việt đã thanh bình dẹp xong binh đao và giờ ổn định đến mức có thể tập trung cho "văn trị". Nhưng Long Đĩnh cũng không quên xin bộ giáp trụ để khẳng định mình là người thạo việc binh chẳng kém gì cha.
Qua đây có thể thấy Long Đĩnh là vua giỏi, tiếc thay mất khi mới chưa đầy 24 tuổi và lại có quá ít sách sử tài liệu ghi chép về con người thực của ông trong một giai đoạn lịch sử đầy biến cố.

Đại Việt tặng ngựa, nhà Tống thất kinh

   Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà Tống.
Trong phần viết về ngoại giao với phương Bắc thời vua Lê Ngọa Triều thì chúng tôi có nói chuyện tặng quà nhà Tống để gửi thông điệp ngầm. Chẳng hạn tặng con tê ngưu là bằng chứng để cho nhà Tống thấy bờ cõi Đại Việt đã yên, dẹp được những vùng xa xôi nên mới có vật quý hiếm là tê giác để mang sang biếu. Hay xin kinh tạng là muốn cho nhà Tống thấy Đại Việt đã thanh bình dẹp xong binh đao và giờ ổn định đến mức có thể tập trung cho phát triển văn hóa.
Đến thời Lý Thái Tổ, ta lại tặng cho nhà Tống 100 con ngựa khiến vua tôi nhà Tống thất kinh. Thời điểm quyền lực nhà Tiền Lê được chuyển giao cho nhà Lý thì mọi việc diễn ra khá êm thấm chứ không nhọc lòng như Đinh Tiên Hoàng phải đánh bại 12 sứ quân hay Lê Hoàn phải dẹp quân Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Chỉ có điều, mỗi khi chính sự nước ta có gì không yên thì phương Bắc lại nhòm ngó.
Ban đầu Lý Thái Tổ cho sứ sang giao hảo với nhà Tống. Bọn triều thần nhà Tống có ý muốn từ chối, không nhận quan hệ với triều Lý, tức là có ý muốn kiếm chuyện với nước ta. Vua Tống tuy tiếp sứ ta nhưng vẫn dò xét.
Thực ra, nhà Tống lúc đó nhiều việc phải lo nên cũng không thể nào kiếm cớ gây hấn với nước ta. Đặc biệt, sau lần thua Lê Hoàn năm 981 (thời điểm Đại Việt đang rối ren vì thay đổi triều chính) thì nhà Tống không dám mang quân xuống giao chiến với nước ta. Thay vào đó, nhà Tống thi hành chính sách kiểu kích động nước khác đánh thử sức mạnh Đại Việt. Chỉ khi nước Việt tỏ ra yếu kém thì lúc đó, triều Tống sẵn sàng động binh.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Giáp Dần,  [Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014], (Tống  Đại Trung Tường Phù năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà Tống.
Đáng tiếc là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư không ghi rõ quân Man là người nước nào. Còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục lại ghi là quân Mán và kèm lời chua rằng sách An Nam chí của Cao Hùng Trưng, chép Mán là chỉ người ở Hạc Thác. Cuốn lược sử ngoại giao các triều trước mô tả sự kiện này là "Dương Trương Huệ và Đoàn Kính Chi đem 20 vạn quân Hạc Thác (là thổ dân vùng Tả giang, Hữu giang, Quảng Tây), tiến sang đánh cướp vùng Cao Bằng". (Theo  Minh sử, Nam Chiếu cũng có tên gọi nữa là Hạc Thác)
Dư địa chí Biên phòng sau này thì ghi "Năm Giáp Dần (1014), người châu Vị Long lại làm phản, dẫn đường cho tướng nước Nam Chiếu (nay thuộc tỉnh Vân Nam - Trung Quốc) là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn quân vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân bày thế trận gọi là trại Ngũ Hoa".  Nhưng thời điểm đó, nước Nam Chiếu đã bị thay thế bằng họ Đoàn và đổi tên nước là Đại Lý (ở Vân Nam, Trung Quốc hiện giờ).
Nhưng dù thế nào thì có thể tin rằng quân một nước chư hầu nhà Tống khi ấy đã phát động một cuộc chiến khá quy mô nhắm vào Đại Việt. Thường các chư hầu giáp Tống nếu không được nhà Tống bật đèn xanh thì khó có chuyện động binh đao lớn như vậy. Sau này, nhà Tống còn nhiều lần kích động khác gây khó khăn trên biên giới Đại Việt.
Chỉ có điều đám quân của Dương Trương Huệ và Đoàn Kính Chi không gây khó khăn cho nhà Lý khi bị Dực Thánh vương (em trai Lý Thái Tổ) dẹp tan. Việc nhà Lý mang gửi biếu cho nhà Tống 100 con ngựa chính là gián tiếp thông báo cho nhà Tống biết cuộc xâm lấn vào Đại Việt đã bị dẹp tan, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Đồng thời, đây là cách khoa trương sức mạnh quân sự của Đại Việt, răn đe ý định nhòm ngó phương Nam của nhà Tống. Sau khi biết chuyện, vua Tống thay đổi hẳn thái độ với Đại Việt.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, mọi khoản cung đốn dọc đường đều được chu cấp đầy đủ". Rõ ràng, muốn được nhà Tống tôn trọng thì triều đình nước ta phải cho họ thấy sức mạnh và ý chí quật cường. Còn nếu tỏ ra yếu ớt thì chẳng những bị coi thường mà còn nằm trong danh sách những vùng đất mà phương Bắc muốn thôn tính đầu tiên.

Hai nhà sư Việt bẻ gãy dã tâm của phương Bắc

   Đọc qua thì thấy bài thơ tả ngỗng chỉ thấy 2 người tả ngỗng nhưng bên trong thì có tiếng dọa nạt của sứ giả phương Bắc và có lời đáp trả vang tiếng binh khí của 'người lái đò' phương Nam.
Trong lịch sử ngoại giao giữa Việt Nam và các triều đại phương Bắc thì ngoài việc đấu võ, việc đấu văn giữa hai bên cũng có rất nhiều sự kiện hay được ghi vào chính sử. Nếu đấu võ thể hiện sức mạnh quân sự và lòng dũng cảm của người Việt thì đấu văn tuy trầm lắng hơn nhưng nó lại thể hiện sự thông minh và ý chí của người Việt.
Đại việt sử ký toàn thư chép: Năm Đinh hợi (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngửa mặt nhìn chân trời).
Pháp sư dương cầm chèo, theo vần làm nối đưa cho Giác xem:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
(Nước lục phô lông trắng,
Chèo hồng sóng xanh bơi).
Sử chỉ chép vậy mà không chua gì thêm. Đọc qua thì thấy bài thơ này chỉ thấy 2 người tả ngỗng nhưng bên trong thì có tiếng dọa nạt của sứ giả phương Bắc và có lời đáp trả vang tiếng binh khí của 'người lái đò' phương Nam.
Trước hết phải biết Lý Giác là ai? Lý Giác được Tống Hy Tông phong là Quốc tử giám bác sĩ, là một văn thần, học vấn rộng, thơ văn giỏi. Đưa Lý Giác đi sứ thì ngoài việc để thăm dò tình hình Đại Việt, nhà Tống còn muốn xem nhân tâm Đại Việt thời điểm rối ren lúc này thế nào? Người phương Bắc muốn xem rằng sau khi Lê Hoàn lên ngôi thay họ Đinh thì sĩ phu Việt có ủng hộ không? Nếu nhận thấy trong triều của Lê Hoàn không có những người cơ trí thì tức là sĩ phu Đại Việt đã quay lưng. Khi ấy thì nhà Tống sẽ càng củng cố thêm quyết tâm thôn tính Đại Việt.
Lần này, muốn để cho sứ Tống thấy nước ta là một nước thi thư, có nhiều nhân tài, nhiều trí thức nên Lê Hoàn mới cho nhà sư tên Thuận ra ứng phó. Nhà sư này về sau được dân chúng biết đến Pháp Thuận (914-990) tên thật là Đỗ Pháp Thuận, là thiền sư đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. nổi tiếng học rộng, thơ hay. Khi nhà Tiền Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Khi sứ Tống đến thì ông lại ra giúp nước
Khi thấy Lý Giác ngâm 2 câu thơ tả ngỗng
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
thì người ta tưởng sứ nhà Tống chỉ... tả ngỗng nhưng hóa ra không phải. Cái câu ngưỡng diện hướng thiên nha cho thấy  sứ Tống đang ám chỉ vua tôi nhà Tiền Lê như bầy ngỗng đang hướng đến mặt trời (Tống tự coi mình là thiên tử mà).
Lập tức sư Pháp Thuận đáp là
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
thì sứ nhà Tống chỉ biết lấy làm kinh hãi. Trước hết, Lý Giác ngâm thơ mượn theo ý 2 câu đầu của bài Vịnh Nga do Lạc Tân Vương làm từ 3 thế kỷ trước. Chẳng ngờ, sư Pháp Thuận cũng mượn luôn 2 câu sau của bài Vịnh Nga nói trên để đáp trả để cho sứ Tống biết rằng người nước tôi ai cũng hiểu thâm ý của người khách. Chưa hết, câu của sư Pháp Thuận còn ngầm cho người Tống biết người Việt tuy rằng nhìn ngoài có thể nhẹ nhưng đừng quên có mái chèo phía dưới dập đầu sóng xanh. Có thể nói sư Pháp Thuận đối thơ chuẩn từ thơ đến ý, bẻ gãy luôn sự ngạo mạn của sứ Tống khi đặt chân đến nước Nam.
(Bài thơ gốc của Lạc Tân Vương là:
Nga, nga, nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chúy bát thanh ba

Dịch:
Ngỗng, ngỗng, ngỗng
Nghếch cổ lên trời kêu
Lông trắng phô nước biếc
Chân hồng quẫy sóng xanh)

Vào đến Hoa Lư, Lý Giác vẫn cố vớt vát làm thêm bài thơ nữa thử tài người Việt. Đại Việt sử ký toàn thư chép
Khi về đến sứ quán, Giác làm thơ gửi tặng:
Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu.
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

(May gặp thời bình được giúp mưu,
Một mình hai lược sứ Giao Châu.
Đông Đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa.
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu).
Thuận đem thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói: "Thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống". Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu. Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát để tiễn, lời rằng:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sử tinh lang.
Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
Phân minh tấu ngã hoàng.

(Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương,
Thần tiên lại đế hương.
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,
Về trời xa đường trường.
Tình thắm thiết,
Chén lên đường,
Vin xe sứ vấn vương.
Xin đem thâm ý vì Nam cương,
Tâu vua tôi tỏ tường)
 Giác lạy ra về.
Thực ra thì nhà sư Khuông Việt thừa hiểu Lý Giác vẫn có ý hống hách khi dùng câu cuối ám chỉ tuy Lê Hoàn xưng vua rồi đánh đuổi bọn giặc Hầu Nhân Bảo nhưng cũng chỉ là sóng ở khe đầm (đáng ra dùng thơ Đường mà ca ngợi sóng thì phải tả sóng biển, sóng sông). Nhưng sư Khuông Việt chỉ cần nói câu "Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu" của Lý Giác là tôn vua Tống với vua Lê như nhau là Lý Giác đủ lạnh toát sống lưng. Nếu chẳng may chuyện này bị ai sàm tấu với vua Tống thì Lý Giác đủ tội khinh quân, tru di tam tộc. Chẳng thế mà Giác sợ hãi, lạy tạ ra về, không sinh sự gì thêm.

Chính sách gả công chúa để phá âm mưu của phương Bắc

Hình tượng Thân Cảnh Phúc trong nghệ thuật tuồng
   Có thể thấy vua Lý Thánh Tông là người giàu lòng trắc ẩn nên rất thương các công chúa. Thế nhưng vì nước nhà mà ông phải gả các con gái cho các thủ lĩnh vùng sơn cước để đổi lấy bình yên cho Đại Việt.
Các triều đại đầu nước ta sau khi Ngô Quyền mở thời kỳ độc lập lâu dài thường không tồn tại lâu. Như sau Ngô Quyền thì nước ta rơi vào loạn 12 sứ quân, nhà Đinh lên nhưng sau Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn cũng phải chuyển ngôi cho nhà Tiền Lê. Nhưng nhà Tiền Lê cũng chỉ được 3 đời từ Lê Hoàn đến đến Lê Ngọa Triều.
Sở dĩ các triều đại Ngô, Đinh, Lê vận ngắn là do sau khi giành được chính quyền thì họ phải đối phó với rất nhiều thế lực thù địch cả trong lẫn ngoài. Trong nước thì phải bình định các thế lực cát cứ không quy thuận, bên ngoài thì chống lại chính sách lăm le của phương Bắc. Các triều đình phương Bắc ngoài việc dùng quân sự uy hiếp trực tiếp thì còn kích động lãnh chúa các bộ lạc biên giới làm loạn.
Đến nhà Lý, vấn đề dẹp loạn vùng biên vẫn rất nóng hổi nhưng sau đó dần ổn định nhờ chính sách vừa cứng, vừa mềm từ của Lý Thái Tổ.
Các vua Lý thời đầu hầu như đều phải dẫn quân đi bình định các xứ và hiểu rằng ngoài việc dùng uy thì phải dùng ân với các lãnh chúa miền sơn cước. Dùng quân đội thì chỉ có thể làm họ sợ mà không làm phản trong một thời gian ngắn nhưng nó không khác gì đám lửa âm ỉ chỉ chực cháy khi có thời cơ. Muốn cho các đám cháy không thể nổi lên thì phải biết rút củi đáy nồi, phài giải quyết vấn đề từ gốc và đặc biệt là làm cho lòng người quy thuận.
Chính vì vậy, Lý Thái Tổ đã thi hành chính sách dùng hôn nhân để thắt chặt giao hảo với các bộ tộc ở miền biên giới. Năm 1010 sau khi lên ngôi vua, Lý Thái Tổ  nhận thấy Lạng Châu là vùng đất trọng yếu cần phải thu phục nhân tâm. Chính vì vậy, vua sáng lập triều Lý đã tăng mối thân tình bằng cách gả con gái là Lĩnh Nam Công Chúa (Lý Thị Bảo Hòa) cho và phong làm phò mã cho Giáp Thừa Quý. Sau khi được vua chọn làm con rể, Giáp Thừa Quý còn được vua Lý đổi từ họ Giáp sang họ Thân. Gọi là họ Thân để nói lên ý nghĩa tình thân ái đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam và để phân biệt hoàng thân quốc thích với tầng lớp bình dân. Từ đó ông chuyển sang tên họ là Thân Thừa Quý làm Châu Mục Lạng Châu cai quản và bảo vệ vùng đất Đông Bắc của tổ quốc.
Nối theo chính sách đó, năm 1029, Thân Thiệu Thái (con của Thừa Quý) được vua Lý Thái Tông gả con gái cho là Bình Dương công chúa (Lý Thị Giám) và phong làm phò mã. Năm 1066), Thân Cảnh Phúc (con của Thiệu Thái) được vua Lý Thánh Tông gả con gái là công chúa Thiên Thành (Lý Thị Cảnh) và phong cho làm Phò mã. Từ đó, xứ Lạng Châu bình yên khi người họ Thân hết lòng trung thành với Đại Việt mà phương Bắc không cách gì mua chuộc được. Không những vậy, họ Thân còn nhiều lần lãnh đạo quân miền sơn cước tham gia các chiến dịch chinh phạt phản loạn và đánh cả quân nhà Tống.
Mùa xuân năm 1077, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy, theo đường Lạng Sơn ồ ạt tấn công Đại Việt (Việt Nam thời Lý Nhân Tông). Tới khu vực ải Chi Lăng, quân Tống gặp sự kháng cự quyết liệt của dân quân động Giáp do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Khi quân Tống chiếm thế thượng phong, Thân phò mã dùng chiến thuật du kích tiêu hao sinh lực quân Tống, quấy rối vùng sau lưng của chúng, góp phần làm chậm sức tiến của quân Tống, giúp cho quân đội chính quy của nhà Lý do Lý Thường Kiệt chỉ huy chặn được quân Tống tại phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu).
Ngoài Bình Dương công chúa, vua Lý Thái Tông còn gả công chúa Kim Thành cho châu mục châu Phong (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ) là Lê Thuận Tông; gả công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai (nay thuộc Sơn Tây, Hà Tây cũ) là Hà Thiện Lãm; gả công chúa Ngọc Kiều cho châu mục châu Chân Đăng (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ và một phần Sơn Tây).
Vua Lý có yêu quý con gái của mình không? Đại Việt sử ký toàn thư trong phần Thánh Tông hoàng đế chép: "Mùa hạ, tháng 4, (1064) vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm".
Có thể thấy vua Lý Thánh Tông là người giàu lòng trắc ẩn nên rất thương các công chúa. Thế nhưng vì nước nhà mà ông phải gả các con gái cho các thủ lĩnh vùng sơn cước để đổi lấy bình yên cho Đại Việt. Cũng phải nhớ ngày xưa giao thông cách trở, gả xa như thế là hết luôn cơ hội nhìn lại con nhưng vẫn phải làm. Nếu không gả Thiên Thành công chúa cho Thân Cảnh Phúc thì sao Thân Cảnh Phúc một lòng trung thành với nhà Lý, góp công giúp Lý Thường Kiệt đại thắng quân Tống? Người như vua Lý Thánh Tông đáng để hậu thế coi là minh quân.

Khi nhà Tống lấn đất, ông cha ta sẵn sàng tuốt gươm

   Trước hành động lấn đất của nhà Tống thì các vua triều Lý đều rất cương quyết trong việc xử lý. Nếu cần dùng ngoại giao thì các vua Lý sẽ đấu tranh ngoại giao. Khi đàm phán không xong thì phải dùng sức mạnh quân sự
Thời nhà Lý, tình hình nước ta tương đối ổn định. Trong khi đó, nhà Tống thời gian đầu không dám huy động một lực lượng quân đội lớn để thôn tính Đại Việt. Một phần vì nhà Tống lúc này còn đang đau đầu lo đối chọi với các thế lực phương Bắc, hết Liêu lại đến Kim và quan trọng hơn là nhà Tống cũng nếm mùi cay đắng sau chiến dịch quân sự thất bại dưới tay vua Lê Đại Hành.
Mặc dù vậy, nhà Tống vẫn chưa bao giờ thực bụng hòa hiếu với Đại Việt. Thay vì xua quân xâm lược thì triều đình Tống chủ trương cho việc lấn đất theo kiểu tằm ăn dâu. Các quan lại nhà Tống ở biên giới hai nước nghĩ nhiều cách để quấy rối Đại Việt để tiện bề chiếm đất.
Nhà Tống ngầm ủng hộ các nước láng giềng gây sự với Đại Việt mà đỉnh cao là việc quân Đại Lý (Vân Nam) tấn công Đại Việt năm 1014 với quy mô lớn. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Giáp Dần,  [Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết.
Trận này, Đại Việt thắng lớn khiến lân bang kinh hãi và không dám vọng động như trước nữa. Thời gian sau, nhà Tống lại chơi chiêu khác là dụ dỗ các thủ lĩnh vùng biên giới phản Đại Việt để quy hàng dâng đất cho nhà Tống. Nhưng trước hành động lấn đất của triều Tống thì các vua triều Lý đều rất cương quyết trong việc xử lý. Nếu cần dùng ngoại giao thì các vua Lý sẽ đấu tranh ngoại giao. Khi đàm phán không xong thì phải dùng sức mạnh quân sự, thậm chí là đánh thẳng quân đội nhà Tống để cho người Tống biết Đại Việt sẵn sàng nói chuyện bằng binh đao. Nhờ vậy mà trước sau, các vụ truy đuổi Việt gian bán đất đều thành công cả. Cuốn 'Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước' của Nguyễn Lương Bích có chép lại một số vụ điển hình.
Năm 1034, quan lại nhà Tống dụ dỗ bọn Trần Công Vĩnh ở vùng biên giới đem 600 dân chạy sang theo Tống. Vua Lý Thái Tông cho hơn một nghìn quân sang đất Tống đuổi bắt. Phản ứng mạnh mẽ của nhà Lý có lẽ nằm ngoài dự tính của quan quân nhà Tống. Ngay cả vua Tống lúc đây cũng thấy lo lắng vì sợ chiến tranh với Đại Việt. Rốt cuộc, triều đình Tống phải hạ lệnh cho quan lại địa phương trả lại ta bọn Trần Công Vĩnh và hơn 600 dân.
Tưởng rằng sau vụ đó đã thôi nhưng quan lại biên giới nhà Tống vẫn tiếp tục chơi trò bổn cũ soạn lại 16 năm sau. Năm 1050, viên quan Tống ở Ung Châu dụ dỗ bọn tù trưởng ở châu Tô Mậu của ta đem hơn ba nghìn dân sang với Tống và Tống cho đưa cả vào thành Ung Châu. Vua Lý Thái Tông cương quyết đòi lại bằng đấu tranh ngoại giao. Trước áp lực từ Đại Việt, vua Tống buộc phải cho đem trả tất cả hơn ba nghìn người mà bọn quan lại nhà Tống đã dụ dỗ .
Năm 1059, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ một số dân vùng châu Lạng sang Tống. Thân Thiệu Thái là phò mã nhà Lý, cai quản vùng châu Lạng, được lệnh của vua Lý Thánh Tông đã đưa quân lên vùng biên giới dùng áp lực quân sự đòi nhà Tống trả lại dân. Đã có đụng độ và sức mạnh quân sự của Đại Việt đã buộc nhà Tống phải trả lại đất và người.
Năm 1062, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ người Tày là Nông Tôn Đán ở phía tây bắc Cao Bằng đem dân, nhường đất, theo về Tống. Nhà Tống lấy vùng đất ấy đặt thành châu Thuận An và bổ dụng cha con Nông Tôn Đán làm quan của nhà Tống. Không chịu mất đất mất dân, vua Lý Thánh Tông cho phò mã Lê Thuận Tôn sang Tống đòi đất, đòi dân. Nhà Tống thua lý buộc lòng phải trả ta vùng đất ấy nhưng lại nham hiểm không trả dân và giữ cha con Nông Tôn Đán làm quan cho Tống. Cần nhớ rằng giữ được dân thì mới giữ được đất, nếu công nhận người dân vùng đó thuộc quyền quản lý của nhà Tống thì sớm muộn những người dân đó lại quay về nhà cũ rồi nhà Tống lấy cớ dân Tống ở đâu, đất Tống ở đó thì cũng phiền.
Do vậy, nhà Lý không đời nào chịu kiểu nhún nhường mà nham hiểm của nhà Tống. Không dùng được ngoại giao, nhà Lý lại dùng sức mạnh quân sự lấy về cả dân lẫn đất mà nhà Tống cũng không dám làm gì.
Cuối năm 1073, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ Nông Thiện Mỹ, một thủ lĩnh vùng gần Thất Khê (Cao Bằng ngày nay) đem 700 dân chạy sang theo Tống. Đầu năm 1075, triều đình nhà Lý viết thư sang triều đình Tống đòi Tống trả lại ta Nông Thiện Mỹ và 700 dân nhưng lúc này nhà Tống đã sẵn sàng chiến tranh. Năm sau Lý Thường Kiệt mang quân bắc phạt đánh phá Ung châu, Khâm châu rồi đánh bại đạo quân của Quách Quỳ trong trận Như Nguyệt. Chỉ khi thấy sự cứng rắn của Đại Việt thì nhà Tống mới bớt các chiêu trò kích động để lấn đất ở biên giới sau này.

Trước Lý Thường Kiệt, quân ta nhiều lần Bắc phạt sang đất Tống

Tượng binh Đại Việt
   Ta nhiều lần đưa quân vượt qua biên giới để trả đũa các khiêu khích của nhà Tống. Chính những lần đưa quân như thế đã giúp cho người Việt khi ấy không còn tâm lý e ngại nếu phải dùng biện pháp quân sự ngay trên đất địch mà đỉnh cao là chiến dịch của Lý Thường Kiệt.
Chiến dịch Bắc phạt đánh phá Ung châu, Khâm châu vào năm 1075 của Lý Thường Kiệt là một trong những đỉnh cao trong lịch sử dựng và giữ nước của người Việt. Đây là chiến dịch quân sự quy mô bậc nhất trong những lần Bắc phạt hay đúng hơn là để tự vệ một cách chủ động. Bản thân vua tôi nhà Lý khi đó không hề có dã tâm xâm lược nhà Tống mà chỉ muốn làm phá sản kế hoạch xâm lược Đại Việt của nhà Tống. Các thám tử nhà Lý tung sang đất Tống đã xác định rõ quân Tống đã tập trung lương thảo, khí giới ở gần biên giới nên chuyến Bắc phạt của Lý Thường Kiệt vừa để đánh nhụt nhuệ khí quân xâm lược mà còn vừa phá hủy kho tàng mà nhà Tống chuẩn bị.
Cũng cần phải nói rằng việc nhà Lý đưa quân sang đánh Tống năm 1075 không hề phiêu lưu vì ngoài công tác do thám, thăm dò kỹ càng thì trước đó, quân đội ta và quân Tống đã có vài cuộc đụng độ để đo sức mạnh của nhau. Thậm chí, ta nhiều lần đưa quân vượt qua biên giới để trả đũa các khiêu khích của nhà Tống. Chính những lần đưa quân như thế đã giúp cho người Việt khi ấy không còn tâm lý e ngại nếu phải dùng biện pháp quân sự ngay trên đất địch mà đỉnh cao là chiến dịch của Lý Thường Kiệt.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Bấy giờ (năm 995) nhà Tống ngại việc chinh chiến, vua cậy có núi biển hiểm trở, hơi buông thả cho dân biên giới lấn cướp vào cõi của nhà Tống. Mùa xuân năm ấy, Chuyển vận sứ Lộ Quảng Tây nước Tống là Trương Quan, Binh mã giám áp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu là Vệ Chiêu Mỹ đều tâu rằng chiến thuyền của Giao Chỉ hơn trăm chiếc, xâm phạm trấn Châu Hồng, cướp bóc cư dân và lương thực rồi đi. Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu nước ta lại đem 5 nghìn hương bình  xâm lược Ung Châu nước Tống.
Thực ra đây chỉ là cách để triều Lê Đại Hành xem thử thực lực của quân Tống ở vùng biên mạnh cỡ nào và nhà Tống có dã tâm xâm lược một lần nữa không. Nếu nhà Tống thực sự có dã tâm lúc ấy, họ sẽ mượn ngay cớ này để phát binh thì ta cũng chủ động đối phó hơn. Qua bài thử, Lê Đại Hành thấy rằng nhà Tống đã ngại binh đao nên sau đó không cần phải quá lo đến phương Bắc.
Nhưng vào những năm đầu triều Lý, nhà Tống nhân nước ta vừa thay đổi triều chính, cũng muốn đo sức mạnh quân sự của ta ở biên giới. Nhưng những lần làm phép thử đó, nhà Tống đều chịu chua cay và hứng chịu các đòn phản kích của ta sang tận đất Tống. Cuốn Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước của Nguyễn Lương Bích có chép một số vụ điển hình chính là tiền đề để sau này Lý Thường Kiệt đem quân Bắc phạt.
Năm 1028, nhà Tống lại cho quân cướp phá vùng châu Lạng. Thủ lĩnh người Tày vùng châu Lạng là Thân Thừa Quí đem quân đánh đuổi giặc sang tận đất Tống, giết tướng Tống và bắt nhiều quân Tống. Viên quan Tống coi Ung Châu phải cầu hòa, khi đó Thân Thừa Quí mới rút quân về.
Năm 1034, quan lại nhà Tống dụ dỗ bọn Trần Công Vĩnh ở vùng biên giới đem 600 dân chạy sang theo Tống. Vua Lý Thái Tông cho hơn một nghìn quân sang đất Tống đuổi bắt.
Năm 1059, quan lại nhà Tống lại dụ dỗ một số dân vùng châu Lạng sang Tống. Thân Thiệu Thái là phò mã nhà Lý, cai quản vùng châu Lạng, được lệnh triều đình đưa quân lên vùng biên giới đòi nhà Tống trả lại dân. Tướng Tống ở Ung Châu là Tống Sĩ Nghiêu đem quân đánh sang châu Lạng, bị quân ta do Thân Thiệu Thái chỉ huy đánh cho đại bại. Tướng giặc Tống Sĩ Nghiêu phải đem tàn quân chạy về nước. Tướng ta đưa quân vào đất Tống giết chết Tống Sĩ Nghiêu. Triều đình Tống cho viên quan coi Quế Châu là Tiêu Cố đem quân xuống tăng viện cho vùng Ung Châu, cùng viên quan coi Ung Châu là Tiêu Chú và các tướng Tống ở Ung Châu phải quyết chiến, đánh lui kỳ được quân ta. Quân ta lại từ biên giới tiến thêm sang. Cả Ung Châu náo động. Các tướng Tống phải xin thêm 3.000 quân thiện chiến ở Kinh Hồ xuống cứu viện.
Thân Thiệu Thái vẫn rầm rộ tiến quân lên Ung Châu, bắt sống tại trận viên chỉ huy quân Tống là Dương Bảo Tài và nhiều quân giặc, trâu, ngựa...Triều đình Tống hoảng sợ, Vua Tống cách chức hai viên quan coi Quế Châu và Ung Châu là Tiêu Cố và Tiêu Chú, cho một viên triều thần là Dư Tĩnh làm an phủ sứ đem thêm quân xuống Ung Châu cùng các tướng Tống tại đây lo tính việc bảo vệ Ung Châu. Vua Lý cho quân tăng viện sang đất Tống. Thanh thế quân ta trên đất Tống càng mạnh. Các tướng Tống ở Ung Châu bất lực. Triều đình Tống phải xin thương lượng với ta.
Các tướng Tống ở Ung Châu là bọn Dư Tĩnh, Lý Sự Trung phải chủ động nhận lỗi với ta rằng những cuộc xung đột ở biên giới là do các tướng Tống ở biên giới gây ra, đề nghị ta cử người cùng thương lượng giải hòa. Thấy nhà Tống không còn hống hách, phải xin lỗi cầu hòa, triều đình nhà Lý chấp nhận thương lượng, lệnh cho Thân Thiệu Thái đem quân về, cho đại học sĩ Phí Gia Hựu sang Tống hội thương
.

Chư hầu của Đại Việt uy hiếp nhà Tống, vua Lý toan động binh

Đền thờ Nùng Trí Cao ở Cao Bằng hiện nay
   Trong quan hệ Đại Việt và Đại Tống trước đây thì ngoài chuyện trực tiếp động binh đao với những chiến dịch quân sự quy mô thì hai bên còn sẵn sàng tung những cú đấm bằng quân chư hầu.
Ngay buổi đầu nhà Lý thành lập, nhà Tống đã bật đèn xanh cho Đại Lý (Vân Nam) mở chiến dịch quân sự lớn tần công Đại Việt nhưng bị đánh bại. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Giáp Dần,  [Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014], (Tống  Đại Trung Tường Phù năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua (Lý Thái Tổ) sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu kể hàng vạn, bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man sang biếu nhà Tống.
Nhà Tống cũng thi hành chính sách kích động các thủ lĩnh, tù trưởng ở khu vực biên giới khi thì nổi dậy, khi thì cắt đất dụ dân sang nhập với Tống. Nhưng nhà Lý đã giải quyết vấn đề này rất thỏa đáng. Với các tù trưởng thì nhà Lý dùng cả ân và uy để thu phục nên có được lòng trung thành của họ Thân (Thân Thừa Quý, Thân Thiệu Thái, Thân Cảnh Phúc), Tông Đản... Với nhà Tống, thì ta dùng cả ngoại giao và quân sự để họ phải tôn trọng vùng lãnh thổ biên giới, chấm dứt việc dụ dỗ các tù trưởng cắt đất, dụ dân sang đất Tống.
Việc giành giật ảnh hưởng với nhân vật Nùng Trí Cao có thể là tiêu biểu cho câu chuyện đấu tranh ngoại giao giữa Việt và Tống. Thời điểm thế kỷ thứ 11, họ Nùng ở châu Quảng Nguyên (Cao Bằng hiện giờ) nhiều lần gây rối ở vùng biên giới. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc nổi dậy, tự xưng là Chiêu Thành hoàng đế, đặt quốc hiệu là Trường Sinh quốc rồi đem quân đi đánh phá các nơi. Tháng 2.1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Phúc đại thắng, bắt được cả nhà. Vua cho quân san phẳng thành hào, chiêu dụ tộc loại còn sống sót, vỗ về yên ủi rồi rút quân. Tháng 3.1039, vua chém Phúc và Thông ngoài chợ nhưng còn một người con là Nùng Trí Cao trốn thoát.
Năm 1041, Nùng Trí Cao lập ra một nước gọi là nước Đại Lịch, không hàng phục nhà Lý. Vua Lý Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau đó Nùng Trí Cao vào triều yết kiến, được vua Thái Tông gia phong cho tước Thái bảo. Đến năm 1044, Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép: "Thái bảo Nùng Trí Cao vào chầu".
Vua Lý Thái Tông hai lần cất quân là bắt được hết tôn tộc nhà Nùng Trí Cao, ấy vậy mà sao không giết? Đời sau nhiều người tin rằng vua Lý Thái Tông muốn dùng đức cảm hóa như kiểu Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch thì các tỉnh biên giới phía bắc mới yên. Cũng có thể nhà Lý muốn Nùng Trí Cao theo gương như nhà họ Thân để làm phên dậu vững chắc cho Đại Việt.
Năm 1048, Nùng Trí Cao lại nổi dậy, chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng). Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Nùng Trí Cao lại đầu hàng. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Vừa mới giao chiến, trời đất bỗng tối mù, một lát nghe tiếng sét đánh trong động, thân thể các tù trưởng động ấy bị xé tan, cả động kinh hãi. Trí Cao phải hàng.
Tuy nhiên, theo giai thoại của người Tày, khi quân Lý tới nơi, Nùng Trí Cao nói với Quách Thịnh Dật đừng tiến quân, ông sẽ không gây hấn với nhà Lý nữa mà sẽ tiến sang phương Bắc. Sự thực thì sau đó, Nùng Trí Cao không hiểu vì cảm ân hay sợ uy nhà Lý mà không dám động binh chống Đại Việt nữa mà lại chĩa mũi giáo sang nhà Tống.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa hạ, tháng 4 (1052), Nùng Trí Cao làm phản, tiếm xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, sang cướp đất nhà Tống, phá trại Hoàng Sơn, vây hãm các châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Tầm rồi kéo đến vây thành Quảng Châu  đến 5 tuần không lấy được,  bèn về. Lại vào Ung Châu, giết tướng tá của nhà Tống hơn 3 nghìn người, bắt sống dân chúng hàng vạn. Đi đến đâu đốt trụi đến đấy.
Vua tôi nhà Tống lấy làm lo. Lý Thái Tông dâng biểu sang Trung Quốc xin mang quân phối hợp đánh Nùng Trí Cao. Vua Tống đã có ý bằng lòng vì thấy Đại Việt 2 lần đánh Nùng Trí Cao dễ như bỡn trong khi quan quân nhà Tống đánh mãi toàn thua. Khi quân Đại Việt sắp vào biên giới, tướng nhà Tống là Địch Thanh can Tống Nhân Tông rằng: "Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không khống chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào?" Vua Tống nghe lời bèn sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao và sai sứ nói với Lý Thái Tông rằng không cần quân Lý giúp.
Nhưng Dư Tĩnh đánh mãi không được và mãi về sau phải điều Địch Thanh từ Tây Hạ về đánh mới hạ được Nùng Trí Cao. Có chi tiết là vào Tháng 10.1053, Trí Cao sắp thua liền sai thủ hạ là Lương Châu đến cầu cứu Đại Cồ Việt. Lý Thái Tông sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đi tiếp ứng cho Trí Cao. Nhưng quân Lý chưa tới nơi thì Trí Cao lại bị Địch Thanh đánh bại, phải chạy trốn sang nước Đại Lý. Quân Lý rút về.
Ở đây có một chi tiết khiến nhiều người phải thắc mắc là sao ban đầu vua Lý Thái Tông muốn đưa quân sang Tống dẹp Nùng Trí Cao rồi một năm sau lại muốn đem quân cứu viện Nùng Trí Cao? Có thể vì lần đầu, vua nước ta muốn tranh thủ đưa quân vào Tống để xem binh lực, bố phòng của nhà Tống và sẽ có đối sách trong việc phòng vệ sau này. Thậm chí, Địch Thanh khi đó còn sợ nhà Lý mang quân vào rồi chiếm luôn đất Tống. Còn lần sau, vua tôi nhà Lý  đã xuất binh cứu viện vì thực sự không muốn Nùng Trí Cao bị diệt, vì mong muốn tồn tại một thế lực khiến nhà Tống phải đau đầu và không còn tâm trí để nhòm ngó biên giới Đại Việt.

Lý Thường Kiệt dùng vũ lực lấy lại đất yết hầu vùng biên trong tay quân Tống

   Triều đình nhà Tống rất tức giận khi để mất Quang Lang. Sử Tống chép đầu năm 1078, hai viên chức ở Quang lang bị kết tội bỏ thành trốn: Trần Tung bị chém và Hồ Thanh bị đày ra đảo Sa Môn.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã dồn 2 tướng giặc Quách Quỳ, Triệu Tiết cùng 10 vạn quân vào tử địa. Ở thế bị bao vây trùng trùng điệp điệp mà lương thảo lại cạn thì tính mạng của quân Tống như cá nằm trên thớt. Nhưng vì nhà Lý nhân từ, trọng đức hiếu sinh mà lại muốn tạo điều kiện để hai bên hòa hoãn nên mở đường sống cho bại binh Tống.
Năm 1077, Lý Thường Kiệt mở vòng vây cho quân Tống rút về nước, cũng không dùng quân truy kích để tỏ rõ thực tình hòa hiếu. Thế nhưng vua tôi nhà Tống không biết điều, được ta mở đường hiếu sinh mà vẫn không chịu trả đất đã chiếm trong đợt xâm lược gồm năm châu miền núi: Quang Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên (hiện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn nước ta). Nhà Tống chưa bao giờ nguội dã tâm nhòm ngó phương Nam nên khi chiếm được những châu quan trọng này thì họ lập tức cắt cử quan lại địa phương xuống để quản lý hòng giữ đất lâu dài. Theo Tục tư trị thông giám, ngày 25.2 (1076), sau khi thấy Quách Quỳ dẫn quân xâm lược nước ta thuận lợi, vua Tống hạ chiếu đổi Quảng Nguyên ra Thuận Châu và thăng Quang Lang lên hàng huyện.
Rồi nhà Tống tính việc xây dựng bộ khung quan lại đầy đủ ban bệ để dễ bề cai trị. Tục tư trị thông giám chép: Tống bổ tới Thuận châu đủ các viên chức, mỗi chức một người: thông phán, thiểm thư, phán quan, kiềm hạt, đô giám, đô áp. Sợ rằng châu mới độc nước, quan lại không thích đi, chiếu thư có dặn rằng: "Mỗi năm sẽ thay một quan. Ở hết hạn, được thăng một chức, và  bổ về mạc chức, nghĩa là ở chỗ trung ương". Rồi nhà Tống lại thưởng công cho các tù trưởng đã theo giúp quân Tống, như cháu Nùng Thiện Mỹ là Huệ Đàm và định cấp ấn son cho các động trưởng để lôi kéo nhân tâm dân chúng các tộc vùng biên.
Không chỉ cắt đặt quan lại mà vua tôi nhà Tống còn lo đắp thành, thêm quân để phòng xa, chiếm giữ lâu dài. Ngày mồng 8 tháng 3 (1076), ngự sử Đặng Nhuận Phủ tâu với vua Tống: " Gần đây, nghe nói đã đắp thêm thành Quảng nguyên và đã bổ vũ thần đến coi. Xin trước hết sai ti an phủ Quảng Tây cùng giám ti xét các điều lệ lợi hại thế nào, mỗi năm dùng giáp binh bao nhiêu, lương thực bao nhiêu, giáp binh lấy từ đâu, lương thực biện chỗ nào. Làm sao cho lính đủ để chống giặc, lương đủ cho lính ăn, và khi thình lình có biến, khỏi phải lo liệu lật đật vất vả". Tống liền sai 17 chỉ huy ở các xứ Hồng châu tới phòng thủ Quảng nguyên, Tư Lang.
Trong số các châu bị Tống chiếm đóng, Quang Lang được đánh giá có vị trí rất quan trọng vì nó gần vị trí ải Chi Lăng, được coi là yết hầu của Ung châu. Nếu quân Tống muốn đánh xuống phía Nam thì nhất định phải đi qua khu vực này nên nó chính là vị trí chiến lược mà cả hai bên đều muốn nắm giữ.
Với con mắt của nhà quân sự lão luyện thì Lý Thường Kiệt đâu bỏ qua chuyện đó và lên kế hoạch chiếm lại những đất đã mất ngay sau khi bại binh nhà Tống về nước năm 1077. Sau khi quân Quách Quỳ rút lui khỏi Lạng Châu, quân Lý liền theo sau, và đóng giữ ở động Giáp. Rồi kéo vào đánh úp, chiếm lại Quang Lang. Các viên tri huyện Hồ Thanh và tuần phòng Trần Tung đều bỏ chạy.
Triều đình nhà Tống rất tức giận khi để mất Quang Lang. Sử Tống chép đầu năm 1078, hai viên chức ở Quang lang bị kết tội bỏ thành trốn: Trần Tung bị chém và Hồ Thanh bị đày ra đảo Sa Môn (có lẽ là đảo Kim Sa, Kim Môn gần Phúc Kiến hiện giờ). Vua Tống ăn ngủ không yên sau khi nghe tin mất Quang Lang và phải hạ chiếu vào tháng 7.1077 rằng: "Huyện Quang Lang đã bị quân Giao Chỉ đánh úp và chiếm. Chưa thấy lộ Quảng Tây xử trí làm sao. Từ đó qua ải Quyết Lý đến Thuận Châu không xa. Coi khéo lại không thể cố thủ được. Phải làm sao cho không tổn quốc uy, sao cho binh lực và tài phí không càng ngày càng hao tổn. Vậy giao cho Triệu Tiêt, Lý Bình Nhất, Miêu Thì Trung cùng nhau bàn mưu kế cho đúng lợi hại. Chớ có lần lữa tránh việc, đến nỗi hỏng đại sự của Triều đình ở một phương, Bàn định xong, rồi sẽ gấp tự viết thư báo về tâu rõ".
Các châu Tô Mậu, Môn cũng được Lý Thường Kiệt dùng vũ lực lấy về. Chỉ có hai châu Quảng Nguyên và Tư Lang là chưa thể lấy được do nhà Tống đặt trọng binh ở đó và dồn nhiều quân về phòng ngự. Nếu dùng quân sự để lấy lại 2 vùng đất trong tay giặc Tống thì sẽ rất hao binh tốn của vì địa hình hiểm trở, dễ thủ khó công trong lúc việc chuyển lương không dễ dàng. Đây chính là lúc vua tôi nhà Lý dùng đòn ngoại giao và tâm lý chiến.

Sợ Lý Thường Kiệt bắc phạt lần 2, vua Tống tính cắt đất

Nhà Tống sợ Ung châu lại chịu binh lửa
   Thấy quân Tống không dám ra đánh thì vua tôi nhà Lý biết người Tống đang sợ nên cử sứ giả sang bàn tiếp việc tranh chấp lãnh thổ. Vua Tống lại sợ nên phải đồng ý cho sứ tới Quế Châu rồi viết thư hỏi gấp Triệu Tiết đang trấn thủ Quế Châu.
Sau khi đánh bại đoàn quân xâm lược Tống và cho tàn binh Quách Quỳ về nước năm 1077, nhà Lý đã nhanh chóng lên kế hoạch thu hồi những vùng đất ở biên giới. Trong 5 châu bị nhà Tống chiếm đóng, Lý Thường Kiệt đã dùng binh lực để thu hồi các châu Quang Lang, Tô Mậu, Môn một cách dễ dàng. Chỉ có hai châu Quảng Nguyên và Tư Lang là chưa thể lấy được do nhà Tống đặt trọng binh ở đó và dồn nhiều quân về phòng ngự.
Sở dĩ châu Quảng Nguyên được nhà Tống chăm lo kỹ lưỡng hơn cả vì đây có mỏ vàng, mỏ bạc. Nếu Tống giữ được mỏ vàng thì rõ ràng không có lợi cho ta nên nhà Lý quyết tâm lấy lại bằng được. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng quân sự để đòi lấy thì e rằng xương máu tốn không phải là ít. Còn nếu chỉ đàm phán ngoại giao không thì cũng khó làm nhà Tống thôi dã tâm. Do vậy, phải kết hợp cả việc dùng quân sự khiến nhà Tống lo sợ rồi mới cử người đàm phán.
Sau khi chiếm xong Quang Lang, Tô Mậu và Môn thì Lý Thường Kiệt thường đe dọa, phao truyền tin sắp tới chiếm Quảng Nguyên, để thử xem quan Tống hành động thế nào. Quan trấn thủ Quảng Nguyên là Đào Bật sợ không quân uy nhà Lý trước đây nên Bật học theo "kế" của Tư Mã Ý đấu Khổng Minh trước kia là giữ chặt trại, không cho quân lính ra đánh. Tân Tư Trị thông giám chép: "Bật khuyên binh sĩ ở yên cố thủ, chớ khiêu khích quân Lý".
Thấy quân Tống không dám ra đánh thì vua tôi nhà Lý biết người Tống đang sợ nên cử sứ giả sang bàn việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Vua Tống lại sợ nên phải đồng ý cho sứ tới Quế Châu rồi viết thư hỏi gấp Triệu Tiết đang trấn thủ Quế Châu: "Giao Chỉ nghịch thuận thế nào? Chúng sắp vào cống. Thế nào chúng cũng yêu cầu dân miền đã nhượng cho ta. Ta nên trả lời chóng hay chầy, cho chúng nhiều hay ít?". Chỉ riêng đoạn chiếu mà vua Tống viết thư cho Triệu Tiết đã cho thấy vì sợ bị đánh Ung châu nên vua Tống sẵn sàng cắt đất trả lại.
Đáng ra đất Quảng Nguyên và Tư Lang vốn của Đại Việt bị nhà Tống trộm giữ thì phải nên giao trả ngay để tỏ tình thực bụng hòa hiếu. Nhưng Triệu Tiết, viên tướng vốn thua trận tại Như Nguyệt vẫn còn ôm hận bèn dâng biểu can ngăn nêu ra mấy điểm phải giữ lại Quảng Nguyên và Tư Lang. Vua Tống vì thấy có mỏ vàng nên nghe lời Tiết.
Chính vì thế, nhà Tống chơi trò câu giờ. Khi phái đoàn ta đến biên giới thì nhà Tống lấy cớ rằng biểu tấu của ta gửi sang phạm húy nên không chịu nhận, bảo sứ ta ra về. Theo lệ xưa thì phải dâng biểu cho vua Tống đọc xong thấy thuận thì mới đón sứ nhập quốc.
Đầu năm sau (1078), vua Lý sai Đào Tông Nguyên trở lại đi sứ. Tông Nguyên đem theo năm voi để cống, và tờ biểu của vua Lý xin lại các đất Quảng Nguyên và Quang Lang. Lời biểu nói rằng: "Tôi đã nhận được chiếu chỉ cho phép theo lệ tới cống, y như lời tôi thỉnh cầu. Chiếu lại đã sai quan thuộc ti an phủ định rõ cương giới và dặn tôi không được xâm phạm. Tôi đã vâng chỉ dụ. Nay sai người tới cống phương vật. Tôi xin triều đình trả lại các đất Quảng Nguyên và Quang Lang". Thực ra tặng 5 voi vừa là món vật quý của nhà Lý nhưng cũng là lời răn đe nếu vua Tống không thuận thì sẽ dùng tượng binh đến hỏi tội. Trong các cuộc chiến trước thì tượng binh Đại Việt quả thực đã khiến quan quân nhà Tống kinh hồn bạt vía.
Vua tôi nhà Tống lúc này cũng định câu giờ tiếp nhưng sau khi suy đi tính lại thì vẫn sợ nhà Lý tức giận dùng quân sự thì hỏng hết đại cục. Cần nhớ lúc này nhà Tống không chỉ sợ ta mà còn sợ bị Liêu, Hạ uy hiếp ở mạn Bắc.
Tục tư trị thông giám chép: Ti kinh lược Quảng Tây có kẻ không muốn để sứ tiến kinh. Ngày 22 tháng Giêng nhuận, ti chuyển  vận tâu trằng: "Trước đây, sứ Giao chỉ đến, nhưng phải quay về, vì trong biểu có phạm húy. Nay sứ đã trở lại, và đã chữa biểu. Nhưng viên câu đương thuộc ti kinh lược, là Dương Nguyên Khanh, chưa chịu thu nhận. Sợ chúng ngờ vực là muốn ngăn chúng". Vua Tống liền bảo tụi Nguyên Khanh: "Phải nhận và gửi biểu về, sai người đưa sứ tới kinh. Còn như việc chúng đòi trả nhân khẩu và sự định biên giới, thì hãy đợi phân xử riêng".
Nhà Tống đón tiếp đoàn sứ của ta khá trọng thị và xen chút sợ hãi đề phòng. Sử nhà Tống chép khi sứ ta dẫn đàn voi đi Biện Kinh vua Tống phê rằng: "Sứ Giao tiến tới kinh. Vì chúng mới cướp ta, nên phải lo đề phòng. Khi còn ở dọc đường cũng như khi tới kinh, hễ chúng ra vào, phải cắt người giám thị. Vậy phải viết thư cho ti kinh lược Quảng Tây và cho các viên hộ tống phải mau mau báo cáo. Nếu dọc đường có xảy việc gì, ti kinh lược chưa kịp bẩm, thì cứ việc thi hành". Tháng 6, sứ bộ qua lộ kinh Hồ Bắc. Viên chuyển vận sứ ở đó không đủ phu hộ tống, xin phép bỏ tiền thuê phu cho dắt.
Một mặt đón sứ ta nhưng mặt khác vua tôi nhà Tống cũng khẩn trương chuẩn bị phòng thủ vì sợ đàm phán đổ bể thì ta lại xua quân Bắc tiến. Tục tư trị thông giám chép: "Triệu Tiết xin tăng quân đóng ở Quế châu cho được 5.000. Ti chuyển vận Quảng tây xin tăng lương thực và tiền bạc. Quế châu xin sai chúa trại Hoành sơn tới đạo Đặc ma mua ngựa, và tới châu Ung, Khâm kiểm điểm đân khê động và sai tập rèn vũ nghệ". Quả nhiên, việc đàm phán đòi đất không dễ dàng và triều đình nhà Lý phải dùng nhiều rất nhiều tâm sức, mưu kế để lấy lại từng thước đất gấm vóc.

Bị áp lực từ biên giới, vua Tống phải nghiến răng trả đất

Quân Tống hoang mang khi phải đến châu Quảng Nguyên
   Không chỉ lính mà quan lại đến 2 châu Quảng Nguyên và Quang Lang cũng lần lượt chết vì bệnh, vì lo lắng. Cuối cùng thì Triệu Tiết và vua Tống cũng hiểu rằng không thể yên ổn mà giữ 2 vùng đất trộm chiếm nên phải trả lại cho chính chủ.
Để lấy lại châu Quảng Nguyên và châu Quang Lang thì nhà Lý đã phải rất vất vả trên mặt trận ngoại giao lẫn quân sự. Một mặt đoàn sứ giả Đại Việt do Đào Tông Nguyên dẫn đầu sang Tống đấu tranh lý lẽ, một mặt ta phải dùng các biện pháp quân sự cũng như mưu kế để làm nguội dã tâm của triều đình phương Bắc.
Năm 1078, khi Đào Tông Nguyên sang đòi đất, vua Tống đã hỏi ý của Triệu Tiết lần nữa. Thời chính kỷ nhà Tống viết: Vua Tống hỏi ý kiến Triệu Tiết, thì Tiết khuyên giữ lấy Quảng nguyên và Quang Lang. Do vậy, khi Đào Tông Nguyên nêu thẳng vấn đề thì triều Tống gây khó dễ bằng vấn đề tù binh.
Theo Tống sử, Tống Thần Tông hạ chiếu đòi tù binh như sau: "Trẫm vỗ về vạn quốc, không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà Khanh đã bắt đưa đi xa làng mạc chúng. Đợi khi nào Khanh đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập tức lấy các châu Quảng nguyên ban cho Khanh".
Thực ra 2 châu trên là nhà Tống cướp của nước ta nhưng triều Tống vẫn nhận vơ là đất của mình nên chiếu dùng từ "ban" cho đỡ mất thể diện. Vua tôi nhà Lý cũng không so đo chuyện này mà sẵn sàng trả lại một nghìn quan lại bắt ở ba châu Khâm, Liêm, Ung để đáp ứng yêu cầu của nhà Tống.
Được đằng chân, lân đằng đầu, Tống Thần Tông lại đặt ra một điều kiện mới. Tục tư trị thông giám chép rằng ngày 12.9 (1078), Tống Thần tông hạ chiếu nói :
"Giao chỉ quận vương Lý Càn Đức bằng lòng trả những người đã cướp ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, thì theo lời Khanh đã xin, lấy các châu Quảng nguyên, Tô mậu và huyện Quang lang trả lại cho. Nhưng phải đem các thủ lĩnh đã gây loạn đến biên giới xử?".
Đòi ta phải giao nộp những người anh hùng đánh tan giặc Tống như Lý Thường Kiệt là điều mà cả hai bên đều biết không thể xảy ra. Dụng ý của nhà Tống là muốn việc thương lượng đòi đất của ta đi vào ngõ cụt với cớ ta không đáp ứng các yêu sách của Tống. Thế nhưng, vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Sau khi nhà Tống bày tỏ sự thiếu thiện chí thì vùng đất biên cương của Tống không ngày nào được yên.
Theo Tục tư trị thông giám, Ung châu bị tật dịch, hỏa tai luôn luôn. Rồi các doanh đồn, kho, trại ở Ung, Liêm, Vĩnh bình, Thái bình bị cháy. Rất nhiều lương thực, khí giới bị thiêu hủy. Nhà sử học Hoàng Xuân Hãn không cho rằng đây là sự tình cờ mà có ẩn tình phía sau.
Quân Tống đóng ở Quảng Nguyên và Quang Lang xuống tinh thần nghiêm trọng khi phải trấn giữ ở nơi mà không biết mất mạng lúc nào. Sử Tống chép: "Quân thú mười phần chết mất bảy, tám. Mỗi lúc đến phiên đi thú ở đó, lính từ biệt vợ con như là sắp chết. Cả nhà khóc lóc rất là thảm thiết. Quân thú đào ngũ hàng đoàn. Có lúc có hai quân đội bỏ doanh trốn về nhà. Triệu Tiết nghe nói, viết thư cho tướng chỉ huy chúng, bảo: "Quân đóng ở ngoài lâu ngày mệt nhọc, cho chúng nghỉ một tháng, rồi bảo chúng trở lại". Lúc chúng về qua doanh, Tiết mời ăn uống. Rồi gọi hai người đứng đầu mà hỏi vì sao bỏ ngũ. Chúng đều trả lời: "Chỉ vì đi thú lâu ngày ở nơi nước độc, cho nên nhớ nhà". Tiết nói: "Mẹ ta già tám mươi tuổi. Ta muốn về thăm, có được không ?" Lập tức sai chém hai người ấy, và phạt tội bọn kia phải đánh và đày đi châu khác".
Không chỉ lính mà quan lại đến 2 châu Quảng Nguyên và Quang Lang cũng lần lượt chết vì bệnh, vì lo lắng. Cuối cùng thì Triệu Tiết và vua Tống cũng hiểu rằng không thể yên ổn mà giữ 2 vùng đất trộm chiếm nên phải trả lại cho chính chủ.
Đem việc ra bàn với triều thần thì vua Tống phải thừa nhận: "Thuận châu (nhà Tống gọi Quảng Nguyên là Thuận châu) là đất lam chướng. Triều đình được đất ấy cũng chưa có lợi. Lẽ nào lại còn tự mình xua thú binh vào nơi nước độc. Một người bị chết, Trẫm còn thương xót, huống chi trong mười người chết mất năm, sáu". Các quan nhà Tống khi đó cũng sợ cảnh phải dấn thân đến vùng đất dữ rồi mang nắm xương trở về. Viên quan Miêu Thì Trung tâu rằng: "Các đồn trại thuộc Thuận châu ở sâu trong đất giặc. Chở lương vào đó rất khó. Thú binh đóng đó. Mười người chết tám chín. Vậy ta nên bỏ đi. Nhưng mà Thuận châu vốn là đất cơ mi của châu Ung, chứ không phải thuộc Giao chỉ".
Nói tóm lại thì vua tôi nhà Tống hiểu rằng muốn chiếm giữ được Quảng Nguyên thì họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt bằng cả tiền lương lẫn sinh mạng binh lính. Nguy hiểm hơn, việc kết oán với Đại Việt khi ấy sẽ làm cho nhà Tống rơi vào thế Thập diện mai phục khi họ còn nhiều mối lo với các kẻ thù ở phương Bắc. Vấn đề lúc đó với nhà Tống là phải tìm cách trả đất trong danh dự.

Lý Thường Kiệt dùng tù binh mở cho vua Tống con đường thể diện

Nhà Lý bắt được nhiều tù binh trên đất Tống
   Tuy nhà Lý trả không đủ số một nghìn quan lại đã hẹn và tuy đã khắc chữ vào mặt và tay tù nhân , nhưng vua tôi nhà Tống cũng không muốn gây khó dễ để giải quyết êm thấm chuyện biên giới với Đại Việt.
Trong cuộc ngoại giao đấu tranh đòi đất của nhà Lý với nhà Tống thì tù binh nhà Tống là thứ nhiều lần được đặt lên bàn cân đàm phán. Trước hết cần phải tìm hiểu do đâu mà quân Lý bắt được nhiều tù binh Tống.
Trong chiến dịch Bắc phạt của Lý Thường Kiệt vào Ung châu thì quân ta đã nhiều lần bắt được vô số tù binh Tống. Sử Trung Quốc gồm Việt kiệu thư nhà Minh và Thần Tông thực lục nói rằng "sau khi Liêm châu Thất thủ thì phía Tống bị bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuống thuyền".
Hay Khi đó, nhà Lý vây rát thành Ung châu. Tô Giám cho người mang lạp thư   thư viết vào giấy rồi bọc trong nến   mà ngậm vào miệng phá vòng vây ra báo cho Tống Cầu ở Quế Châu. Tống Cầu giục Trương Thủ Tiết đi gấp. Trương Thủ Tiết vốn không muốn đánh vì sợ nay bị ép thì đành bất đắc dĩ kéo quân đi, đến núi Hỏa Giáp rồi ra giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung, cách Ung thành 40 cây số.
Lý Thường Kiệt biết tin viện binh Tống đến, bèn cho quân đón đánh. Ngày 4 tháng Giêng âm lịch, tức ngày 11.2.1076, quân Lý kéo thẳng đến ải Côn Lôn, quân Tống hốt hoảng bỏ chạy. Trương Thủ Tiết, Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn là các chỉ huy của lực lượng viện binh nhà Tống đều bị giết tại trận. Nhiều quân sĩ Tống đầu hàng quân ta.
Sau khi hạ được Ung châu thì ta bắt được nhiều tù binh nhà Tống. Dựa theo Tống sử, nhà sử học Hoàng Xuân Hãn viết: "Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ An, Thanh Hóa xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều nghĩa là hàng Nam triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi phải sung làm lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên tử binh. Còn đàn bà, con gái thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khách của nhà nước".
Có lẽ ngay từ khi ấy, Lý Thường Kiệt đã tính trước việc trao trả tù binh để giải quyết những vấn đề hậu chiến. Quả thực đúng như vậy. Năm 1078, khi sứ ta sang Tống đòi châu Quảng Nguyên và châu Quang Lang thì vấn đề trao trả tù binh đã được Tống Thần Tông đề cập. Vua Tống ra chiếu: "Trẫm vỗ về vạn quốc, không kể xa gần. Nhưng Khanh phải trả các dân Khâm, Ung mà Khanh đã bắt đưa đi xa làng mạc chúng. Đợi khi nào Khanh đưa chúng trở về hết, Trẫm sẽ lập tức lấy các châu Quảng nguyên ban cho Khanh".
Khi ta sẵn sàng đổi tù binh lấy đất thì vua Tống lại tiếc rẻ 2 vùng đất mới chiếm nên ra điều kiện không chấp nhận được là đòi ta nộp Lý Thường Kiệt. Dĩ nhiên yêu sách này bị bác bỏ. Sau một năm đấu tranh bằng cả ngoại giao và quân sự thì vua Tống không còn cách nào khác là phải trả đất. Tuy nhiên, Tống Thần Tông nếu đem trả ngay thì sợ mất thể diện của nước lớn nên lại quay về vấn đề cũ là tù binh (lần này không dám nhắc đến vụ đòi giao nộp Lý Thường Kiệt nữa).
Năm 1079, Lý Thường Kiệt sai đem trả một ít tù nhân, gồm đủ gái trai già trẻ. Tống sử chép: "Các tù nhân ấy được đưa từ Nghệ An về bằng đường thủy. Cửa thuyền đều bị trát bùn kín. Trong thuyền thắp đèn đuốc luôn, để tù nhân không biết ngày đêm thế nào, và cũng không thấy đường sá. Mỗi ngày chỉ cho thuyền đi chừng mười đến hai mươi dặm rồi bắt đậu lại. Quân lính canh thuyền giả đánh trống cầm canh. Ngồi trong thuyền nghe canh, tưởng chừng đi trong vài tháng mới tới nơi".
Ngày 13 tháng 10 năm ấy, ti kinh lược Quảng tây tâu nói Giao chỉ đã đưa trả 221 người dân đã cướp. Thực ra khi đó, việc thống kê tù binh của hai bên không khớp nên ta khó trả đủ như nhà Tống đề nghị. Phần vì chiến tranh bệnh tật, phần vì tù binh trốn đi cũng nhiều. Chính sử Trung Quốc như Tục tư trị thông giám cũng chép: "Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ Tiết, bị Thường Kiệt bắt ở ải Côn Lôn, và bày cho ta dùng hỏa công ở Ung Châu. Tháng 10 năm Bính Thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả ba mươi người, từ trại Nghệ An trốn, cưỡi thuyền vượt bể để về bắc; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê Động ở đảo Hải Nam ngày nay".
Tuy nhà Lý trả không đủ số một nghìn quan lại đã hẹn và tuy đã khắc chữ vào mặt và tay tù nhân (nam giới khắc trên trán ba chữ Thiên tử binh. Còn đàn bà, con gái thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khách của nhà nước), nhưng vua tôi nhà Tống cũng không muốn gây khó dễ để giải quyết êm thấm chuyện biên giới với Đại Việt. Tống Thần tông cũng vin vào cơ hội được Lý Thường Kiệt tạo mà phán rằng: "Hãy nhận tù nhân và bỏ Thuận châu, lấy ban cho Giao chỉ." Tuy lời chiếu chỉ nói đến đất Thuận châu, nhưng kỳ thật thì Tống trả tất cả bốn châu, một huyện mà quân Quách Quì đã chiếm: Quảng nguyên, Tư lang, Môn, Tô mậu và Quang lang...
Trả xong các đất Quảng nguyên, Tống coi như đã trút được một gánh nặng trên vai. Vua Tống lấy làm đắc chí, thăng hàm cho viên coi Quế Châu là Tăng Bố. "Vì đã xếp đặt việc Giao chỉ xong xuôi, nên Bố được suy ân".

Muốn nhà Tống trả đất, không thể dùng lý lẽ suông

Quân đội nhà Tống
   Sau khi vua Lý Nhân Tông bắt đầu tự mình nắm quyền thì vẫn kiên trì trong việc đòi đất. Tuy nhiên, Nhân Tông lại chủ trương trọng quan văn như Lê Văn Thịnh trong việc đàm phán với nhà Tống nên không có sự mạnh mẽ, quyết đoán như Lý Thường Kiệt.
Khi còn Lý Thường Kiệt nắm quyền triều Lý thì nhà Tống rất nể sợ Đại Việt, đặc biệt trong vấn đề ngoại giao đòi đất. Có thể nói rằng Lý Thường Kiệt không chỉ có công lớn trong việc Bắc phạt hay đánh tan đạo quân xâm lược của Quách Quỳ, Triệu Tiết mà còn là người giữ vai trò chính trong việc thu hồi các vùng đất bị nhà Tống chiếm giữ. Chính nhờ chính sách vừa đánh vừa đàm, dùng cả kỳ binh lẫn chính binh mà Lý Thường Kiệt đã giúp nhà Lý thu về những vùng đất quan trọng như châu Quang Lang, châu Quảng Nguyên...
Lý Thường Kiệt còn muốn tiếp tục dùng các biện pháp quân sự và ngoại giao sòng phẳng để đòi lại 2 động là Vật Dương và Vật Ác vốn bị họ Nùng dâng cho nhà Tống (theo nhà sử học Hoàng Xuân Hãn, động Vật Dương là đất Nùng Trí Hội nộp Tống vào năm 1064 và được Tống đổi tên ra Qui Hóa; động Vật Ác là đất Nùng Tông Đán nộp Tống từ năm 1057 và được Tống đổi ra châu Thuận An. Hai động này ở phía bắc biên thùy huyện Thạch lâm tức là phần tây bắc Cao Bằng, và thuộc các châu Trấn An và Qui Thuận của Trung Quốc). Dựa vào lý của ta thì họ Nùng vốn theo ta trước đây thì đất phải thuộc ta còn nhà Tống lại cho rằng họ Nùng theo hàng họ nên đất đó thuộc về Tống. Chuyện tranh cãi kiểu này trước đây được Lý Thường Kiệt dùng tiền lễ hậu binh để 'giải quyết rốt ráo'.
Nhưng đáng tiếc là năm 1082, Lý Thường Kiệt được điều về trấn thủ Thanh Hóa nên ảnh hưởng của ông trong việc ngoại giao đòi đất với nhà Tống hầu như không còn. Nhà sử học Hoàng Xuân Hãn nhận xét: "Ở triều Lý, chính sách ngoại giao trước năm Nhâm tuất 1082 hoàn toàn bởi tay Lý Thường Kiệt điều khiển. Từ năm Nhâm Tuất về sau, vua Lý đã trưởng thành và đã tự mình coi việc nước. Còn Lý Thường Kiệt đi ra giữ trấn Thanh Hóa. Cho nên nếu ông còn có ảnh hưởng ở triều, thì ảnh hưởng ấy không lớn như trước nữa".
Thực ra, sau khi vua Lý Nhân Tông bắt đầu tự mình nắm quyền thì vẫn kiên trì trong việc đòi đất. Tuy nhiên, Nhân Tông lại chủ trương trọng quan văn như Lê Văn Thịnh trong việc đàm phán với nhà Tống nên không có sự mạnh mẽ, quyết đoán như Lý Thường Kiệt.
Lê Văn Thịnh là trạng nguyên đầu tiên của nước ta, người có tài đối đáp rất thông minh và theo Đại Việt sử lược, Lê Văn Thịnh còn được vua Tống ban chức Long đồ các Đãi chế. Trong sứ mệnh đòi 2 động Vật Dương và Vật Ác thì Lê Văn Thịnh cũng dốc nhiều công sức, nhiều lần tranh luận khiến đại diện nhà Tống phải cứng miệng.
Một câu chuyện tiêu biểu được ghi vào sử sách là có lần Văn Thịnh biện rõ rằng hai châu Qui Hóa và Thuận An nguyên là đất Vật Dương và Vật Ác của nước ta, đã bị các tù trưởng lấy trộm đem nộp Tống. Một phái viên Tống nói: "Những đất mà quân nhà vua đã đánh lấy, thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất, mà các người coi giữ, lại mang nộp để theo ta, thì khó mà trả lại".
Văn Thịnh trả lời: "Đất thì có chủ. Các viên coi giữ mang nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng, để làm nhơ bẩn sổ sách nhà vua!". Thực ra Lê Văn Thịnh đã dẫn một điển tích thời Xuân Thu được người Hán ca ngợi nên sứ Tống không thể đáp lại nổi. Dù vậy, phía Tống vẫn không trả đất.
Nhà Lý đã 2 lần gửi thư đòi vua Thần Tông nhà Tống phải trả 2 động nhưng vua Tống tìm mọi cách thoái thác. Sau khi Tống Thần Tông qua đời, Tống Triết Tông lên ngôi thì Thái hoàng thái hậu họ Cao nắm quyền nhiếp chính. Triều Lý tiếp tục gửi thư, cử sứ nói lý lẽ đề cập việc trả 2 động trên đến 4 lần nữa. Thế nhưng, Cao hậu đã khước từ cả 4 lần. Từ đó, vua Lý phải thôi hẳn, không thể nhắc đến việc hai động nữa.
Điều này quả là đáng tiếc vì khi ấy, nước ta cực thịnh trong khi nhà Tống lại đang suy lại không tận dụng được thời cơ. Vấn đề là vua Lý Nhân Tông không phải vị vua trưởng thành trên lưng ngựa như 3 vị vua đời trước là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông nên không quyết liệt mạnh mẽ trong việc đấu tranh với phương Bắc. Còn Lý Thường Kiệt sau khi về trấn Thanh Hóa thì ảnh hưởng ông đối với Nhân Tông hình như cũng giảm đi nhiều.
Ngay cả sau khi Thái hoàng thái hậu nhà Tống mất (năm Quí Hợi 1093), vua Tống cầm quyền nhu nhược, đảng phái tân cựu lại khynh đảo nhau rất kịch liệt, quân Hạ đe dọa Tống ở miền bắc, mà vua Lý cũng không biết nhân cơ hội, cố đòi lại đất còn mất.
Có thể thấy rằng việc nhà Lý đấu tranh đòi đất với nhà Tống thì không thể chỉ ngồi nói lý lẽ suông được. Ngay cả khi có một người giỏi biện bác như Lê Văn Thịnh khiến người Tống cứng họng thì họ cũng không dễ dàng trả lại đất đã chiếm trong tay. Chỉ có Lý Thường Kiệt với chính sách khôn ngoan cả nhu lẫn cương, sẵn sàng dùng quân sự thì mới khiến vua tôi nhà Tống phải chấp thuận trả đất.

Nhà Trần dẫn quân Bắc phạt, vua Tống vừa sợ vừa mừng

   Trong lịch sử nước ta, nhà Trần là triều đại vàng son giúp Đại Việt khẳng định vững chắc nền độc lập. Khi nhắc đến các chiến công của nhà Trần thì không thể quên được 3 lần chống quân Nguyên Mông vang dội lịch sử. Nhưng không phải ai cũng biết trong thời kỳ đầu nhà Trần, quân ta đã từng Bắc tiến khiến nhà Tống vừa mừng, vừa sợ
Nhà Trần dựng triều đại thay nhà Lý năm 1226 với sự kiện Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông lên ngôi. Ba năm sau, Trần Thái Tông  cho sứ sang nhà Tống xin kết bang giao để yên ổn mặt bên ngoài. Nhà Tống khi ấy không chấp nhận quan hệ ngoại giao với nhà Trần vì cho rằng nhà Trần lấy ngôi nhà Lý là không thuận. Thực ra, vua tôi nhà Tống cũng chẳng thương xót gì nhà Lý mà chỉ nhân chuyện này để muốn kiếm chuyện với ta. Các triều đại Trung Quốc về sau rất hay tận dụng việc nước ta thay đổi triều đại, lòng người không yên để gây khó dễ như việc nhà Minh đánh nhà Hồ, nhà Mạc vậy.
Sở dĩ khi đó nhà Tống chưa dám mang quân gây chuyện với nhà Trần vì thất bại của nhà Tống thời Lý Thường Kiệt vẫn còn ám ảnh vua tôi nhà Tống. Hơn nữa, tình cảnh nhà Tống lúc này cũng chẳng thể chú tâm cho phía nam khi đang mưu đồ liên minh với Mông Cổ để thâu tóm nhà Kim. Chẳng dè năm 1234 quân Mông sau khi đánh tan nhà Kim thì đã chĩa mũi giáo xuống phía Nam với ý định nuốt trọn đất nhà Tống.
Lúc này thì vua Tống mới cuống quýt kết thân với nhà Trần và phái sứ sang nước ta năm 1236 để chủ động kết giao. Trước hết, nhà Tống muốn yên tâm không lo bị quân Trần bắc tiến. Quan trọng hơn, động tác ngoại giao này nhằm để nhà Trần không cho quân Mông mượn đường đánh thông lên khiến Tống rơi vào cảnh bị công từ 3 hướng.
Cuốn lược sử ngoại giao Việt Nam các thời kỳ cũng viết: "Sự giao hảo vội vàng của nhà Tống với ta cho thấy những lo ngại của họ trước cuộc chiến tranh xâm lược ồ ạt của Mông Thát vào đất Tống và chung quanh đất Tống. Cho sứ sang gấp nước ta, nhà Tống muốn tranh thủ quan hệ hữu hảo với ta, phòng trước sự tiếp xúc của Mông Thát với ta, có thể bất lợi cho Tống".
Với mạng lưới tin tức từ thám tử thì vua tôi nhà Trần đủ sáng suốt để nhận ra rằng cuộc chiến Mông - Tống sẽ sớm đi vào giai đoạn khốc liệt. Ta chủ động giữ thái độ hòa hoãn với nhà Tống không những vì tình láng giềng mà còn muốn cho Tống tập trung toàn bộ sức mạnh để đại chiến với quân Mông. Cuộc chiến giữa Tống - Mông càng khốc liệt, thương vong hai bên càng cao thì sẽ càng có lợi cho những nước nằm trong vòng đe dọa của hai nước trên.
Không chỉ cao thượng chấp nhận bang giao với Tống, vua tôi nhà Trần còn âm thầm giúp Tống được thảnh thơi tập trung sức mạnh. Nguyên do là từ năm 1236, sau khi đánh Thành Đô, quân Mông Thát tiến dần xuống phía nam, thường cho du binh đột nhập vùng Quảng Đông, Quảng Tây cướp phá rồi rút đi, gây tình hình rối ren cao độ ở miền nam nước Tống. Giặc cướp nổi lên khắp nơi, quan, tướng nhà Tống ở đây không sao trấn trị được.
Cuối năm 1240, giặc cướp trên đất Tống không chỉ làm loạn trong nước mà còn tràn qua biên giới vào vùng Lạng Giang (tức Lạng Sơn) giết người cướp của. Đại Việt sử ký toàn thư ghi "Mùa đông, tháng 10, quan đóng giữ Lạng Giang sai chạy trạm tâu về việc người phương Bắc đến bắt người cướp của dân cư trong hạt ấy. Vua sai thị thần là Bùi Khâm đến biên giới phía bắc để bày tỏ". Thực chất của việc này là Bùi Khâm được lệnh cầm quân lên Lạng Giang dẹp giặc và củng cố biên phòng.
Một năm sau (1241), giặc cướp bên Tống lại tràn sang cướp phá miền biên giới nước ta. Triều đình nhà Trần cho đốc tướng Phạm Kính An đem quân lên biên giới đánh giặc. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Mùa đông, tháng 10, người Man phương bắc đến cướp biên giới. Sai đốc tướng Phạm Kính Ân đi đánh lấy được các động Man rồi về".
Và cũng trong năm đó, vua Trần Thái Tông ngự giá thân chinh theo đường thủy tiến ra vùng biển Quảng Ninh rồi Bắc phạt. Sử chép: "Vua thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về".
Việc vua Trần ngự giá thân chinh đánh tận sang đất Tống dù mục đích là đánh giặc cướp nhưng cũng cho thấy nhà Trần khi ấy chẳng sợ gì nhà Tống. Còn nhà Tống cũng chẳng dám sai sứ sang trách cứ vì họ vừa mừng, vừa sợ. Cứ theo lý lúc đó mà suy ra thì nhà Tống còn phải mừng vì quân Trần giúp họ dẹp giặc cướp. Nhưng nhà Tống cũng sợ vì trong lúc phải căng sức chống Nguyên thì quân Trần hoàn toàn có thể tái hiện cảnh Lý Thường Kiệt đại phá các châu huyện.
Còn trên thực tế, chiến dịch quân sự của vua Trần chỉ dừng ở mức giúp Tống đánh dẹp giặc cướp, bảo đảm an ninh miền biên giới nước ta. Quan trọng hơn, đợt động binh đó tạo tạo điều kiện cho vua Trần và các tướng lĩnh đi cùng hiểu sâu hơn tình hình nhà Tống khi ấy. Từ đó, ta hình dung được chiều hướng cuộc chiến tranh Mông - Tống để vạch ra các kế sách đối phó khi lửa đã lan đến gần biên giới.

Nhà Trần 4 lần trói sứ giả Mông Cổ vì tội 'uốn lưỡi cú diều'

   Giữa thế kỷ 13, thời điểm quân Mông Cổ còn chưa diệt được nhà Tống nhưng đã nhăm nhe muốn khuất phục Đại Việt khi ấy do nhà Trần lãnh đạo. Phép chiếm đất của quân Mông Cổ thời đó bao giờ cũng là đánh trước bằng ngoại giao rồi mới dùng binh.
Về ngoại giao, chúng thường cử sứ giả sang dùng lời lẽ dọa nạt, bắt đối phương khuất phục, trở thành chư hầu. Khi trở thành chư hầu thì sẽ phải cho chúng đặt quan Đạt Lỗ xích hoa trong nước đẻ giám sát mọi mặt của chư hầu. Chưa hết, chư hầu phải cống vàng lụa, phải có trách nhiệm nộp thuế và cử quân đội đi đánh nước khác theo sự sai khiến của chúng. Như thế thì việc chấp nhận trở thành chư hầu không khác gì đánh mất sự độc lập và trở thành một tỉnh bị người Mông Cổ quản lý toàn diện.
Rất nhiều nước đã không chấp nhận việc đầu hàng người Mông Cổ và khi ấy chúng mới kéo quân sang vây thành diệt nước, thực hiện chính sách gần như diệt chủng để khỏi nỗi lo bị phản kháng sau này, đồng thời làm gương dọa các nước khác phải đầu hàng. Chính vì thế, chỉ với một đội quân viễn chinh dù không lớn nhưng vó ngựa Mông Cổ có thể tung hoành khắp lục địa Á – Âu và khuất phục rất nhiều vương quốc. Ngay cả nhà Kim hùng mạnh, nước Tống người đông cũng không phải đối thủ.
Sau khi khuất phục được Đại Lý (Vân Nam, Trung Quốc hiện giờ) năm 1253, quân Mông Cổ muốn khuất phục tiếp Đại Việt để từ đó tạo bàn đạp vừa đánh tiếp xuống phía Nam, vừa đánh thốc lên nhà Tống.
Như thói quen, quân Mông cử sứ giả sang dọa dẫm nhà Trần với niềm tin Đại Việt ngoan ngoãn làm chư hầu. Tháng 9 năm 1257, sứ của Ngột Lương Hợp Thai tới trước cửa ải nước ta. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Tháng tám năm Đinh Tỵ (khoảng tháng 9 năm 1257), chủ trại ở Quy Hóa là Hà Khuất cho chạy trạm về triều tâu là có sứ Nguyên tới".
Được tin báo, triều đình nhà Trần lệnh cho sứ nhập cảnh và đưa sứ vào triều. Sử cũ không ghi chi tiết gì về việc sứ Nguyên, tức sứ Mông Thát tới Thăng Long. Nhưng chúng ta có thể hiểu theo thói quen thì sứ Nguyên sẽ tung lời dọa dẫm để khủng bố tinh thần nước khác phải khuất phục chúng. Trừ giai đoạn đầu có sự kháng cự ở các vương quốc Trung Á thì mấy chục năm đánh xuống phía Nam mỗi khi quân Mông cho sứ đi tới đâu thì nơi đấy thường khiếp sợ, cúi đầu dâng đất xin hàng hoặc xưng thần nộp cống.
Nhưng ở Đại Việt thì không có chuyện đó. Đại Việt sử ký toàn thư không ghi lại việc sứ ta sang chầu đáp lễ Ngột Lương Hợp Thai mà chỉ chép vắn tắt như sau: “Tháng 9, xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên theo sự tiết chế của Quốc Tuấn (tức Trần Hưng Đạo).  Mùa đông, tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm sửa vũ khí.  Tháng 12, ngày 12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đải xâm phạm Bình Lệ Nguyên”.
Như vậy, tháng 8 (âm lịch) sứ Nguyên sang, tháng 9 nhà Trần đã cho quân ra biên giới ngăn ngừa, tháng 11 thì chuẩn bị vũ khí và tháng 12 thì quân Mông kéo sang. Với tốc độ thông tin bằng ngựa như thời xưa thì có thể thấy các hoạt động lúc đó rất khẩn trương. Từ đấy có thể hiểu rằng trong cuộc đấu ngoại giao, ta cự tuyệt hoàn toàn lời đe dọa của người Mông và chủ động nghênh đón một cuộc chiến quân sự trong dự tính.
Người Mông có vẻ không hiểu tinh thần bất khuất của Đại Việt. Họ tưởng chỉ dùng mấy lời dọa dẫm của sứ giả và tăng dần cường độ là khiến vua tôi nhà Trần khiếp sợ. Chính vì vậy, trong thời gian ngắn trước khi quân của Ngột Lương tiến vào nước ta thì người Mông đã cử 3 lượt sứ giả đến “chiêu an”.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn tham khảo từ sách Nguyên sử loại biên và sách Cương mục tục biên  (Trung Quốc)  đều chép rằng: “Năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai đã bình được nước Đại Lý, kéo quân sang nước ta, ba lần sai sứ đến dụ nhà vua đầu hàng, đều không thấy sứ thần trở về, bấy giờ mới chia đường tiến quân, nhân thế thắng, kéo vào đô thành nước ta, khi vào, thấy ba người sứ sai sang trước còn bị giam ở trong ngục, người nào cũng bị những thanh tre bó chặt vào mình sát hẳn đến da, khi cởi trói ra, thì một người đã bị chết, họ liền giết hết cả dân trong thành. Đóng quân ở đây được 9 ngày, vì không chịu được nóng nực, phải rút về. Lại sai sứ giả đến chiêu an, vua Thái Tông giận họ tàn phá, nên lại sai trói hai sứ giả đưa trả lại”.
Còn thực tế thì quân Mông rút về không phải do sợ nóng mà mắc phải kế vườn không thành trống, không có lương ăn. Đóng quân ở Thăng Long, lương ăn năm bảy ngày đã cạn mà không tìm được quân Trần ở đâu để quyết đấu. Cùng đường, Ngột Lương Hợp Thai phải từ bỏ mọi mưu đồ quân sự, phải vận dụng ngoại giao cầu hòa, để được đem quân an toàn trở về nước. Triều đình nhà Trần không chấp nhận lời cầu hòa của giặc, cho trói sứ đuổi về trại giặc. Quân ta tổ chức một trận tập kích lớn, đánh vào toàn bộ quân giặc. Giặc không chống đỡ nổi, thiệt hại nặng, phải dồn toàn lực đem tàn quân chạy về nước. Như vậy, trước và sau cuộc kháng Nguyên Mông lần thứ nhất, ta đã 4 lần trói sứ giả giặc, điều mà chưa nước nào khi ấy dám làm. Cũng phải hiểu rằng sứ giả quân Mông không hề cư xử theo nghi lễ ngoại giao mà chỉ là những kẻ khiêu chiến, coi thường nước khác nên cần bị trừng trị. Chẳng trách khi viết Hịch tướng sĩ thì Hưng Đạo vương có viết sứ giả Nguyên Mông là lũ "uốn lưỡi cú diều sỉ mắng triều đình".

Đại Việt - Nguyên Mông thông hiếu, nhà Tống sợ hãi cầu thân

   Trước thái độ ngọt ngào của người Mông Cổ thì ta cũng đáp lại lịch sự khi cử sứ sang Vân Nam thông hiếu, và cũng là để tìm hiểu thêm tình hình của đối phương. Thấy ta và Mông Cổ cứ sứ giả thăm viếng nhau thì triều đình nhà Tống kinh hãi.
Thời điểm thế kỷ 13 là giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Việt. Trong lúc nhà Trần mới lên thay nhà Lý lãnh đạo Đại Việt thì quân Nguyên Mông tấn công xuống phía nam, uy hiếp cả nhà Nam Tống lẫn Đại Việt.
Tại biên giới phía Bắc, chúng ta giáp với 2 cường quốc mạnh nhất châu lục (nếu không muốn nói là mạnh nhất thế giới) khi đó về quân lực. Cả hai đang trong thế nước lửa đối đầu nên đường lối ngoại giao khi ấy đòi hỏi cực kỳ khéo léo để giữ được chủ quyền.
Quan điểm ngoại giao nhà Trần khi đó là gắng hòa hiếu với cả hai để Tọa sơn quan hổ đấu trong cuộc chiến Nguyên - Tống. Nhưng khi bất kỳ nước nào dù là Nguyên, Tống hay Chiêm Thành có hành vi đe dọa chủ quyền lãnh thổ thì đều nhà Trần sẵn sàng trừng phạt. Việc nhà Trần sẵn sàng 4 lần trói sứ, động binh với quân Mông trong cuộc chiến kháng Nguyên 1257 đã cho thấy rõ tinh thần đó. Sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất, Tống - Nguyên phải nhìn Đại Việt với con mắt khác, thái độ ngoại giao của hai nước đối với chính quyền Thăng Long hoàn toàn thay đổi.
Đầu năm 1261, triều đình Mông Cổ chính thức quan hệ với ta. Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: "Thế Tổ nước Mông Cổ (tức Hốt Tất Liệt) mới lên ngôi, lại sai Lễ bộ lang trung là Mạnh Giáp, Viên ngoại lang là Lý Văn Tuấn sang dụ rằng: "Quan lại, sĩ thứ nước An Nam, phàm áo mũ lễ nghi đều được theo chế độ cũ nước mình. Trung Triều đã hạ lệnh răn bảo quan lại ở ngoài biên giới không được thiện tiện đem quân xâm nhiễu, vậy hai bên đều nên giữ việc trị an như cũ". Khi bọn Mạnh Giáp đã đến nơi, nhà vua ban yến ở cung Thánh Từ. Sau nhà vua sai viên Thông thị đại phu là Trần Phụng Công, viên ký ban các vệ là Nguyễn Thám và Viên ngoại lang là Nguyễn Diễn sang Mông Cổ đáp lễ, vua Mông Cổ ban sách phong và cho ba súc gấm tây cẩm, sáu súc gấm vàng".
Tại sao Hốt Tất Liệt lại thay đổi thái độ trong lần trao thư này? Từ chỗ hung hăng đòi Đại Việt phải làm thuộc quốc thì nay lại dùng lời ngon ngọt. Đặc biệt, Hốt Tất Liệt còn tỏ 'thành ý' là "ta đã cấm các biên tướng ở Vân Nam không được thiện tiện đưa binh lấn cướp biên giới, quấy nhiễu nhân dân nước khanh" và mong "Các quan liêu sĩ thứ nước khanh cứ yên ổn làm ăn như trước...". Thực sự thì diều hâu không thể dễ dàng hóa thành bồ câu mà đó chỉ là chiêu trò của Nguyên Mông.
Sau khi thất bại trong cuộc xâm lược Đại Việt lần 1 thì nội bộ Mông Cổ xảy ra đại loạn. Vua Mông Kha chết trận năm 1259 khiến cho triều đình Mông Cổ xoáy vào cuộc tranh giành quyền lực. Hốt Tất Liệt phải quay về phương Bắc lo đoạt ngai vàng nên không thể để tâm sức vào cuộc chiến phương Nam. Điều Hốt Tất Liệt muốn là tạm thời giữ lãnh địa ở phương Nam được yên ổn trong lúc tập trung ổn định vững chắc ngai vàng. Hốt Tất Liệt rất sợ quân Trần đánh lên hay liên minh với nhà Tống đánh vào Vân Nam.
Trước thái độ ngọt ngào của người Mông Cổ thì ta cũng đáp lại lịch sự khi cử sứ sang Vân Nam thông hiếu, và cũng là để tìm hiểu thêm tình hình của đối phương. Thấy ta và Mông Cổ cứ sứ giả thăm viếng nhau thì triều đình nhà Tống kinh hãi. Giữa 1262, nhà Tống lật đật cử sứ sang ta để phong quốc vương. Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: Nhà Tống thấy nhà vua (tức Trần Thánh Tông) đã được Thượng hoàng truyền ngôi cho rồi, nên hạ chiếu cho tập phong làm An Nam quốc vương và gia phong vua Thái Tông làm Đại vương.
Các triều đình phương Bắc rất khó tính trong việc 'phong' vua nước ta là quốc vương vì điều đó đồng nghĩa với việc công nhận tính chính danh của triều đình cũng như cương thổ nước ta. Một khi đã công nhận tính chính danh đó thì không thể vô cớ cất quân xâm lược được. Thời nhà Lý, dù sau khi Lý Thường Kiệt đại phá quân Tống nhưng vua Tống cũng không chịu công nhận nước ta mà vẫn coi nhà Lý là một thế lực nổi loạn. Phải mãi thời Lý Anh Tông, khi nhà Tống bị Kim uy hiếp mới cầu thân với Đại Việt năm 1164. Theo Nguyên sử loại biên, An Nam, trước đây, gọi là Giao Chỉ; Đường Cao Tông đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Tên gọi là An Nam bắt đầu từ đấy. Tống Hiếu Tông phong Thiên Tộ là An Nam quốc vương, An Nam gọi là "nước" bắt đầu từ đó. Thực ra, vua Lý hay vua Trần cũng chẳng ham gì cái tước vương của phương Bắc. Tuy nhiên, xét vào bối cảnh khi đó thì cần cái tước vương đó để phương Bắc không có cớ mang quân xâm lược nước ta.
Ban đầu nhà Trần lên thay nhà Lý cũng sang thông hiếu với Tống năm 1229 nhưng nhà Tống không công nhận tính chính danh của nhà Trần. Vậy mà thời điểm 1262, không cần cầu phong gì cả mà vua Tống vội sai người sang phong Trần Thánh Tông làm quốc vương ngay. Điều nhà Tống mong muốn khi đó là được một đồng minh mạnh như Đại Việt, không lo bị Đại Việt tấn công hay bị Đại Việt cho quân Nguyên Mông mượn đường đánh lên.
Sợ Việt - Tống kết thân, nên chỉ vài tháng sau khi nhà Tống phong vương cho vua Trần, đến tháng 10.1262, Hốt Tất Liệt cho một sứ bộ sang ta, đem sắc phong vua Trần làm An Nam Quốc vương. Những chiêu lấy lòng của cả Tống hay Nguyên Mông đều chỉ là chiêu bài chính trị chứ không thực lòng hòa hiếu. Khi có cơ hội, họ sẵn sàng tìm cách xâm lược nước ta.

Nhà Trần dùng kế trừng trị các quan Đạt lỗ hoa xích

Tranh vẽ một Đạt lỗ hoa xích ở Trung Á
   Sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất thì năm 1261, nhà Trần chính thức đặt quan hệ ngoại giao với triều đình Mông Cổ. Chính thức đặt ngoại giao khi ấy có nghĩa là cử sứ qua lại lẫn nhau theo định kỳ. Vì tương quan của hai bên khi đó vẫn còn khá lệch nên ta phải chấp nhận một số điều kiện bất bình đẳng. Một trong những điều đó là phải cho Mông Cổ đặt sứ quán tại nước ta với viên quan đứng đầu gọi là Đạt lỗ hoa xích.
Các viên Đạt lỗ hoa xích mà Nguyên Mông đặt ở các nước khác thường rất hống hách, tự coi mình như một ông vua con, không coi triều đình sở tại ra gì. Sở dĩ có chuyện như vậy là vì chúng cậy sức mạnh của vó ngựa Nguyên Mông nên làm chuyện cáo mượn oai hùm. Bản thân triều đình Nguyên Mông thì dung túng cho bọn Đạt lỗ hoa xích  tác yêu tác quái vì coi đó là cách khủng bố tinh thần các khu vực mà chúng coi là thuộc quốc.
Những viên Đạt lỗ hoa xích  sang Thăng Long cũng có tâm địa như vậy. Ngoài việc hạch họe yêu sách để vơ vét (như Hịch tướng sĩ viết: thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn), thì chúng còn tìm cách làm gián điệp, thu thập thông tin để tạo lợi thế khi chiến tranh.
Đối với triều đình Nguyên Mông, vua tôi nhà Trần không hề sợ (nếu sợ thì đã không đánh và thắng năm 1258). Tuy nhiên, ta vẫn tìm mọi cách để có thể giữ sợi dây hòa bình mong manh và tranh thủ thời gian đó để luyện quân sẵn sàng cho một cuộc chiến. Do vậy, ta chấp nhận cho lũ  Đạt lỗ hoa xích  được tồn tại ở Thăng Long nhưng không để chúng lộng hành quá đáng.
Năm 1261, Đạt lỗ hoa xích đầu tiên là Nậu Lạt Đinh đến Thăng Long và đến 12.1263 mới về nước. Năm 1266, Nậu Lạt Đinh mới trở lại Thăng Long. Triều đình nhà Trần cấm dân không được nói chuyện với người Hồi Hột để ngăn chặn mọi tin tức, không cho chúng biết mà thông báo với tên quan Đạt lỗ hoa xích. Ta làm chặt đến mức Nậu Lạt Đinh không có tin gì để báo cáo về Vân Nam và làm Hốt Tất Liệt hết sức giận dữ. Thế Tổ nhà Nguyên đã đe dọa: Lại ngay trong tờ tâu thường có câu “một nhà”. Nay nghe Nậu Lạt Đinh nói ở đấy (Đại Việt) có lệnh cấm không cho dân được nói chuyện với người Hồi Hột. Nếu quả như vậy thì cái nghĩa “một nhà” có lẽ nào như thế?”
Tuy nhiên, triều đình ta vẫn phớt lờ yêu cầu của Hốt Tất Liệt. Thậm chí, ta còn nhốt luôn cả những tay lái buôn Hồi Hột mượn cớ vào nước ta buôn bán nhưng thực ra là gián điệp. Tháng 2.1267, Hốt Tất Liệt phải viết thư đòi vua Trần trả lại thương nhân Hồi Hột nhưng vua Trần Thái Tông không chịu. Trong thư gửi triều đình Mông Cổ, vua Trần nói: “Lái buôn Hồ Hột một người tên là Y ôn đã chết lâu ngày, một người tên là Bà Bà vừa bị bệnh chết”.
Cộng vào đó, ta dùng kế ly gián luôn quan Đạt lỗ hoa xích với triều đình Nguyên Mông. Năm 1267, ta viết thư xin cho Nậu Lạt Đinh ở lại làm Đạt lỗ hoa xích thêm "nhiệm kỳ". Triều đình Nguyên Mông ngờ rằng Nậu Lạt Đinh đã bị mua chuộc nên không cung cấp được thông tin gì. Do vậy, Vân Nam đã triệu hồi Nậu Lạt Đinh về và cử Hốt Lung Nha Hải sang thay, Trương Đình Trân làm phó quan.
Nực cười nhất là Trương Đình Trân vốn là Hán gian, mãi quốc cầu vinh lại còn giở giọng hống hách chất vấn nhà Trần tại sao còn giữ quan hệ hòa hiếu với Tống. Trân còn đòi được tiếp đón theo lễ tước Vương. Nhà Trần chẳng những không đồng ý với yêu sách của Trân mà còn sai lực sĩ tuốt gươm trần vây quanh. Trân uể oải nằm trong một căn phòng, vứt hết cung tên gươm giáo đeo bên người để nửa thách thức, nửa ăn vạ.
Quân lính nhà Trần cũng chẳng hề phiền lòng trước kiểu cư xử của tên quan Hán gian. Trời nắng, Trân khát quá mới xin uống nước. Quân lính ta theo kế bèn lấy nước sông thật đục và bẩn khiến hắn không uống được. Trân lại xin uống nước giếng. Theo lệnh, quân lính ta trả lời: “Tục lệ nước chúng tôi đã không ưa nhau thì thường bỏ thuốc độc vào trong giếng để giết người. Vì vậy, không thể múc nước giếng cho ông uống được, sợ làm chết sứ giả của vua Mông Cổ”. Tất nhiên, đó chỉ là cách dọa và hành hạ tên quan không biết điều.
Sau đó, Trân phải nói: “Tự tôi yêu cầu uống nước giếng, nếu có chết cũng không oán hận”. Vậy là bao nhiêu cao ngạo của Trân từ đỉnh Thái Sơn bỗng chốc rớt xuống chỉ còn độ vài tấc. Sau đó, Hốt Lung Nha Hải và Trân gần như bị giam lỏng ở Thăng Long, không được tự do đi lại.
Nguyên sử chép: "Năm Chí Nguyên thứ 7 (1270), sai Giã thiệt Nạp làm chức Đạt lỗ hoa xích tại nước An Nam, sau ông ấy chết tại nước ấy". Không rõ Giã thiệt Nạp chết khi nào, nhưng dù sao ông ta cũng là người cuối cùng làm Đạt lỗ hoa xích tại Đại Việt. Sau Giã thiệt Nạp, nhà Nguyên lại sai Diệp Thức Nghễ sang thay làm Đạt lỗ hoa xích. Nhà vua sai đáp thư cho nhà Nguyên rằng: "Chức Đạt lỗ hoa xích chỉ có thể đặt ở các nước man di ngoài biên giới, còn nước tôi như cái phên cái giậu che chở cho một phương, mà lại đặt chức quan ấy để kiểm soát công việc, thì chả bị nước khác chê cười hay sao? Xin đổi quan chức ấy làm dẫn tiến sứ". Nhà Nguyên không chịu nhưng cũng chẳng làm gì nổi.

Ba đời vua Trần và 12 lần cự tuyệt nhà Nguyên

   Trong giai đoạn giữa cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 1 (1258) và lần 2 (1285) thì quan hệ ngoại giao giữa nhà Trần và triều đình Nguyên Mông rất căng thẳng. Bên cạnh yêu sách đòi đặt quan Đạt Lỗ hoa xích tại Thăng Long thì triều đình Nguyên Mông còn vặn vẹo chuyện các vua Trần phải vào chầu.
Trong 6 yêu sách mà triều đình Nguyên Mông đặt ra với nhà Trần hồi 1267 được ghi dưới đây:
     1  Vua Trần phải sang chầu.
     2  Vua Trần phải cho con hay em sang ở tại triều đình Mông Cổ làm con tin.
     3  Phải kê khai dân số nộp cho Mông Cổ.
     4  Phải chịu các quân dịch của Mông Cổ.
     5  Phải nộp phú thuế cho Mông Cổ.
     6  Phải để cho Mông Cổ đặt Đạt lỗ hoa xích.
thì chúng ta có thể thấy việc đặt quan Đạt lỗ hoa xích chỉ xếp hạng cuối cùng trong khi yêu cầu vua Trần phải sang chầu lại đặt lên đầu. Nhà Nguyên Mông muốn dùng biện pháp ngoại giao này theo kiểu thế nào cũng có lợi. Nếu vua Trần chịu sang chầu thì chúng coi như bẻ gẫy ý chí phản kháng của người Việt và thậm chí có thể giam lỏng như con tin để dễ bề thuần phục. Còn nếu không sang chầu thì chúng có cớ để động binh sau này.
Giữa hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 1 (1258) và lần 2 (1285), Nguyên Mông đã 9 lần đòi vua Trần sang chầu. Sau khi 3 lần thất bại, nhà Nguyên vẫn lẽo đẽo thêm 3 lần đòi vua Trần vào chầu nhưng đều bị cự tuyệt.
Lần thứ nhất, năm 1258, sau khi bị thua chạy về Vân Nam thì Ngột Lương Hợp Thai đã cử hai sứ sang dụ vua Trần Thái Tông sang chầu. Lần đó, ta trói sứ đuổi về nhưng Vân Nam vừa bại trận nên không dám làm gì.
Năm 1261, ta và Nguyên Mông bắt đầu chính thức đặt quan hệ ngoại giao như đã đề cập trong phần trước thì việc đòi vua Trần sang chầu lại được khởi động lại. Năm đó, Hốt Tất Liệt sai Nậu Lạt  Đinh đưa chiều thư sang cho vua Trần đòi chầu lần 2. Thư viết: “Trước ta sai sứ sang thông hiếu, các người giữ không cho về. Ta phải ra quân năm ngoái, Quốc chúa người phải chạy ra thảo dã. Ta lại sai sứ đi chiêu dụ trả nước cho, ngươi lại trói sứ của ta đuổi về. Nay đặc sai sứ sang dụ dỗ: như các ngươi thực tâm nội phụ thì Quốc chúa phải thân đến. Nhược bằng không sửa lỗi, hãy nói ta rõ”.
Vua Trần Thái Tông trả lời bằng cách hỏi vặn: “... Nước nhỏ thành tâm thờ bề trên thì nước lớn nên đối đã lại như thế nào cho phải?”. Nậu Lạt Đinh đem lời này về Vân Nam tâu nộp. Tên này sau đó lại sang Đại Việt để dụ chầu lần thứ 3. Vua Trần lại trì hoãn: “Đợi đức ân ban xuống, sẽ lập tức sai con sang làm con tin”. Nhưng sau đó, Trần Thái Tông không hề cử ai sang làm con tin cả nhưng Nguyên Mông cũng không làm gì vì còn bận tranh giành quyền lực sau cái chết của Mông Kha.
Năm 1266, sau khi củng cố vững chắc ngôi vua, Hốt Tất Liệt lại quay về với chuyện đòi vua Trần chầu. Lần này, đích thân y ra chiếu thư với lời lẽ hống hách. “Phàm những nước đã quy phụ với Trung nguyên, thì vua phải thân hành đến chầu, cho con em ở lại Trung Quốc làm tin, biên nạp dân số, cung ứng quân dịch, nạp thuế khóa, còn đặt quan Đạt lỗ hoa xích cai trị. Các khoản nói trên đều để tỏ rõ lòng trung thành làm nước chư hầu. Nay khanh cống hiến không hề quá hạn 3 năm, đủ biết lòng thành thật như trước, nên ta cũng lấy lòng thành thật bày tỏ vậy. Vả lại vua chưa hầu tới chầu, cho con em vào làm tin, nạp sổ dân và sổ thuế, xuất quân giúp nhau xưa vẫn đã có, không phải mới ngày nay ta bày đâu. Khanh lo làm đầy đủ mấy điều khoản đó thì trẫm còn nói gì nữa”. Vua Trần không đáp ứng.
Năm 1271, Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại Nguyên đã tiếp tục cho sứ sang đòi vua Trần vào chầu (lần thứ 5) nhưng vua Trấn Thái Tông bảo đang bệnh nên không đi được.
Năm 1276, Hốt Tất Liệt gửi chiếu thư để lần thứ 6 đòi vua Trần Thái Tông vào chầu. Thư viết: “Theo chế độ của tổ tông đã qui định, phàm các nước nội phụ thì vua phải thân hành tới chầu, gửi con em làm tin, biên nạp dân số, nộp thuế lệ, mộ dân trợ binh và vẫn đặt quan Đạt lỗ hoa Xích để thống trị; sáu điều nói trên, năm trước đã có lời dụ cho khanh biết rồi, thế mà qui phụ đã hơn 15 năm, khanh chưa từng tới triều kiến một lần nào, và các điều qui định đến nay vẫn chưa thi hành; tuy rằng ba năm tới cống hiến một lần, nhưng các đồ cống hiến đều không dùng được. Ý trẫm muốn để lâu ngày khanh sẽ hiểu, cho nên cũng bỏ qua không hỏi làm chi, đến nay cũng chưa thấy tỉnh ngộ, cho nên lại sai sứ thần là Hợp sát Nhi hải Nha qua nước khanh, dụ khanh vào triều. Nếu vì cớ gì khác mà không thể đi được, thì sai con em thay mặt”. Nhà Trần cử sứ sang cự tuyệt yêu sách đòi vua vào chầu.
Năm 1277, vua cha Trần Thái Tông băng hà. Chỉ một năm sau, Nguyên Mông đã viết chiều đòi vua Trần Thánh Tông vào chầu. Thư viết: “Hồi xưa, khanh cùng nhà Tống thông hảo, nay nhà Tống đã dẹp yên, nhưng lễ nghĩa thờ kính thế nào, cũng chép ở trong thơ tịch, có thể xem mà biết. Việc trong thiên hạ chỉ lấy lòng chí thành làm căn bản. Nay khanh dối trá như vậy, ai sẽ tin được. Trước kia ông thân sinh khanh tuổi già suy nhược, đường sá xa xuôi, xông pha không nỗi thì còn có lý; chứ nay khanh đương tuổi cường tráng, vào chầu mà chịu sắc mạng, là chính tại lúc nầy, huống chi nước khanh tiếp giáp với châu Ung và châu Khâm của nước ta, có sợ gì mà không đi tới một lần? Hoặc giả khanh không lo sự an toàn, cố sự lờ sắc mạng của trẫm, thì khanh nên lo sửa sang thành quách cho vững vàng, chuẩn bị binh giáp cho đầy đủ để chờ quân ta; cơ hoạ phúc đổi đời, chính tại trong việc nầy, phải lo mà định đoạt lấy. Nay sai Lễ Bộ Thượng thư Sài Thung và các quan viên khác phụng sứ qua nước khanh để truyền chiếu chỉ”
Vua Trần Thánh Tông trả lời Sài Thung: “Trước dụ 6 việc đã được miễn xá, còn việc thân hành sang chầu thì tôi sinh trưởng trong thâm cung, không biết cưỡi ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường, con em thái úy trở xuống cũng đều như thế cả”.
Năm sau, Nguyên Mông lại viết thư nhắc chuyện đòi chầu lần thứ 8: "Nếu quả không thể tự thân tới được thì phải lấy vàng thay người, hai hạt châu thay mắt và lấy thêm hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ nghề, mỗi loại hai người để thay cho thổ dân. Nếu không, hãy tu sửu thành trì để đợi phán xét". Để trì hoãn chiến tranh, nhà Trần đành cử chú họ vua là Trần Di Ái sang chứ vua Trần Thánh Tông nhất quyết không chầu. Nhưng nhà Nguyên tráo trở lập Di Ái làm quốc vương bù nhìn mang về Đại Việt và dẫn đến 2 cuộc chiến kháng Nguyên lần 2 và lần 3.
Sau khi thua trong cả 3 lần xâm lược, nhà Nguyên vẫn còn 3 lần nữa hống hách đòi các vua Trần vào chầu. Năm 1288, vua Nguyên viết chiếu gửi vua Trần Thánh Tông, lời lẽ như sau:
“Trên danh nghĩa, Khanh đã phục tùng mà trên thực tế không hề tới chầu, đã mấy phen đưa thư sang mời, mà cứ cáo bệnh...” rồi “Nếu quả có lòng thành thật, thì sao không sang trình diện để phô bày? Chứ đâu lại có nghe nói sai tướng tới, thì lo chuyện trốn tránh, kịp đến rút quân lui về, thì nói đi cống hiến, lấy điều đó mà thờ kẻ trên, thì lòng ngay thật hay giả dối cũng đủ biết. Khanh thử nghĩ, trốn tránh ở xứ lãnh ngoại, không nghĩ đến mối hoạ binh qua, chi bằng đến sân chầu mà phục mạng thì được sủng  ái và về nước một cách vinh dự, trong hai điều ấy, khanh hãy chọn một điều để xét là điều nào hơn”.
Năm 1290, vua Trần Thánh Tông băng hà. Năm 1291, nhà Nguyên đã nhanh nhảu viết thư đòi vua Trần Nhân Tông vào chầu. Thư viết: “Các vị tổ tông ta đã qui định rằng: phàm các nước qui phụ, nước nào thân hành tới chầu thì nhân dân được an cư lạc nghiệp như thường; còn nước nào kháng cự không phục tùng, thì bị tiêu diệt, điều ấy khanh đã biết rồi. Cho nên ta sai sứ thần qua mời thân sinh khanh qua chầu, rút cuộc không vâng lời, chỉ cho ông chú qua thay mặt chầu triều. Vì thân sinh khanh không vào chầu, nên ta phong cho người chú làm An Nam quốc vương và sai sứ thần là Bất Nhãn Thiếp Mộc Nhĩ đưa về nước. Ông thân khanh lại giết người chú và đuổi sứ thần của ta, đến nỗi ta phải dấy binh qua đánh để hỏi tội, nhân dân của khanh bị chém giết thật nhiều mà quân ta cũng có tổn hại. Lúc đó Trấn Nam Vương Thoát Hoan còn trẻ tuổi, do đường thuỷ tiến binh, lầm nghe theo Toa Đô và Ô Mã Nhi, nên rơi vào tay khanh, nhân đó khanh mới được tạm yên đến nay. Khanh như biết thân hành sang chầu triều, thì những phù ấn về tước vua, ta sẽ cho cả không tiếc gì, đất đai và nhân dân ngõ hầu được bảo tồn vĩnh viễn”.
Năm sau lại viết tiếp chiếu thư gợi ý việc sang chầu: “Ta đã xét lời biểu dâng lên. Năm ngoái có quan Thượng thư bộ Lễ là Trương Lập Đạo tâu rằng: "ông ấy đã qua nước An nam biết rõ sự thể trong nước, xin qua hiểu dụ vua Trần sang chầu triều". Nhân vậy, ta lại sai Lập Đạo đi sứ, nay khanh đã biết lỗi, dâng biểu thú tội, thì ta chẳng trách phạt gì nữa. Nhưng nếu mượn cớ con mồ côi đương có tang chế và đường sá xa cách, sợ chết dọc đường không dám đi chầu; xét lại mượn những lời lẽ như trên là bất thông. Trong đời có loài vật gì cứ an toàn mãi ru? Trong thiên hạ có chỗ nào để người ta cứ sống hoài ru? Lời dụ nầy, khanh phải xem cho chu đáo, nếu dùng những lời xảo trá hư văn và chỉ chiếu lệ cống hiến lễ vật, như thế thì đạo nghĩa còn đâu nữa?”
Trước sau các vua Trần đều cự tuyệt việc sang chầu và nhà Nguyên cũng không làm gì được. Nên các chiếu thư sau 1292 thì đều không đề cập yêu sách này nữa vì chúng biết rằng các vua Trần đều không dễ dàng khuất phục.

Nhà Trần kiên quyết không làm lính đánh thuê cho Nguyên Mông

Quân Nguyên Mông dùng nhiều lính đánh thuê
   Không những từ chối giúp Nguyên mà ta còn vì đại cục, tạm gác bất đồng với Chiêm Thành để giúp đỡ nước bạn trong việc “viện Chiêm, kháng Nguyên”. Nguyên sử có ghi: “Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, sai 2 vạn quân và 500 chiến thuyền ứng viện”.
Ngoài yêu sách đặt quan Đạt lỗ hoa xích và đòi các vua Trần vào chầu thì triều đình Nguyên Mông còn có yêu cầu ngang ngược khác đối với Đại Việt là phải đi lính thay chúng. Điều đó được chúng ghi rõ vào trong bản yêu sách 6 điểm đặt ra với nhà Trần hồi 1266(*) .
Có thể nói việc đòi nhà Trần chịu quân dịch cho Nguyên Mông là vô cùng ngang ngược và nham hiểu. Thời kỳ đó, rất nhiều vương quốc nhỏ vì sợ hãi sức mạnh của vó ngựa Nguyên Mông nên đã phải chấp nhận đòi hỏi này, tức là cử lính đi đánh thay cho quân Mông Cổ. Như vậy, triều đình Mông Cổ được 2 cái lợi: thứ nhất là không tốn xương máu trong một số chiến dịch quân sự mà vẫn đạt mục tiêu và thứ hai là làm suy yếu chính binh lực của nước phụ thuộc. Các quốc gia chịu làm lính đánh thuê cho Nguyên Mông hầu như binh lực bị triệt tiêu, không thể nuôi lực phản kháng và cuối cùng là mất nước.
Đối với Đại Việt, Nguyên Mông cũng khá nhiều lần đòi phải nộp lính phục vụ cho chúng. Sau yêu sách năm 1266 bị ngó lơ thì năm 1275, chúng chính thức đặt vấn đề này như một yêu cầu cụ thể. Lời Chiếu văn năm Chí Nguyên thứ 12 (1275) ngoài việc đòi vua Trần Thái Tông vào chầu còn viết  rõ: “Ngoài khoản ấy, như dân số trong nước chưa có ngạch tịch nhất định, thì thuế khoá và quân dịch, châm chước làm sao cho được? Nếu dân của khanh số ít, mà bắt lính quá nhiều, sức e không đủ; nên nay biên số dân của khanh là muốn tuỳ theo nhiều hay ít, để định số lính và số thuế; số quân mà ta sẽ phái đi cũng không cho đóng tại nơi xa khác, chỉ cho theo lính thú Vân Nam để trợ lực với nhau mà thôi. Vậy nay ra lời chiếu thị cho rõ”.
Những lời này nghe thì có vẻ ‘tạo điều kiện’ là chỉ cần góp lính đóng ở mấy vùng gần gần xung quanh Vân Nam để trợ lực chứ không phải bắt đi xa đánh trận. Thế nhưng, đó chỉ là mồi nhử lộ liễu mà thôi. Nếu như nhà Trần mà chịu góp quân dù ít thì sau chúng lại có cớ đòi thêm quân. Nếu đồng ý góp quân ở gần thì sau chúng điều đi đánh tại Trung Á, châu Âu hay bán đảo Ả Rập thì lúc đó muốn từ chối phỏng có được nữa hay chăng. Do vậy, nhà Trần đã thể hiện thái độ rõ ràng ngay từ đầu là không góp lấy một quân, một tốt cho triều đình nhà Nguyên. Tuy nhiên, ta không thể nói thẳng là: “Chúng tôi không góp” mà khôn khéo mượn cớ thoái thác là binh ít, phải lo chống giữ biên giới phía Nam với Chiêm thành.
Năm 1278, ngay sau khi vua Trần Thánh Tông lên ngôi, nhà Nguyên lại gửi chiếu nhắc lại việc nộp lính đánh thuê. Chiếu viết: “Hồi trước, khi nước khanh mới nội phụ, hễ có xin điều gì, ta cũng y cho cả, trong ý nói rằng theo lễ thờ phụng nước lớn, lâu ngày tự xét sẽ biết rồi tuân theo các điều khoản mà thi hành. Nhưng đã lâu năm rồi, lễ nghi dần dần sơ bạc, vì vậy cho nên trong năm Chí Nguyên thứ 12 (1275), trẫm lại xuống một lời chiếu để trách khanh về những việc thân hành vào chầu và trợ binh. Mới đây, bọn Lê Khắc Phục qua dâng tờ biểu đều là nói dối: "nói nước khanh nội phụ trước hết". Kỳ thực các nước tứ phương tới đầu hàng trước khanh đã dông rồi, sau khanh chỉ có nhà Tống mà thôi, nhưng trẫm cho một đạo quân ra thì cả nước đều dẹp yên; kể ra thì khanh cũng đã nghe biết, thế thì lời của khanh không phải là giả dối sao? Lại nói: "có kẻ thù là nước Chiêm Thành quấy rối nên không thể trợ binh". Vã khanh cùng nước Chiêm Thành là bạn láng giềng đã lâu, không phải mới từ ngày nay”.
Vua Trần Thánh Tông dĩ nhiên không đáp ứng cả việc sang chầu và góp binh. Không lâu sau, nhà Nguyên lại tiếp tục đưa ra yêu cầu nhà Trần phát binh cùng nhà Nguyên đánh... Chiêm Thành. Nguyên do là vì căng thẳng ngoại giao hai bên sau sự kiện Vân Nam lập chính quyền bù nhìn Trần Di Ái lên rồi đưa về Đại Việt và bị đánh tan, nhà Nguyên giam giữ nhiều phái đoàn sứ giả của ta. Tháng 8 năm 1283, nhà Trần cho sứ sang Nguyên đòi trả lại những sứ bộ của ta bị giữ lại ở bên Nguyên. Hốt Tất Liệt muốn dụ ta giúp binh lương cho chúng đánh Chiêm Thành nên lập tức trả lại các sứ bị giữ.
Nhân việc trả lại sứ, Hốt Tất Liệt cho sứ thần là Triệu Chử đem thư sang dụ vua Trần giúp lương và giúp quân. Nhà Nguyên cũng chẳng tốt lành gì trong việc đánh Chiêm Thành mà chẳng qua muốn dùng kế “mượn đường diệt Quắc”. Nếu để Nguyên chiếm Chiêm Thành thì ta rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch và rất dễ bị đánh vu hồi từ phía nam lên.
Bởi vậy, vua Trần sai Nguyễn Đạo Học sang nhà Nguyên, Phạm Chí Thanh và Đỗ Bào Trực sang Hành tỉnh Kinh Hồ (quan đứng đầu trông coi việc đánh Chiêm Thành) đưa thư trả lời, bác bỏ mọi yêu cầu của phương Bắc. Về giúp quân, thư vua Trần từ chối rất lý lẽ: “Về việc thâm quân thì Chiêm Thành thờ phụ nước tôi đã lâu, cha tôi chỉ lấy đức để che chở, đến tôi cũng nối chí cha tôi. Từ khi cha tôi quy thuận thiên triều đã 30 năm, gươm giáo không dùng đến, quân sĩ đã cho về làm dân đinh, một lòng không có mưu đồ gì khác, mong các hạ thương mà xét cho". Về việc giúp lương, vua Trần trả lời: “Nước tôi địa thế gần biển, ngũ cốc trồng không được nhiều. Từ sau khi đại quân rút đi, trăm họ lưu vong, lại thêm lụt hạn luôn, sớm no chiều đói, ăn không đủ”. Vua Trần đã từ chối khôn khéo mà còn vạch tội xâm lược trước đây của chúng.
Không những từ chối giúp Nguyên mà ta còn vì đại cục, tạm gác bất đồng với Chiêm Thành để giúp đỡ nước bạn trong việc “viện Chiêm, kháng Nguyên”. Nguyên sử có ghi: “Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, sai 2 vạn quân và 500 chiến thuyền ứng viện”.
Vua Trần cũng viết thư gửi cho Toa Đô viết: “Chiêm Thành nội thuộc tiểu quốc, đại quan đến đánh thật đáng xót thương, nhưng chưa từng dám nói một lời, đó là thời trời việc người, tiểu quốc cũng biết vậy, biết trời, biết người vậy. Kẻ biết trời, biết người mà trái lại đồng mưu với kẻ không biết trời, biết người, tuy trẻ con lên 3 cũng biết là không nên, huống hồ là tiểu quốc”.
Lời lẽ thư này tuy khiêm nhường những cũng chỉ ra quân Nguyên là kẻ không hiểu đạo trời và nhân tình, đồng thời thể hiện thái độ của Đại Việt sẽ sát cánh với Chiêm Thành trong cuộc chiến kháng Nguyên. Nhờ thái độ dứt khoát đó của Đại Việt, Chiêm Thành yên tâm để quyết chiến với cánh quân Toa Đô. Sau khi không bình định được Chiêm Thành, âm mưu tạo gọng kìm từ phía Nam đánh vu hồi lên của quân Nguyên bị phá sản.
A.T
* Yêu sách 6 điểm của nhà Nguyên với nước ta khi đó gồm
    1  Vua Trần phải sang chầu.
     2  Vua Trần phải cho con hay em sang ở tại triều đình Mông Cổ làm con tin.
     3  Phải kê khai dân số nộp cho Mông Cổ.
     4  Phải chịu các quân dịch của Mông Cổ.
     5  Phải nộp thuế cho Mông Cổ.
     6  Phải để cho Mông Cổ đặt Đạt lỗ hoa xích, tức đặt quan lại người Mông Cổ để thống trị nước Đại Việt.
Anh Tú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét