Thứ Ba, 4 tháng 4, 2017

Bạn biết gì về võ tướng Trần Khánh Dư?

tra-loi-dung-6-cau-nay-ban-thuc-su-am-hieu-ve-tran-khanh-du
Trần Khánh Dư (chưa rõ năm sinh), quê ở Chí Linh, Hải Dương, là con trai thượng tướng Trần Phó Duyệt. Rất ít chuyện về ông khi còn thiếu thời được ghi lại. 
Nhà sử học Phan Huy Chú ghi trong Lịch triều hiến chương loại chí: “Trần Khánh Dư là người Chí Linh (Hải Dương). Vì là người tôn thất nên ông được phong tước Nhân Huệ vương. Lúc quân Nguyên mới vào cướp, ông thường thừa cơ đánh úp. Trần Thánh Tông khen là trí dũng, phong làm Thiên tử nghĩa nam (tức con nuôi của vua). Sau ông đi đánh người Man ở núi, đại thắng, được phong Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ nếu không phải là hoàng tử thì không được phong, vì ông là con nuôi vua nên mới được. Ông được vua yêu, từ tước hầu mấy lần được phong lên Thượng vị hầu áo tía, rồi cất lên làm phán thủ”.
Thời gian làm quan trong triều, Trần Khánh Dư thông dâm với Thiên Thụy, vợ của Trần Quốc Nghiễn, tức con dâu của Trần Quốc Tuấn. Sự việc xảy ra trước năm 1282 này bị lộ, Trần Khánh Dư bị bắt, phải chịu bản án thông dâm. Với tội danh này, ông bị xử tội chết, tịch thu hết tài sản.
Theo sách Danh tướng Việt Nam, nhiều nhà sử học bàn luận rằng nếu không xử Trần Khánh Dư tội chết thì luật pháp không nghiêm và gây ra nỗi hậm hực cho Trần Quốc Nghiễn. Mặt khác vua Thánh Tông phải nể mặt Hưng Đạo Vương. Nhưng cũng không thể giết Trần Khánh Dư vì ông là con nuôi của vua và là người có tài, công lao lớn trong các cuộc kháng chiến.
Vua thương tiếc người con nuôi này, nghĩ cách làm sao để phạt tội Khánh Dư, vừa giữ vững quân pháp, vừa để Khánh Dư sống, lại vừa đẹp lòng Trần Quốc Tuấn. Lần này, vua Trần Thánh Tông lệnh dùng cực hình, gán tội thông dâm vào mức phạt 100 trượng, đánh ngay tại bờ Hồ Tây. Theo luật bấy giờ, đánh 100 roi mà không chết là thiên mệnh cho sống.
Vua Thánh Tông ngầm ra lệnh cho quan sai nha đánh chúc gậy xuống khiến Khánh Dư đau chứ không chết. Như vậy mọi người đều công nhận Khánh Dư sống là do thiên mệnh còn soi sáng. Cách này vừa hợp lòng người, vừa hợp lòng vua. 
Sau khi bị tịch thu tài sản, phế truất binh quyền, Trần Khánh Dư về quê cha ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.
Tháng 10/1282, khi nhà Trần tổ chức hội nghị Bình Than, vua gặp lại Trần Khánh Dư. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi, lúc đó thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua bảo quan thị thần "Người kia chẳng phải là Nhân Huệ vương đó sao" rồi lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo, đến cửa Đại Than thì kịp.
Quân hiệu gọi "Ông lái ơi có lệnh vua gọi". Khánh Dư trả lời "Lão là người buôn bán, có việc gì mà vua gọi". Quân hiệu trở về tâu lại sự thực, vua bảo: "Đúng là Nhân Huệ, ta biết người thường tất không dám nói thế". Vua lại sai nội thị đi gọi.
Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá đến gặp vua. Vua nói "Nam nhi mà đến thế là cùng cực lắm rồi", bèn xuống chiếu tha tội cho ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi ở hàng dưới các vương, hàng trên công hầu. Ông bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.
Nguyễn Khắc Thuần bàn trong Việt sử giai thoại: "Biết được tài của Khánh Dư là vua Trần mà biết được tật của Khánh Dư có lẽ cũng chỉ có vua Trần. Tài thì dùng, tật thì trị. Vua Trần công minh là thế. Tiếc thay, Khánh Dư chẳng bỏ được lỗi lầm. Hóa ra, khai sinh danh tướng Trần Khánh Dư là vua Trần, còn khai tử uy danh Trần Khánh Dư lại chính là Trần Khánh Dư".
Khi quân Nguyên - Mông xâm lược Đại Việt lần thứ ba (năm 1287), Trần Khánh Dư được giao trọng trách quan trọng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết, khi ấy thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Khánh Dư.
Khánh Dư đánh thất thủ, thượng hoàng hay tin sai trung sứ đến xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói với trung sứ rằng: "Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội. Nhưng xin khất vài ba ngày để tôi mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn". Trung sứ nghe theo lời đó.
Khánh Dư biết thủy quân của giặc đã qua, thuyền vận tải lương thực chắc chắn theo sau, nên thu thập tàn quân đợi chúng. Chẳng bao lâu, thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương, khí giới, tù binh rất nhiều. Ông vội sai lính chạy ngựa về báo.
Thượng hoàng tha cho tội cũ cho Khánh Dư và nói: “Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo và khí giới. Nay đã bị ta bắt, sợ nó chưa biết, có thể còn hung hăng chăng”. Vua bèn thả tù binh về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quả nhiên quân Nguyên rút lui.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, người dân ở đó lấy buôn bán làm kế sinh nhai. Mọi thức ăn uống, may mặc dựa vào khách buôn phương Bắc, quần áo, đồ dùng đều theo tục của người Bắc. Khánh Dư duyệt quân trang thấy vậy liền ra lệnh: “Quân trấn giữ Vân Đồn để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt. Phải đội nón Ma Lôi (tên một hương ở Hồng Lộ chuyên nghề làm nón), ai trái tất phải phạt".
Khánh Dư ngầm sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước. Thuyền chở nón đã đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ban ra, Khánh Dư lại ngầm sai người phao tin “hôm qua thấy trước vùng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đến đậu”.
Nhận được tin, người dân tranh nhau mua nón. Ban đầu mua không tới một tiền, sau một chiếc nón đổi một tấm vải. Số vải thu được tới hàng nghìn tấm. Thơ của một người khách phương Bắc có câu “Vân Đồn gà chó hết thảy đều kinh sợ” là mượn ý sợ uy danh của Khánh Dư, thực là châm biếm ngầm ông.
Vua cho Khánh Dư là tướng tài, lập được nhiều công lao to lớn nên không hỏi đến việc này.
Nguyễn Khắc Thuần bàn trong Việt sử giai thoại rằng: “Nhờ tài cao mà lập được công lớn nhưng cũng bởi đức mỏng mà để tiếng xấu với đời. Nhân Huệ vương Khánh Dư quả có lý lịch khác thường vậy. Sau Khánh Dư còn nói Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt để nuôi chim ưng thì có gì lạ. Sợ thay”!
Sách Danh tướng Việt Nam viết ngoài tài dùng binh, Trần Khánh Dư còn uyên thâm văn sử. Ông đã viết bài tựa cho cuốn sách về nghệ thuật quân sự “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Trong đoạn mở đầu, ông viết “Người giỏi cầm quân thì không bày trận, người giỏi bày trận thì không phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết”.
sai-dap-an-la-van-su
Lễ hội Quan Lạn kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn của Trần Khánh Dư. Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quảng Ninh
Năm 1340, Trần Khánh Dư mất. Ngày nay, ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), người dân vẫn tổ chức lễ hội Quan Lạn, là hội làng của xã đảo Quan Lạn nhằm kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn của Trần Khánh Dư. Lễ hội diễn ra từ ngày 10 đến 20/6 âm lịch hàng năm. 

Thanh Tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét