Sau khi 3 lần đại phá quân Nguyên, về giai đoạn cuối nhà Trần, dân tộc ta lại phải trải qua các cuộc chiến chống ngoại xâm đầy hào hùng, bi tráng. Những tên tuổi như Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy... sẽ sống mãi trong lịch sử người Việt.
Nhà Trần từ 3 lần thắng Nguyên đến cuộc chiến với Chế Bồng Nga
Hình tượng nhân vật lịch sử Chế Bồng Nga
Phàm thịnh suy là lẽ thường tình. Một triều đại dù cho có võ công, văn trị lớn lao đến nhường nào thì bánh xe lịch sử vẫn quay, đòi hỏi những người cai trị phải biết luôn luôn phấn đấu cho hiện tại và tương lai chứ không phải chỉ sống với quá khứ.
Khi mà những bậc quân chủ không còn giữ đước đức chính, uy vũ cần phải có, không còn đủ năng lực để điều hành quốc gia thì sự suy vong ắt sẽ thành hình. Như triều Trần cũng gọi là một triều đại rực rỡ của dân tộc ta, nối tiếp triều Lý khai sáng văn minh Đại Việt, cố kết cộng đồng, mở mang nông nghiệp, bắc thì ba lần đại thắng giặc dữ Nguyên Mông, nam thì mở rộng bờ cõi thêm hai châu Ô Lý… Trải qua các đời vua từ Trần Thái Tông đến Trần Hiến Tông, chính sự nhìn chung là yên ổn, nhân dân được chung hưởng thái bình, thịnh trị.
Sang đến đời vua Trần Dụ Tông thì triều Trần bắt đầu có dấu hiệu sa sút. Trần Dụ Tông buổi đầu mới lên ngôi được Thượng hoàng Trần Minh Tông dìu dắt, triều chính ổn định, đời sống nhân dân an bình. Thế nhưng lúc mọi việc suôn sẻ nhất cũng là lúc người ta dễ sinh tính tự phụ, chủ quan nhất. Năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông mất. Kể từ năm 1358 trở đi, vua Trần Dụ Tông cậy thế nước đang thịnh mà thả sức tiêu pha, hưởng lạc, triều chính gặp nhiều điều sai lầm. Việc xây dựng đền đài cung điện không chừng mực, gian thần lộng quyền làm điều sai trái. Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An dâng Thất Trảm sớ, xin chém 7 tên gian thần. Vua không nghe, Chu Văn An bèn xin trả ấn, từ quan. Thế nước ngày càng đi xuống. Giặc cướp bắt đầu nổi lên, các tầng lớp nông dân, nô tì không chịu nổi sự áp bức, cùng nhau nổi dậy chống lại triều đình. Bấy giờ Chiêm Thành không còn thuần phục Đại Việt nữa, nhiều lần cướp phá các châu phía nam, bắt cóc con trai, con gái về làm nô lệ hoặc đem bán.
Trần Dụ Tông từ nhỏ bị mắc bệnh dẫn đến vô sinh. Vua không có con nối, cuối đời lập chiếu truyền ngôi cho người con nuôi của Cung Túc vương Trần Nguyên Dục là Trần Nhật Lễ. Người này tài mọn tâm hèn, gốc gác thực sự là con của người kép hát tên Dương Khương. Vợ Dương Khương là một đào nương có nhan sắc, cùng chồng diễn vở “Tây vương mẫu hiến bàn đào”, bà diễn vai Vương Mẫu nên lấy đó làm tên. Trần Nguyên Dục trông thấy Vương Mẫu thì thích nên cướp về làm vợ mình ngay lúc bà ấy đang mang thai. Nhật Lễ ra đời, Trần Nguyên Dục nhận luôn làm con mình. Nhật Lễ do đó mà được mang họ Trần. Quyết định về người nối ngôi của Trần Dụ Tông có thể nói là vô cùng sai lầm, bởi họ Trần bấy giờ còn khá nhiều trang tài tuấn có thể nối ngôi mà lại truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, một người thực tế không phải con cháu nhà Trần và cũng chẳng có tài đức.
Năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, Hiến Từ Hoàng thái hậu (vợ vua Trần Minh Tông) theo di mệnh lập Nhật Lễ lên ngôi vua. Trần Nhật Lễ lên ngôi rồi, việc triều chính còn tệ hại hơn đời Dụ Tông. Vua thả sức ăn chơi hưởng lạc, đón cha ruột mình là Dương Khương vào cung, ý muốn cải lại họ Dương. Nhật Lễ bỏ thuốc độc giết chết Hiến Từ Hoàng thái hậu vì tỏ thái độ hối hận đã phò tá y lên ngôi. Các quý tộc họ Trần đều căm giận, cùng nhau lập mưu giết đi. Năm 1370, Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác cùng một số người tôn thất họ Trần đang đêm đem vũ khí vào cung để giết Nhật Lễ. Việc hành sự vụng về, Nhật Lễ trèo tường trốn được ra ngoài. Đến sáng, Nhật Lễ vào cung lệnh cho quân lính bắt hết cả đám người Trần Nguyên Trác, cả thảy 18 người dự mưu đều bị giết.
Tuy nhiên lúc này thế lực của họ Trần vẫn còn mạnh, cùng nhau liên kết lại. Cung Định vương Trần Phủ cùng các tôn thất là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc hầu Trần Nguyên Đán, công chúa Thiên Ninh… khởi binh lật đổ Nhật Lễ. Thiếu úy Trần Ngô Lang làm nội ứng. Nhật Lễ phái bao nhiêu quân đi đánh đều trở giáo theo về phe của Trần Phủ cả. Nhật Lễ thua trận, bị giáng làm Hôn Đức công rồi bị giết. Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức vua Trần Nghệ Tông.
Nghệ Tông là người nhân hậu, hòa thuận với tôn tộc nhưng thiếu quyết đoán và năng lực kém, không cản được đà suy của nhà Trần. Dưới sự cai trị của Nghệ Tông, quân Đại Việt ngày càng tỏ ra không đủ sức chế ngự Chiêm Thành. Quân Chiêm dưới trướng vua Chế Bồng Nga nhiều lần đánh phá Đại Việt. Năm 1371, quân Chiêm Thành đánh cả vào kinh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông phải bỏ chạy khỏi thành.
Trần Nghệ Tông sau đó truyền ngôi lại cho em là Cung Tuyên vương Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông. Nghệ Tông trở thành Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông được đánh giá là vị vua dũng cảm, quyết đoán hơn anh mình, nhưng lại là người ngạo mạn, nông nổi. Trần Duệ Tông lên ngôi, sửa sang lại binh bị, thế quân Đại Việt lại mạnh. Duệ Tông có ý muốn đem quân báo thù Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng cống nạp cho Đại Việt để hoãn binh, phải giao qua tay Hành khiển Đỗ Tử Bình lúc này làm trấn thủ Hóa Châu. Đỗ Tử Bình lấy vàng đó giấu làm của riêng, rồi tâu lên vua là Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân sang đánh. Trần Duệ Tông chẳng xét tỏ tường, quyết định thân chinh điều động 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành.
Năm 1377, quân Đại Việt đánh sâu vào đất Chiêm Thành, tiến gần đến kinh đô Chà Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga đặt mai phục quanh thành rồi sai người đến trá hàng, nói rằng vua Chiêm đã chạy trốn, kinh thành bỏ trống không. Vua Trần Duệ Tông trúng kế, thúc quân tiến gấp. Quân Đại Việt vào thành trúng mai phục, thua to, mười phần chết đến bảy tám. Trần Duệ Tông, đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng. Đỗ Tử Bình thống lĩnh hậu quân không đem quân đến cứu, Lê Quý Ly thống lĩnh quân tải lương, nghe tin vua tử trận bèn dẫn quân quay về. Đây là lần duy nhất một vị vua nước Đại Việt chết trận ở nước ngoài. Chẳng những mất vua, Đại Việt còn mất đi những thành phần quân tinh nhuệ bậc nhất. Sau khi Duệ Tông mất, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông lập Trần Hiện (con trưởng Trần Duệ Tông) lên ngôi, quyền binh dần rơi cả vào tay quyền thần Lê Quý Ly. Quân Chiêm Thành càng cố sức tấn công Đại Việt. Giữa hai nước chiến sự liên miên không dứt.
Năm 1378, quân Chiêm Thành đánh vào tận Thăng Long, giết người cướp của rồi rút.
Năm 1380, quân Chiêm lại đánh Đại Việt, đến Thanh Hóa thì bị Lê Quý Ly cầm thủy quân đánh lui.
Năm 1382, Lê Quý Ly một lần nữa cùng tướng Nguyễn Đa Phương cầm quân đánh bại quân Chiêm Thành xâm lấn tại Thanh Hóa.
Năm 1383, Lê Quý Ly đem quân tấn công Chiêm Thành, thuyền quân gặp bão tố nên phải lui. Cũng trong năm này, Chế Bồng Nga dẫn quân Chiêm Thành thình lình tấn công bất ngờ, cho tượng binh và quân lính đổ bộ đi đường núi tiến ra Quảng Oai (thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay). Tướng Lê Mật Ôn đi đánh bị thua và bị bắt sống, quân Chiêm đem quân vây bức kinh thành Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phải đi trốn tránh ở Đông Ngàn (Bắc Ninh). Tướng Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ, quân Chiêm đánh đến đầu năm 1384 không hạ được thành, hết lương phải rút lui.
Năm 1389, Chế Bồng Nga đem thủy quân hùng hậu tiến đánh Đại Việt. Lê Quý Ly thống lĩnh đại quân dàn trận ở Thanh Hóa để chống giữ. Quân Đại Việt đánh trận đầu bị trúng kế giả thua của quân Chiêm, chết mất đến 70 tướng, thủy quân thiệt hại nặng. Lê Quý Ly bỏ quân một mình về triều xin thêm quân tiếp viện, Trần Nghệ Tông không cấp thêm quân. Quý Ly bèn nhân đó xin thôi quyền cầm quân, thực chất là đã sợ giặc. Tướng Nguyễn Đa Phương đơn độc ở lại, đem thuyền lớn giăng cờ xí phô trương thanh thế rồi ngầm sai quân dùng thuyền nhẹ rút lui bảo toàn lực lượng. Thượng hoàng sai Đô tướng Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp đi đánh quân Chiêm. Chiến sự dằn co.
Năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga dẫn quân tiến đến Hải Triều (ngã ba sông Luộc và sông Hồng ngày nay), Trần Khát Chân đặt phục binh, dồn hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chế Bồng Nga, giết chết được vua Chiêm. Quân Chiêm Thành do đó tan vỡ. Tin thắng trận về đến hành cung Bình Than (Nghệ Tông sợ giặc không dám ở trong kinh thành) vào lúc nửa đêm, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban đầu còn tưởng giặc đã đánh tới nên rất hốt hoảng. Chỉ đến khi thấy được đầu Chế Bồng Nga ông mới nói với mọi người: "Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ. Thiên hạ yên rồi"
Ấy chỉ là Trần Nghệ Tông nghĩ thế, chứ thực sự thiên hạ vẫn chưa yên được. Các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành đã bào mòn sinh lực nước Đại Việt một cách dữ dội. Cộng với việc triều chính thiếu quyết đoán, thiếu sáng suốt của Trần Nghệ Tông đã khiến triều đình Đại Việt thời bấy giờ vô cùng thối nát.
Trong lúc chính sự triều Trần ngày một đi xuống, một nhân vật đặc biệt đã xuất hiện. Bấy giờ quyền thần Lê Quý Ly đã từng bước thâu tóm quyền lực vào tay mình, một tay che trời. Lê Quý Ly có tổ tiên là Hồ Hưng Dật, làm quan thái thú Diễn Châu cuối thời Bắc thuộc. Tổ bốn đời của Lê Quý Ly là Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn xứ Thanh Hóa, từ đó đổi sang họ Lê. Quý Ly có hai người cô là vợ vua Trần Minh Tông, trong đó có một người là mẹ của cả ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông. Vì thế Lê Quý Ly được coi là họ hàng thân thích với hoàng tộc, rất được Nghệ Tông tin dùng, do đó mà có cơ hội tiến thân, thăng dần đến chức Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự (chức quan đầu triều thời Trần), kết bè kết phái lũng đoạn việc chính trị. Từ lúc Trần Duệ Tông tử trận nơi xứ người, Nghệ Tông lập Trần Hiện lên ngôi. Thấy quyền uy của Lê Quý Ly lớn quá, vua mới lập mưu cùng Thái úy Trần Ngạc: “Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm. Nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự”. Có kẻ nghe việc ấy tiết lộ cho Quý Ly biết được, Quý Ly bèn ra tay trước. Nghe theo mưu kế của Phạm Cự Luận, Lê Quý Ly vào xin Thượng hoàng Trần Nghệ Tông che chở và gièm rằng: “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con”. Nghệ Tông nghe lời gièm pha của Lê Quý Ly mà phế bỏ vua, giáng làm Linh Đức vương rồi giết chết. Sử gọi vua Trần Hiện là Trần Phế đế. Con của Trần Nghệ Tông lên ngôi vua, tức Trần Thuận Tông. Quyền hành bấy giờ thực tế nằm cả trong tay Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và Lê Quý Ly.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không nhận rõ dã tâm của Quý Ly, hết sức che chở. Tướng Nguyễn Đa Phương Quý tộc Trần Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, thượng hoàng biết được bèn xử Nhật Chương tội chết vì cho rằng Nhật Chương “có lòng khác”. Trong triều có Bùi Mộng Hoa dâng thư tấu “Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: “Thâm hiểm thay Thái sư ho Lê”. Xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu”. Nghệ Tông đem cả thư ấy cho Lê Quý Ly đọc, Mộng Hoa vì thế mà phải lẩn tránh khỏi quan trường.
Đến khi Trần Nghệ Tông sắp mất, triệu Lê Quý Ly vào nói riêng: “Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả . Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, Quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua !”
Quý Ly đáp :"Lúc Linh Đức Vương [tức vua Trần Phế đế] làm điều thất đức, nếu không nhờ oai linh bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được tới ngày nay. Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa hề báo đáp lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng khác!"
Quý Ly lại thề độc trước Nghệ Tông rằng:"Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần"
Lời của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và lời của Lê Quý Ly tuy nghe qua thì thật cao đẹp, khẩn thiết, nhưng xét bối cảnh và việc làm về sau thì rõ đây chỉ là những lời nói không thật lòng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thì muốn mượn lời để dò ý của Lê Quý Ly, Quý Ly thì dùng lời để che giấu cái dã tâm của mình.
Sau khi Nghệ Tông mất, hầu hết quyền hành vào tay Lê Quý Ly, tự xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế (tức người phụ giúp và dạy bảo vua). Vua Trần Thuận Tông chỉ còn là bù nhìn. Những việc mà Lê Quý Ly làm sau khi Nghệ Tông mất hoàn toàn trái với lời thề. Các tôn thất họ Trần và quan lại chống đối lại đều bị Quý Ly giết hại.
Năm 1397, Lê Quý Ly cho xây dựng thành An Tôn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), bắt vua Trần Thuận Tông dời đô về đó, đổi trấn Thanh Hoa thành Thanh Đô. Quý Ly lại ép Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới 3 tuổi là Trần An, tức Trần Thiếu đế. Thuận Tông lại bị ép đi tu rồi cuối cùng bị Lê Quý Ly sai người giết chết. Trần Thiếu đế là cháu ngoại của Lê Quý Ly. Thực chất việc nhường ngôi này chỉ là một bước đà để Quý Ly cướp ngôi vua của họ Trần.
Năm 1399, Thượng tướng Trần Khát Chân cùng các quý tộc Trần Hãng, Trần Nhật Đôn, các quan Phạm Khả Vĩnh, Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bửu, Phạm Ông Thiện, Phạm Ngưu Tất… hiệp mưu ám sát Lê Quý Ly ở hội thề Đốn Sơn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Sự việc thất bại, Lê Quý Ly thoát chết. Những người dự mưu và có liên quan cả thảy 370 người bị giết, tịch thu gia sản. Những sự lùng giết, bắt bớ kéo dài mấy năm trời. Đây có thể coi là một cuộc đại thanh trừng cuối cùng của Lê Quý Ly đối với những thế lực chống đối.
Năm 1400, cuối cùng cuộc đổi ngôi cũng đã hoàn thành. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Tháng 2, ngày 28 [Âm lịch], Quý Ly bức vua nhường ngôi và buộc người tôn thất và các quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ cố tình từ chối nói: “Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa?”.
Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi thành họ Hồ”.
Từ đây sử sách gọi là Hồ Quý Ly. Nhà Hồ thay thế nhà Trần. Vua Trần Thiếu đế bị giáng thành Bảo Ninh Đại Vương, vì là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên tránh khỏi họa sát thân.
Về việc Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, các sử sách phong kiến hầu hết đều đánh giá là không chính danh. Triều đại nhà Hồ bị gọi là “nhuận Hồ”, tức là triều phụ, không chính thức. Sử hiện đại có các nhìn cởi mở hơn, cho rằng việc nhà Hồ thay nhà Trần là tất nhiên lịch sử khi mà các vua cuối của nhà Trần đã trở nên bất lực với vận nước. Hồ Quý Ly nắm quyền bính trong tay, thực chất cũng đã ở vào thế leo lên lưng cọp.
Nhìn chung, mâu thuẫn giai cấp, sự xáo trộn về xã hội, kinh tế cuối triều Trần tuy có tồn tại nhưng không phải là nguyên nhân chính khiến họ Trần mất ngôi. Việc đổi ngôi xét cho cùng vẫn là kết quả của sự đấu đá nội bộ trong giới cai trị đất nước. Hồ Quý Ly đã thắng trong cuộc chiến chốn triều đình, nhưng trước mắt ông là muôn vàn khó khăn đang chờ đón. Họ Trần trải mấy trăm năm, uy tín trong dân rất lớn. Nhà Hồ lên ngôi không được chính danh, nhất thời khó khăn trong việc thu phục lòng dân. Bấy giờ Đại Việt đang trên đà suy yếu, cả một bộ máy hành chính đã thối nát từ gốc đến ngọn vì quản lý nhân sự lỏng lẻo. Trong khi đó, phía nam nước Chiêm Thành chực quấy nhiễu, phía bắc thì triều Minh mới thành lập đang sung sức và có ý nhòm ngó Đại Việt. Thế mới nói, soán ngôi vua đã khó, lo sao cho giữ ngôi được lâu bền, giữ nước được yên ổn càng không phải dễ.
Sang đến đời vua Trần Dụ Tông thì triều Trần bắt đầu có dấu hiệu sa sút. Trần Dụ Tông buổi đầu mới lên ngôi được Thượng hoàng Trần Minh Tông dìu dắt, triều chính ổn định, đời sống nhân dân an bình. Thế nhưng lúc mọi việc suôn sẻ nhất cũng là lúc người ta dễ sinh tính tự phụ, chủ quan nhất. Năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông mất. Kể từ năm 1358 trở đi, vua Trần Dụ Tông cậy thế nước đang thịnh mà thả sức tiêu pha, hưởng lạc, triều chính gặp nhiều điều sai lầm. Việc xây dựng đền đài cung điện không chừng mực, gian thần lộng quyền làm điều sai trái. Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An dâng Thất Trảm sớ, xin chém 7 tên gian thần. Vua không nghe, Chu Văn An bèn xin trả ấn, từ quan. Thế nước ngày càng đi xuống. Giặc cướp bắt đầu nổi lên, các tầng lớp nông dân, nô tì không chịu nổi sự áp bức, cùng nhau nổi dậy chống lại triều đình. Bấy giờ Chiêm Thành không còn thuần phục Đại Việt nữa, nhiều lần cướp phá các châu phía nam, bắt cóc con trai, con gái về làm nô lệ hoặc đem bán.
Trần Dụ Tông từ nhỏ bị mắc bệnh dẫn đến vô sinh. Vua không có con nối, cuối đời lập chiếu truyền ngôi cho người con nuôi của Cung Túc vương Trần Nguyên Dục là Trần Nhật Lễ. Người này tài mọn tâm hèn, gốc gác thực sự là con của người kép hát tên Dương Khương. Vợ Dương Khương là một đào nương có nhan sắc, cùng chồng diễn vở “Tây vương mẫu hiến bàn đào”, bà diễn vai Vương Mẫu nên lấy đó làm tên. Trần Nguyên Dục trông thấy Vương Mẫu thì thích nên cướp về làm vợ mình ngay lúc bà ấy đang mang thai. Nhật Lễ ra đời, Trần Nguyên Dục nhận luôn làm con mình. Nhật Lễ do đó mà được mang họ Trần. Quyết định về người nối ngôi của Trần Dụ Tông có thể nói là vô cùng sai lầm, bởi họ Trần bấy giờ còn khá nhiều trang tài tuấn có thể nối ngôi mà lại truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, một người thực tế không phải con cháu nhà Trần và cũng chẳng có tài đức.
Năm 1369, vua Trần Dụ Tông mất, Hiến Từ Hoàng thái hậu (vợ vua Trần Minh Tông) theo di mệnh lập Nhật Lễ lên ngôi vua. Trần Nhật Lễ lên ngôi rồi, việc triều chính còn tệ hại hơn đời Dụ Tông. Vua thả sức ăn chơi hưởng lạc, đón cha ruột mình là Dương Khương vào cung, ý muốn cải lại họ Dương. Nhật Lễ bỏ thuốc độc giết chết Hiến Từ Hoàng thái hậu vì tỏ thái độ hối hận đã phò tá y lên ngôi. Các quý tộc họ Trần đều căm giận, cùng nhau lập mưu giết đi. Năm 1370, Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác cùng một số người tôn thất họ Trần đang đêm đem vũ khí vào cung để giết Nhật Lễ. Việc hành sự vụng về, Nhật Lễ trèo tường trốn được ra ngoài. Đến sáng, Nhật Lễ vào cung lệnh cho quân lính bắt hết cả đám người Trần Nguyên Trác, cả thảy 18 người dự mưu đều bị giết.
Tuy nhiên lúc này thế lực của họ Trần vẫn còn mạnh, cùng nhau liên kết lại. Cung Định vương Trần Phủ cùng các tôn thất là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc hầu Trần Nguyên Đán, công chúa Thiên Ninh… khởi binh lật đổ Nhật Lễ. Thiếu úy Trần Ngô Lang làm nội ứng. Nhật Lễ phái bao nhiêu quân đi đánh đều trở giáo theo về phe của Trần Phủ cả. Nhật Lễ thua trận, bị giáng làm Hôn Đức công rồi bị giết. Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức vua Trần Nghệ Tông.
Nghệ Tông là người nhân hậu, hòa thuận với tôn tộc nhưng thiếu quyết đoán và năng lực kém, không cản được đà suy của nhà Trần. Dưới sự cai trị của Nghệ Tông, quân Đại Việt ngày càng tỏ ra không đủ sức chế ngự Chiêm Thành. Quân Chiêm dưới trướng vua Chế Bồng Nga nhiều lần đánh phá Đại Việt. Năm 1371, quân Chiêm Thành đánh cả vào kinh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông phải bỏ chạy khỏi thành.
Trần Nghệ Tông sau đó truyền ngôi lại cho em là Cung Tuyên vương Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông. Nghệ Tông trở thành Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông được đánh giá là vị vua dũng cảm, quyết đoán hơn anh mình, nhưng lại là người ngạo mạn, nông nổi. Trần Duệ Tông lên ngôi, sửa sang lại binh bị, thế quân Đại Việt lại mạnh. Duệ Tông có ý muốn đem quân báo thù Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng cống nạp cho Đại Việt để hoãn binh, phải giao qua tay Hành khiển Đỗ Tử Bình lúc này làm trấn thủ Hóa Châu. Đỗ Tử Bình lấy vàng đó giấu làm của riêng, rồi tâu lên vua là Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân sang đánh. Trần Duệ Tông chẳng xét tỏ tường, quyết định thân chinh điều động 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành.
Năm 1377, quân Đại Việt đánh sâu vào đất Chiêm Thành, tiến gần đến kinh đô Chà Bàn nước Chiêm. Chế Bồng Nga đặt mai phục quanh thành rồi sai người đến trá hàng, nói rằng vua Chiêm đã chạy trốn, kinh thành bỏ trống không. Vua Trần Duệ Tông trúng kế, thúc quân tiến gấp. Quân Đại Việt vào thành trúng mai phục, thua to, mười phần chết đến bảy tám. Trần Duệ Tông, đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc đầu hàng. Đỗ Tử Bình thống lĩnh hậu quân không đem quân đến cứu, Lê Quý Ly thống lĩnh quân tải lương, nghe tin vua tử trận bèn dẫn quân quay về. Đây là lần duy nhất một vị vua nước Đại Việt chết trận ở nước ngoài. Chẳng những mất vua, Đại Việt còn mất đi những thành phần quân tinh nhuệ bậc nhất. Sau khi Duệ Tông mất, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông lập Trần Hiện (con trưởng Trần Duệ Tông) lên ngôi, quyền binh dần rơi cả vào tay quyền thần Lê Quý Ly. Quân Chiêm Thành càng cố sức tấn công Đại Việt. Giữa hai nước chiến sự liên miên không dứt.
Năm 1378, quân Chiêm Thành đánh vào tận Thăng Long, giết người cướp của rồi rút.
Năm 1380, quân Chiêm lại đánh Đại Việt, đến Thanh Hóa thì bị Lê Quý Ly cầm thủy quân đánh lui.
Năm 1382, Lê Quý Ly một lần nữa cùng tướng Nguyễn Đa Phương cầm quân đánh bại quân Chiêm Thành xâm lấn tại Thanh Hóa.
Năm 1383, Lê Quý Ly đem quân tấn công Chiêm Thành, thuyền quân gặp bão tố nên phải lui. Cũng trong năm này, Chế Bồng Nga dẫn quân Chiêm Thành thình lình tấn công bất ngờ, cho tượng binh và quân lính đổ bộ đi đường núi tiến ra Quảng Oai (thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay). Tướng Lê Mật Ôn đi đánh bị thua và bị bắt sống, quân Chiêm đem quân vây bức kinh thành Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phải đi trốn tránh ở Đông Ngàn (Bắc Ninh). Tướng Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ, quân Chiêm đánh đến đầu năm 1384 không hạ được thành, hết lương phải rút lui.
Năm 1389, Chế Bồng Nga đem thủy quân hùng hậu tiến đánh Đại Việt. Lê Quý Ly thống lĩnh đại quân dàn trận ở Thanh Hóa để chống giữ. Quân Đại Việt đánh trận đầu bị trúng kế giả thua của quân Chiêm, chết mất đến 70 tướng, thủy quân thiệt hại nặng. Lê Quý Ly bỏ quân một mình về triều xin thêm quân tiếp viện, Trần Nghệ Tông không cấp thêm quân. Quý Ly bèn nhân đó xin thôi quyền cầm quân, thực chất là đã sợ giặc. Tướng Nguyễn Đa Phương đơn độc ở lại, đem thuyền lớn giăng cờ xí phô trương thanh thế rồi ngầm sai quân dùng thuyền nhẹ rút lui bảo toàn lực lượng. Thượng hoàng sai Đô tướng Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp đi đánh quân Chiêm. Chiến sự dằn co.
Năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga dẫn quân tiến đến Hải Triều (ngã ba sông Luộc và sông Hồng ngày nay), Trần Khát Chân đặt phục binh, dồn hỏa pháo bắn vào thuyền vua Chế Bồng Nga, giết chết được vua Chiêm. Quân Chiêm Thành do đó tan vỡ. Tin thắng trận về đến hành cung Bình Than (Nghệ Tông sợ giặc không dám ở trong kinh thành) vào lúc nửa đêm, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ban đầu còn tưởng giặc đã đánh tới nên rất hốt hoảng. Chỉ đến khi thấy được đầu Chế Bồng Nga ông mới nói với mọi người: "Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ. Thiên hạ yên rồi"
Ấy chỉ là Trần Nghệ Tông nghĩ thế, chứ thực sự thiên hạ vẫn chưa yên được. Các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành đã bào mòn sinh lực nước Đại Việt một cách dữ dội. Cộng với việc triều chính thiếu quyết đoán, thiếu sáng suốt của Trần Nghệ Tông đã khiến triều đình Đại Việt thời bấy giờ vô cùng thối nát.
Dẹp được Chế Bồng Nga, vua Trần lại gửi trứng cho ác
Một góc thành nhà Hồ
Sau khi Nghệ Tông mất, hầu hết quyền hành vào tay Lê Quý Ly, tự xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế (tức người phụ giúp và dạy bảo vua). Vua Trần Thuận Tông chỉ còn là bù nhìn. Những việc mà Lê Quý Ly làm sau khi Nghệ Tông mất hoàn toàn trái với lời thề. Các tôn thất họ Trần và quan lại chống đối lại đều bị Quý Ly giết hại.
Trong lúc chính sự triều Trần ngày một đi xuống, một nhân vật đặc biệt đã xuất hiện. Bấy giờ quyền thần Lê Quý Ly đã từng bước thâu tóm quyền lực vào tay mình, một tay che trời. Lê Quý Ly có tổ tiên là Hồ Hưng Dật, làm quan thái thú Diễn Châu cuối thời Bắc thuộc. Tổ bốn đời của Lê Quý Ly là Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn xứ Thanh Hóa, từ đó đổi sang họ Lê. Quý Ly có hai người cô là vợ vua Trần Minh Tông, trong đó có một người là mẹ của cả ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông. Vì thế Lê Quý Ly được coi là họ hàng thân thích với hoàng tộc, rất được Nghệ Tông tin dùng, do đó mà có cơ hội tiến thân, thăng dần đến chức Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự (chức quan đầu triều thời Trần), kết bè kết phái lũng đoạn việc chính trị. Từ lúc Trần Duệ Tông tử trận nơi xứ người, Nghệ Tông lập Trần Hiện lên ngôi. Thấy quyền uy của Lê Quý Ly lớn quá, vua mới lập mưu cùng Thái úy Trần Ngạc: “Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm. Nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự”. Có kẻ nghe việc ấy tiết lộ cho Quý Ly biết được, Quý Ly bèn ra tay trước. Nghe theo mưu kế của Phạm Cự Luận, Lê Quý Ly vào xin Thượng hoàng Trần Nghệ Tông che chở và gièm rằng: “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con”. Nghệ Tông nghe lời gièm pha của Lê Quý Ly mà phế bỏ vua, giáng làm Linh Đức vương rồi giết chết. Sử gọi vua Trần Hiện là Trần Phế đế. Con của Trần Nghệ Tông lên ngôi vua, tức Trần Thuận Tông. Quyền hành bấy giờ thực tế nằm cả trong tay Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và Lê Quý Ly.
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không nhận rõ dã tâm của Quý Ly, hết sức che chở. Tướng Nguyễn Đa Phương Quý tộc Trần Nhật Chương lập mưu giết Quý Ly, thượng hoàng biết được bèn xử Nhật Chương tội chết vì cho rằng Nhật Chương “có lòng khác”. Trong triều có Bùi Mộng Hoa dâng thư tấu “Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: “Thâm hiểm thay Thái sư ho Lê”. Xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu”. Nghệ Tông đem cả thư ấy cho Lê Quý Ly đọc, Mộng Hoa vì thế mà phải lẩn tránh khỏi quan trường.
Đến khi Trần Nghệ Tông sắp mất, triệu Lê Quý Ly vào nói riêng: “Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả . Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, Quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua !”
Quý Ly đáp :"Lúc Linh Đức Vương [tức vua Trần Phế đế] làm điều thất đức, nếu không nhờ oai linh bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được tới ngày nay. Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa hề báo đáp lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng khác!"
Quý Ly lại thề độc trước Nghệ Tông rằng:"Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần"
Lời của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và lời của Lê Quý Ly tuy nghe qua thì thật cao đẹp, khẩn thiết, nhưng xét bối cảnh và việc làm về sau thì rõ đây chỉ là những lời nói không thật lòng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông thì muốn mượn lời để dò ý của Lê Quý Ly, Quý Ly thì dùng lời để che giấu cái dã tâm của mình.
Sau khi Nghệ Tông mất, hầu hết quyền hành vào tay Lê Quý Ly, tự xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế (tức người phụ giúp và dạy bảo vua). Vua Trần Thuận Tông chỉ còn là bù nhìn. Những việc mà Lê Quý Ly làm sau khi Nghệ Tông mất hoàn toàn trái với lời thề. Các tôn thất họ Trần và quan lại chống đối lại đều bị Quý Ly giết hại.
Năm 1397, Lê Quý Ly cho xây dựng thành An Tôn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), bắt vua Trần Thuận Tông dời đô về đó, đổi trấn Thanh Hoa thành Thanh Đô. Quý Ly lại ép Thuận Tông phải nhường ngôi cho con mới 3 tuổi là Trần An, tức Trần Thiếu đế. Thuận Tông lại bị ép đi tu rồi cuối cùng bị Lê Quý Ly sai người giết chết. Trần Thiếu đế là cháu ngoại của Lê Quý Ly. Thực chất việc nhường ngôi này chỉ là một bước đà để Quý Ly cướp ngôi vua của họ Trần.
Năm 1399, Thượng tướng Trần Khát Chân cùng các quý tộc Trần Hãng, Trần Nhật Đôn, các quan Phạm Khả Vĩnh, Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bửu, Phạm Ông Thiện, Phạm Ngưu Tất… hiệp mưu ám sát Lê Quý Ly ở hội thề Đốn Sơn (thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Sự việc thất bại, Lê Quý Ly thoát chết. Những người dự mưu và có liên quan cả thảy 370 người bị giết, tịch thu gia sản. Những sự lùng giết, bắt bớ kéo dài mấy năm trời. Đây có thể coi là một cuộc đại thanh trừng cuối cùng của Lê Quý Ly đối với những thế lực chống đối.
Năm 1400, cuối cùng cuộc đổi ngôi cũng đã hoàn thành. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:
“Tháng 2, ngày 28 [Âm lịch], Quý Ly bức vua nhường ngôi và buộc người tôn thất và các quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ cố tình từ chối nói: “Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất nữa?”.
Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi thành họ Hồ”.
Từ đây sử sách gọi là Hồ Quý Ly. Nhà Hồ thay thế nhà Trần. Vua Trần Thiếu đế bị giáng thành Bảo Ninh Đại Vương, vì là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên tránh khỏi họa sát thân.
Về việc Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, các sử sách phong kiến hầu hết đều đánh giá là không chính danh. Triều đại nhà Hồ bị gọi là “nhuận Hồ”, tức là triều phụ, không chính thức. Sử hiện đại có các nhìn cởi mở hơn, cho rằng việc nhà Hồ thay nhà Trần là tất nhiên lịch sử khi mà các vua cuối của nhà Trần đã trở nên bất lực với vận nước. Hồ Quý Ly nắm quyền bính trong tay, thực chất cũng đã ở vào thế leo lên lưng cọp.
Nhìn chung, mâu thuẫn giai cấp, sự xáo trộn về xã hội, kinh tế cuối triều Trần tuy có tồn tại nhưng không phải là nguyên nhân chính khiến họ Trần mất ngôi. Việc đổi ngôi xét cho cùng vẫn là kết quả của sự đấu đá nội bộ trong giới cai trị đất nước. Hồ Quý Ly đã thắng trong cuộc chiến chốn triều đình, nhưng trước mắt ông là muôn vàn khó khăn đang chờ đón. Họ Trần trải mấy trăm năm, uy tín trong dân rất lớn. Nhà Hồ lên ngôi không được chính danh, nhất thời khó khăn trong việc thu phục lòng dân. Bấy giờ Đại Việt đang trên đà suy yếu, cả một bộ máy hành chính đã thối nát từ gốc đến ngọn vì quản lý nhân sự lỏng lẻo. Trong khi đó, phía nam nước Chiêm Thành chực quấy nhiễu, phía bắc thì triều Minh mới thành lập đang sung sức và có ý nhòm ngó Đại Việt. Thế mới nói, soán ngôi vua đã khó, lo sao cho giữ ngôi được lâu bền, giữ nước được yên ổn càng không phải dễ.
Hồ Quý Ly và những cải cách tham vọng vượt thời đại
Phối cảnh thành nhà Hồ
Các chính sách hạn điền, hạn nô có mặt lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh chóng ổn định đất nước, tránh khỏi những nguy cơ nội chiến tiềm tàng.
Kỳ 1: Nhà Trần từ 3 lần thắng Nguyên đến cuộc chiến với Chế Bồng Nga
Kỳ 2: Dẹp được Chế Bồng Nga, vua Trần lại gửi trứng cho ác
Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi họ Trần, lập ra triều nhà Hồ. Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, trở thành Thái thượng hoàng cùng vua trị nước. Nói đến những chính sách của nhà Hồ thì phải bắt đầu ngay từ lúc Hồ Quý Ly trở thành quyền thần lũng đoạn triều chính nhà Trần. Hồ Quý Ly được ghi nhận là một nhà cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam. Dưới bàn tay của ông, Đại Việt chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình nhà nước quý tộc sang mô hình nhà nước quan liêu, với mức độ tập trung quyền lực vào triều đình trung ương được tăng cường lên một mức độ mới. Công cuộc cải cách thời kỳ này vừa có những nét tiến bộ vừa tồn tại không ít những sai sót.
Về tuyển chọn nhân sự, Hồ Quý Ly đã mở đường cho những người có năng lực nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc tham gia vào những việc quốc gia quan trọng. Năm 1375, Ông đã tham mưu cho vua Trần Duệ Tông xuống chiếu tuyển chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì đều có thể làm tướng, không nhất thiết phải là người tôn thất. Thực ra đầu thời Trần cũng có những danh tướng xuất thân ngoài hoàng tộc mà nằm quyền cao như Lê Tần, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…
Tuy nhiên đó là những trường hợp riêng lẻ, cá biệt chứ chưa là chính sách của triều đình. Dưới sự cầm quyền của Hồ Quý Ly, việc học hành thi cử cũng được định lại quy củ hơn, rộng đường cho những người trí thức tiến thân bằng con đường khoa cử. Phép thi cử thời Hồ được lấy làm chuẩn mực cho nước Việt xuyên suốt mấy trăm năm sau. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Chính sách của Hồ Quý Ly quả thực đã giúp cho nguyên khí của Đại Việt được mạnh thêm. Tuy nhiên, điều đó không bù đắp nổi những nguyên khí bị mất mát trong cuộc đổi ngôi.
Tầng lớp quý tộc Trần vốn có rất nhiều người được đào tạo tốt về thuật cai trị và binh pháp đã bị giết hoặc phải ẩn dật. Kể cả những quan lại tài giỏi không thuộc hoàng tộc nhưng chống đối lại uy quyền của họ Hồ cũng không tránh khỏi họa. Như danh tướng Nguyễn Đa Phương là người mà chính Hồ Quý Ly tiến cử, cùng Hồ Quý Ly sát cánh chống quân Chiêm Thành nhưng rồi sau cũng vì hiềm khích mà bị Hồ Quý Ly gièm pha khiến Đa Phương bị Nghệ Tông giết.
Năm 1396, để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ. Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình với nhân dân.
Năm 1397, Hồ Quý Ly muốn tách vua khỏi đất căn bản để dễ bề soán ngôi nên đổi trấn Thanh Hoa làm trấn Thanh Đô, cho xây dựng thành An Tôn, ép vua Trần Thuận Tông phải dời đô về đó. Kinh đô mới gọi là Tây Đô. Kinh đô cũ là Thăng Long đổi thành lộ Đông Đô. Về việc này, một số quan lại đã không đồng tình, hết sức can gián. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng biểu: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ[ chỉ Thăng Long]có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [tức sông Hồng], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Kể cả Hành khiển Phạm Cự Luận là người tâm phúc của Quý Ly cũng khuyên không nên. Nhưng bất chấp tất cả, Hồ Quý Ly vẫn cho dời đô.
Cũng trong năm 1397, Hồ Quý Ly xuống lệnh định lại cơ chế các địa phương “Lộ trông coi phủ, phủ trông coi châu, châu trông coi huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét”. Trách nhiệm các cấp liên đới nhau từ trên xuống dưới, việc quản lý của triều đình nhờ đó mà dễ dàng hơn. Xuyên suốt thời kỳ chuyên chính đến khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần thay đổi hành chính ở các địa phương, cốt là để việc cai trị của triều đình trung ương được thông suốt, hạn chế tình trạng cát cứ địa phương.
Để chia nhỏ thế lực của giới quý tộc, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền”:“Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.Hồ Quý Ly sai quan làm lại sổ ruộng đất rất kỹ. Những ruộng quá hạn làm sổ mà chưa kê khai, cắm tên chủ trên mảnh ruộng thì bị sung công. Chính sách hạn điền trên thực tế là một cuộc cải cách ruộng đất nhằm thâu tóm thêm ruộng công cho nhà nước, giảm số ruộng tư, hạn chế thế lực của các địa chủ lớn.
Một chính sách khác để kìm chế giới quý tộc cũ là chính sách “hạn nô”: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này”. Hạn nô hoàn toàn không phải là một chính sách để giải phóng nô lệ mà chẳng qua chỉ là một thủ đoạn chính trị của Hồ Quý Ly nhắm vào giới quý tộc cũ. Các chính sách hạn điền, hạn nô có mặt lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh chóng ổn định đất nước, tránh khỏi những nguy cơ nội chiến tiềm tàng. Mặt trái của nó là đã động vào những nhóm lợi ích cơ bản của xã hội Đại Việt đương thời, làm cho họ Hồ khi lên ngôi mất đi sự ủng hộ của các tầng lớp nắm giữ tài lực, cũng là tầng lớp có uy tín, có thế lực nhất trong đất nước.
Nhìn chung, có thể nói Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và có những tư tưởng tiến bộ so với thời đại. Tuy nhiên, vì trong tình thế chuyển giao triều đại đòi hỏi phải có những biện pháp bất thường, Hồ Quý Ly đã có nhiều bước đi nóng vội, thậm chí sai lầm. Những điều đó đã xoáy sâu khoảng cách giữa triều đình và nhân dân, tai hại nhất là nó gây nên một cuộc khủng hoảng lòng tin lớn trong xã hội. Thiếu lòng tin, sức mạnh của đất nước cũng suy giảm trước những bão táp phía trước.
Kỳ 2: Dẹp được Chế Bồng Nga, vua Trần lại gửi trứng cho ác
Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi họ Trần, lập ra triều nhà Hồ. Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, trở thành Thái thượng hoàng cùng vua trị nước. Nói đến những chính sách của nhà Hồ thì phải bắt đầu ngay từ lúc Hồ Quý Ly trở thành quyền thần lũng đoạn triều chính nhà Trần. Hồ Quý Ly được ghi nhận là một nhà cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam. Dưới bàn tay của ông, Đại Việt chuyển mình mạnh mẽ từ mô hình nhà nước quý tộc sang mô hình nhà nước quan liêu, với mức độ tập trung quyền lực vào triều đình trung ương được tăng cường lên một mức độ mới. Công cuộc cải cách thời kỳ này vừa có những nét tiến bộ vừa tồn tại không ít những sai sót.
Về tuyển chọn nhân sự, Hồ Quý Ly đã mở đường cho những người có năng lực nhưng không thuộc dòng dõi quý tộc tham gia vào những việc quốc gia quan trọng. Năm 1375, Ông đã tham mưu cho vua Trần Duệ Tông xuống chiếu tuyển chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì đều có thể làm tướng, không nhất thiết phải là người tôn thất. Thực ra đầu thời Trần cũng có những danh tướng xuất thân ngoài hoàng tộc mà nằm quyền cao như Lê Tần, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…
Tuy nhiên đó là những trường hợp riêng lẻ, cá biệt chứ chưa là chính sách của triều đình. Dưới sự cầm quyền của Hồ Quý Ly, việc học hành thi cử cũng được định lại quy củ hơn, rộng đường cho những người trí thức tiến thân bằng con đường khoa cử. Phép thi cử thời Hồ được lấy làm chuẩn mực cho nước Việt xuyên suốt mấy trăm năm sau. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Chính sách của Hồ Quý Ly quả thực đã giúp cho nguyên khí của Đại Việt được mạnh thêm. Tuy nhiên, điều đó không bù đắp nổi những nguyên khí bị mất mát trong cuộc đổi ngôi.
Tầng lớp quý tộc Trần vốn có rất nhiều người được đào tạo tốt về thuật cai trị và binh pháp đã bị giết hoặc phải ẩn dật. Kể cả những quan lại tài giỏi không thuộc hoàng tộc nhưng chống đối lại uy quyền của họ Hồ cũng không tránh khỏi họa. Như danh tướng Nguyễn Đa Phương là người mà chính Hồ Quý Ly tiến cử, cùng Hồ Quý Ly sát cánh chống quân Chiêm Thành nhưng rồi sau cũng vì hiềm khích mà bị Hồ Quý Ly gièm pha khiến Đa Phương bị Nghệ Tông giết.
Năm 1396, để trưng thu nguyên liệu đồng trong dân phục vụ cho việc đúc súng, Hồ Quý Ly lệnh cho dân đổi hết tiền đồng sang tiền giấy mang tên Thông Bảo Hội Sao. Những ai làm tiền giả hoặc còn chứa và sử dụng tiền đồng sẽ bị xử tội chết, tịch thu gia sản. Xét ra việc lưu hành tiền giấy vừa giúp tiết kiệm nguyên liệu, vừa có phương thức giao dịch tiến bộ. Tuy nhiên chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly phạm phải lỗi cơ bản là đi ngược nguyên tắc tiền tệ phải có đủ cơ sở để nhân dân tin tưởng vào giá trị giao dịch của nó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa chưa thực sự phát triển hoàn thiện, tự thân tiền đồng được đảm bảo giá trị bằng vật liệu làm ra tiền. Khi đổi sang tiền giấy, tâm lý người dân thời kỳ này đa phần cho rằng giấy là vật liệu giá trị thấp, dẫn đến hoài nghi về tiền tệ mới. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân bị xáo trộn rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín của triều đình với nhân dân.
Năm 1397, Hồ Quý Ly muốn tách vua khỏi đất căn bản để dễ bề soán ngôi nên đổi trấn Thanh Hoa làm trấn Thanh Đô, cho xây dựng thành An Tôn, ép vua Trần Thuận Tông phải dời đô về đó. Kinh đô mới gọi là Tây Đô. Kinh đô cũ là Thăng Long đổi thành lộ Đông Đô. Về việc này, một số quan lại đã không đồng tình, hết sức can gián. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng biểu: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ[ chỉ Thăng Long]có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị [tức sông Hồng], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”. Kể cả Hành khiển Phạm Cự Luận là người tâm phúc của Quý Ly cũng khuyên không nên. Nhưng bất chấp tất cả, Hồ Quý Ly vẫn cho dời đô.
Cũng trong năm 1397, Hồ Quý Ly xuống lệnh định lại cơ chế các địa phương “Lộ trông coi phủ, phủ trông coi châu, châu trông coi huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét”. Trách nhiệm các cấp liên đới nhau từ trên xuống dưới, việc quản lý của triều đình nhờ đó mà dễ dàng hơn. Xuyên suốt thời kỳ chuyên chính đến khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần thay đổi hành chính ở các địa phương, cốt là để việc cai trị của triều đình trung ương được thông suốt, hạn chế tình trạng cát cứ địa phương.
Để chia nhỏ thế lực của giới quý tộc, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền”:“Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”.Hồ Quý Ly sai quan làm lại sổ ruộng đất rất kỹ. Những ruộng quá hạn làm sổ mà chưa kê khai, cắm tên chủ trên mảnh ruộng thì bị sung công. Chính sách hạn điền trên thực tế là một cuộc cải cách ruộng đất nhằm thâu tóm thêm ruộng công cho nhà nước, giảm số ruộng tư, hạn chế thế lực của các địa chủ lớn.
Một chính sách khác để kìm chế giới quý tộc cũ là chính sách “hạn nô”: “Chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì không theo lệ này”. Hạn nô hoàn toàn không phải là một chính sách để giải phóng nô lệ mà chẳng qua chỉ là một thủ đoạn chính trị của Hồ Quý Ly nhắm vào giới quý tộc cũ. Các chính sách hạn điền, hạn nô có mặt lợi là gần như ngay lập tức nó đánh quỵ nền tảng kinh tế, xã hội của những tàn dư triều đại cũ, giúp cho nhà Hồ nhanh chóng ổn định đất nước, tránh khỏi những nguy cơ nội chiến tiềm tàng. Mặt trái của nó là đã động vào những nhóm lợi ích cơ bản của xã hội Đại Việt đương thời, làm cho họ Hồ khi lên ngôi mất đi sự ủng hộ của các tầng lớp nắm giữ tài lực, cũng là tầng lớp có uy tín, có thế lực nhất trong đất nước.
Nhìn chung, có thể nói Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và có những tư tưởng tiến bộ so với thời đại. Tuy nhiên, vì trong tình thế chuyển giao triều đại đòi hỏi phải có những biện pháp bất thường, Hồ Quý Ly đã có nhiều bước đi nóng vội, thậm chí sai lầm. Những điều đó đã xoáy sâu khoảng cách giữa triều đình và nhân dân, tai hại nhất là nó gây nên một cuộc khủng hoảng lòng tin lớn trong xã hội. Thiếu lòng tin, sức mạnh của đất nước cũng suy giảm trước những bão táp phía trước.
Hồ Quý Ly và mục tiêu 1 triệu quân chống lại phương Bắc
Bạo chúa nhà Minh trái lời cha, muốn xâm lăng nước Việt
Minh Thành Tổ Chu Đệ
Người Trung Hoa vốn không thiếu những bài học đắt giá về sự hiếu chiến, kể cả lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn. Rất tiếc rằng, đời vua sau của nước Minh đã không nghe theo lời của Minh Thái Tổ. Sau khi vua khai sáng của nước Minh chết, đất nước mới này xảy ra biến động lớn rồi từ đó một bạo chúa đã lên ngôi.
Thái độ của Minh Thái Tổ đối với Đại Việt không nhất quán, thay đổi theo hoàn cảnh. Từ lúc mới lập nên triều Minh, ông đã có ý muốn thôn tính nước ta. Tuy nhiên, vua Minh về sau nhận ra rằng nước Minh còn có nhiều vấn đề quan trọng hơn việc thôn tính Đại Việt. Nhân việc triều đình nhà Trần lúc này tỏ thái độ quá bạc nhược, thụ động, Minh Thái Tổ mới muốn dùng uy vũ hù dọa rồi qua đó hạch sách nước ta kiếm lợi, không đánh mà khiến Đại Việt phải dần trở thành nước lệ thuộc. Triều đình nhà Trần lúc này dưới sự cai trị kém cỏi của những người như Trần Nghệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông đã không đủ dũng khí để bảo vệ danh dự, lợi ích, quyền tự chủ của nước Đại Việt trước nước Minh.
Năm 1398, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chết. Trước đó, ông đã viết Hoàng Minh Tổ Huấn để răn dạy các vị vua kế nhiệm. Trong tác phẩm này, Minh Thái Tổ đã nói rõ mối nguy mà các vua đời sau cần lưu tâm, cũng như những nước không nên đánh. Mặc dù văn phong trong tác phẩm này thể hiện sự tự tôn thái quá của một vị vua Trung Hoa, nhưng nó cũng thể hiện được tầm nhìn của Chu Nguyên Chương về giá trị của hòa bình :
“ … Những nước Di bốn phương đều núi ngăn biển cách, lánh tại một góc, lấy được đất họ không đủ để cung cấp, thu được dân họ không đủ để sai khiến. Nếu họ không tự biết suy xét mà đến gây nhiễu biên giới nước ta thì đấy là điều không may. Nhưng bên ấy không làm hại Trung Quốc mà ta lại dấy binh đi đánh họ thì cũng là điều không may vậy. Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người, hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy ! Nhưng người Hồ - Nhung kề biên giới phía tây bắc, liền tiếp lẫn nhau, nhiều đời tranh chiến, thì phải chọn tướng rèn binh, lúc nào cũng nên phòng giữ cẩn thận. Nay đề tên những nước Di không được đánh, xếp đặt ở sau đây :
Phía đông bắc :
- Nước Triều Tiên
Phía chính đông lệch bắc :
- Nước Nhật Bản
Phía chính nam lệch đông :
- Nước Đại Lưu Cầu [Okinawa]
- Nước Tiểu Lưu Cầu [thuộc Okinawa]
Phía tây nam :
- Nước An Nam [Đại Việt]
- Nước Chân Lạp [Khmer]
- Nước Xiêm La [Sukhotai]
- Nước Chiêm Thành
- Nước Tô Môn Đáp Lạt [Sumatra]
- Nước Tây Dương
- Nước Trảo Oa [Java]
- Nước Bồn Hanh
- Nước Bạch Hoa
- Nước Tam Phật Tề [Srivijaya]
- Nước Bột Nê [Borneo]”
Hoàng Minh Tổ Huấn là chiêm nghiệm từ suốt cả một quá trình tạo dựng nên sự nghiệp của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Chung quy lại những lời trên, vị vua khai sáng nước Minh đã chỉ ra rằng lãnh thổ của Minh triều đã rất rộng lớn và trù phú, các vua kế vị nên tập trung bảo vệ đất nước khỏi những đe dọa bên ngoài để tạo dựng một đế chế thanh bình, vững chắc. Việc xâm lược những nước không gây hại đến nước mình chỉ là việc tham công nhất thời, đem lại những lợi ích nhỏ nhoi mà không phải là việc nên làm cho lợi ích lâu dài. Điều đó rất đúng với câu nói trong sách Tư Mã Pháp của tác giả Tư Mã Nhương Thư nước Tề thời Xuân Thu: “Nước tuy lớn, hiếu chiến tất vong”.
Chúng ta cần biết rằng việc cuối đời Chu Nguyên Chương từ bỏ ý tưởng xâm lược Đại Việt chủ yếu xuất phát từ động cơ bảo vệ lợi ích của nước Minh. Bởi kể từ khi Chu Nguyên Chương đánh đuổi Nguyên Mông về bắc đến khi ông chết, mối đe dọa từ đế chế Nguyên Mông ở phía bắc mà sử sách gọi là Bắc Nguyên vẫn luôn là mối đe dọa lớn của nước Minh. Mặc dù người Mông Cổ không có được sự đoàn kết cần thiết, bù lại quân đội Bắc Nguyên có thành phần là những chiến binh thảo nguyên thiện chiến, nhiều lần khiến quân Minh chịu thương vong lớn. Việc gây chiến với các lân bang thân thiện khác sẽ khiến cho nước Minh chuốc thêm thù oán, tăng nguy cơ quân đội bị sa lầy ở nước ngoài hoặc tự đặt mình vào thế lưỡng đầu thọ địch. Người Trung Hoa vốn không thiếu những bài học đắt giá về sự hiếu chiến, kể cả lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn. Rất tiếc rằng, đời vua sau của nước Minh đã không nghe theo lời của Minh Thái Tổ. Sau khi vua khai sáng của nước Minh chết, đất nước mới này xảy ra biến động lớn rồi từ đó một bạo chúa đã lên ngôi.
Minh Thái Tổ nhường ngôi cho hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, tức Minh Huệ Đế. Vị vua này vì muốn tập trung quyền lực vào tay triều đình trung ương đã thi hành chính sách Bãi Phiên, tức bãi bỏ chế độ phân phong cho các phiên vương. Những phiên vương vốn là con cháu hoàng tộc họ Chu, được Minh Thái Tổ phong đất đai, có quân đội riêng trong lãnh địa. Chính sách bãi phiên khiến cho các phiên vương nổi lên chống lại triều đình. Trong số đó, Yên vương Chu Đệ, con trai thứ thư của Chu Nguyên Chương là người có quân đội mạnh và có tài lãnh đạo. Chu Đệ cuối cùng đánh bại được Minh Huệ Đế trong cuộc nội chiến, cướp được ngôi vua nước Minh. Năm 1402, Chu Đệ lên ngôi vua, tức Minh Thành Tổ (hay Minh Thái Tông) trong sử sách.
Mặc dù là một vị vua có tầm nhìn, có tài năng nhưng Minh Thành Tổ cũng nổi tiếng là một con người tàn bạo. Dưới sự cai trị của ông, một mặt nước Minh nối tiếp đà phát triển mạnh từ thời Minh Thái Tổ, mặc khác cũng là một xã hội hà khắc với đủ thứ nghiêm hình dành cho những hành vi chống đối hay bị coi là chống đối.
Lúc bấy giờ tại nước ta, nhà Hồ đã thay thế nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, vua đương nhiệm là Hồ Hán Thương, con trai thứ của Hồ Quý Ly. Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly vẫn cùng con mình trông coi chính sự. Chiến tranh với Chiêm Thành vẫn dai dẳng, mặc dù Đại Ngu đã lấy lại được thế thượng phong. Minh Thành Tổ theo đuổi chính sách ngoại giao hiếu chiến với Đại Ngu, hoàn toàn trái ngược với lời di ngôn của Minh Thái Tổ trong Hoàng Minh Tổ Huấn.Sứ giả nước Minh liên tiếp sang Đại Ngu hạch hỏi về việc con cháu họ Trần còn hay không để uy hiếp vua nhà Hồ. Vua Hồ Hán Thương phải nói dối rằng con cháu họ Trần không còn ai, hòng được Minh triều công nhận làm An Nam Quốc Vương như một thông lệ ngoại giao.
Minh Thành Tổ không tin, lại phái Hành nhân Dương Bột sang đem thư chiêu dụ dân chúng, quan lại nước ta hỏi xem lời của Hồ Hán Thương có thật hay không. Vua Hồ phải sai sứ sang Minh nộp tờ cam đoan của phụ lão trong nước rằng vua Hồ Hán Thương nói thật. Bấy giờ Minh Thành Tổ mới phong tước cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương. Thực chất việc làm của Minh Thành Tổ chỉ là một bước đi hòng lung lạc tinh thần quân dân nước Đại Ngu, làm “chính danh” cho âm mưu xâm lược của mình.
Năm 1403, Đại tướng quân nước Đại Ngu là Phạm Nguyên Khôi nhận lệnh vua Hồ đem 20 vạn quân thủy bộ tấn công Chiêm Thành. Vua tôi nước Chiêm cho người sang cầu cứu nước Minh. Minh Thành Tổ Chu Đệ lệnh đem 9 thuyền chiến lớn sang cứu viện cho Chiêm Thành. Trong cuộc chiến này, tướng nước Đại Ngu dùng quân lệnh rất nghiêm nên quân lính liều mình chiến đấu, vây bức được kinh thành Chà Bàn. Tuy nhiên quân Đại Ngu vấp phải sự cố thủ kiên cường của quân Chiêm Thành. Thành Chà Bàn vẫn không bị hạ sau nhiều tháng. Cuối cùng, quân Đại Việt phải rút lui vì hết lương thực. Đến khi quân Đại Ngu rút về thì binh thuyền nước Minh mới đang trên đường tới Chiêm Thành.
Hai hạm đội của Đại Ngu và Đại Minh gặp nhau ngoài biển. Quân Minh ít hơn, vốn định sang phối hợp với quân Chiêm nhưng nay lại gặp quân Đại Ngu trong hoàn cảnh đơn độc. Tướng Minh mới cho người sang nói với Phạm Nguyên Khôi rằng đôi bên nên rút quân về, không nên ở lại. Thuyền của Đại Ngu đông mạnh hơn nhiều lần, nhưng tướng Phạm Nguyên Khôi không dám đánh vì sợ người Minh kiếm cớ động binh lớn. Rốt cuộc hai bên mạnh ai nấy thoái lui về nước mình. Khi Nguyên Khôi về triều báo việc gặp quân Minh ngoài biển mà không đánh, Thượng hoàng Hồ Quý Ly rất tức giận, quở trách Nguyên Khôi sao không giết chết quân Minh.
Rõ ràng nhà Hồ thực có chí tự cường, nhưng nội bộ không đồng nhất về hành động. Về phần Minh Thành Tổ Chu Đệ là một ông vua hiếu chiến hơn hẳn cha mình. Lời của Chu Nguyên Chương khuyên rằng không nên đánh nước ta, Chu Đệ đã không coi ra gì. Quãng thời gian từ năm 1403 về sau, tình hình ngày càng thêm căng thẳng. Tham vọng bành trướng của Minh Thành Tổ Chu Đệ sắp ném hai dân tộc vào một cuộc chiến tranh dai dẳng, tàn khốc. Đó là tai họa cho nước Đại Việt, cũng là tai họa cho nước Minh vậy.
Kể từ khi Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi, quan hệ giữa nước Đại Ngu và nước Minh càng xấu đi nghiêm trọng. Nhà Hồ tỏ ra là một triều đại sẵn sàng chiến đấu trước quân Minh. Ở phía bên kia, Chu Đệ là một vị vua hiếu chiến hơn hẳn cha mình. Chu Đệ liên tiếp sai sứ sang Đại Ngu đòi cống voi, tặng vật, cống người, hạch hỏi đủ điều để kiếm cớ động binh. Áp lực ngoại giao từ phía nước Minh tăng dần theo thời gian.
Cùng với việc sai sứ sang Đại Ngu gây sự, Minh triều còn cử người sang mua chuộc dân chúng trong nước ta làm nội ứng cho chúng. Bọn hoạn quan gốc Việt gồm Nguyễn Toán, Nguyễn Tông Đạo, Ngô Tín mượn cớ đi sứ và thăm hỏi thân thuộc, ngầm hẹn ước với người trong dòng tộc mình rằng khi nào quân Minh sang thì treo cờ vàng, viết chữ trên cờ làm ám hiệu, sẽ không bị giết hại. Triều đình nhà Hồ phát giác được việc này, thân thuộc của đám hoạn quan đều bị giết cả. Đấy là xử theo luật lệ hà khắc thời phong kiến. Một người có tội, cả họ bị vạ lây.
Đến năm 1404, Minh triều sai sứ sang nước ta đòi cặp voi một đen một trắng. Vốn trước đó nước Chiêm Thành cống cặp voi đó cho nước Đại Ngu để xin hoãn binh. Sau vì căm tức, Chiêm Thành lại sai sứ sang tâu với vua Minh rằng bị họ Hồ lấn đất, lấy mất voi mà Chiêm Thành định cống cho nước Minh. Đến khi sứ Minh sang đòi, triều đình nhà Hồ phải đem cặp voi giao cho nước Minh để yên chuyện. Nhưng chẳng được bao lâu thì nước Minh lại phái Hành nhân Lý Kỳ sang khiêu khích. Lý Kỳ sang nước ta hành sự rất ngang ngược, đánh đập người trong đoàn hộ tống hắn đến kinh đô, bắt phải đi nhanh không kể lịch trình đã định.
Lý Kỳ đến kinh đô, hạch hỏi triều đình nhà Hồ về việc cướp ngôi nhà Trần, việc đánh Chiêm Thành và việc lấn đất ngoài biên. Những việc này là do tên Trần Thiêm Bình, một phản tặc lưu vong đã khai báo với vua Minh, cộng thêm một số thông tin thêm thắt sai lệch hòng thuyết phục quân Minh sang đánh nước ta, để Thiêm Bình có thể nhân đó là lên làm vua. Nhà Hồ phải vất vả biện luận. Lý Kỳ ở công quán còn quan sát hình thế kinh đô, ý muốn do thám sự tình nước ta. Hồ Quý Ly liệu việc chậm, đến khi Lý Kỳ trên đường về mới sai quân đuổi theo giết đi để tránh tiết lộ những việc cơ mật nhưng Lý Kỳ đã về nước trước khi quân truy sát của nhà Hồ đuổi kịp.
Lý Kỳ về tâu với Chu Đệ rằng vua nhà Hồ xưng đế và làm thơ có lời xúc phạm vua Minh.Minh triều lấy đó làm cớ tuyên truyền trong nước về việc cần thiết phải tấn công Đại Ngu. Nguyên thời bấy giờ vua của các đế chế Trung Hoa vẫn tự cho rằng mình là vua duy nhất được quyền xưng đế, các vua nước khác chỉ được phép xưng vương. Tuy nhiên, các đời vua nước ta kể từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trở về sau đều xưng đế, dù rằng trên phương diện ngoại giao với láng giềng phương bắc chỉ xưng vương.
Lẽ ra đây cũng chỉ là việc thường mà các đời vua hai nước đều ngầm hiểu và phương bắc vẫn phải làm lơ. Nhưng vì đây là lúc Minh Thành Tổ Chu Đệ muốn động binh đao, nên mọi việc đều có thể quy tội cho nước ta. Xuyên suốt mấy năm liền, việc chuẩn bị thôn tính nước Đại Ngu đã được Minh triều thực hiện bài bản, từ việc kiểm binh chọn tướng đến việc cử người sang làm nội ứng phá hoại Đại Ngu từ bên trong. Trong quá trình chuẩn bị, việc ngoại giao vẫn được tiến hành nhằm gây chia rẽ nội bộ và tìm một cái cớ thật “chính danh” cho cuộc xâm lược.
Năm 1405, nhân có viên thổ quan châu Tư Minh là Hoàng Quảng Thành tâu lên rằng đất Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn ngày nay) của nước Đại Ngu vốn là đất cũ thuộc Tư Minh, vua Minh sai sứ sang Đại Ngu đòi đất Lộc Châu. Do đời trước biên giới co duỗi tùy theo thời thế, khi nhà Trần thịnh, nhà Nguyên suy thì biên giới nước ta lấn sang phía bắc. Nay nhà Minh thịnh nên muốn lấn đất xuống nam, cũng là kiếm cớ gây hấn. Thượng hoàng Hồ Quý Ly sau khi cân nhắc mới sai Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ đi lên biên giới cùng quan lại nước Minh khảo sát, trả lại một số đất đai mà đời trước nước ta đã lấn. Hoàng Hối Khanh nhận lệnh nhưng làm việc tắc trách, một lúc cắt 59 thôn trả cho nước Minh.
Khi về triều, Thượng hoàng Hồ Quý Ly biết được nổi giận lôi đình, không tiếc lời chửi bới nhục mạ Hoàng Hối Khanh. Hồ Quý Ly lại sai gián điệp người dân tộc thiểu số ở các thôn vừa cắt đánh thuộc độc giết chết hết những thổ quan mà nước Minh sắp đặt. Trên thực tế, nước Đại Ngu giữ được người của mình kiểm soát các vùng lãnh thổ mới cắt nhượng cho nước Minh.
Dù rằng nhà Hồ biết trước chiến tranh gần như không thể tránh khỏi, việc chuẩn bị chống giặc đã khẩn trương nhưng trong năm 1405, vua Hồ Hán Thương vẫn mong níu kéo chút hy vọng về hòa bình. Hình bộ lang trung Phạm Canh được vua cử làm chánh sứ, cùng Thông phán Lưu Quang Đình làm phó sứ đem tặng vật sang nước Minh làm thuyết khách, mong dập được họa binh đạo. Tuy nhiên, chuyến đi này đã không có tác dụng. Vua Minh vẫn muốn đánh Đại Ngu, cho giữ Phạm Canh ở lại, chỉ thả Quang Đình về nước.
Việc ngoại giao giữa nước Đại Ngu và nước Minh có thể nói là đã không thể đàm phán được kể từ sự kiện trên. Từ năm 1406, hai nước đã bắt đầu dùng gươm đao để nói chuyện. Vua Minh lên kế hoạch dùng Trần Thiêm Bình làm vua bù nhìn, cho quân hộ tống hắn về nước để thay thế vua nhà Hồ. Minh triều hy vọng rằng dưới chiêu bài khôi phục lại nhà Trần, chúng sẽ có thể dễ dàng chiêu dụ được nhân dân trong nước ta quay mũi giáo hướng về triều đình họ Hồ, qua đó mà chỉ dùng ít quân binh cũng có thể thôn tính được nước Đại Ngu. Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ không đơn giản như toan tính của giặc
Dù rằng sử sách các đời có nhiều ý kiến trái chiều về nhà Hồ, trong đó không ít ý kiến chê trách, khinh miệt nhưng một lần nữa chúng ta cần phải công nhận rằng, triều nhà Hồ thực sự có quyết tâm bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm. Ý chí tự cường của Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương mạnh mẽ hơn hẳn các vua cuối của nhà Trần.
Như đã nói ở các kỳ trước, Hồ Quý Ly đã sớm có các biện pháp nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng. Ông đã cho làm lại sổ hộ tịch để tăng thêm số quân dự bị, gom đồng đúc súng thần cơ, xây dựng các thành trì kiên cố, đánh Chiêm Thành để giải tỏa áp lực từ phía nam… Kế đến khi nhà Hồ thành lập, triều đình mới đã cho định lại các cơ ngũ mới, quân số thường trực tăng thêm, tiếp tục xây dựng các công trình lớn phục vụ cho mục đích phòng thủ. Hồ Hán Thương cho thành lập 4 kho quân khí phục vụ cho việc sản xuất vũ khí dùng trong chiến tranh.
Đích thân vua nhà Hồ đã đi khảo sát các nơi cửa biển hiểm yếu. Lệnh cho quân dân cả nước đẽo những thân gỗ to khỏe làm cọc chặn sông vùng Bạch Hạc (Phú Thọ) để ngăn đường tiến quân của giặc. Những nơi cửa biển xung yếu, các vị trí chiến lược trên sông Cái (sông Hồng) cũng được đóng cọc nhọn phòng giữ. Công trình tiêu biểu nhất là cụm cứ điểm thành Đa Bang (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Thành Đa Bang là một quân thành có mặt thành Đa Bang hướng ra sông sông Lô, sông Nhị, chắn ngang đường tiến quân dự kiến của quân Minh (từ hướng Vân Nam sang). Cùng với khu thành chính, dọc bờ sông là hàng trăm dặm chiến lũy, cọc nhọn ngăn giặc. Cho đến năm 1406, cụm cứ điểm thành Đa Bang vẫn đang trong quá trình xây dựng.
Sở dĩ vua tôi nước Đại Ngu chú trọng phòng thủ tuyến đường từ Vân Nam tiến vào đất nước là bởi vì vào thời này, vùng Vân Nam đã đông đúc và thuận tiện về giao thông hơn hẳn các thời trước. Vân Nam đã đủ điều kiện làm bàn đạp cho giặc phương bắc tiến đánh nước ta bằng một đạo quân kỵ bộ quy mô lớn mà không cần sự hỗ trợ nhiều từ thủy quân. Đó là điểm bất lợi đặc trưng mà quân dân Đại Ngu thời nhà Hồ phải đối mặt so với cha ông ta các triều đại trước.
Việc xây dựng của nhà Hồ cho thấy rằng chiến lược chung nhất quán là phòng ngự. Chiến lược phòng ngự vốn không phải là một lựa chọn tồi. Tuy nhiên, việc chuẩn bị dù có quy mô rất lớn nhưng tồn tại không ít điểm yếu. Những điểm yếu đó sẽ kể sau, khi mà cuộc chiến diễn ra.
Trong lúc quân dân nước Đại Ngu tích cực chuẩn bị chống xâm lăng, thì ở Yên Kinh nước Minh, một nhân vật đã đi vào sử sách như một trong những tên Việt gian đáng nguyền rủa nhất. Trần Thiêm Bình, tên tay sai của giặc Minh nguyên có tên thật là Nguyễn Khang (có sách chép là Trần Khang) đã đề cập đến trong kỳ trước. Người này vốn là gia nô của một quý tộc tên Trần Nguyên Huy. Nguyên Huy là đồng đảng của thổ hào địa phương tên là Trần Tông. Khi Chiêm Thành thắng thế trước Đại Việt, Trần Tông ngả theo phe Chiêm Thành. Đến khi Đại Việt đánh đuổi được quân Chiêm khởi bờ cõi, bắt tội những kẻ đầu mục đã hàng giặc. Trần Tông nằm trong số đó, không còn đường nào khác bèn khởi binh chống lại triều đình. Chẳng được bao lâu, đám quân phản loạn bị đánh tan, Trần Nguyên Huy và Trần Tông đều chết. Nguyễn Khang chạy thoát được, theo đường xứ Ai Lao trốn sang nước Minh, đổi tên là Trần Thiêm Bình, mạo xưng là con của vua Trần Nghệ Tông. Thiêm Bình được vua Minh Thành Tổ Chu Đệ thu nhận, dùng làm chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” hòng dễ dàng thôn tính nước Đại Ngu.
Trần Thiêm Bình ở cạnh Chu Đệ, thường xuyên kêu xin vua Minh xuất quân đánh Đại Ngu, để cho hắn có thể trả thù cho chủ và lên làm vua nhờ sức ngoại bang. Thiêm Bình đã nói với vua Minh: "Dòng dõi họ Trần chỉ còn một mình tôi, tôi cùng giặc nhà Hồ không đội trời chung được. Dám xin nhà vua xuất phát ngay sáu quân đánh kẻ có tội để tỏ rõ oai trời".
Vua Minh vốn đã sẵn ý muốn xâm lăng, nhân đó phái sứ sang nước ta mượn tiếng là “điều tra” thật giả. Đó là đòn tâm lý chiến sâu hiểm, đánh thẳng vào điểm yếu chính trị của triều nhà Hồ là lên ngôi không chính danh. Sứ nước Minh phái sang ta, thực chất chỉ nhằm do thám và ly gián, việc truy xét thân phận thực sự của Trần Thiêm Bình tuyệt nhiên không động đến. Vốn đã biết rằng nước Minh muốn mượn cớ “phù Trần” để cất quân sang đánh, vua Hồ Hán Thương dùng kế đối phó. Vua nhà Hồ biện bạch rằng vì họ Trần không còn ai, nên cháu ngoại (Hồ Hán Thương là cháu ngoại vua Trần Minh Tông) phải đảm đương việc nước.
Đến khi vua Minh dùng Trần Thiêm Bình mạo xưng con cháu nhà Trần, Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân soạn tờ biểu “tạ tội” đưa sang cho Chu Đệ. Trong đó xin được đoán Trần Thiêm Bình về nước làm vua. Vua Minh nhân đó cho người thư trả lời: "Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm chúa, thì sẽ ban cho khanh tước thượng công và phong cho một quận lớn". Trong việc này, mỗi bên đều có toan tính riêng. Vua Hồ Hán Thương muốn lừa người nước Minh đem Trần Thiêm Bình về nước mà giết đi, qua đó khiến lòng dân khỏi bị lung lạc. Vua Chu Đệ thì mong rằng có thể “không đánh mà thắng”, biến nước Đại Ngu thành nước lệ thuộc với vua bù nhìn do nước Minh dựng lên.
Đến mùa hạ năm 1406, Minh Thành Tổ Chu Đệ bắt đầu động binh. Tướng Hàn Quan được phong làm “Chinh Nam tướng quân Hữu quân đô đốc đồng tri”, Hoàng Trung được phong làm “Tham tướng đô đốc đồng tri”, điều động 10 vạn quân ở lộ Quảng Tây tiến sát biên giới nước Đại Ngu, dẫn theo Trần Thiêm Bình. Đại quân nước Minh dừng lại ở biên giới làm thanh thế, còn Hoàng Trung dẫn 5.000 tinh binh để hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Vì theo lời của Trần Thiêm Bình nói, quân Minh chỉ cần tiến sang, trăm họ sẽ hưởng ứng theo để cùng lật đổ họ Hồ. Đó là lời nói lấy được của tên phản quốc. Đến khi quân Minh tiến sang, tuyệt không thấy người dân nào hưởng ứng theo chúng. Chỉ thấy dọc đường tiến quân, nhân dân điều phá bỏ lúa gạo và di tản, làm kế “Vườn không nhà trống” theo lệnh của triều đình nhà Hồ.
Quân đội Đại Ngu đóng ở ải Chi Lăng ẩn mình tránh giặc, mở đường cho chúng tiến sâu vào nội địa. Đại quân do Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy dàn binh thuyền ở vùng Bắc Giang (Bắc Ninh ngày nay) đợi giặc. Quan quân nhà Hồ dự tính sẽ phải đối đầu với 10 vạn quân Minh, chủ động chọn vùng đồng bằng sông nước để giao chiến, hạn chế được thế mạnh kỵ bộ của giặc, phát huy được sức mạnh thủy quân. Nhưng rốt cuộc, các tướng Đại Ngu chỉ thấy quân Minh có vài ngàn quân Minh tiến đến, vì thế mà có ý khinh địch.
Kỳ thực, 5.000 quân mà Hoàng Trung dẫn theo đều là quân tinh nhuệ của nước Minh. Hoàng Trung thấy quân Đại Ngu lơ là, tung quân đánh gấp vào ải Lãng Kinh. Hồ Nguyên Trừng không sẵn sàng nên điều quân lúng túng, các tướng không hiệp đồng kịp, quân lính chết rất nhiều. Quân Minh ít nhưng có nhiều kỵ binh, đánh rất hăng hái. Quân Đại Ngu trái lại chỉ có số lượng chứ huấn luyện kém, tinh thần chiến đấu kém Nhị vệ đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Quản lĩnh quân Chấn Cương Chu Bỉnh Trung, Quản lĩnh quân Tam Phụ Trần Huyên Huyên, Tả Thần Dực quân Trần Thái Bộc đều nối nhau thua chết ngay tại trận tiền. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng trực tiếp cầm thủy quân, sai quân đổ bộ lên bờ để đánh. Nhưng bấy giờ trận thế quân ta đã hỗn loạn, quân Minh thấy Hồ Nguyên Trừng thì tập trung đánh vào chỗ của ông. Hồ Nguyên Trừng suýt bị bao vây, may có thuộc hạ hộ tống được xuống thuyền thoát được.
Quản lĩnh quân Thánh Dực là Hồ Vấn đóng quân ở Vũ Cao gần đó, thấy động mới điều quân tới tiếp viện. Quân Đại Ngu chỉ tránh khỏi một trận thua điên rồ khi mà những binh sĩ thuộc quân Thánh Dực, đội cấm quân tinh nhuệ bậc nhất của triều đình kịp đến cứu. Hồ Vấn chia quân Thánh Dực đánh úp quân Minh. Gặp phải đội quân tinh nhuệ của Đại Ngu, Hoàng Trung đành chịu bại trận, thúc quân chạy thẳng về nước, quân lính bị truy kích chết rơi rớt dọc đường, nhiều tên bị bắt làm tù binh.
Hoàng Trung dẫn theo Trần Thiêm Bình cố gắng đào thoát, đến ải Chi Lăng thì gặp phải quân của hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh chặn đánh. Hoàng Trung lúc này chỉ cầu thoát thân, bèn sai người đưa thư cho Hồ Xạ: "Theo lời Thiêm Bình, hắn chính là con vua An Nam. Nếu đưa hắn về nước, thì đi đến đâu không ai là không hưởng ứng. Thế mà từ khi đưa hắn về nước đến nay, trong nước không một người nào theo cả, như thế tỏ ra là gian dối. Nay đưa Thiêm Bình trả lại, xin để cho quân lính được ra khỏi quan ải".
Hồ Xạ nhận lời, thả bọn Hoàng Trung về nước, đem Trần Thiêm Bình về kinh dâng công lên vua Hồ Hán Thương cùng Thượng hoàng Hồ Quý Ly. Vua nhà Hồ sau khi làm lễ dâng công và tra hỏi rồi, đem Trần Thiêm Bình ra xử tội lăng trì. Tên phản quốc rước giặc về nước nay phải đền tội. Tuy nhiên, sóng gió đối với nước Đại Ngu mới chỉ là bước mở đầu. Vua Hồ Hán Thương biết rõ điều đó, từ chối tất cả các biểu mừng thắng trận của quần thần dâng lên.
Năm 1398, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chết. Trước đó, ông đã viết Hoàng Minh Tổ Huấn để răn dạy các vị vua kế nhiệm. Trong tác phẩm này, Minh Thái Tổ đã nói rõ mối nguy mà các vua đời sau cần lưu tâm, cũng như những nước không nên đánh. Mặc dù văn phong trong tác phẩm này thể hiện sự tự tôn thái quá của một vị vua Trung Hoa, nhưng nó cũng thể hiện được tầm nhìn của Chu Nguyên Chương về giá trị của hòa bình :
“ … Những nước Di bốn phương đều núi ngăn biển cách, lánh tại một góc, lấy được đất họ không đủ để cung cấp, thu được dân họ không đủ để sai khiến. Nếu họ không tự biết suy xét mà đến gây nhiễu biên giới nước ta thì đấy là điều không may. Nhưng bên ấy không làm hại Trung Quốc mà ta lại dấy binh đi đánh họ thì cũng là điều không may vậy. Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người, hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy ! Nhưng người Hồ - Nhung kề biên giới phía tây bắc, liền tiếp lẫn nhau, nhiều đời tranh chiến, thì phải chọn tướng rèn binh, lúc nào cũng nên phòng giữ cẩn thận. Nay đề tên những nước Di không được đánh, xếp đặt ở sau đây :
Phía đông bắc :
- Nước Triều Tiên
Phía chính đông lệch bắc :
- Nước Nhật Bản
Phía chính nam lệch đông :
- Nước Đại Lưu Cầu [Okinawa]
- Nước Tiểu Lưu Cầu [thuộc Okinawa]
Phía tây nam :
- Nước An Nam [Đại Việt]
- Nước Chân Lạp [Khmer]
- Nước Xiêm La [Sukhotai]
- Nước Chiêm Thành
- Nước Tô Môn Đáp Lạt [Sumatra]
- Nước Tây Dương
- Nước Trảo Oa [Java]
- Nước Bồn Hanh
- Nước Bạch Hoa
- Nước Tam Phật Tề [Srivijaya]
- Nước Bột Nê [Borneo]”
Hoàng Minh Tổ Huấn là chiêm nghiệm từ suốt cả một quá trình tạo dựng nên sự nghiệp của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Chung quy lại những lời trên, vị vua khai sáng nước Minh đã chỉ ra rằng lãnh thổ của Minh triều đã rất rộng lớn và trù phú, các vua kế vị nên tập trung bảo vệ đất nước khỏi những đe dọa bên ngoài để tạo dựng một đế chế thanh bình, vững chắc. Việc xâm lược những nước không gây hại đến nước mình chỉ là việc tham công nhất thời, đem lại những lợi ích nhỏ nhoi mà không phải là việc nên làm cho lợi ích lâu dài. Điều đó rất đúng với câu nói trong sách Tư Mã Pháp của tác giả Tư Mã Nhương Thư nước Tề thời Xuân Thu: “Nước tuy lớn, hiếu chiến tất vong”.
Chúng ta cần biết rằng việc cuối đời Chu Nguyên Chương từ bỏ ý tưởng xâm lược Đại Việt chủ yếu xuất phát từ động cơ bảo vệ lợi ích của nước Minh. Bởi kể từ khi Chu Nguyên Chương đánh đuổi Nguyên Mông về bắc đến khi ông chết, mối đe dọa từ đế chế Nguyên Mông ở phía bắc mà sử sách gọi là Bắc Nguyên vẫn luôn là mối đe dọa lớn của nước Minh. Mặc dù người Mông Cổ không có được sự đoàn kết cần thiết, bù lại quân đội Bắc Nguyên có thành phần là những chiến binh thảo nguyên thiện chiến, nhiều lần khiến quân Minh chịu thương vong lớn. Việc gây chiến với các lân bang thân thiện khác sẽ khiến cho nước Minh chuốc thêm thù oán, tăng nguy cơ quân đội bị sa lầy ở nước ngoài hoặc tự đặt mình vào thế lưỡng đầu thọ địch. Người Trung Hoa vốn không thiếu những bài học đắt giá về sự hiếu chiến, kể cả lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn. Rất tiếc rằng, đời vua sau của nước Minh đã không nghe theo lời của Minh Thái Tổ. Sau khi vua khai sáng của nước Minh chết, đất nước mới này xảy ra biến động lớn rồi từ đó một bạo chúa đã lên ngôi.
Minh Thái Tổ nhường ngôi cho hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, tức Minh Huệ Đế. Vị vua này vì muốn tập trung quyền lực vào tay triều đình trung ương đã thi hành chính sách Bãi Phiên, tức bãi bỏ chế độ phân phong cho các phiên vương. Những phiên vương vốn là con cháu hoàng tộc họ Chu, được Minh Thái Tổ phong đất đai, có quân đội riêng trong lãnh địa. Chính sách bãi phiên khiến cho các phiên vương nổi lên chống lại triều đình. Trong số đó, Yên vương Chu Đệ, con trai thứ thư của Chu Nguyên Chương là người có quân đội mạnh và có tài lãnh đạo. Chu Đệ cuối cùng đánh bại được Minh Huệ Đế trong cuộc nội chiến, cướp được ngôi vua nước Minh. Năm 1402, Chu Đệ lên ngôi vua, tức Minh Thành Tổ (hay Minh Thái Tông) trong sử sách.
Mặc dù là một vị vua có tầm nhìn, có tài năng nhưng Minh Thành Tổ cũng nổi tiếng là một con người tàn bạo. Dưới sự cai trị của ông, một mặt nước Minh nối tiếp đà phát triển mạnh từ thời Minh Thái Tổ, mặc khác cũng là một xã hội hà khắc với đủ thứ nghiêm hình dành cho những hành vi chống đối hay bị coi là chống đối.
Lúc bấy giờ tại nước ta, nhà Hồ đã thay thế nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, vua đương nhiệm là Hồ Hán Thương, con trai thứ của Hồ Quý Ly. Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly vẫn cùng con mình trông coi chính sự. Chiến tranh với Chiêm Thành vẫn dai dẳng, mặc dù Đại Ngu đã lấy lại được thế thượng phong. Minh Thành Tổ theo đuổi chính sách ngoại giao hiếu chiến với Đại Ngu, hoàn toàn trái ngược với lời di ngôn của Minh Thái Tổ trong Hoàng Minh Tổ Huấn.Sứ giả nước Minh liên tiếp sang Đại Ngu hạch hỏi về việc con cháu họ Trần còn hay không để uy hiếp vua nhà Hồ. Vua Hồ Hán Thương phải nói dối rằng con cháu họ Trần không còn ai, hòng được Minh triều công nhận làm An Nam Quốc Vương như một thông lệ ngoại giao.
Minh Thành Tổ không tin, lại phái Hành nhân Dương Bột sang đem thư chiêu dụ dân chúng, quan lại nước ta hỏi xem lời của Hồ Hán Thương có thật hay không. Vua Hồ phải sai sứ sang Minh nộp tờ cam đoan của phụ lão trong nước rằng vua Hồ Hán Thương nói thật. Bấy giờ Minh Thành Tổ mới phong tước cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương. Thực chất việc làm của Minh Thành Tổ chỉ là một bước đi hòng lung lạc tinh thần quân dân nước Đại Ngu, làm “chính danh” cho âm mưu xâm lược của mình.
Năm 1403, Đại tướng quân nước Đại Ngu là Phạm Nguyên Khôi nhận lệnh vua Hồ đem 20 vạn quân thủy bộ tấn công Chiêm Thành. Vua tôi nước Chiêm cho người sang cầu cứu nước Minh. Minh Thành Tổ Chu Đệ lệnh đem 9 thuyền chiến lớn sang cứu viện cho Chiêm Thành. Trong cuộc chiến này, tướng nước Đại Ngu dùng quân lệnh rất nghiêm nên quân lính liều mình chiến đấu, vây bức được kinh thành Chà Bàn. Tuy nhiên quân Đại Ngu vấp phải sự cố thủ kiên cường của quân Chiêm Thành. Thành Chà Bàn vẫn không bị hạ sau nhiều tháng. Cuối cùng, quân Đại Việt phải rút lui vì hết lương thực. Đến khi quân Đại Ngu rút về thì binh thuyền nước Minh mới đang trên đường tới Chiêm Thành.
Hai hạm đội của Đại Ngu và Đại Minh gặp nhau ngoài biển. Quân Minh ít hơn, vốn định sang phối hợp với quân Chiêm nhưng nay lại gặp quân Đại Ngu trong hoàn cảnh đơn độc. Tướng Minh mới cho người sang nói với Phạm Nguyên Khôi rằng đôi bên nên rút quân về, không nên ở lại. Thuyền của Đại Ngu đông mạnh hơn nhiều lần, nhưng tướng Phạm Nguyên Khôi không dám đánh vì sợ người Minh kiếm cớ động binh lớn. Rốt cuộc hai bên mạnh ai nấy thoái lui về nước mình. Khi Nguyên Khôi về triều báo việc gặp quân Minh ngoài biển mà không đánh, Thượng hoàng Hồ Quý Ly rất tức giận, quở trách Nguyên Khôi sao không giết chết quân Minh.
Rõ ràng nhà Hồ thực có chí tự cường, nhưng nội bộ không đồng nhất về hành động. Về phần Minh Thành Tổ Chu Đệ là một ông vua hiếu chiến hơn hẳn cha mình. Lời của Chu Nguyên Chương khuyên rằng không nên đánh nước ta, Chu Đệ đã không coi ra gì. Quãng thời gian từ năm 1403 về sau, tình hình ngày càng thêm căng thẳng. Tham vọng bành trướng của Minh Thành Tổ Chu Đệ sắp ném hai dân tộc vào một cuộc chiến tranh dai dẳng, tàn khốc. Đó là tai họa cho nước Đại Việt, cũng là tai họa cho nước Minh vậy.
Hồ Quý Ly sai gián điệp hạ độc quan lại nhà Minh
Quân đội nhà Minh
Hồ Quý Ly lại sai gián điệp người dân tộc thiểu số ở các thôn vừa cắt đánh thuộc độc giết chết hết những thổ quan mà nước Minh sắp đặt. Trên thực tế, nước Đại Ngu giữ được người của mình kiểm soát các vùng lãnh thổ mới cắt nhượng cho nước Minh.
Cùng với việc sai sứ sang Đại Ngu gây sự, Minh triều còn cử người sang mua chuộc dân chúng trong nước ta làm nội ứng cho chúng. Bọn hoạn quan gốc Việt gồm Nguyễn Toán, Nguyễn Tông Đạo, Ngô Tín mượn cớ đi sứ và thăm hỏi thân thuộc, ngầm hẹn ước với người trong dòng tộc mình rằng khi nào quân Minh sang thì treo cờ vàng, viết chữ trên cờ làm ám hiệu, sẽ không bị giết hại. Triều đình nhà Hồ phát giác được việc này, thân thuộc của đám hoạn quan đều bị giết cả. Đấy là xử theo luật lệ hà khắc thời phong kiến. Một người có tội, cả họ bị vạ lây.
Đến năm 1404, Minh triều sai sứ sang nước ta đòi cặp voi một đen một trắng. Vốn trước đó nước Chiêm Thành cống cặp voi đó cho nước Đại Ngu để xin hoãn binh. Sau vì căm tức, Chiêm Thành lại sai sứ sang tâu với vua Minh rằng bị họ Hồ lấn đất, lấy mất voi mà Chiêm Thành định cống cho nước Minh. Đến khi sứ Minh sang đòi, triều đình nhà Hồ phải đem cặp voi giao cho nước Minh để yên chuyện. Nhưng chẳng được bao lâu thì nước Minh lại phái Hành nhân Lý Kỳ sang khiêu khích. Lý Kỳ sang nước ta hành sự rất ngang ngược, đánh đập người trong đoàn hộ tống hắn đến kinh đô, bắt phải đi nhanh không kể lịch trình đã định.
Lý Kỳ đến kinh đô, hạch hỏi triều đình nhà Hồ về việc cướp ngôi nhà Trần, việc đánh Chiêm Thành và việc lấn đất ngoài biên. Những việc này là do tên Trần Thiêm Bình, một phản tặc lưu vong đã khai báo với vua Minh, cộng thêm một số thông tin thêm thắt sai lệch hòng thuyết phục quân Minh sang đánh nước ta, để Thiêm Bình có thể nhân đó là lên làm vua. Nhà Hồ phải vất vả biện luận. Lý Kỳ ở công quán còn quan sát hình thế kinh đô, ý muốn do thám sự tình nước ta. Hồ Quý Ly liệu việc chậm, đến khi Lý Kỳ trên đường về mới sai quân đuổi theo giết đi để tránh tiết lộ những việc cơ mật nhưng Lý Kỳ đã về nước trước khi quân truy sát của nhà Hồ đuổi kịp.
Lý Kỳ về tâu với Chu Đệ rằng vua nhà Hồ xưng đế và làm thơ có lời xúc phạm vua Minh.Minh triều lấy đó làm cớ tuyên truyền trong nước về việc cần thiết phải tấn công Đại Ngu. Nguyên thời bấy giờ vua của các đế chế Trung Hoa vẫn tự cho rằng mình là vua duy nhất được quyền xưng đế, các vua nước khác chỉ được phép xưng vương. Tuy nhiên, các đời vua nước ta kể từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trở về sau đều xưng đế, dù rằng trên phương diện ngoại giao với láng giềng phương bắc chỉ xưng vương.
Lẽ ra đây cũng chỉ là việc thường mà các đời vua hai nước đều ngầm hiểu và phương bắc vẫn phải làm lơ. Nhưng vì đây là lúc Minh Thành Tổ Chu Đệ muốn động binh đao, nên mọi việc đều có thể quy tội cho nước ta. Xuyên suốt mấy năm liền, việc chuẩn bị thôn tính nước Đại Ngu đã được Minh triều thực hiện bài bản, từ việc kiểm binh chọn tướng đến việc cử người sang làm nội ứng phá hoại Đại Ngu từ bên trong. Trong quá trình chuẩn bị, việc ngoại giao vẫn được tiến hành nhằm gây chia rẽ nội bộ và tìm một cái cớ thật “chính danh” cho cuộc xâm lược.
Năm 1405, nhân có viên thổ quan châu Tư Minh là Hoàng Quảng Thành tâu lên rằng đất Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn ngày nay) của nước Đại Ngu vốn là đất cũ thuộc Tư Minh, vua Minh sai sứ sang Đại Ngu đòi đất Lộc Châu. Do đời trước biên giới co duỗi tùy theo thời thế, khi nhà Trần thịnh, nhà Nguyên suy thì biên giới nước ta lấn sang phía bắc. Nay nhà Minh thịnh nên muốn lấn đất xuống nam, cũng là kiếm cớ gây hấn. Thượng hoàng Hồ Quý Ly sau khi cân nhắc mới sai Hành khiển Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ đi lên biên giới cùng quan lại nước Minh khảo sát, trả lại một số đất đai mà đời trước nước ta đã lấn. Hoàng Hối Khanh nhận lệnh nhưng làm việc tắc trách, một lúc cắt 59 thôn trả cho nước Minh.
Khi về triều, Thượng hoàng Hồ Quý Ly biết được nổi giận lôi đình, không tiếc lời chửi bới nhục mạ Hoàng Hối Khanh. Hồ Quý Ly lại sai gián điệp người dân tộc thiểu số ở các thôn vừa cắt đánh thuộc độc giết chết hết những thổ quan mà nước Minh sắp đặt. Trên thực tế, nước Đại Ngu giữ được người của mình kiểm soát các vùng lãnh thổ mới cắt nhượng cho nước Minh.
Dù rằng nhà Hồ biết trước chiến tranh gần như không thể tránh khỏi, việc chuẩn bị chống giặc đã khẩn trương nhưng trong năm 1405, vua Hồ Hán Thương vẫn mong níu kéo chút hy vọng về hòa bình. Hình bộ lang trung Phạm Canh được vua cử làm chánh sứ, cùng Thông phán Lưu Quang Đình làm phó sứ đem tặng vật sang nước Minh làm thuyết khách, mong dập được họa binh đạo. Tuy nhiên, chuyến đi này đã không có tác dụng. Vua Minh vẫn muốn đánh Đại Ngu, cho giữ Phạm Canh ở lại, chỉ thả Quang Đình về nước.
Việc ngoại giao giữa nước Đại Ngu và nước Minh có thể nói là đã không thể đàm phán được kể từ sự kiện trên. Từ năm 1406, hai nước đã bắt đầu dùng gươm đao để nói chuyện. Vua Minh lên kế hoạch dùng Trần Thiêm Bình làm vua bù nhìn, cho quân hộ tống hắn về nước để thay thế vua nhà Hồ. Minh triều hy vọng rằng dưới chiêu bài khôi phục lại nhà Trần, chúng sẽ có thể dễ dàng chiêu dụ được nhân dân trong nước ta quay mũi giáo hướng về triều đình họ Hồ, qua đó mà chỉ dùng ít quân binh cũng có thể thôn tính được nước Đại Ngu. Tuy nhiên, mọi chuyện sẽ không đơn giản như toan tính của giặc
Bị quân Hồ Quý Ly bao vây, tướng Minh viết thư xin tha mạng
Quân đội Đại Ngu đóng ở ải Chi Lăng ẩn mình tránh giặc, mở đường cho chúng tiến sâu vào nội địa. Đại quân do Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy dàn binh thuyền ở vùng Bắc Giang (Bắc Ninh ngày nay) đợi giặc.
Như đã nói ở các kỳ trước, Hồ Quý Ly đã sớm có các biện pháp nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng. Ông đã cho làm lại sổ hộ tịch để tăng thêm số quân dự bị, gom đồng đúc súng thần cơ, xây dựng các thành trì kiên cố, đánh Chiêm Thành để giải tỏa áp lực từ phía nam… Kế đến khi nhà Hồ thành lập, triều đình mới đã cho định lại các cơ ngũ mới, quân số thường trực tăng thêm, tiếp tục xây dựng các công trình lớn phục vụ cho mục đích phòng thủ. Hồ Hán Thương cho thành lập 4 kho quân khí phục vụ cho việc sản xuất vũ khí dùng trong chiến tranh.
Đích thân vua nhà Hồ đã đi khảo sát các nơi cửa biển hiểm yếu. Lệnh cho quân dân cả nước đẽo những thân gỗ to khỏe làm cọc chặn sông vùng Bạch Hạc (Phú Thọ) để ngăn đường tiến quân của giặc. Những nơi cửa biển xung yếu, các vị trí chiến lược trên sông Cái (sông Hồng) cũng được đóng cọc nhọn phòng giữ. Công trình tiêu biểu nhất là cụm cứ điểm thành Đa Bang (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Thành Đa Bang là một quân thành có mặt thành Đa Bang hướng ra sông sông Lô, sông Nhị, chắn ngang đường tiến quân dự kiến của quân Minh (từ hướng Vân Nam sang). Cùng với khu thành chính, dọc bờ sông là hàng trăm dặm chiến lũy, cọc nhọn ngăn giặc. Cho đến năm 1406, cụm cứ điểm thành Đa Bang vẫn đang trong quá trình xây dựng.
Sở dĩ vua tôi nước Đại Ngu chú trọng phòng thủ tuyến đường từ Vân Nam tiến vào đất nước là bởi vì vào thời này, vùng Vân Nam đã đông đúc và thuận tiện về giao thông hơn hẳn các thời trước. Vân Nam đã đủ điều kiện làm bàn đạp cho giặc phương bắc tiến đánh nước ta bằng một đạo quân kỵ bộ quy mô lớn mà không cần sự hỗ trợ nhiều từ thủy quân. Đó là điểm bất lợi đặc trưng mà quân dân Đại Ngu thời nhà Hồ phải đối mặt so với cha ông ta các triều đại trước.
Việc xây dựng của nhà Hồ cho thấy rằng chiến lược chung nhất quán là phòng ngự. Chiến lược phòng ngự vốn không phải là một lựa chọn tồi. Tuy nhiên, việc chuẩn bị dù có quy mô rất lớn nhưng tồn tại không ít điểm yếu. Những điểm yếu đó sẽ kể sau, khi mà cuộc chiến diễn ra.
Trong lúc quân dân nước Đại Ngu tích cực chuẩn bị chống xâm lăng, thì ở Yên Kinh nước Minh, một nhân vật đã đi vào sử sách như một trong những tên Việt gian đáng nguyền rủa nhất. Trần Thiêm Bình, tên tay sai của giặc Minh nguyên có tên thật là Nguyễn Khang (có sách chép là Trần Khang) đã đề cập đến trong kỳ trước. Người này vốn là gia nô của một quý tộc tên Trần Nguyên Huy. Nguyên Huy là đồng đảng của thổ hào địa phương tên là Trần Tông. Khi Chiêm Thành thắng thế trước Đại Việt, Trần Tông ngả theo phe Chiêm Thành. Đến khi Đại Việt đánh đuổi được quân Chiêm khởi bờ cõi, bắt tội những kẻ đầu mục đã hàng giặc. Trần Tông nằm trong số đó, không còn đường nào khác bèn khởi binh chống lại triều đình. Chẳng được bao lâu, đám quân phản loạn bị đánh tan, Trần Nguyên Huy và Trần Tông đều chết. Nguyễn Khang chạy thoát được, theo đường xứ Ai Lao trốn sang nước Minh, đổi tên là Trần Thiêm Bình, mạo xưng là con của vua Trần Nghệ Tông. Thiêm Bình được vua Minh Thành Tổ Chu Đệ thu nhận, dùng làm chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” hòng dễ dàng thôn tính nước Đại Ngu.
Trần Thiêm Bình ở cạnh Chu Đệ, thường xuyên kêu xin vua Minh xuất quân đánh Đại Ngu, để cho hắn có thể trả thù cho chủ và lên làm vua nhờ sức ngoại bang. Thiêm Bình đã nói với vua Minh: "Dòng dõi họ Trần chỉ còn một mình tôi, tôi cùng giặc nhà Hồ không đội trời chung được. Dám xin nhà vua xuất phát ngay sáu quân đánh kẻ có tội để tỏ rõ oai trời".
Vua Minh vốn đã sẵn ý muốn xâm lăng, nhân đó phái sứ sang nước ta mượn tiếng là “điều tra” thật giả. Đó là đòn tâm lý chiến sâu hiểm, đánh thẳng vào điểm yếu chính trị của triều nhà Hồ là lên ngôi không chính danh. Sứ nước Minh phái sang ta, thực chất chỉ nhằm do thám và ly gián, việc truy xét thân phận thực sự của Trần Thiêm Bình tuyệt nhiên không động đến. Vốn đã biết rằng nước Minh muốn mượn cớ “phù Trần” để cất quân sang đánh, vua Hồ Hán Thương dùng kế đối phó. Vua nhà Hồ biện bạch rằng vì họ Trần không còn ai, nên cháu ngoại (Hồ Hán Thương là cháu ngoại vua Trần Minh Tông) phải đảm đương việc nước.
Đến khi vua Minh dùng Trần Thiêm Bình mạo xưng con cháu nhà Trần, Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân soạn tờ biểu “tạ tội” đưa sang cho Chu Đệ. Trong đó xin được đoán Trần Thiêm Bình về nước làm vua. Vua Minh nhân đó cho người thư trả lời: "Nếu quả đón Thiêm Bình về tôn làm chúa, thì sẽ ban cho khanh tước thượng công và phong cho một quận lớn". Trong việc này, mỗi bên đều có toan tính riêng. Vua Hồ Hán Thương muốn lừa người nước Minh đem Trần Thiêm Bình về nước mà giết đi, qua đó khiến lòng dân khỏi bị lung lạc. Vua Chu Đệ thì mong rằng có thể “không đánh mà thắng”, biến nước Đại Ngu thành nước lệ thuộc với vua bù nhìn do nước Minh dựng lên.
Đến mùa hạ năm 1406, Minh Thành Tổ Chu Đệ bắt đầu động binh. Tướng Hàn Quan được phong làm “Chinh Nam tướng quân Hữu quân đô đốc đồng tri”, Hoàng Trung được phong làm “Tham tướng đô đốc đồng tri”, điều động 10 vạn quân ở lộ Quảng Tây tiến sát biên giới nước Đại Ngu, dẫn theo Trần Thiêm Bình. Đại quân nước Minh dừng lại ở biên giới làm thanh thế, còn Hoàng Trung dẫn 5.000 tinh binh để hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Vì theo lời của Trần Thiêm Bình nói, quân Minh chỉ cần tiến sang, trăm họ sẽ hưởng ứng theo để cùng lật đổ họ Hồ. Đó là lời nói lấy được của tên phản quốc. Đến khi quân Minh tiến sang, tuyệt không thấy người dân nào hưởng ứng theo chúng. Chỉ thấy dọc đường tiến quân, nhân dân điều phá bỏ lúa gạo và di tản, làm kế “Vườn không nhà trống” theo lệnh của triều đình nhà Hồ.
Quân đội Đại Ngu đóng ở ải Chi Lăng ẩn mình tránh giặc, mở đường cho chúng tiến sâu vào nội địa. Đại quân do Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng chỉ huy dàn binh thuyền ở vùng Bắc Giang (Bắc Ninh ngày nay) đợi giặc. Quan quân nhà Hồ dự tính sẽ phải đối đầu với 10 vạn quân Minh, chủ động chọn vùng đồng bằng sông nước để giao chiến, hạn chế được thế mạnh kỵ bộ của giặc, phát huy được sức mạnh thủy quân. Nhưng rốt cuộc, các tướng Đại Ngu chỉ thấy quân Minh có vài ngàn quân Minh tiến đến, vì thế mà có ý khinh địch.
Kỳ thực, 5.000 quân mà Hoàng Trung dẫn theo đều là quân tinh nhuệ của nước Minh. Hoàng Trung thấy quân Đại Ngu lơ là, tung quân đánh gấp vào ải Lãng Kinh. Hồ Nguyên Trừng không sẵn sàng nên điều quân lúng túng, các tướng không hiệp đồng kịp, quân lính chết rất nhiều. Quân Minh ít nhưng có nhiều kỵ binh, đánh rất hăng hái. Quân Đại Ngu trái lại chỉ có số lượng chứ huấn luyện kém, tinh thần chiến đấu kém Nhị vệ đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Quản lĩnh quân Chấn Cương Chu Bỉnh Trung, Quản lĩnh quân Tam Phụ Trần Huyên Huyên, Tả Thần Dực quân Trần Thái Bộc đều nối nhau thua chết ngay tại trận tiền. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng trực tiếp cầm thủy quân, sai quân đổ bộ lên bờ để đánh. Nhưng bấy giờ trận thế quân ta đã hỗn loạn, quân Minh thấy Hồ Nguyên Trừng thì tập trung đánh vào chỗ của ông. Hồ Nguyên Trừng suýt bị bao vây, may có thuộc hạ hộ tống được xuống thuyền thoát được.
Quản lĩnh quân Thánh Dực là Hồ Vấn đóng quân ở Vũ Cao gần đó, thấy động mới điều quân tới tiếp viện. Quân Đại Ngu chỉ tránh khỏi một trận thua điên rồ khi mà những binh sĩ thuộc quân Thánh Dực, đội cấm quân tinh nhuệ bậc nhất của triều đình kịp đến cứu. Hồ Vấn chia quân Thánh Dực đánh úp quân Minh. Gặp phải đội quân tinh nhuệ của Đại Ngu, Hoàng Trung đành chịu bại trận, thúc quân chạy thẳng về nước, quân lính bị truy kích chết rơi rớt dọc đường, nhiều tên bị bắt làm tù binh.
Hoàng Trung dẫn theo Trần Thiêm Bình cố gắng đào thoát, đến ải Chi Lăng thì gặp phải quân của hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh chặn đánh. Hoàng Trung lúc này chỉ cầu thoát thân, bèn sai người đưa thư cho Hồ Xạ: "Theo lời Thiêm Bình, hắn chính là con vua An Nam. Nếu đưa hắn về nước, thì đi đến đâu không ai là không hưởng ứng. Thế mà từ khi đưa hắn về nước đến nay, trong nước không một người nào theo cả, như thế tỏ ra là gian dối. Nay đưa Thiêm Bình trả lại, xin để cho quân lính được ra khỏi quan ải".
Hồ Xạ nhận lời, thả bọn Hoàng Trung về nước, đem Trần Thiêm Bình về kinh dâng công lên vua Hồ Hán Thương cùng Thượng hoàng Hồ Quý Ly. Vua nhà Hồ sau khi làm lễ dâng công và tra hỏi rồi, đem Trần Thiêm Bình ra xử tội lăng trì. Tên phản quốc rước giặc về nước nay phải đền tội. Tuy nhiên, sóng gió đối với nước Đại Ngu mới chỉ là bước mở đầu. Vua Hồ Hán Thương biết rõ điều đó, từ chối tất cả các biểu mừng thắng trận của quần thần dâng lên.
Nhà Minh lộ dã tâm khi chuẩn bị 80 vạn quân xâm lược nước Việt
Quân đội nhà Minh
Đạo quân khổng lồ được điều động bao gồm quân nòng cốt từ Nam Kinh cùng với binh lính 8 tỉnh vùng phía nam nước Minh là Quý Châu, Triết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng quân số hơn 20 vạn quân chiến đấu, khoảng 60 vạn dân phu.
Đầu năm 1406, quân tướng nhà Hồ đã lập được chiến công đầu trước quân Minh, đánh bại được 5.000 quân tinh nhuệ của giặc, chém được vua bù nhìn. Tuy nhiên, dù chiến thắng nhưng qua trận đầu đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu của quan quân nhà Hồ. Tại trận Lãnh Kinh, quân Đại Ngu hoàn toàn áp đảo địch về quân số nhưng vẫn rơi vào thế hỗn loạn, chết liền mấy đại tướng, may nhờ có quân Thánh Dực đến tiếp viện mới đánh bại được giặc. Rõ ràng, chất lượng của quân lính Đại Ngu nhìn chung kém xa so với quân lính Minh, và các tướng lĩnh cũng có năng lực trung bình hoặc yếu kém. Điều đó do nhiều nguyên nhân. Trước tiên là do hậu quả của chính sách xây dựng quân đội của Hồ Quý Ly, chú trọng về quân số, khí giới mà không chú trọng đúng mực về thao luyện binh sĩ. Mặc khác, quân đội nước Minh là đội quân liên tiếp kinh qua những cuộc chiến tranh lớn với người Mông Cổ và nội chiến, rất thiện chiến và nhiều kinh nghiệm.
Vua Hồ Hán Thương hẳn rất hiểu tình hình binh lực của mình, nhưng vì tình thế đã quá gấp rút, nên chỉ có thể thi hành những chính sách giải quyết tình thế trước mắt. Vua đoán rằng Minh triều thua trận đầu tất sẽ dốc sức kéo sang lần nữa báo thù, bèn hạ lệnh cho các quan tuyển thêm binh lính. Trước đây, triều đình nhà Hồ đã có làm sổ hộ tịch. Nay chiếu theo sổ sách ấy, nhà Hồ tuyển lính càng gắt gao, cả những kẻ trốn tránh, phiêu lưu cũng bắt sung vào quân ngũ. Những hạn này phiên chế thành “quân dũng hãn”, giao cho các Thiên hộ, Bá hộ cai quản. Dù có tên là “dũng hãn”, thực chất đó chỉ là những quân lính ô hợp, tinh thần chiến đấu kém, khi ra trận phải dùng nghiêm lệnh để răn đe mới có động lực chiến đấu.
Quân chính quy nhà Hồ thời này có khoảng 20 vạn quân, là những binh lính ít nhiều có kỹ năng, kỷ luật. Còn lại, số quân “dũng hãn” rất đông, chưa khảo được con số cụ thể. Vì quân đội Đại Ngu dẫu đông nhưng thành phần ô hợp, không đồng nhất nên có nhận định rằng quân nhà Hồ có trăm vạn người, nhưng cũng trăm vạn lòng. Ngoài việc tuyển lính, triều đình còn lệnh cho dân chúng những vùng mà giặc có thể đi qua chọn chỗ đất hoang vu để dựng nhà cửa, tích trữ sẵn lương thực ở những nơi đó phòng khi giặc tiến sang sẽ dễ bề sơ tán. Các sông ngòi được tiếp tục việc cắm cọc ngăn sông, thành trì được gia cố thêm cho vững chắc làm chỗ dựa cho quân chiến đấu.
Chính vì nhà Hồ không được lòng nhân dân, nên việc áp dụng chiến lược chống giặc bị hạn chế. Quân không đồng lòng nên dễ đào ngũ, không thể hành quân xa thành trì để đánh những trận chiến lớn. Dân không phục nên dễ lộ các bí mật quân sự, khó vận dụng chiến thuật mai phục, ép quân, phục kích… Nhìn vào các bước đi chuẩn bị của triều đình nhà Hồ có thể thấy được dụng ý lấy lượng bù chất, lấy phòng thủ làm lợi thế trong bối cảnh quân kém tinh, dân không thực sự ủng hộ triều đình.
Lại nói tin tức tên tay sai Trần Thiêm Bình bị bắt giết về đến tai Chu Đệ, vua Minh tỏ ra rất tức giận, gấp rút sửa soạn một đạo quân lớn để sang báo thù, đồng thời thôn tính nước Đại Ngu như mong muốn bấy lâu. Vua Hồ Hán Thương phái sứ đoàn sang Minh để xin hoãn binh. Sứ bộ Đại Ngu có Trần Cung Túc làm chánh sứ, Mai Tú Phu làm phó sứ, Tưởng Tư làm làm tòng sự giữa triều đình nước Minh biện bạch việc dối trá của Trần Thiêm Bình và xin được cống nạp để được hòa bình.
Nhưng bấy giờ vua Minh đâu còn cần thiết phân xử việc Trần Thiêm Bình nữa, mà chỉ lăm lăm lấy cớ khởi binh. Chu Đệ lệnh cho Thành quốc công Chu Năng lãnh chức đại tướng, Tân Thành hầu Trương Phụ làm tả phó tướng, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm hữu phó tướng chỉ huy quân xâm lược. Các tướng Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng. Đạo quân khổng lồ được điều động bao gồm quân nòng cốt từ Nam Kinh cùng với binh lính 8 tỉnh vùng phía nam nước Minh là Quý Châu, Triết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng quân số hơn 20 vạn quân chiến đấu, khoảng 60 vạn dân phu.
Tất nhiên một đạo quân đông đảo như thế không thế chỉ trong thời gian ngắn mà điều động được. Việc chuẩn bị đã diễn ra từ trước khi cuộc xung đột năm 1406 từ lâu, nằm trong chuỗi kế hoạch thôn tính nước Đại Ngu của vua Minh Thành Tổ Chu Đệ. Nay các đạo binh phu của nước Minh tiến hành tập kết lại. Quân Minh xâm lược lần này bao gồm cả bộ binh, kỵ binh và thủy binh. Thành phần quân Minh có nhiều binh lính thiện chiến, được trang bị các loại vũ khí tối tân như nỏ lớn, nỏ liên châu, máy bắn đá tầm xa, súng đại bác… Đặc biệt, một số lính Minh được trang bị cả súng hỏa mai, là loại vũ khí tối tân hàng đầu thời bây giờ. Việc sử dụng nhiều hỏa khí là điểm khác biệt khiến cho quân Minh rất đáng gờm.
Cùng với việc chuẩn bị về binh lực, nước Minh còn sử dụng các cách thức mua chuộc, chia rẽ quân dân nước ta. Chúng chuẩn bị các bảng văn với lời lẽ đánh vào những tội lỗi của triều đình nhà Hồ để kích động dân chúng trở giáo theo chúng, chuẩn bị sẵn cả vàng bạc để mua chuộc những kẻ tham lam, những đầu mục nước Đại Ngu theo giặc chống lại đất nước. Ngoài ra, vua Minh sai quân mang vàng bạc vượt biển vào nam kêu gọi nước Chiêm Thành đem quân phối hợp, từ phía nam đánh lên, cắt đường rút lui của quân nhà Hồ. Nước Chiêm Thành lúc này dưới sự trị vì của vua Indravarman VI (Ba Đích Lại) nhanh chóng đồng ý phối hợp xâu xé Đại Ngu, bởi vì nước này vốn trước đã rất căm hận nước Đại Ngu, chỉ mong có dịp báo thù và lấn chiếm lại những vùng đất đai mà họ đã mất về tay nước láng giềng phía bắc. Việc nước Chiêm Thành tham chiến càng khiến cuộc chiến bảo vệ đất nước của quân dân nước Đại Ngu triều Hồ thêm phần khó khăn. Bất chấp những điều đó, nhà Hồ vẫn chuẩn bị nghênh chiến với kẻ thù.
Cuối thu năm 1406, quân Minh bắt đầu hành quân tập kết. Quân đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng bệnh chết, phó tướng là Trương Phụ lên thay thế vị trí thống soái. Đến mùa đông, quân Minh đã tập kết xong thành hai khối. Khối quân phía đông đóng tại Quảng Tây dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, theo đường Lạng Sơn tiến sang nước ta. Khối quân phía tây đóng tại Vân Nam, do Mộc Thạnh cầm đầu theo đường Tuyên Quang tiến đánh Đại Ngu từ phía tây bắc.Cuối năm 1406, quân Minh bắt đầu tấn công toàn tuyến. Quân đội Đại Ngu dưới sự chỉ huy của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng sẵn sàng chiến đấu tại các hệ thống đồn lũy. Nhân dân trên đường giặc tiến sang theo lệnh phá bỏ lúa má dọc đường, làm kế “vườn không nhà trống”. Mặc dù trong nước, mâu thuẫn xã hội đã làm khối đoàn kết nước ta suy yếu. Tuy vậy, trước sự đe dọa từ giặc ngoại xâm, đa số nhân dân vẫn tỏ thái độ sẵn sàng sống mái với quân cướp nước. Quân dân nước Đại Ngu bước vào cuộc chiến vệ quốc đầy cam go
Vua Hồ Hán Thương hẳn rất hiểu tình hình binh lực của mình, nhưng vì tình thế đã quá gấp rút, nên chỉ có thể thi hành những chính sách giải quyết tình thế trước mắt. Vua đoán rằng Minh triều thua trận đầu tất sẽ dốc sức kéo sang lần nữa báo thù, bèn hạ lệnh cho các quan tuyển thêm binh lính. Trước đây, triều đình nhà Hồ đã có làm sổ hộ tịch. Nay chiếu theo sổ sách ấy, nhà Hồ tuyển lính càng gắt gao, cả những kẻ trốn tránh, phiêu lưu cũng bắt sung vào quân ngũ. Những hạn này phiên chế thành “quân dũng hãn”, giao cho các Thiên hộ, Bá hộ cai quản. Dù có tên là “dũng hãn”, thực chất đó chỉ là những quân lính ô hợp, tinh thần chiến đấu kém, khi ra trận phải dùng nghiêm lệnh để răn đe mới có động lực chiến đấu.
Quân chính quy nhà Hồ thời này có khoảng 20 vạn quân, là những binh lính ít nhiều có kỹ năng, kỷ luật. Còn lại, số quân “dũng hãn” rất đông, chưa khảo được con số cụ thể. Vì quân đội Đại Ngu dẫu đông nhưng thành phần ô hợp, không đồng nhất nên có nhận định rằng quân nhà Hồ có trăm vạn người, nhưng cũng trăm vạn lòng. Ngoài việc tuyển lính, triều đình còn lệnh cho dân chúng những vùng mà giặc có thể đi qua chọn chỗ đất hoang vu để dựng nhà cửa, tích trữ sẵn lương thực ở những nơi đó phòng khi giặc tiến sang sẽ dễ bề sơ tán. Các sông ngòi được tiếp tục việc cắm cọc ngăn sông, thành trì được gia cố thêm cho vững chắc làm chỗ dựa cho quân chiến đấu.
Chính vì nhà Hồ không được lòng nhân dân, nên việc áp dụng chiến lược chống giặc bị hạn chế. Quân không đồng lòng nên dễ đào ngũ, không thể hành quân xa thành trì để đánh những trận chiến lớn. Dân không phục nên dễ lộ các bí mật quân sự, khó vận dụng chiến thuật mai phục, ép quân, phục kích… Nhìn vào các bước đi chuẩn bị của triều đình nhà Hồ có thể thấy được dụng ý lấy lượng bù chất, lấy phòng thủ làm lợi thế trong bối cảnh quân kém tinh, dân không thực sự ủng hộ triều đình.
Lại nói tin tức tên tay sai Trần Thiêm Bình bị bắt giết về đến tai Chu Đệ, vua Minh tỏ ra rất tức giận, gấp rút sửa soạn một đạo quân lớn để sang báo thù, đồng thời thôn tính nước Đại Ngu như mong muốn bấy lâu. Vua Hồ Hán Thương phái sứ đoàn sang Minh để xin hoãn binh. Sứ bộ Đại Ngu có Trần Cung Túc làm chánh sứ, Mai Tú Phu làm phó sứ, Tưởng Tư làm làm tòng sự giữa triều đình nước Minh biện bạch việc dối trá của Trần Thiêm Bình và xin được cống nạp để được hòa bình.
Nhưng bấy giờ vua Minh đâu còn cần thiết phân xử việc Trần Thiêm Bình nữa, mà chỉ lăm lăm lấy cớ khởi binh. Chu Đệ lệnh cho Thành quốc công Chu Năng lãnh chức đại tướng, Tân Thành hầu Trương Phụ làm tả phó tướng, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm hữu phó tướng chỉ huy quân xâm lược. Các tướng Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng. Đạo quân khổng lồ được điều động bao gồm quân nòng cốt từ Nam Kinh cùng với binh lính 8 tỉnh vùng phía nam nước Minh là Quý Châu, Triết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, tổng quân số hơn 20 vạn quân chiến đấu, khoảng 60 vạn dân phu.
Tất nhiên một đạo quân đông đảo như thế không thế chỉ trong thời gian ngắn mà điều động được. Việc chuẩn bị đã diễn ra từ trước khi cuộc xung đột năm 1406 từ lâu, nằm trong chuỗi kế hoạch thôn tính nước Đại Ngu của vua Minh Thành Tổ Chu Đệ. Nay các đạo binh phu của nước Minh tiến hành tập kết lại. Quân Minh xâm lược lần này bao gồm cả bộ binh, kỵ binh và thủy binh. Thành phần quân Minh có nhiều binh lính thiện chiến, được trang bị các loại vũ khí tối tân như nỏ lớn, nỏ liên châu, máy bắn đá tầm xa, súng đại bác… Đặc biệt, một số lính Minh được trang bị cả súng hỏa mai, là loại vũ khí tối tân hàng đầu thời bây giờ. Việc sử dụng nhiều hỏa khí là điểm khác biệt khiến cho quân Minh rất đáng gờm.
Cùng với việc chuẩn bị về binh lực, nước Minh còn sử dụng các cách thức mua chuộc, chia rẽ quân dân nước ta. Chúng chuẩn bị các bảng văn với lời lẽ đánh vào những tội lỗi của triều đình nhà Hồ để kích động dân chúng trở giáo theo chúng, chuẩn bị sẵn cả vàng bạc để mua chuộc những kẻ tham lam, những đầu mục nước Đại Ngu theo giặc chống lại đất nước. Ngoài ra, vua Minh sai quân mang vàng bạc vượt biển vào nam kêu gọi nước Chiêm Thành đem quân phối hợp, từ phía nam đánh lên, cắt đường rút lui của quân nhà Hồ. Nước Chiêm Thành lúc này dưới sự trị vì của vua Indravarman VI (Ba Đích Lại) nhanh chóng đồng ý phối hợp xâu xé Đại Ngu, bởi vì nước này vốn trước đã rất căm hận nước Đại Ngu, chỉ mong có dịp báo thù và lấn chiếm lại những vùng đất đai mà họ đã mất về tay nước láng giềng phía bắc. Việc nước Chiêm Thành tham chiến càng khiến cuộc chiến bảo vệ đất nước của quân dân nước Đại Ngu triều Hồ thêm phần khó khăn. Bất chấp những điều đó, nhà Hồ vẫn chuẩn bị nghênh chiến với kẻ thù.
Cuối thu năm 1406, quân Minh bắt đầu hành quân tập kết. Quân đến Long Châu thì đại tướng Chu Năng bệnh chết, phó tướng là Trương Phụ lên thay thế vị trí thống soái. Đến mùa đông, quân Minh đã tập kết xong thành hai khối. Khối quân phía đông đóng tại Quảng Tây dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, theo đường Lạng Sơn tiến sang nước ta. Khối quân phía tây đóng tại Vân Nam, do Mộc Thạnh cầm đầu theo đường Tuyên Quang tiến đánh Đại Ngu từ phía tây bắc.Cuối năm 1406, quân Minh bắt đầu tấn công toàn tuyến. Quân đội Đại Ngu dưới sự chỉ huy của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng sẵn sàng chiến đấu tại các hệ thống đồn lũy. Nhân dân trên đường giặc tiến sang theo lệnh phá bỏ lúa má dọc đường, làm kế “vườn không nhà trống”. Mặc dù trong nước, mâu thuẫn xã hội đã làm khối đoàn kết nước ta suy yếu. Tuy vậy, trước sự đe dọa từ giặc ngoại xâm, đa số nhân dân vẫn tỏ thái độ sẵn sàng sống mái với quân cướp nước. Quân dân nước Đại Ngu bước vào cuộc chiến vệ quốc đầy cam go
Hồ Nguyên Trừng và cuộc đọ súng đẫm máu với quân Minh
Hỏa tiễn của quân Minh
Quân Minh có trang bị nhiều súng hỏa mai cầm tay và cả súng đại bác, gây cho quân Đại Ngu rất nhiều thiệt hại. Phía Đại Ngu cũng không kém cạnh, với sức mạnh vượt trội của súng đại bác mang tên Thần Cơ Sang Pháo do Hồ Nguyên Trừng chế tác, quân ta trút bão lửa lên đầu quân xâm lược không khoan nhượng.
Vương triều nhà Hồ lãnh đạo quân dân kháng chiến chống quân Minh xâm lược trong bối cảnh gặp khá nhiều bất lợi. Ở phương bắc, vùng đệm Vân Nam đã hoàn toàn không còn tác dụng. Vân Nam giờ đây đã là vùng đất được khai thác mạnh mẽ, đủ điều kiện để làm một bàn đạp vững chắc cho cuộc xâm lược xuống phía nam. Quân Minh khác với các đội quân phương bắc trước kia, chúng có thể tiến quân từ cả Vân Nam và Quảng Tây vào nước ta với quy mô lớn mà vẫn đảm bảo được đường hậu cần thông suốt. Ở phương nam, các châu mới sáp nhập từ Chiêm Thành là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa còn đầy bất ổn, cùng với sự thù địch của quân Chiêm Thành khiến cho Đại Ngu phải san sẻ một phần binh lực đáng kể phòng thủ biên thùy phía nam. Trong nước, nhân dân nhiều người không đồng lòng, một số kẻ chực chờ nối giáo cho giặc… Tuy vậy, với quân đội đông đảo, vũ khí trang bị mạnh, thành trì vững chắc, nhà Hồ không phải là không có cửa thắng trong cuộc chiến.
Biết quân Minh tiến sang, đầu não triều đình cùng nhau bàn bạc kế sách chống giặc. Bấy giờ có tướng người Chăm trong quân là Bố Đông hiến kế nên đem tinh binh lên đón đánh quân Minh ngay tại các cửa ải biên giới, không cho chúng tiến xuống đồng bằng. Các tướng khác của nhà Hồ vì sợ sức mạnh kỵ bộ của quân Minh nên không theo kế của Bố Đông. Vua Hồ Hán Thương chỉ bố trí một ít quân biên phòng giữ các cửa ải, còn đại quân thì dựa vào thành trì và chiến lũy dọc sông Thao, sông Lô, sông Hồng mà bày trận thủy bộ dựa vào nhau.
Quân Minh từ hai hướng Vân Nam, Quảng Tây bắt đầu tấn công từ cuối thu năm 1406. Từ Vân Nam, Mộc Thạnh cùng Tham tướng Lý Bân đem binh phu 40 vạn đánh vào cửa ải Phú Lệnh (thuộc Hà Giang ngày nay). Đường đi từ hướng này xuống đồng bằng trung châu hiểm trở, quân Minh phải xẻ núi, phá rừng mà đi. Mộc Thạnh sau đó dẫn quân men theo dọc bờ sông Thao tiến xuống. Trương Phụ cùng Tham tướng Trần Húc từ Quảng Tây cũng đem 40 vạn binh phu tấn công ải Pha Lũy (tức ải Nam Quan), theo đường Lạng Sơn tiến xuống đồng bằng. Trương Phụ hành quân rất quy củ. Quân Minh chia làm nhiều toán, cứ toán này đi trước mai phục, toán sau hành quân, thay phiên cho nhau. Binh lực Đại Ngu ở ngoài biên cảnh quá mỏng và yếu, không cản nổi giặc.
Đến tháng 11.1406, quân của Mộc Thạnh tiến đóng quân tại Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay), đối trận với quân Đại Ngu ở thành Đa Bang hai bên bờ sông Lô, sông Hồng. Trương Phụ hành quân từ Lạng Sơn xuống Tiên Phúc, đi đường tắt đến Bạch Hạc. Quân Minh hai cánh họp làm một, đóng trại dày đặc ở Bạch Hạc. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cầm quân đóng dọc sông Hồng, cùng liên kết với quân của Thiêm văn triều chính Hồ Đỗ đóng ở sông Trú Giang, dưới sông dàn chiến thuyền, trên bờ bộ binh dàn dọc các chiến lũy, cứ điểm để chặn giặc. Quân Đại Ngu chủ ý đánh lâu dài cho quân Minh mệt mỏi, hết lương phải tự rút lui. Trương Phụ án binh bất động không giao chiến, chờ quân ta sang đánh trước. Hồ Nguyên Trừng cũng chẳng buồn cho quân sang đánh, chỉ giữ vững trận địa. Vì thế nên hai bên tuy dàn quân rầm rộ mà suốt nhiều ngày không giao chiến một trận nào.
Trương Phụ theo kế của Chu Năng (đã chết trên đường hành quân), đem những bản văn tuyên truyền khắc vào các tấm ván rồi thả trôi sông để lung lạc tinh thần quân dân Đại Ngu. Các bản văn này có nội dung kể tội triều đình nhà Hồ, nói rằng quân Minh sang chỉ để đánh họ Hồ, tìm người họ Trần để lập làm vua. Bất chấp những lời dối trá, đại bộ phận nhân dân trên những vùng quân Minh đi qua dọc theo sông Lô đều làm kế vườn không nhà trống theo lệnh triều đình, tuyệt nguồn cung ứng của giặc. Tuy nhiên, những bản văn đã làm lung lạc được một số bộ phận binh lính nhà Hồ và dụ dỗ được một số trí thức bất đắc chí. Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn, Nguyễn Huân… đem gia quyến theo hàng giặc, làm chỉ điểm cho quân Minh, được Trương Phụ trao cho quan tước.
Cuối đông năm 1406, quân Minh bắt đầu tấn công. Trương Phụ đem quân đánh úp vào khối quân của Hồ Xạ, chỉ huy quân Tả Thánh Dực đóng tại bãi sông Bạch Hạc. Hồ Xạ bị đánh gấp, các quân khác không kịp tới cứu nên phải cho quân rút lui về bờ nam sông Hồng dàn trận. Quân Minh chiếm được Việt Trì, toàn bộ bờ bắc sông Bạch Hạc. Lúc này, trận thế quân Đại Ngu vẫn còn khá vững. Kế đó, đêm 15.1.1407, quân Minh khiêng thuyền ra bờ sông định vượt sông tấn công. Tướng quân Trần Đĩnh dẫn thủy quân ra đánh, giặc phải rút chạy sâu vào bờ. Tướng Minh liền bắt những binh lính đã rút lui đem ra xử theo quân pháp. Các tướng sĩ nước Minh thấy vậy, đều sợ tội mà liều chết để đánh.
Chỉnh quân xong rồi, đêm 17.1.1407 Trương Phụ lại sai quân âm thầm vượt sông đánh úp quân Đại Ngu ở bãi sông Mộc Hoàn phía bờ nam. Nơi này là vị trí chiến lược quan trọng, do hiệu quân Tả Thần Dực tinh nhuệ chốt giữ, dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Công Khôi. Đương lúc chiến sự hệ trọng, Nguyễn Công Khôi lại không biết giữ mình. Khi quân Minh thình lình tấn công, Khôi đang vui chơi nữ sắc, lơ là phòng bị. Vì sự tắc trách tai hại này, quân Tả Thần Dực đã không kịp trở tay, bị quân địch diệt gọn, thuyền bị cháy gần hết. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư miêu tả trận đánh “lặng im không có tiếng động của chiến trận”. Vì Mộc Hoàn bị thất bại nhanh ngoài dự kiến, các khối quân Đại Ngu đóng gần đó không làm sao tới ứng cứu kịp. Quân Minh chiếm được bãi sông rồi, bèn cho bắt cầu phao ồ ạt đổ quân sang bờ nam. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng lệnh cho đại quân rút vào trong thành Đa Bang cố thủ.
Đầu năm 1407, Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được. Chỉ có Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân, chỗ ấy tuy thành đất khá cao, bên dưới có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh mà chiếm lấy cũng có phần dễ”.
Trương Phụ nghe theo, triệu tập toàn quân truyền lệnh: “Quân giặc chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng ở một trận này; tướng sĩ nào trèo lên thành được trước, sẽ đặc cách hậu thưởng không câu nệ theo thứ bậc thông thường”.
Truyền lệnh xong rồi, Trương Phụ chia quân làm hại đạo, nhân đêm tối hẹn nhau công phá thành Đa Bang. Đạo thứ nhất do Trương Phụ chỉ huy cùng với Hoàng Trung, Thái Phúc dẫn quân Minh tấn công từ phía tây bắc. Đạo thứ hai do Mộc Thạnh cùng Trần Tuấn đánh mặt đông nam. Quân Minh âm thầm tiến quân gần thành rồi đốt đuốc, thổi tù và làm hiệu, dùng thang vân thê (loại thang chuyên dụng để công thành) mà trèo lên phá thành. Lúc này quân Đại Ngu còn khá mạnh, đóng dọc sông rất nhiều nhưng hành động bất nhất, một số tướng lĩnh vẫn không đem quân tới cứu khi thành Đa Bang bị công phá dữ dội.
Tuy vậy, tại thành Đa Bang, quân Đại Ngu dưới sự chỉ huy của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã chống trả rất dũng cảm. trận đánh này, hỏa khí của cả hai bên đều thi thố hết sức. Quân Minh có trang bị nhiều súng hỏa mai cầm tay và cả súng đại bác, gây cho quân Đại Ngu rất nhiều thiệt hại. Phía Đại Ngu cũng không kém cạnh, với sức mạnh vượt trội của súng đại bác mang tên Thần Cơ Sang Pháo do Hồ Nguyên Trừng chế tác, quân ta trút bão lửa lên đầu quân xâm lược không khoan nhượng. Chiến sự diễn ra rất đẫm máu, quân Đại Ngu chết nhiều nhưng vẫn kiên cường tử thủ, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương. Hai bên đánh nhau từ tối đến sáng, quân Minh chết la liệt dưới chân thành, xác chất cao đến ngang mặt thành nhưng vẫn không tên nào dám thoái lui, vì Trương Phụ dùng quân pháp rất nghiêm.
Chiến sự đương lúc dằn co dữ dội thì tướng lĩnh Đại Ngu mắc sai lầm. Tướng chỉ huy quân Thiên Trường là Nguyễn Tông Đỗ muốn dùng tượng binh thủ thắng, bèn đục thành lùa voi ra đánh. Quân Minh thấy voi, ban đầu hơi núng thế. Nhưng sau đó, Trương Phụ cho kỵ binh cưỡi ngựa vẽ hình sư tử tấn công, lại dùng súng đại bác và hỏa tiễn bắn tới tấp vào voi. Voi của Đại Ngu không được huấn luyện kỹ, nghe tiếng súng thì hoản loạn, co vòi chạy ngược vào trong thành. Quân Minh tung kỵ binh theo đường voi chạy đánh thẳng vào thành.
Thế trận của quân Đại Ngu bỗng chốc hỗn loạn, thành cơ hồ không thể giữ nổi. Tình thế buộc Hồ Nguyên Trừng phải hạ lệnh toàn quân bỏ thành rút lui về giữ sông Hoàng Giang. Bấy giờ là ngày 20.1.1407, thành Đa Bang rơi vào tay giặc. Các tướng Lương Dân Hiến, Thái Bá Nhạc tử trận. Quân Minh thu được 12 thớt voi, rất nhiều vũ khí, thuyền bè. Các tướng khác của Đại Ngu đóng quân dọc sông Hồng hay tin Đa Bang thất thủ cũng đều kéo quân rút theo Hồ Nguyên Trừng cả. Thành Đông Đô, kinh đô cũ của nước Đại Việt lúc này bị bỏ ngỏ, nhân dân không kịp sơ tán.
Quân Minh theo dòng sông Phú Lương tiến quân xuống, tràn vào Đông Đô, bắt cóc phụ nữ, cướp bóc vàng lụa, lương thực, cảnh tượng vô cùng bi thảm. Chúng còn bắt con trai đem thiến để làm hoạn quan, đặt quan lại trấn trị, vơ vét tiền đồng các xứ và cho người chạy trạm báo tin về kinh đô Kim Lăng (Nam Kinh) của nước Minh.Những nhân dân trước đây còn phân vân về động cơ của giặc khi đem quân sang nước ta, thì nay được dịp hiểu rõ bản chất giả nhân giả nghĩa, tàn ngược vô đạo của quân xâm lược
.
Sau trận đại chiến tại thành Đa Bang, quân tướng nhà Hồ bị tổn thất nặng nề nhưng vẫn còn một lực lượng đáng kể kịp rút lui. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đem binh thuyền xuôi dòng sông Hồng về căn cứ Hoàng Giang (sông Châu thuộc Lý Nhân, Hà Nam) tập họp lại lực lượng. Quân Đại Ngu đóng dọc sông gần Bạch Hạc cũng đều rút cả. Một số đạo quân tan rã dọc đường, số khác cố gắng tìm về với chủ soái Hồ Nguyên Trừng. Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương đã rút lui về kinh thành Tây Đô. Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ cũng từ bắc đem thủy quân về giữ bến Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) nghe ngóng tình hình.
Quân Minh sau khi chiếm được Đa Bang thì tràn vào Đông Đô cướp phá. Dân chúng vùng trung châu (trung tâm đồng bằng sông Hồng) trước đó vì có ý bất mãn với triều đình, lại bị các luận điệu lừa dối của giặc lung lạc nên đã không sơ tán theo kế sách “vườn không nhà trống”. Quân Minh do đó mà có được cơ hội nắm được dân, cướp được nguồn lương thực tại chỗ trong dân làm quân lương. Giặc lại tính kế lâu dài, bắt đầu chính sách chiêu an. Trong khi tầng lớp bình dân là những nạn nhân phổ biến của quân giặc, bị cướp giết, bị bắt làm nô lệ hoặc phải làm ngụy binh cho giặc thì trái lại giới trí thức, quan lại, đầu mục các xứ là đối tượng mà quân Minh ra sức dụ dỗ bằng chức tước, tiền bạc và những lời hứa hẹn “phù Trần diệt Hồ”. Thái độ của các tầng lớp nhân dân vì vậy mà cũng có phần khác nhau. Một số tướng lĩnh, quan lại cao cấp nhà Hồ lũ lượt theo hàng quân Minh như trung thư lệnh Trần Sư Hiền, công chúa Thiên Gia, Thị trung Trần Nguyên Chỉ… Mặc khác, giới bình dân lại hết sức căm phẫn trước sự tàn bạo, tráo trở của quân Minh, ngày ngày chực chờ tìm minh chủ để nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Đồng thời với việc cố gắng củng cố vùng chiếm đóng, giặc nhanh chóng tổ chức lực lượng truy lùng đại quân của nhà Hồ. Tháng 3.1407, Mộc Thạnh dò biết được Hồ Nguyên Trừng đóng ở sông Hoàng Giang, bèn tự mình cầm quân thủy bộ đến đánh. Đến sông Mộc Hoàn (sông Hồng chảy qua Hà Nam), quân Minh không tiến được vì trước mặt là trận địa vững chắc của quân Đại Ngu. Thạnh tự thấy chưa thể tấn công ngay được, cho đóng trại đối ngạn với quân ta. Hồ Nguyên Trừng thừa thế đem 300 chiến thuyền tiến đánh trại của quân Minh, bị trúng kế của giặc. Mộc Thạnh đã cho quân bố trí sẵn ở hai bên bờ sông. Thuyền quân Đại Ngu đến đánh, bị thuyền quân Minh chắn ngang sông, bộ binh giặc hai bên bờ đánh khép lại. Hồ Nguyên Trừng thua to, phải cho quân bỏ căn cứ Hoàng Giang, cho quân dong thuyền về giữ cửa Muội Hải (thuộc Giao Thủy, Nam Định. Cửa biển xưa, nay đã vùi lấp).Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương sau khi quân Đại Ngu để mất căn cứ Hoàng Giang thì dẫn một bộ phận rút về kinh thành Tây Đô (Thanh Hóa) chuẩn bị các phương án phòng thủ.Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ lúc này cũng phải bỏ căn cứ Bình Than, theo dòng sông Thái Bình vượt biển vào Muội Hải hội quân.
Mộc Thạnh tuy thắng trận ở Hoàng Giang nhưng quân bộ, quân thủy không đồng nhất nên tiến quân chậm. Hồ Nguyên Trừng dùng thuyền chở quân nên đi nhanh. Khi quân Minh đuổi đến gần Muội Hải thì quân Đại Ngu đã tập họp lại ổn định rồi, mà phía Mộc Thạnh thì tổn thất trong trận trước cũng không nhỏ, lại mệt mỏi vì đoạn đường dài. Giặc buộc lòng phải tiến hành hội quân mới đủ lực lượng tiếp tục đà tấn công. Trương Phụ cùng Mộc Thạnh sau đó tiến hành tập kết lực lượng. Tranh thủ thời gian, quân Đại Ngu ở Muội Hải gấp rút đắp thêm chiến lũy, trưng tập lương thực, thuyền bè, đúc thêm súng ống. Quân đội triều đình kêu gọi nhân dân đóng góp tiền của chống giặc, ai đóng góp nhiều thì được lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng. Bằng những biện pháp chỉnh đốn lực lượng mới này, thế quân ta lại dần mạnh lên.
Khi Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đến đánh Muội Hải thì gặp lúc nước triều lên cao. Tướng Đại Ngu là Ngô Thành Nhân nhân thế nước, thế gió mà chỉ huy quân Thần Đinh đột kích quân Minh. Ngô Thành Nhân gây cho quân giặc một số thiệt hại, đánh đuổi giặc đến Giao Thủy, vì quân ít nên bị đánh quật lại. Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân ra hai bên bờ sông tạo thế gọng kìm vây thuyền quân ta ở giữ sông. Ngô Thành Nhân thế cô, bị hãm trong trận mà chết, được vua Hồ Hán Thương truy phong Kiêu vệ tướng quân.
Trong lúc Trương Phụ rầm rộ tiến quân thì phía ta lại có kẻ gian hàng giặc. Người ở phủ Kiến Hưng là Trần Nhật Kiêm tụ tập bè đảng giết chết quan Trấn thủ là Phan Hòa Phủ, đem thuộc hạ đi hàng Trương Phụ. Sau Nhật Kiêm ở trong quân kiêu căng, phạm phải quân pháp, bị Trương Phụ đem giết đi.
Quân Minh tiến đánh Muội Hải ngày này qua ngày khác không hạ nổi. Hồ Nguyên Trừng đã lợi dụng địa hình vùng ven biển có nền đất bùn lầy ẩm ướt mà hạn chế sức mạnh kỵ binh, bộ binh của giặc. Thủy quân nhà Hồ có các thuyền chiến lớn, phát huy triệt để sức mạnh trên chiến trường vùng ven biển, gây cho địch nhiều thương vong. Quân Đại Ngu lại biết dựa vào chiến lũy mà chống trả rất kiên cường. Trương Phụ, Mộc Thạnh đóng quân ở Muội Hải, quần nhau với quân ta hơn nửa tháng, bị nắng mưa, dịch bệnh hoành hành, quân lính chết dần chết mòn. Chúng buộc phải rút lui về cửa Hàm Tử đóng quân. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, quân Đại Ngu đẩy lui được giặc trong một chiến dịch phòng thủ. Có thể xem đây là một thắng lợi cục bộ trong cuộc chiến, nhưng việc quân giặc tạm lùi cũng là có dụng ý. Trương Phụ biết rằng quân Minh không thể chiến thắng được ở chiến trường ven biển nên có ý dẫn dụ quân nhà Hồ vào sâu trong nội địa để giao chiến lớn.
Về phía nhà Hồ, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cũng không phải không biết mưu kế của giặc nhưng vẫn chấp nhận mạo hiểm mà tiến lên, giành lại quyền kiểm soát vùng đồng bằng trung châu. Việc này có ý nghĩa lớn trong một cuộc chiến trường kỳ. Nếu để quân Minh kiểm soát được Đông Đô và phụ cận lâu dài, giặc có thể huy động nhân lực, vật lực ở đó mà gây áp lực lên vùng phía nam với trung tâm là kinh thành Tây Đô. Hồ Nguyên Trừng từ Muội Hải đem quân ngược sông Hồng về chiếm lại căn cứ Hoàng Giang, rước Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương từ Thanh Hóa ra để cùng coi quân. Quân nhà Hồ tích cực chuẩn bị lực lượng để đánh một trận lớn quyết định với quân Minh. Các tướng lĩnh chủ chốt của quân Đại Ngu đem quân đến hội, tổng cộng được 7 vạn quân, nói phao lên là 21 vạn. Thuyền bè, khí giới của quân ta vẫn hùng mạnh, nhất là thủy quân có nhiều thuyền chiến lớn và thuyền tải lương. Bấy giờ người dân ở vùng Kinh lộ bị quân Minh bắt quân dịch, làm nô lệ, nhiều gia đình vì thế mà tan tác cả. Dân chúng đã chán ngán sự tham tàn của quân Minh, nhiều người trai tráng rủ nhau vào nam xin theo quân đánh giặc. Trong đó có cả những người đã bị quân Minh bắt làm ngụy binh cũng trốn về với quân triều đình, nguyện ra sức lập công.
Biết quân Minh tiến sang, đầu não triều đình cùng nhau bàn bạc kế sách chống giặc. Bấy giờ có tướng người Chăm trong quân là Bố Đông hiến kế nên đem tinh binh lên đón đánh quân Minh ngay tại các cửa ải biên giới, không cho chúng tiến xuống đồng bằng. Các tướng khác của nhà Hồ vì sợ sức mạnh kỵ bộ của quân Minh nên không theo kế của Bố Đông. Vua Hồ Hán Thương chỉ bố trí một ít quân biên phòng giữ các cửa ải, còn đại quân thì dựa vào thành trì và chiến lũy dọc sông Thao, sông Lô, sông Hồng mà bày trận thủy bộ dựa vào nhau.
Quân Minh từ hai hướng Vân Nam, Quảng Tây bắt đầu tấn công từ cuối thu năm 1406. Từ Vân Nam, Mộc Thạnh cùng Tham tướng Lý Bân đem binh phu 40 vạn đánh vào cửa ải Phú Lệnh (thuộc Hà Giang ngày nay). Đường đi từ hướng này xuống đồng bằng trung châu hiểm trở, quân Minh phải xẻ núi, phá rừng mà đi. Mộc Thạnh sau đó dẫn quân men theo dọc bờ sông Thao tiến xuống. Trương Phụ cùng Tham tướng Trần Húc từ Quảng Tây cũng đem 40 vạn binh phu tấn công ải Pha Lũy (tức ải Nam Quan), theo đường Lạng Sơn tiến xuống đồng bằng. Trương Phụ hành quân rất quy củ. Quân Minh chia làm nhiều toán, cứ toán này đi trước mai phục, toán sau hành quân, thay phiên cho nhau. Binh lực Đại Ngu ở ngoài biên cảnh quá mỏng và yếu, không cản nổi giặc.
Đến tháng 11.1406, quân của Mộc Thạnh tiến đóng quân tại Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay), đối trận với quân Đại Ngu ở thành Đa Bang hai bên bờ sông Lô, sông Hồng. Trương Phụ hành quân từ Lạng Sơn xuống Tiên Phúc, đi đường tắt đến Bạch Hạc. Quân Minh hai cánh họp làm một, đóng trại dày đặc ở Bạch Hạc. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cầm quân đóng dọc sông Hồng, cùng liên kết với quân của Thiêm văn triều chính Hồ Đỗ đóng ở sông Trú Giang, dưới sông dàn chiến thuyền, trên bờ bộ binh dàn dọc các chiến lũy, cứ điểm để chặn giặc. Quân Đại Ngu chủ ý đánh lâu dài cho quân Minh mệt mỏi, hết lương phải tự rút lui. Trương Phụ án binh bất động không giao chiến, chờ quân ta sang đánh trước. Hồ Nguyên Trừng cũng chẳng buồn cho quân sang đánh, chỉ giữ vững trận địa. Vì thế nên hai bên tuy dàn quân rầm rộ mà suốt nhiều ngày không giao chiến một trận nào.
Trương Phụ theo kế của Chu Năng (đã chết trên đường hành quân), đem những bản văn tuyên truyền khắc vào các tấm ván rồi thả trôi sông để lung lạc tinh thần quân dân Đại Ngu. Các bản văn này có nội dung kể tội triều đình nhà Hồ, nói rằng quân Minh sang chỉ để đánh họ Hồ, tìm người họ Trần để lập làm vua. Bất chấp những lời dối trá, đại bộ phận nhân dân trên những vùng quân Minh đi qua dọc theo sông Lô đều làm kế vườn không nhà trống theo lệnh triều đình, tuyệt nguồn cung ứng của giặc. Tuy nhiên, những bản văn đã làm lung lạc được một số bộ phận binh lính nhà Hồ và dụ dỗ được một số trí thức bất đắc chí. Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn, Nguyễn Huân… đem gia quyến theo hàng giặc, làm chỉ điểm cho quân Minh, được Trương Phụ trao cho quan tước.
Cuối đông năm 1406, quân Minh bắt đầu tấn công. Trương Phụ đem quân đánh úp vào khối quân của Hồ Xạ, chỉ huy quân Tả Thánh Dực đóng tại bãi sông Bạch Hạc. Hồ Xạ bị đánh gấp, các quân khác không kịp tới cứu nên phải cho quân rút lui về bờ nam sông Hồng dàn trận. Quân Minh chiếm được Việt Trì, toàn bộ bờ bắc sông Bạch Hạc. Lúc này, trận thế quân Đại Ngu vẫn còn khá vững. Kế đó, đêm 15.1.1407, quân Minh khiêng thuyền ra bờ sông định vượt sông tấn công. Tướng quân Trần Đĩnh dẫn thủy quân ra đánh, giặc phải rút chạy sâu vào bờ. Tướng Minh liền bắt những binh lính đã rút lui đem ra xử theo quân pháp. Các tướng sĩ nước Minh thấy vậy, đều sợ tội mà liều chết để đánh.
Chỉnh quân xong rồi, đêm 17.1.1407 Trương Phụ lại sai quân âm thầm vượt sông đánh úp quân Đại Ngu ở bãi sông Mộc Hoàn phía bờ nam. Nơi này là vị trí chiến lược quan trọng, do hiệu quân Tả Thần Dực tinh nhuệ chốt giữ, dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Công Khôi. Đương lúc chiến sự hệ trọng, Nguyễn Công Khôi lại không biết giữ mình. Khi quân Minh thình lình tấn công, Khôi đang vui chơi nữ sắc, lơ là phòng bị. Vì sự tắc trách tai hại này, quân Tả Thần Dực đã không kịp trở tay, bị quân địch diệt gọn, thuyền bị cháy gần hết. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư miêu tả trận đánh “lặng im không có tiếng động của chiến trận”. Vì Mộc Hoàn bị thất bại nhanh ngoài dự kiến, các khối quân Đại Ngu đóng gần đó không làm sao tới ứng cứu kịp. Quân Minh chiếm được bãi sông rồi, bèn cho bắt cầu phao ồ ạt đổ quân sang bờ nam. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng lệnh cho đại quân rút vào trong thành Đa Bang cố thủ.
Đầu năm 1407, Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được. Chỉ có Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân, chỗ ấy tuy thành đất khá cao, bên dưới có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh mà chiếm lấy cũng có phần dễ”.
Trương Phụ nghe theo, triệu tập toàn quân truyền lệnh: “Quân giặc chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng ở một trận này; tướng sĩ nào trèo lên thành được trước, sẽ đặc cách hậu thưởng không câu nệ theo thứ bậc thông thường”.
Truyền lệnh xong rồi, Trương Phụ chia quân làm hại đạo, nhân đêm tối hẹn nhau công phá thành Đa Bang. Đạo thứ nhất do Trương Phụ chỉ huy cùng với Hoàng Trung, Thái Phúc dẫn quân Minh tấn công từ phía tây bắc. Đạo thứ hai do Mộc Thạnh cùng Trần Tuấn đánh mặt đông nam. Quân Minh âm thầm tiến quân gần thành rồi đốt đuốc, thổi tù và làm hiệu, dùng thang vân thê (loại thang chuyên dụng để công thành) mà trèo lên phá thành. Lúc này quân Đại Ngu còn khá mạnh, đóng dọc sông rất nhiều nhưng hành động bất nhất, một số tướng lĩnh vẫn không đem quân tới cứu khi thành Đa Bang bị công phá dữ dội.
Tuy vậy, tại thành Đa Bang, quân Đại Ngu dưới sự chỉ huy của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã chống trả rất dũng cảm. trận đánh này, hỏa khí của cả hai bên đều thi thố hết sức. Quân Minh có trang bị nhiều súng hỏa mai cầm tay và cả súng đại bác, gây cho quân Đại Ngu rất nhiều thiệt hại. Phía Đại Ngu cũng không kém cạnh, với sức mạnh vượt trội của súng đại bác mang tên Thần Cơ Sang Pháo do Hồ Nguyên Trừng chế tác, quân ta trút bão lửa lên đầu quân xâm lược không khoan nhượng. Chiến sự diễn ra rất đẫm máu, quân Đại Ngu chết nhiều nhưng vẫn kiên cường tử thủ, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương. Hai bên đánh nhau từ tối đến sáng, quân Minh chết la liệt dưới chân thành, xác chất cao đến ngang mặt thành nhưng vẫn không tên nào dám thoái lui, vì Trương Phụ dùng quân pháp rất nghiêm.
Chiến sự đương lúc dằn co dữ dội thì tướng lĩnh Đại Ngu mắc sai lầm. Tướng chỉ huy quân Thiên Trường là Nguyễn Tông Đỗ muốn dùng tượng binh thủ thắng, bèn đục thành lùa voi ra đánh. Quân Minh thấy voi, ban đầu hơi núng thế. Nhưng sau đó, Trương Phụ cho kỵ binh cưỡi ngựa vẽ hình sư tử tấn công, lại dùng súng đại bác và hỏa tiễn bắn tới tấp vào voi. Voi của Đại Ngu không được huấn luyện kỹ, nghe tiếng súng thì hoản loạn, co vòi chạy ngược vào trong thành. Quân Minh tung kỵ binh theo đường voi chạy đánh thẳng vào thành.
Thế trận của quân Đại Ngu bỗng chốc hỗn loạn, thành cơ hồ không thể giữ nổi. Tình thế buộc Hồ Nguyên Trừng phải hạ lệnh toàn quân bỏ thành rút lui về giữ sông Hoàng Giang. Bấy giờ là ngày 20.1.1407, thành Đa Bang rơi vào tay giặc. Các tướng Lương Dân Hiến, Thái Bá Nhạc tử trận. Quân Minh thu được 12 thớt voi, rất nhiều vũ khí, thuyền bè. Các tướng khác của Đại Ngu đóng quân dọc sông Hồng hay tin Đa Bang thất thủ cũng đều kéo quân rút theo Hồ Nguyên Trừng cả. Thành Đông Đô, kinh đô cũ của nước Đại Việt lúc này bị bỏ ngỏ, nhân dân không kịp sơ tán.
Quân Minh theo dòng sông Phú Lương tiến quân xuống, tràn vào Đông Đô, bắt cóc phụ nữ, cướp bóc vàng lụa, lương thực, cảnh tượng vô cùng bi thảm. Chúng còn bắt con trai đem thiến để làm hoạn quan, đặt quan lại trấn trị, vơ vét tiền đồng các xứ và cho người chạy trạm báo tin về kinh đô Kim Lăng (Nam Kinh) của nước Minh.Những nhân dân trước đây còn phân vân về động cơ của giặc khi đem quân sang nước ta, thì nay được dịp hiểu rõ bản chất giả nhân giả nghĩa, tàn ngược vô đạo của quân xâm lược
.
Cái giá đắt cho những người ngây thơ tin lời dụ dỗ của nhà Minh
Quân nhà Minh
Trong khi tầng lớp bình dân là những nạn nhân phổ biến của quân giặc, bị cướp giết, bị bắt làm nô lệ hoặc phải làm ngụy binh cho giặc thì trái lại giới trí thức, quan lại, đầu mục các xứ là đối tượng mà quân Minh ra sức dụ dỗ bằng chức tước, tiền bạc và những lời hứa hẹn “phù Trần diệt Hồ”.
Quân Minh sau khi chiếm được Đa Bang thì tràn vào Đông Đô cướp phá. Dân chúng vùng trung châu (trung tâm đồng bằng sông Hồng) trước đó vì có ý bất mãn với triều đình, lại bị các luận điệu lừa dối của giặc lung lạc nên đã không sơ tán theo kế sách “vườn không nhà trống”. Quân Minh do đó mà có được cơ hội nắm được dân, cướp được nguồn lương thực tại chỗ trong dân làm quân lương. Giặc lại tính kế lâu dài, bắt đầu chính sách chiêu an. Trong khi tầng lớp bình dân là những nạn nhân phổ biến của quân giặc, bị cướp giết, bị bắt làm nô lệ hoặc phải làm ngụy binh cho giặc thì trái lại giới trí thức, quan lại, đầu mục các xứ là đối tượng mà quân Minh ra sức dụ dỗ bằng chức tước, tiền bạc và những lời hứa hẹn “phù Trần diệt Hồ”. Thái độ của các tầng lớp nhân dân vì vậy mà cũng có phần khác nhau. Một số tướng lĩnh, quan lại cao cấp nhà Hồ lũ lượt theo hàng quân Minh như trung thư lệnh Trần Sư Hiền, công chúa Thiên Gia, Thị trung Trần Nguyên Chỉ… Mặc khác, giới bình dân lại hết sức căm phẫn trước sự tàn bạo, tráo trở của quân Minh, ngày ngày chực chờ tìm minh chủ để nổi lên đánh đuổi quân xâm lược.
Đồng thời với việc cố gắng củng cố vùng chiếm đóng, giặc nhanh chóng tổ chức lực lượng truy lùng đại quân của nhà Hồ. Tháng 3.1407, Mộc Thạnh dò biết được Hồ Nguyên Trừng đóng ở sông Hoàng Giang, bèn tự mình cầm quân thủy bộ đến đánh. Đến sông Mộc Hoàn (sông Hồng chảy qua Hà Nam), quân Minh không tiến được vì trước mặt là trận địa vững chắc của quân Đại Ngu. Thạnh tự thấy chưa thể tấn công ngay được, cho đóng trại đối ngạn với quân ta. Hồ Nguyên Trừng thừa thế đem 300 chiến thuyền tiến đánh trại của quân Minh, bị trúng kế của giặc. Mộc Thạnh đã cho quân bố trí sẵn ở hai bên bờ sông. Thuyền quân Đại Ngu đến đánh, bị thuyền quân Minh chắn ngang sông, bộ binh giặc hai bên bờ đánh khép lại. Hồ Nguyên Trừng thua to, phải cho quân bỏ căn cứ Hoàng Giang, cho quân dong thuyền về giữ cửa Muội Hải (thuộc Giao Thủy, Nam Định. Cửa biển xưa, nay đã vùi lấp).Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương sau khi quân Đại Ngu để mất căn cứ Hoàng Giang thì dẫn một bộ phận rút về kinh thành Tây Đô (Thanh Hóa) chuẩn bị các phương án phòng thủ.Các tướng Hồ Đỗ, Hồ Xạ lúc này cũng phải bỏ căn cứ Bình Than, theo dòng sông Thái Bình vượt biển vào Muội Hải hội quân.
Mộc Thạnh tuy thắng trận ở Hoàng Giang nhưng quân bộ, quân thủy không đồng nhất nên tiến quân chậm. Hồ Nguyên Trừng dùng thuyền chở quân nên đi nhanh. Khi quân Minh đuổi đến gần Muội Hải thì quân Đại Ngu đã tập họp lại ổn định rồi, mà phía Mộc Thạnh thì tổn thất trong trận trước cũng không nhỏ, lại mệt mỏi vì đoạn đường dài. Giặc buộc lòng phải tiến hành hội quân mới đủ lực lượng tiếp tục đà tấn công. Trương Phụ cùng Mộc Thạnh sau đó tiến hành tập kết lực lượng. Tranh thủ thời gian, quân Đại Ngu ở Muội Hải gấp rút đắp thêm chiến lũy, trưng tập lương thực, thuyền bè, đúc thêm súng ống. Quân đội triều đình kêu gọi nhân dân đóng góp tiền của chống giặc, ai đóng góp nhiều thì được lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng. Bằng những biện pháp chỉnh đốn lực lượng mới này, thế quân ta lại dần mạnh lên.
Khi Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đến đánh Muội Hải thì gặp lúc nước triều lên cao. Tướng Đại Ngu là Ngô Thành Nhân nhân thế nước, thế gió mà chỉ huy quân Thần Đinh đột kích quân Minh. Ngô Thành Nhân gây cho quân giặc một số thiệt hại, đánh đuổi giặc đến Giao Thủy, vì quân ít nên bị đánh quật lại. Trương Phụ, Mộc Thạnh chia quân ra hai bên bờ sông tạo thế gọng kìm vây thuyền quân ta ở giữ sông. Ngô Thành Nhân thế cô, bị hãm trong trận mà chết, được vua Hồ Hán Thương truy phong Kiêu vệ tướng quân.
Trong lúc Trương Phụ rầm rộ tiến quân thì phía ta lại có kẻ gian hàng giặc. Người ở phủ Kiến Hưng là Trần Nhật Kiêm tụ tập bè đảng giết chết quan Trấn thủ là Phan Hòa Phủ, đem thuộc hạ đi hàng Trương Phụ. Sau Nhật Kiêm ở trong quân kiêu căng, phạm phải quân pháp, bị Trương Phụ đem giết đi.
Quân Minh tiến đánh Muội Hải ngày này qua ngày khác không hạ nổi. Hồ Nguyên Trừng đã lợi dụng địa hình vùng ven biển có nền đất bùn lầy ẩm ướt mà hạn chế sức mạnh kỵ binh, bộ binh của giặc. Thủy quân nhà Hồ có các thuyền chiến lớn, phát huy triệt để sức mạnh trên chiến trường vùng ven biển, gây cho địch nhiều thương vong. Quân Đại Ngu lại biết dựa vào chiến lũy mà chống trả rất kiên cường. Trương Phụ, Mộc Thạnh đóng quân ở Muội Hải, quần nhau với quân ta hơn nửa tháng, bị nắng mưa, dịch bệnh hoành hành, quân lính chết dần chết mòn. Chúng buộc phải rút lui về cửa Hàm Tử đóng quân. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, quân Đại Ngu đẩy lui được giặc trong một chiến dịch phòng thủ. Có thể xem đây là một thắng lợi cục bộ trong cuộc chiến, nhưng việc quân giặc tạm lùi cũng là có dụng ý. Trương Phụ biết rằng quân Minh không thể chiến thắng được ở chiến trường ven biển nên có ý dẫn dụ quân nhà Hồ vào sâu trong nội địa để giao chiến lớn.
Về phía nhà Hồ, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng cũng không phải không biết mưu kế của giặc nhưng vẫn chấp nhận mạo hiểm mà tiến lên, giành lại quyền kiểm soát vùng đồng bằng trung châu. Việc này có ý nghĩa lớn trong một cuộc chiến trường kỳ. Nếu để quân Minh kiểm soát được Đông Đô và phụ cận lâu dài, giặc có thể huy động nhân lực, vật lực ở đó mà gây áp lực lên vùng phía nam với trung tâm là kinh thành Tây Đô. Hồ Nguyên Trừng từ Muội Hải đem quân ngược sông Hồng về chiếm lại căn cứ Hoàng Giang, rước Thượng hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương từ Thanh Hóa ra để cùng coi quân. Quân nhà Hồ tích cực chuẩn bị lực lượng để đánh một trận lớn quyết định với quân Minh. Các tướng lĩnh chủ chốt của quân Đại Ngu đem quân đến hội, tổng cộng được 7 vạn quân, nói phao lên là 21 vạn. Thuyền bè, khí giới của quân ta vẫn hùng mạnh, nhất là thủy quân có nhiều thuyền chiến lớn và thuyền tải lương. Bấy giờ người dân ở vùng Kinh lộ bị quân Minh bắt quân dịch, làm nô lệ, nhiều gia đình vì thế mà tan tác cả. Dân chúng đã chán ngán sự tham tàn của quân Minh, nhiều người trai tráng rủ nhau vào nam xin theo quân đánh giặc. Trong đó có cả những người đã bị quân Minh bắt làm ngụy binh cũng trốn về với quân triều đình, nguyện ra sức lập công.
Hồ Nguyên Trừng đại chiến quân Minh tại Hàm Tử quan
Quân đội nhà Minh
Quân bộ Đại Ngu ở bờ bắc đụng trận với giặc trước, quân lính không chống nổi, hàng ngũ rối loạn, bị địch lùa xuống sông chết rất nhiều. Thủy quân ở dưới sông cố sức cầm cự với quân Minh, hai bên kịch chiến đẫm máu.
Thành quả phát triển qua hàng trăm năm đã cho phép dân tộc Việt đầu thế kỷ 15 có được tiềm lực dồi dào hơn trong chiến tranh. Điều đó có nghĩa là quân đội Đại Ngu có thể chịu đựng những thiệt hại lớn hơn các đội quân người Việt trong quá khứ mà vẫn có được lực lượng đủ để chiến đấu và giành chiến thắng với giặc. Khi quân Minh gặp bất lợi phải lui về giữ Hàm Tử quan, Hồ Nguyên Trừng nhân đà thuận lợi tiến quân chiếm đóng trở lại căn cứ Hoàng Giang. Hai đội quân giữ thế gườm nhau, chuẩn bị cho một trận quyết chiến tiếp theo.
Tại Hàm Tử, quân Minh vẫn còn lực lượng rất mạnh với mười mấy vạn quân và nhiều chiến thuyền. Trong số các thuyền chiến có nhiều chiếc là chiến lợi phẩm thu được của quân Đại Ngu qua các trận chiến trước. Quân Minh còn bắt trai tráng nước ta bổ sung vào lực lượng đã bị thiệt hại. Ngụy binh trong hàng ngũ giặc không có lòng chiến đấu, chỉ chực chờ rút chạy hoặc đào ngũ. Tuy nhiên, tướng lĩnh nước Minh rất thạo việc cưỡng bức quân lính chiến đấu, ngụy binh do đó mà không có nhiều cơ hội thoát khỏi sự kìm kẹp của giặc, phải cầm vũ khí chống lại chính đất nước của mình.
Về phần quân Đại Ngu ở Hoàng Giang, quân số của ta ít hơn giặc rất nhiều. Hồ Nguyên Trừng hội quân các nơi về, tất cả được 7 vạn quân, nói phao lên là 21 vạn. Bù lại, quân ta có rất nhiều thuyền bè, khí giới. Hàng trăm chiến thuyền hai tầng bong có vỏ ngoài đóngđinh sắt to lớn “Tải lương cổ lâu”, cùng với thuyền đóng đinh sắt “Tải lương trung tàu” tập trung ở căn cứ Hoàng Giang. Binh lực của nhà Hồ thực sự vẫn đủ sức chống cự với giặc nếu như các tướng lĩnh biết cách dùng quân đúng đắn, quân lính dũng cảm diệt giặc.
Tháng 4.1407, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng quyết định chủ động mở cuộc phản công lớn để giành chiến thắng. Các đại tướng nhà Hồ chia quân từ Hoàng Giang đến đánh Hàm Tử. Hồ Xạ, Trần Đĩnh cầm quân bộ men theo bờ nam sông tiến lên. Bên bờ bắc, quân bộ do hai tướng Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang chỉ huy. Thủy quân tiên phong gồm 100 chiến thuyền đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Công Chửng. Hồ Nguyên Trừng, Hồ Đỗ cùng với các tướng Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy trung quân là các chiến thuyền chủ lực theo sau đạo thủy quân tiên phong. Quân Đại Ngu tiến rầm rộ, thuyền chiến chắn ngang dày kín cả con sông, kéo dài hơn 10 dặm, khí thế rất hùng hổ.
Quân Minh ở cửa Hàm Tử do thám biết được quân Đại Ngu tấn công, chúng bèn chia quân làm hai đạo thủy bộ mai phục chờ sẵn. Quân Đại Ngu tuy mạnh về vũ khí nhưng kỷ luật kém, hành quân được một quãng thì đâm ra trễ nải. Quân Minh thừa cơ hội, phục binh từ hai bên bờ sông nhất tề xông ra tấn công. Quân bộ Đại Ngu ở bờ bắc đụng trận với giặc trước, quân lính không chống nổi, hàng ngũ rối loạn, bị địch lùa xuống sông chết rất nhiều. Thủy quân ở dưới sông cố sức cầm cự với quân Minh, hai bên kịch chiến đẫm máu. Hồ Xạ chỉ huy quân bộ ở bờ nam tiến quân chậm ở phía sau, hay tin quân ta trúng mai phục, dùng dằn chưa dám tiến quân. Hồ Đỗ sai người trách bảo: “tướng quân sao không đánh giặc”. Hồ Xạ lúc ấy mới thúc quân tiến lên. Nhưng khi Hồ Xạ chưa kịp đến thì thế trận đã định.
Thủy quân Đại Ngu sau một hồi giao chiến cũng không cầm cự nổi, nối nhau tan vỡ. Các chiến thuyền Tải Lương đều bị đánh chìm, mang theo những đơn vị thủy quân tinh nhuệ của nhà Hồ bỏ mình nơi đáy nước. Chỉ có lực lượng thủy quân theo sau là chạy thoát được cùng với các chủ tướng. Quân của Hồ Xạ đến nơi muộn màng cũng nhanh chóng bị đánh thua, An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hi Chu bị giặc bắt sống. Bị giải đến doanh của Trương Phụ, Hi Chu không ngớt lời chửi mắng. Phụ tức giận, sai đem giết.
Chủ trương chủ động tấn công địch của Hồ Nguyên Trừng không tệ, nhưng trận Hàm Tử thất bại là do những sai lầm cơ bản. Quân nhà Hồ đã để lộ quân cơ quá sớm, khiến cho giặc có thời gian bố trí trận địa mai phục chờ sẵn. Khi hành quân, tướng giỏi sẽ biết dùng du binh đi trước do thám bốn mặt rồi đại quân mới theo sau. Hồ Nguyên Trừng hành quân rầm rộ nhưng thiếu tin tức của du binh, để toàn quân bị tấn công bất ngờ, đó là do thiếu cẩn trọng. Quân Đại Ngu gặp mai phục thì hoảng loạn nhanh, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép tình cảnh thời bấy giờ “Quân bộ của nhà Hồ không thể đối địch được, cùng nhau trốn chạy, gặp phục binh nhà Minh, đều quay giáo, nhảy xuống sông chết”. Điều này một lần nữa cho thấy kỷ luật kém, tinh thần chiến đấu kém của quan quân nhà Hồ.
Việc Hồ Xạ hiệp đồng tác chiến chậm càng làm quân Đại Ngu gặp bất lợi, chứng tỏ rằng các tướng lĩnh nhà Hồ không có một đường lối chung trong phương thức tác chiến nên khi gặp các tình huống bất ngờ ngoài chiến trường thì không biết ứng biến như thế nào cho đúng. Những sự yếu kém này lỗi lầm sâu xa là do đường lối quân sự sai lầm của Thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương. Họ chú trọng vũ khí, quân số mà rèn quân luyện tướng kém, các tướng soái được giao trọng trách chỉ là những người có năng lực trung bình hoặc kém, hoàn toàn không phải đối thủ của những tướng xảo quyệt của giặc Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh …
Trận Hàm Tử đã đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh. Quân Đại Ngu sau trận này đã mất đi những thành phần dự bị chiến lược quan trọng nhất, hầu như không còn đủ sức gượng dậy nổi. Quân Minh một mặt ra sức truy kích họ Hồ mặt khác tiến hành các bước chuẩn bị sát nhập nước ta thành quận huyện của nước Minh. Trương Phụ cùng bọn Việt gian đã phối hợp cùng nhau dựng lên một màn kịch để hợp thức hóa việc xóa sổ nước ta. Giặc Minh vờ truyền lệnh tìm con cháu họ Trần để lập làm vua. Bọn Mạc Thúy cùng đám bán nước tiếm xưng là “kỳ lão nước An Nam” dâng sớ tâu: “Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An Nam nguyên trước là Giao Châu, xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được đổi mới” !!! Trương Phụ mới nhân đó tâu về với vua Minh, chuẩn bị hoàn tất kế hoạch cướp nước của chúng.
Quan quân nhà Hồ sau khi thua trận tan tác, chia làm nhiều hướng mà rút chạy, nhiều nhánh quân hoàn toàn tan rã. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương theo đường sông Đáy vượt biển rút về Thanh Hóa. Giặc Minh thúc quân đuổi gấp đêm ngày, tình cảnh vô cùng khốn đốn.
1. Nhà Hồ diệt vong:
Do mắc phải liên tiếp nhiều sai lầm về chiến thuật, chiến lược mà sau trận Hàm Tử kết thúc, triều nhà Hồ hầu như không còn cơ sở để lật ngược tình thế. Chẳng những các lực lượng tinh nhuệ, đông đảo nhất đã bị đánh tan, thuyền bè vũ khí mất mát lớn mà điều nguy hiểm không kém là tinh thần quân đội đã tụt dốc nghiêm trọng. Thêm vào đó, lòng dân lại không ủng hộ triều đình nhà Hồ do những việc làm mất lòng dân trước đó.
Hồ Quý Ly cùng các tướng vượt biển về lại Tây Đô, cố gắng gượng chống đỡ. Vua tôi nhà Hồ chỉ còn hy vọng vào sự kiên cố của thành Tây Đô và các đồn trại ở Thanh Hóa mà toan cố thủ. Hồ Quý Ly lại sai người mang thư báo cho An phủ sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh ở biên thùy phía nam, lệnh cho Hoàng Hối Khanh đem những di dân khi trước đã phái vào nam khai khẩn đất đai cùng với binh lính địa phương gộm lại, giao cho Tả châu phán Nguyễn Rỗ ở Thăng Hoa chỉ huy để làm quân Cần vương (tức quân giúp vua lúc nguy nan), phong Cổ Lũy huyện thượng hầu Chế Ma Nô Đà Nan (vua cũ của Chiêm Thành, bị lật đổ và theo hàng Đại Ngu) làm Thăng Hoa quận vương để kêu gọi dân Chăm quy phục triều đình nhà Hồ.
Quân dân biên thùy phía nam ít ỏi, vốn không so bì được với lực lượng mạnh mà nhà Hồ đã để tổn thất trước đó. Tuy nhiên đây là sự lực lượng cuối cùng mà Hồ Quý Ly có thể trông cậy vào. Nhưng rốt cuộc việc này cũng không thành. Hoàng Hối Khanh trước lo việc biên giới lỡ cắt nhượng cho giặc quá nhiều đất, bị Hồ Quý Ly nhục mạ không tiếc lời, nhưng sau lại giao cho trọng chức ở phương nam. Hoàng Hối Khanh còn nhớ mối nhục cũ, vốn trong lòng không phục Hồ Quý Ly mà chỉ muốn tự mình tìm minh chủ khác đảm đương việc chống giặc nên giấu thư đi, không cho các quan chức khác biết. Đó thực là đã cố ý đẩy hai vua họ Hồ vào đường chết.
Một khi lòng người đã ly tán thì mọi kế hoạch đều khó lòng thực hiện được. Tháng 5.1407, sau khi ổn định lại lực lượng và tiến hành mua chuộc các tầng lớp nhân dân ở vùng đồng bằng trung châu (vùng quanh Thăng Long), Trương Phụ dốc toàn lực tấn công vào Thanh Hóa. Thuyền quân Minh vượt biển đánh vào Lỗi Giang (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Quân Đại Ngu nhác trông thấy bóng quân Minh đã sợ hãi, không đánh mà tự tan. Quân Minh đánh vào cửa biển Điền Canh, quân tướng Đại Ngu cũng nhanh chóng bỏ thuyền chạy. Đến đây thì có thể thấy, đại đa số lực lượng thuộc quân đội của nhà Hồ đã không còn tinh thần chiến đấu nữa, hễ gặp giặc là bỏ chạy. Thượng hoàng Hồ Quý Ly cùng vua Hồ Hán Thương dẫn lực lượng nhỏ bé còn lại lánh ra Thâm Giang (sông Ngàn Sâu, Hà Tĩnh), thấy địa thế bất lợi không thể phòng thủ, định chạy vào Nghệ An.
Lúc này tướng nhà Hồ là Ngụy Thức cùng kế, thấy không còn hy vọng nên xin vua và Thượng hoàng nên tự thiêu. Ngụy Thức nói với Hồ Quý Ly: “Nước đã sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác”. Căm giận vì lời nói của Ngụy Thức, Hồ Quý Ly sai chém chết. Sau đó, Hồ Quý Ly lại dẫn quân chạy vào Nghệ An. Binh lính, quan lại rơi rớt dọc đường, nhiều người đầu hàng giặc, một số khác thất lạc nhau trên đường hành quân. Càng gần cuối cuộc chiến, quân đội nhà Hồ càng tỏ rõ là một đội quân yếu kém về tổ chức. Một số kẻ vì tham công, tiếc mạng lại tình nguyện dẫn đường cho giặc lùng bắt hoàng tộc nhà Hồ.
Về phía quân Minh, bọn tướng lĩnh rất hăng máu và quyết tâm cao độ để lập “kỳ công”. Trương Phụ sau khi chiếm được thành Tây Đô và kiểm soát được Thanh Hóa, bèn mở một cuộc hành quân lớn đánh vào Nghệ An, quyết vây bắt bằng được vua tôi nhà Hồ. Trương Phụ cùng Mộc Thạnh dẫn bộ binh tiến vào Nghệ An, Liễu Thăng chỉ huy binh thuyền tiến theo đường thủy. Quần thần trong triều gồm Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ MãnThượng… thế bức bách đều phải đầu hàng quân Minh. Thượng hoàng Hồ Quý Ly chạy đến cửa biển Kỳ La (thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh ngày nay) thì bị giặc đuổi theo kịp. Quân nhà Hồ chẳng mấy chốc tan vỡ, Hồ Quý Ly bị giặc bắt. Vua Hồ Hán Thương dẫn Thái tử Hồ Nhuế chạy đến núi Cao Vọng (thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh) thì cũng sa lưới quân giặc. Các quan tướng cao cấp là Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quý Tì, Phán trung đô Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Nguyễn Lục Tài, Nguyễn Nghiện Quang, Đoàn Bồng… đều lần lượt bị bắt cả. Hành khiển tham tri chính sự Ngô Miễn, Trực trưởng Kiều Biểu nhảy sông tự sát. Triều đình nhà Hồ đến đây coi như bị diệt. Tuy nhiên ở các vùng phía nam vẫn còn các lực lượng Đại Ngu tiếp tục chiến đấu một thời gian.
2. Các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu:
Trong khi quân Minh đánh diệt nhà Hồ từ phía bắc thì ở các châu phía nam, một số tướng lĩnh Đại Ngu đang phải đối phó với quân Chiêm Thành thừa cơ hội đánh ra lấn đất. An phủ sứ Hoàng Hối Khanh bấy giờ là viên quan có quyền hành cao nhất, phục trách mọi việc ở lộ Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay) và trấn Tân Ninh (thuộc Quảng Nam). Đặng Tất làm Đại tri châu, cùng với Phạm Thế Căng làm tâm phúc cho Hoàng Hối Khanh. Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ trấn Tân Ninh phụ trách vùng rừng núi. Nguyễn Rỗ cũng là một tướng có thực lực trong vùng, nhưng hay tị hiềm với Đặng Tất vì ghen ghét công trạng của nhau. Chế Ma Nô Đà Nan đóng quân trấn giữ tại châu Tư Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay), là nơi cực nam của nước Đại Ngu thời kỳ này.
Vua Chiêm là Ba Đích Lại đem quân tấn công vào châu Tư Nghĩa thuộc lộ Thăng Hoa, do Chế Ma Nô Đà Nan trấn thủ. Hoàng Hối Khanh cùng Đặng Tất, Nguyễn Rỗ đem quân vào cứu viện. Sau thế quân Chiêm quá mạnh, dân Việt vào khai khẩn từ trước phần nhiều bỏ chạy về bắc. Hoàng Hối Khanh, Đặng Tất, Nguyễn Rỗ cũng rút lui bỏ mặc Chế Ma Nô Đà Nan bị vây khốn. Quân Chiêm chiếm được châu Tư Nghĩa, Chế Ma Nô Đà Nam cô thế bị giết. Chiêm Thành thừa thế chiếm luôn Thăng Hoa, các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu phải kéo nhau rút dồn về Hóa Châu, Tân Bình, bị kẹp giữa quân Minh và quân Chiêm Thành.
Tại thành Hóa Châu (Huế ngày nay), tướng trấn thủ là Nguyễn Phong thấy đoàn thuyền chở quân của Đặng Tất bỏ biên cương chạy về nên đóng cửa thành không cho vào. Đặng Tất thúc quân đánh chiếm luôn thành trì, giết chết Nguyễn Phong. Vì ở xa triều đình trung ương, tin tức không thông, lại trong tình thế hỗn loạn nên các tướng lĩnh vùng phía nam đã trở thành các thế lực cát cứ vô tổ chức, mạnh ai người nấy giữ lấy quân của mình. Nguyễn Rỗ cùng các di dân đi đường bộ nên đến chậm, không chịu sát nhập lực lượng với Đặng Tất mà cùng nhau tranh cướp thành trì. Đặng Tất ở trong thành cố thủ, đánh nhau với Nguyễn Rỗ hơn 1 tháng. Nguyễn Rỗ ở ngoài thành không có tiếp viện, phải đem gia quyến đầu hàng Chiêm Thành.
Phạm Thế Căng đem quân về Tân Bình thì hay tin cha con Hồ Quý Ly đều đã bị bắt, bèn ra Nghệ An đầu hàng quân Minh, chỉ điểm cho Trương Phụ, Mộc Thạnh vào đánh Hóa Châu. Đặng Tất ở Hóa Châu, nam thì Chiêm Thành đánh lên, bắc thì quân Minh đánh xuống, liệu thế không chống cự nổi cũng đành chịu đầu hàng quân Minh, xin với Trương Phụ được làm quan cai quản Hóa Châu, thực ra là ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ về sau. Trương Phụ lúc này cũng muốn tranh thủ mua chuộc các thế lực tướng lĩnh, quan lại nên đã đồng ý. Đặng Tất hàng Minh rồi, cho người đem Hoàng Hối Khanh giải về Đông Đô làm tin. Hoàng Hối Khanh đến cửa biển Đan Thai (cửa Hội, Nghệ An) thì nhảy xuống biển tự vẫn. Trương Phụ vẫn không chịu buông tha ông, sai người vớt xác chặt đầu bêu ở chợ Đông Đô.Việc Đặng Tất đầu hàng Trương Phụ chỉ là khổ nhục kế, là bước nhẫn nhịn nhất thời. Trên thực tế ông vẫn nắm giữ lực lượng của mình, về sau là nòng cốt quan trọng để tiếp tục chống lại quân Minh. Về phần Nguyễn Cảnh Chân lúc này cũng phải cho hàng ngũ tan rã, sống ẩn dật chờ đợi thời cơ, tìm bạn đồng chí để cùng mưu sự về sau.
Như vậy là các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu trước sức ép của quân Minh và quân Chiêm Thành cũng đều phải tan rã hoặc theo hàng giặc. Tuy nhiên, tình hình sẽ hoàn toàn không như ý định của quân Minh xâm lược. Việc tiêu diệt được triều đình nhà Hồ không có nghĩa là chúng đã bình định được nước ta. Quân giặc không đủ khả năng dập tắt được các sự kháng cự ở rải rác khắp cả nước và không thể bóp chết được các mầm yêu nước trong nhân dân. Nước Đại Ngu không còn, nhưng dân tộc Việt vẫn còn. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc Việt vẫn chỉ mới ở giai đoạn đầu.
Tại Hàm Tử, quân Minh vẫn còn lực lượng rất mạnh với mười mấy vạn quân và nhiều chiến thuyền. Trong số các thuyền chiến có nhiều chiếc là chiến lợi phẩm thu được của quân Đại Ngu qua các trận chiến trước. Quân Minh còn bắt trai tráng nước ta bổ sung vào lực lượng đã bị thiệt hại. Ngụy binh trong hàng ngũ giặc không có lòng chiến đấu, chỉ chực chờ rút chạy hoặc đào ngũ. Tuy nhiên, tướng lĩnh nước Minh rất thạo việc cưỡng bức quân lính chiến đấu, ngụy binh do đó mà không có nhiều cơ hội thoát khỏi sự kìm kẹp của giặc, phải cầm vũ khí chống lại chính đất nước của mình.
Về phần quân Đại Ngu ở Hoàng Giang, quân số của ta ít hơn giặc rất nhiều. Hồ Nguyên Trừng hội quân các nơi về, tất cả được 7 vạn quân, nói phao lên là 21 vạn. Bù lại, quân ta có rất nhiều thuyền bè, khí giới. Hàng trăm chiến thuyền hai tầng bong có vỏ ngoài đóngđinh sắt to lớn “Tải lương cổ lâu”, cùng với thuyền đóng đinh sắt “Tải lương trung tàu” tập trung ở căn cứ Hoàng Giang. Binh lực của nhà Hồ thực sự vẫn đủ sức chống cự với giặc nếu như các tướng lĩnh biết cách dùng quân đúng đắn, quân lính dũng cảm diệt giặc.
Tháng 4.1407, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng quyết định chủ động mở cuộc phản công lớn để giành chiến thắng. Các đại tướng nhà Hồ chia quân từ Hoàng Giang đến đánh Hàm Tử. Hồ Xạ, Trần Đĩnh cầm quân bộ men theo bờ nam sông tiến lên. Bên bờ bắc, quân bộ do hai tướng Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang chỉ huy. Thủy quân tiên phong gồm 100 chiến thuyền đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Công Chửng. Hồ Nguyên Trừng, Hồ Đỗ cùng với các tướng Đỗ Mãn, Hồ Vấn chỉ huy trung quân là các chiến thuyền chủ lực theo sau đạo thủy quân tiên phong. Quân Đại Ngu tiến rầm rộ, thuyền chiến chắn ngang dày kín cả con sông, kéo dài hơn 10 dặm, khí thế rất hùng hổ.
Quân Minh ở cửa Hàm Tử do thám biết được quân Đại Ngu tấn công, chúng bèn chia quân làm hai đạo thủy bộ mai phục chờ sẵn. Quân Đại Ngu tuy mạnh về vũ khí nhưng kỷ luật kém, hành quân được một quãng thì đâm ra trễ nải. Quân Minh thừa cơ hội, phục binh từ hai bên bờ sông nhất tề xông ra tấn công. Quân bộ Đại Ngu ở bờ bắc đụng trận với giặc trước, quân lính không chống nổi, hàng ngũ rối loạn, bị địch lùa xuống sông chết rất nhiều. Thủy quân ở dưới sông cố sức cầm cự với quân Minh, hai bên kịch chiến đẫm máu. Hồ Xạ chỉ huy quân bộ ở bờ nam tiến quân chậm ở phía sau, hay tin quân ta trúng mai phục, dùng dằn chưa dám tiến quân. Hồ Đỗ sai người trách bảo: “tướng quân sao không đánh giặc”. Hồ Xạ lúc ấy mới thúc quân tiến lên. Nhưng khi Hồ Xạ chưa kịp đến thì thế trận đã định.
Thủy quân Đại Ngu sau một hồi giao chiến cũng không cầm cự nổi, nối nhau tan vỡ. Các chiến thuyền Tải Lương đều bị đánh chìm, mang theo những đơn vị thủy quân tinh nhuệ của nhà Hồ bỏ mình nơi đáy nước. Chỉ có lực lượng thủy quân theo sau là chạy thoát được cùng với các chủ tướng. Quân của Hồ Xạ đến nơi muộn màng cũng nhanh chóng bị đánh thua, An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hi Chu bị giặc bắt sống. Bị giải đến doanh của Trương Phụ, Hi Chu không ngớt lời chửi mắng. Phụ tức giận, sai đem giết.
Chủ trương chủ động tấn công địch của Hồ Nguyên Trừng không tệ, nhưng trận Hàm Tử thất bại là do những sai lầm cơ bản. Quân nhà Hồ đã để lộ quân cơ quá sớm, khiến cho giặc có thời gian bố trí trận địa mai phục chờ sẵn. Khi hành quân, tướng giỏi sẽ biết dùng du binh đi trước do thám bốn mặt rồi đại quân mới theo sau. Hồ Nguyên Trừng hành quân rầm rộ nhưng thiếu tin tức của du binh, để toàn quân bị tấn công bất ngờ, đó là do thiếu cẩn trọng. Quân Đại Ngu gặp mai phục thì hoảng loạn nhanh, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép tình cảnh thời bấy giờ “Quân bộ của nhà Hồ không thể đối địch được, cùng nhau trốn chạy, gặp phục binh nhà Minh, đều quay giáo, nhảy xuống sông chết”. Điều này một lần nữa cho thấy kỷ luật kém, tinh thần chiến đấu kém của quan quân nhà Hồ.
Việc Hồ Xạ hiệp đồng tác chiến chậm càng làm quân Đại Ngu gặp bất lợi, chứng tỏ rằng các tướng lĩnh nhà Hồ không có một đường lối chung trong phương thức tác chiến nên khi gặp các tình huống bất ngờ ngoài chiến trường thì không biết ứng biến như thế nào cho đúng. Những sự yếu kém này lỗi lầm sâu xa là do đường lối quân sự sai lầm của Thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương. Họ chú trọng vũ khí, quân số mà rèn quân luyện tướng kém, các tướng soái được giao trọng trách chỉ là những người có năng lực trung bình hoặc kém, hoàn toàn không phải đối thủ của những tướng xảo quyệt của giặc Minh là Trương Phụ, Mộc Thạnh …
Trận Hàm Tử đã đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh. Quân Đại Ngu sau trận này đã mất đi những thành phần dự bị chiến lược quan trọng nhất, hầu như không còn đủ sức gượng dậy nổi. Quân Minh một mặt ra sức truy kích họ Hồ mặt khác tiến hành các bước chuẩn bị sát nhập nước ta thành quận huyện của nước Minh. Trương Phụ cùng bọn Việt gian đã phối hợp cùng nhau dựng lên một màn kịch để hợp thức hóa việc xóa sổ nước ta. Giặc Minh vờ truyền lệnh tìm con cháu họ Trần để lập làm vua. Bọn Mạc Thúy cùng đám bán nước tiếm xưng là “kỳ lão nước An Nam” dâng sớ tâu: “Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An Nam nguyên trước là Giao Châu, xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được đổi mới” !!! Trương Phụ mới nhân đó tâu về với vua Minh, chuẩn bị hoàn tất kế hoạch cướp nước của chúng.
Quan quân nhà Hồ sau khi thua trận tan tác, chia làm nhiều hướng mà rút chạy, nhiều nhánh quân hoàn toàn tan rã. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương theo đường sông Đáy vượt biển rút về Thanh Hóa. Giặc Minh thúc quân đuổi gấp đêm ngày, tình cảnh vô cùng khốn đốn.
Hồ Quý Ly mất nước, Đặng Tất lập mưu lật thế cờ
Đền thờ danh tướng Đặng Tất
Việc Đặng Tất đầu hàng Trương Phụ chỉ là khổ nhục kế, là bước nhẫn nhịn nhất thời. Trên thực tế ông vẫn nắm giữ lực lượng của mình, về sau là nòng cốt quan trọng để tiếp tục chống lại quân Minh.
Do mắc phải liên tiếp nhiều sai lầm về chiến thuật, chiến lược mà sau trận Hàm Tử kết thúc, triều nhà Hồ hầu như không còn cơ sở để lật ngược tình thế. Chẳng những các lực lượng tinh nhuệ, đông đảo nhất đã bị đánh tan, thuyền bè vũ khí mất mát lớn mà điều nguy hiểm không kém là tinh thần quân đội đã tụt dốc nghiêm trọng. Thêm vào đó, lòng dân lại không ủng hộ triều đình nhà Hồ do những việc làm mất lòng dân trước đó.
Hồ Quý Ly cùng các tướng vượt biển về lại Tây Đô, cố gắng gượng chống đỡ. Vua tôi nhà Hồ chỉ còn hy vọng vào sự kiên cố của thành Tây Đô và các đồn trại ở Thanh Hóa mà toan cố thủ. Hồ Quý Ly lại sai người mang thư báo cho An phủ sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh ở biên thùy phía nam, lệnh cho Hoàng Hối Khanh đem những di dân khi trước đã phái vào nam khai khẩn đất đai cùng với binh lính địa phương gộm lại, giao cho Tả châu phán Nguyễn Rỗ ở Thăng Hoa chỉ huy để làm quân Cần vương (tức quân giúp vua lúc nguy nan), phong Cổ Lũy huyện thượng hầu Chế Ma Nô Đà Nan (vua cũ của Chiêm Thành, bị lật đổ và theo hàng Đại Ngu) làm Thăng Hoa quận vương để kêu gọi dân Chăm quy phục triều đình nhà Hồ.
Quân dân biên thùy phía nam ít ỏi, vốn không so bì được với lực lượng mạnh mà nhà Hồ đã để tổn thất trước đó. Tuy nhiên đây là sự lực lượng cuối cùng mà Hồ Quý Ly có thể trông cậy vào. Nhưng rốt cuộc việc này cũng không thành. Hoàng Hối Khanh trước lo việc biên giới lỡ cắt nhượng cho giặc quá nhiều đất, bị Hồ Quý Ly nhục mạ không tiếc lời, nhưng sau lại giao cho trọng chức ở phương nam. Hoàng Hối Khanh còn nhớ mối nhục cũ, vốn trong lòng không phục Hồ Quý Ly mà chỉ muốn tự mình tìm minh chủ khác đảm đương việc chống giặc nên giấu thư đi, không cho các quan chức khác biết. Đó thực là đã cố ý đẩy hai vua họ Hồ vào đường chết.
Một khi lòng người đã ly tán thì mọi kế hoạch đều khó lòng thực hiện được. Tháng 5.1407, sau khi ổn định lại lực lượng và tiến hành mua chuộc các tầng lớp nhân dân ở vùng đồng bằng trung châu (vùng quanh Thăng Long), Trương Phụ dốc toàn lực tấn công vào Thanh Hóa. Thuyền quân Minh vượt biển đánh vào Lỗi Giang (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Quân Đại Ngu nhác trông thấy bóng quân Minh đã sợ hãi, không đánh mà tự tan. Quân Minh đánh vào cửa biển Điền Canh, quân tướng Đại Ngu cũng nhanh chóng bỏ thuyền chạy. Đến đây thì có thể thấy, đại đa số lực lượng thuộc quân đội của nhà Hồ đã không còn tinh thần chiến đấu nữa, hễ gặp giặc là bỏ chạy. Thượng hoàng Hồ Quý Ly cùng vua Hồ Hán Thương dẫn lực lượng nhỏ bé còn lại lánh ra Thâm Giang (sông Ngàn Sâu, Hà Tĩnh), thấy địa thế bất lợi không thể phòng thủ, định chạy vào Nghệ An.
Lúc này tướng nhà Hồ là Ngụy Thức cùng kế, thấy không còn hy vọng nên xin vua và Thượng hoàng nên tự thiêu. Ngụy Thức nói với Hồ Quý Ly: “Nước đã sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác”. Căm giận vì lời nói của Ngụy Thức, Hồ Quý Ly sai chém chết. Sau đó, Hồ Quý Ly lại dẫn quân chạy vào Nghệ An. Binh lính, quan lại rơi rớt dọc đường, nhiều người đầu hàng giặc, một số khác thất lạc nhau trên đường hành quân. Càng gần cuối cuộc chiến, quân đội nhà Hồ càng tỏ rõ là một đội quân yếu kém về tổ chức. Một số kẻ vì tham công, tiếc mạng lại tình nguyện dẫn đường cho giặc lùng bắt hoàng tộc nhà Hồ.
Về phía quân Minh, bọn tướng lĩnh rất hăng máu và quyết tâm cao độ để lập “kỳ công”. Trương Phụ sau khi chiếm được thành Tây Đô và kiểm soát được Thanh Hóa, bèn mở một cuộc hành quân lớn đánh vào Nghệ An, quyết vây bắt bằng được vua tôi nhà Hồ. Trương Phụ cùng Mộc Thạnh dẫn bộ binh tiến vào Nghệ An, Liễu Thăng chỉ huy binh thuyền tiến theo đường thủy. Quần thần trong triều gồm Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ MãnThượng… thế bức bách đều phải đầu hàng quân Minh. Thượng hoàng Hồ Quý Ly chạy đến cửa biển Kỳ La (thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh ngày nay) thì bị giặc đuổi theo kịp. Quân nhà Hồ chẳng mấy chốc tan vỡ, Hồ Quý Ly bị giặc bắt. Vua Hồ Hán Thương dẫn Thái tử Hồ Nhuế chạy đến núi Cao Vọng (thuộc Kỳ Anh, Hà Tĩnh) thì cũng sa lưới quân giặc. Các quan tướng cao cấp là Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quý Tì, Phán trung đô Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Nguyễn Lục Tài, Nguyễn Nghiện Quang, Đoàn Bồng… đều lần lượt bị bắt cả. Hành khiển tham tri chính sự Ngô Miễn, Trực trưởng Kiều Biểu nhảy sông tự sát. Triều đình nhà Hồ đến đây coi như bị diệt. Tuy nhiên ở các vùng phía nam vẫn còn các lực lượng Đại Ngu tiếp tục chiến đấu một thời gian.
2. Các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu:
Trong khi quân Minh đánh diệt nhà Hồ từ phía bắc thì ở các châu phía nam, một số tướng lĩnh Đại Ngu đang phải đối phó với quân Chiêm Thành thừa cơ hội đánh ra lấn đất. An phủ sứ Hoàng Hối Khanh bấy giờ là viên quan có quyền hành cao nhất, phục trách mọi việc ở lộ Thăng Hoa (Quảng Nam ngày nay) và trấn Tân Ninh (thuộc Quảng Nam). Đặng Tất làm Đại tri châu, cùng với Phạm Thế Căng làm tâm phúc cho Hoàng Hối Khanh. Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ trấn Tân Ninh phụ trách vùng rừng núi. Nguyễn Rỗ cũng là một tướng có thực lực trong vùng, nhưng hay tị hiềm với Đặng Tất vì ghen ghét công trạng của nhau. Chế Ma Nô Đà Nan đóng quân trấn giữ tại châu Tư Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay), là nơi cực nam của nước Đại Ngu thời kỳ này.
Vua Chiêm là Ba Đích Lại đem quân tấn công vào châu Tư Nghĩa thuộc lộ Thăng Hoa, do Chế Ma Nô Đà Nan trấn thủ. Hoàng Hối Khanh cùng Đặng Tất, Nguyễn Rỗ đem quân vào cứu viện. Sau thế quân Chiêm quá mạnh, dân Việt vào khai khẩn từ trước phần nhiều bỏ chạy về bắc. Hoàng Hối Khanh, Đặng Tất, Nguyễn Rỗ cũng rút lui bỏ mặc Chế Ma Nô Đà Nan bị vây khốn. Quân Chiêm chiếm được châu Tư Nghĩa, Chế Ma Nô Đà Nam cô thế bị giết. Chiêm Thành thừa thế chiếm luôn Thăng Hoa, các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu phải kéo nhau rút dồn về Hóa Châu, Tân Bình, bị kẹp giữa quân Minh và quân Chiêm Thành.
Tại thành Hóa Châu (Huế ngày nay), tướng trấn thủ là Nguyễn Phong thấy đoàn thuyền chở quân của Đặng Tất bỏ biên cương chạy về nên đóng cửa thành không cho vào. Đặng Tất thúc quân đánh chiếm luôn thành trì, giết chết Nguyễn Phong. Vì ở xa triều đình trung ương, tin tức không thông, lại trong tình thế hỗn loạn nên các tướng lĩnh vùng phía nam đã trở thành các thế lực cát cứ vô tổ chức, mạnh ai người nấy giữ lấy quân của mình. Nguyễn Rỗ cùng các di dân đi đường bộ nên đến chậm, không chịu sát nhập lực lượng với Đặng Tất mà cùng nhau tranh cướp thành trì. Đặng Tất ở trong thành cố thủ, đánh nhau với Nguyễn Rỗ hơn 1 tháng. Nguyễn Rỗ ở ngoài thành không có tiếp viện, phải đem gia quyến đầu hàng Chiêm Thành.
Phạm Thế Căng đem quân về Tân Bình thì hay tin cha con Hồ Quý Ly đều đã bị bắt, bèn ra Nghệ An đầu hàng quân Minh, chỉ điểm cho Trương Phụ, Mộc Thạnh vào đánh Hóa Châu. Đặng Tất ở Hóa Châu, nam thì Chiêm Thành đánh lên, bắc thì quân Minh đánh xuống, liệu thế không chống cự nổi cũng đành chịu đầu hàng quân Minh, xin với Trương Phụ được làm quan cai quản Hóa Châu, thực ra là ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ về sau. Trương Phụ lúc này cũng muốn tranh thủ mua chuộc các thế lực tướng lĩnh, quan lại nên đã đồng ý. Đặng Tất hàng Minh rồi, cho người đem Hoàng Hối Khanh giải về Đông Đô làm tin. Hoàng Hối Khanh đến cửa biển Đan Thai (cửa Hội, Nghệ An) thì nhảy xuống biển tự vẫn. Trương Phụ vẫn không chịu buông tha ông, sai người vớt xác chặt đầu bêu ở chợ Đông Đô.Việc Đặng Tất đầu hàng Trương Phụ chỉ là khổ nhục kế, là bước nhẫn nhịn nhất thời. Trên thực tế ông vẫn nắm giữ lực lượng của mình, về sau là nòng cốt quan trọng để tiếp tục chống lại quân Minh. Về phần Nguyễn Cảnh Chân lúc này cũng phải cho hàng ngũ tan rã, sống ẩn dật chờ đợi thời cơ, tìm bạn đồng chí để cùng mưu sự về sau.
Như vậy là các lực lượng cuối cùng của nước Đại Ngu trước sức ép của quân Minh và quân Chiêm Thành cũng đều phải tan rã hoặc theo hàng giặc. Tuy nhiên, tình hình sẽ hoàn toàn không như ý định của quân Minh xâm lược. Việc tiêu diệt được triều đình nhà Hồ không có nghĩa là chúng đã bình định được nước ta. Quân giặc không đủ khả năng dập tắt được các sự kháng cự ở rải rác khắp cả nước và không thể bóp chết được các mầm yêu nước trong nhân dân. Nước Đại Ngu không còn, nhưng dân tộc Việt vẫn còn. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc Việt vẫn chỉ mới ở giai đoạn đầu.
Lịch sử đổ tội lên đầu Hồ Quý Ly thì có bất công không?
Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa
Các sách xưa không tiếc lời chỉ trích Hồ Quý Ly là vì sao? Là bởi Hồ Quý Ly đã làm việc mà luân lý Nho giáo đương thời coi là “đại nghịch bất đạo”, tức là bề tôi mà cướp ngôi vua. Thêm nữa, Hồ Quý Ly đã chịu tội cướp ngôi, lại chịu thêm tội danh làm mất nước. Tuy nhiên, thử thoát khỏi lối tư duy Nho giáo mà suy xét, có đôi điều cần nhìn nhận lại.
Quay lại thời điểm năm 1405, trước khi giặc Minh sang xâm lược, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã từng có câu nói nổi tiếng trong hội nghị bàn kế sách giữ nước: “Thần không sơ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi!”. Quả thật câu nói này thể hiện rất chính xác khó khăn mà nhà Hồ phải đối mặt, bị tách rời khỏi nhân dân trong cuộc chiến với giặc Minh, quân đội nhà Hồ trở nên đơn độc và hoang mang trước kẻ địch. Cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ nước Đại Ngu là bài học lớn trong lịch sử nước ta.
Về khách quan mà nói, nhà Hồ kế thừa đất nước từ triều đại trước với những khó khăn chồng chất. Nước Đại Ngu bị kẹp giữa hai thế lực hiếu chiến và đương lúc hùng mạnh, lại quyết tâm xâu xé nước ta một cách cao độ. Nhưng quan trọng nhất, thất bại trong chiến tranh là hệ quả của một loạt những sai lầm về đường lối chính trị, quân sự, kinh tế của những người lãnh đạo đất nước, cùng với những nhận thức sai lầm về kẻ xâm lược của các tầng lớp nhân dân.
Các sách sử thời phong kiến chỉ trích Hồ Quý Ly rất nặng nề. Thậm chí có lúc cực đoan đến mức coi việc họ Hồ bại vong về tay người Minh là một điều hợp với quy luật. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên bàn: “Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp lấy nước, những người như Trần Hãng, Trần Khát Chân mưu giết mà không được. Sau khi họ chết, trong khoảng 7, 8 năm, không còn ai có thể làm được việc ấy nữa. [Họ Hồ] tự cho là người trong nước không còn ai dám làm gì nữa. Nhưng bọn loạn thần tặc tử thì ai ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng không một ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm trời này! Người trong nước giết chúng không được thì ngưoời nước láng giềng có thể giết, người nước láng giềng giết không được thì người Di người Địch có thể giết. Vì thế người Minh mới có thể giết được chúng”.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thời Nguyễn có lời phê về việc Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt: “Mấy lần lật lọng lời thề nguyền, tính toán lấn cướp ngôi vua một cách xảo quyệt! Đến bây giờ có thể xảo trá để thoát thân được không ? Đạo trời báo ứng, rõ ràng không sai, chả đáng sợ lắm sao?”
Ngay cả một trí thức đầu thế kỷ 20 như Trần Trọng Kim cũng có lời phê bình nặng nề: “Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người !”
Các sách xưa không tiếc lời chỉ trích Hồ Quý Ly là vì sao? Là bởi Hồ Quý Ly đã làm việc mà luân lý Nho giáo đương thời coi là “đại nghịch bất đạo”, tức là bề tôi mà cướp ngôi vua. Thêm nữa, Hồ Quý Ly đã chịu tội cướp ngôi, lại chịu thêm tội danh làm mất nước. Tuy nhiên, thử thoát khỏi lối tư duy Nho giáo mà suy xét, có đôi điều cần nhìn nhận lại.
Điều cần xét lại đầu tiên, trách nhiệm của việc để mất nước không phải chỉ một mình triều nhà Hồ phải chịu. Đất nước đã suy yếu từ rất lâu trước khi Hồ Quý Ly nắm quyền bính, do những cuộc đấu đá nội bộ và sự điều hành yếu kém, sai lầm của các vua cuối đời Trần. Hồ Quý Ly chuyên chính, phần nào đã giúp đất nước giải quyết được khủng hoảng, đáng kể nhất là lấy lại được thế thượng phong khi đối đầu với nước Chiêm Thành. Kinh tế, quân sự thời nhà Hồ vượt trội hơn hẳn cuối thời Trần. Quân Đại Ngu đủ sức khiến nước Chiêm Thành phải cắt đất cầu hòa, chấp nhận triều cống. Đó là điều mà quân Đại Việt cuối thời Trần không bao giờ làm nổi.
Điều thứ hai cần nhìn nhận lại, nếu xét theo quan niệm “chính danh” của Nho gia thì ở nước ta, những triều đại rực rỡ cũng không đáp ứng được tiêu chí “chính danh”. Đinh Tiên Hoàng nhân lúc trung ương suy yếu mà khởi binh ở Hoa Lư, chống nhau với Ngô vương. Trên thực tế, thế lực họ Đinh là sứ quân nổi lên đầu tiên, tức là người khởi loạn chứ không phải chờ các sứ quân khác làm loạn rồi mới ra quân dẹp loạn như một số sách viết theo lối thần tượng hóa nhân vật lịch sử.Đinh Tiên Hoàng cuối cùng thống nhất các sứ quân mà lên ngôi. Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ đều là quyền thần có được ngôi vị nhờ vào vây cánh ủng hộ. Lê Đại Hành nằm quyền quân đội, Lý Thái Tổ thao túng cả triều đình. Nhà Trần lên ngôi cũng do Trần Thủ Độ sắp xếp, họ Trần từng bước nắm hết quyền lực của họ Lý, khi đổi ngôi đã giết hại rất nhiều tôn thất nhà Lý.
Vậy điều khác biệt là ở đâu? Là những họ kia dù cướp ngôi nhưng lập được chiến công chống giặc ngoại xâm, hay có đức dày tạo phúc cho dân nên từ chỗ không “chính danh”, đều trở thành “hợp với mệnh trời”. Còn riêng họ Hồ đã không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử, nên bị công luận lên án gay gắt là vậy.
Với luồng tư tưởng mới, sử sách hiện đại có cách nhìn nhận có phần khác biệt các sách sử xưa. Sách Đại cương Lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo dục nhận xét: “Mong sớm giải quyết cuộc khủng hoảng trước nguy cơ ngoại xâm đang đến gần, Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách về mọi mặt, thậm chí giành lấy ngôi vua, lập triều đại mới để cải cách. Nhà Hồ đã làm được một số việc phù hợp với yêu cầu chung của xã hội ta hồi ấy nhưng lại không xoa dịu được mâu thuẫn sâu sắc vốn có. Một số hành động đàn áp, tàn sát do việc chuyển đổi triều đại gây ra lại tạo thêm khó khăn cho việc giải quyết những mâu thuẫn nói trên…”
Học giả Lê Thành Khôi trong sách Lịch Sử Việt Nam Từ Nguồn Gốc Đến Thế Kỷ 20 một mặt đánh giá rằng việc thoán đoạt ngôi vua của Hồ Quý Ly đã tạo cớ cho Trung Quốc xâm lược, nhưng mặt khác vẫn dành những mục dài để viết về sự thối nát cuối thời Trần, coi sự sụp đổ của triều đại này là một điều tất yếu. Lê Thành Khôi cũng đánh giá Hồ Quý Ly là một “chính trị gia có đầu óc”đã có nhiều cố gắng và ghi nhận một số thành tựu đáng kể của nhà Hồ trong việc cải thiện kinh tế xã hội.
Như vậy, trong khi sử sách phong kiến coi Hồ Quý Ly thuần túy là một con người vì lòng tham mà thoán đoạt ngôi vua thì sử sách của thời đại mới lại nhìn nhận Hồ Quý Ly là một nhà cải cách đã bị buộc phải dùng đến biện pháp mạnh nhất là giành lấy ngôi vị để cải cách. Đó là công luận các thời kỳ, các độc giả có thể tham khảo để rút ra chính kiến của riêng mình. Tuy nhiên, dù có bào chữa như thế nào thì nhà Hồ cũng không tránh khỏi tội danh làm mất nước vào tay ngoại bang, một lần nữa đẩy dân tộc ta vào ách đô hộ phương bắc. Lần đô hộ này, dân tộc Việt đã chịu nhiều mất mát về con người, của cải, thành tựu văn hóa…
Tuy nhiên, với sức sống của một dân tộc đang vươn lên mạnh mẽ, tổ tiên của chúng ta đã một lần nữa chứng minh ý chí và sức mạnh trước quân xâm lược. Những năm quân Minh chiếm đóng nước ta cũng là những năm ròng chiến đấu không ngơi nghỉ. Quân giặc sẽ còn đổ tốn nhiều xương máu cho tới khi hoàn toàn thất bại.
Về khách quan mà nói, nhà Hồ kế thừa đất nước từ triều đại trước với những khó khăn chồng chất. Nước Đại Ngu bị kẹp giữa hai thế lực hiếu chiến và đương lúc hùng mạnh, lại quyết tâm xâu xé nước ta một cách cao độ. Nhưng quan trọng nhất, thất bại trong chiến tranh là hệ quả của một loạt những sai lầm về đường lối chính trị, quân sự, kinh tế của những người lãnh đạo đất nước, cùng với những nhận thức sai lầm về kẻ xâm lược của các tầng lớp nhân dân.
Các sách sử thời phong kiến chỉ trích Hồ Quý Ly rất nặng nề. Thậm chí có lúc cực đoan đến mức coi việc họ Hồ bại vong về tay người Minh là một điều hợp với quy luật. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên bàn: “Họ Hồ giết Trần Thuận Tông mà cướp lấy nước, những người như Trần Hãng, Trần Khát Chân mưu giết mà không được. Sau khi họ chết, trong khoảng 7, 8 năm, không còn ai có thể làm được việc ấy nữa. [Họ Hồ] tự cho là người trong nước không còn ai dám làm gì nữa. Nhưng bọn loạn thần tặc tử thì ai ai cũng có thể giết chết chúng được và trời cũng không một ngày nào tha trừng phạt chúng dưới gầm trời này! Người trong nước giết chúng không được thì ngưoời nước láng giềng có thể giết, người nước láng giềng giết không được thì người Di người Địch có thể giết. Vì thế người Minh mới có thể giết được chúng”.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thời Nguyễn có lời phê về việc Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt: “Mấy lần lật lọng lời thề nguyền, tính toán lấn cướp ngôi vua một cách xảo quyệt! Đến bây giờ có thể xảo trá để thoát thân được không ? Đạo trời báo ứng, rõ ràng không sai, chả đáng sợ lắm sao?”
Ngay cả một trí thức đầu thế kỷ 20 như Trần Trọng Kim cũng có lời phê bình nặng nề: “Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung, thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người !”
Các sách xưa không tiếc lời chỉ trích Hồ Quý Ly là vì sao? Là bởi Hồ Quý Ly đã làm việc mà luân lý Nho giáo đương thời coi là “đại nghịch bất đạo”, tức là bề tôi mà cướp ngôi vua. Thêm nữa, Hồ Quý Ly đã chịu tội cướp ngôi, lại chịu thêm tội danh làm mất nước. Tuy nhiên, thử thoát khỏi lối tư duy Nho giáo mà suy xét, có đôi điều cần nhìn nhận lại.
Điều cần xét lại đầu tiên, trách nhiệm của việc để mất nước không phải chỉ một mình triều nhà Hồ phải chịu. Đất nước đã suy yếu từ rất lâu trước khi Hồ Quý Ly nắm quyền bính, do những cuộc đấu đá nội bộ và sự điều hành yếu kém, sai lầm của các vua cuối đời Trần. Hồ Quý Ly chuyên chính, phần nào đã giúp đất nước giải quyết được khủng hoảng, đáng kể nhất là lấy lại được thế thượng phong khi đối đầu với nước Chiêm Thành. Kinh tế, quân sự thời nhà Hồ vượt trội hơn hẳn cuối thời Trần. Quân Đại Ngu đủ sức khiến nước Chiêm Thành phải cắt đất cầu hòa, chấp nhận triều cống. Đó là điều mà quân Đại Việt cuối thời Trần không bao giờ làm nổi.
Điều thứ hai cần nhìn nhận lại, nếu xét theo quan niệm “chính danh” của Nho gia thì ở nước ta, những triều đại rực rỡ cũng không đáp ứng được tiêu chí “chính danh”. Đinh Tiên Hoàng nhân lúc trung ương suy yếu mà khởi binh ở Hoa Lư, chống nhau với Ngô vương. Trên thực tế, thế lực họ Đinh là sứ quân nổi lên đầu tiên, tức là người khởi loạn chứ không phải chờ các sứ quân khác làm loạn rồi mới ra quân dẹp loạn như một số sách viết theo lối thần tượng hóa nhân vật lịch sử.Đinh Tiên Hoàng cuối cùng thống nhất các sứ quân mà lên ngôi. Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ đều là quyền thần có được ngôi vị nhờ vào vây cánh ủng hộ. Lê Đại Hành nằm quyền quân đội, Lý Thái Tổ thao túng cả triều đình. Nhà Trần lên ngôi cũng do Trần Thủ Độ sắp xếp, họ Trần từng bước nắm hết quyền lực của họ Lý, khi đổi ngôi đã giết hại rất nhiều tôn thất nhà Lý.
Vậy điều khác biệt là ở đâu? Là những họ kia dù cướp ngôi nhưng lập được chiến công chống giặc ngoại xâm, hay có đức dày tạo phúc cho dân nên từ chỗ không “chính danh”, đều trở thành “hợp với mệnh trời”. Còn riêng họ Hồ đã không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử, nên bị công luận lên án gay gắt là vậy.
Với luồng tư tưởng mới, sử sách hiện đại có cách nhìn nhận có phần khác biệt các sách sử xưa. Sách Đại cương Lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Giáo dục nhận xét: “Mong sớm giải quyết cuộc khủng hoảng trước nguy cơ ngoại xâm đang đến gần, Hồ Quý Ly đã tiến hành cuộc cải cách về mọi mặt, thậm chí giành lấy ngôi vua, lập triều đại mới để cải cách. Nhà Hồ đã làm được một số việc phù hợp với yêu cầu chung của xã hội ta hồi ấy nhưng lại không xoa dịu được mâu thuẫn sâu sắc vốn có. Một số hành động đàn áp, tàn sát do việc chuyển đổi triều đại gây ra lại tạo thêm khó khăn cho việc giải quyết những mâu thuẫn nói trên…”
Học giả Lê Thành Khôi trong sách Lịch Sử Việt Nam Từ Nguồn Gốc Đến Thế Kỷ 20 một mặt đánh giá rằng việc thoán đoạt ngôi vua của Hồ Quý Ly đã tạo cớ cho Trung Quốc xâm lược, nhưng mặt khác vẫn dành những mục dài để viết về sự thối nát cuối thời Trần, coi sự sụp đổ của triều đại này là một điều tất yếu. Lê Thành Khôi cũng đánh giá Hồ Quý Ly là một “chính trị gia có đầu óc”đã có nhiều cố gắng và ghi nhận một số thành tựu đáng kể của nhà Hồ trong việc cải thiện kinh tế xã hội.
Như vậy, trong khi sử sách phong kiến coi Hồ Quý Ly thuần túy là một con người vì lòng tham mà thoán đoạt ngôi vua thì sử sách của thời đại mới lại nhìn nhận Hồ Quý Ly là một nhà cải cách đã bị buộc phải dùng đến biện pháp mạnh nhất là giành lấy ngôi vị để cải cách. Đó là công luận các thời kỳ, các độc giả có thể tham khảo để rút ra chính kiến của riêng mình. Tuy nhiên, dù có bào chữa như thế nào thì nhà Hồ cũng không tránh khỏi tội danh làm mất nước vào tay ngoại bang, một lần nữa đẩy dân tộc ta vào ách đô hộ phương bắc. Lần đô hộ này, dân tộc Việt đã chịu nhiều mất mát về con người, của cải, thành tựu văn hóa…
Tuy nhiên, với sức sống của một dân tộc đang vươn lên mạnh mẽ, tổ tiên của chúng ta đã một lần nữa chứng minh ý chí và sức mạnh trước quân xâm lược. Những năm quân Minh chiếm đóng nước ta cũng là những năm ròng chiến đấu không ngơi nghỉ. Quân giặc sẽ còn đổ tốn nhiều xương máu cho tới khi hoàn toàn thất bại.
Chính sách đồng hóa, chia rẽ thâm độc của nhà Minh ở nước ta
Quan lại nhà Minh đưa người vào nước ta
Để thực hiện chính sách “dùng người Di trị người Di”, giặc Minh lôi kéo những trí thức, quý tộc người Việt làm tay sai cho chúng. Người Minh đem người trẻ con người Việt gọi là “Giao Đồng” về nước dạy dỗ để chúng trở thành những kẻ vong bản, rồi lại phái về nước làm ngụy quan.
Trong lúc tiến hành xâm lược nước ta, quân Minh đã không tiếc lời dụ dỗ nhân dân. Bảng văn tuyên truyền mà Trương Phụ cho người phân phát khắp nơi có những dòng nghe thật hợp với chính nghĩa: “Chờ đến ngày cha con giặc Lê [chỉ Hồ Quý Ly và các con] bị bắt, sẽ họp quan viên, tướng lại và kỹ lão trong nước, tìm con cháu họ Trần lập làm Quốc vương để rửa nỗi oan ức cho u hồn dưới suối vàng, cứu dân trong nước khỏi cơn cực khổ …”(theo An Nam chí nguyên, Cao Trùng Hưng).
Những lời lẽ đó đã lung lạc không ít người cả tin trong nước, khiến cho tay gươm buông lỏng, để cho quân xâm lược có được lợi thế. Họ không hay biết rằng, đằng sau những lời chính nghĩa là cả một âm mưu hủy diệt dân tộc của vua tôi nước Minh. Thực tế, ngay trước khi xuất quân thì Minh Thành Tổ Chu Đệ đã ra lệnh cho các tướng: “Khi tiến quân vào An Nam thì chỉ trừ những bản kinh và sách về Đạo, Thích không hủy. Còn tất cả những bản in sách, các giấy tờ cho đến sách học trẻ con như loại “thượng, đại, nhân, khẩu, ất, kỷ” thì nhất thiết một mảnh giấy, một chữ đều phải thiêu hủy hết. Trong nước ấy, chỉ có những bia do Trung Quốc dựng lên ngày trước thì để lại. Còn những bia do An Nam lập ra thì phải phá cho hết, một chữ cũng không được để lại”. Nhìn mệnh lệnh của Chu Đệ có thể thấy, việc xóa sổ nước ta là một âm mưu trước sau rất rõ ràng và nhất quán của giặc Minh, với trọng tâm xuyên suốt được Chu Đệ xác định là hủy diệt văn hóa, cắt đứt sợi dây liên kết giữa các thế hệ người Việt, biến dân ta thành một giống dân không văn hóa, không lịch sử, không bản sắc. Khi đó, kẻ đô hộ có thể dễ dàng hơn trong việc đồng hóa nhân dân nước ta.
Để thực hiện âm mưu của mình, Trương Phụ ngay sau khi chiếm quyền kiểm soát Đông Đô và các vùng phụ cận liền lập tức dựng lên một màn kịch hợp thức hóa việc xóa sổ nước Việt. Đầu tiên Trương Phụ vẫn cho phao tin tìm con cháu họ Trần ra làm vua. Kế đến, bọn phản quốc đứng đầu là Mạc Thúy được giặc giật dây mạo xưng là “quan lại và kỳ lão” nước ta nhiều lần khai rằng: “Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An Nam nguyên trước là Giao Châu, xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được đổi mới”. Trương Phụ theo lời đó tâu về triều, Chu Đệ lập tức đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, trực thuộc nước Minh. Tên nước Đại Việt bị xóa bỏ, nhân dân bấy giờ nhìn rõ hơn bao giờ hết nỗi đau mất nước và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của giặc.
Mọi việc không chỉ dừng lại ở đó. Mặc dù tiếng là người chung một nước với quân Minh, thực chất kẻ đô hộ chỉ coi dân ta là những “dân hạng hai”. Trong các văn bản, lời nói vẫn nhiều lúc gọi người Việt là “người Di”, “người Man”. Về các chính sách cai trị, người ở quận Giao Chỉ thuộc Minh đều phải chịu sự phân biệt với những dân mà Minh triều coi là “trong vòng thanh giáo”.
Về tổ chức chính quyền cai trị, giặc Minh bãi bỏ mô hình hành chính cũ của nước ta và thay thế bằng mô hình hành chính của “chính quốc”. Đứng đầu bộ máy cai trị quận Giao Chỉ là ba ti gồm Đô ti phụ trách quân sự, Bố chính ti phụ trách dân sự và tài chính, Án sát ti phụ trách tư pháp và giám sát. Chúng lại chia “quận Giao Chỉ” thành 15 phủ, 36 châu, 118 huyện. Ngoài ra còn có 5 châu trực thuộc quận. Ở các làng xã nông thôn, giặc Minh chia làm các lí và giáp. Mỗi lí gồm 110 hộ, mỗi giáp gồm 10 hộ. Ở kinh thành làng xã chia thành phường và sương với số hộ tương đương với các lí, giáp tại nông thôn. Giặc Minh cố gắng can thiệp vào hệ thống làng xã truyền thống của người Việt. Nhưng đó chỉ là trên lý thuyết của chúng. Trên thực tế quân Minh chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ nước ta. Ngay trong các vùng giặc kiểm soát, tính tự trị của làng xã vẫn rất lớn. Điểm nổi bật nhất trong việc tổ chức cai trị là việc quân sự hóa một cách cao độ. Trên toàn cõi nước ta, quân Minh xây dựng một hệ thống đồn lũy, thành trì dày đặc. Có đến 39 thành trì lớn, với số quân thường trực khoảng 10 vạn quân (chưa kể ngụy binh) được duy trì để sẵn sàng đán áp các sự phản kháng của nhân dân ta.
Ngay từ lúc tiến đánh nước Đại Ngu thì quân Minh đã thẳng tay vơ vét, cướp bóc của cải. Số “chiến lợi phẩm” mà Trương Phụ báo về Minh triều gồm 235.000 voi, ngựa, trâu bò, 13.600.000 thạch thóc, 8.670 chiến thuyền, 2.539.800 đồ quân khí. Những con số khổng lồ đó cũng là minh chứng cho việc cướp bóc một cách tàn nhẫn của giặc. Sau đợt cướp bóc đó là sự vơ vét bằng các loại thuế muối, thuế khai mỏ, thuế đinh, thuế ruộng… Nhân dân còn bị bắt phu để khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai, tìm lâm sản… Chẳng những bóc lột của cải vật chất, nước Minh còn bắt rất nhiều người Việt làm nô lệ cho chúng. Rất nhiều người bao gồm thợ thủ công, nhạc công, thầy thuốc, phụ nữ, trẻ em… đã bị bắt về nước Minh phục dịch suốt đời cho triều đình, quan lại người Minh. Tàn ác hơn cả là chúng đã tìm bắt những bé trai tuấn tú lúc còn rất nhỏ để đem về nước thiến hoạn, rồi giáo dục các bé trai đó trở thành nô bộc suốt đời trong cung cấm Minh triều, không chút ý niệm về sự phản kháng.
Để thực hiện chính sách “dùng người Di trị người Di”, giặc Minh lôi kéo những trí thức, quý tộc người Việt làm tay sai cho chúng. Người Minh đem người trẻ con người Việt gọi là “Giao Đồng” về nước dạy dỗ để chúng trở thành những kẻ vong bản, rồi lại phái về nước làm ngụy quan. Thanh niên trai tráng người Việt được chiêu mộ hoặc cưỡng ép tòng quân. Số lượng ngụy quan, ngụy quân thời thuộc Minh rất đông đảo. Giặc Minh dùng chính những người này để kìm kẹp nhân dân, đàn áp các lực lượng chống lại chúng, đồng thời cũng là cách để chia rẽ người Việt với nhau, khiến cho dân ta không đoàn kết lại. Với những người mà giặc Minh không lung lạc được, chúng tìm cách giam lỏng, bắt bớ, giết hại.
Nhất quán và xuyên suốt hơn cả là chính sách hủy diệt văn minh, đồng hóa dân tộc của giặc Minh. Các sách vở, văn bia bị phá hủy không thương tiếc. Một số sách bị thu gom về nước Minh. Các công trình kiến trúc đã xây dựng xuyên suốt mấy trăm năm của người Việt phút chốc tan tành trước sự tàn phá của quân giặc. An Nam Tứ Đại Khí bao gồm vạc Phổ Minh, chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng phật Quỳnh Lâm là những báu vật bằng đồng quý giá, biểu trưng cho văn minh Đại Việt lần lượt bị quân Minh phá hủy. Các phong tục, tập quán của người Việt đều bị coi là “Man tục”. Quân Minh cấm người nước ta không được nhuộm răng đen, nam không được cắt tóc, nữ không được mặc váy… Mọi nghi lễ, chuẩn mực đều phải theo người nước Minh. Những người chống đối lại bị tàn sát không thương tiếc. Sách Cương Mục nhà Nguyễn viết về sự tàn bạo của quân Minh: “… đi đến đâu chém giết thả cửa, hoặc xếp thây người làm quả núi, hoặc bồn ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người chửa, cắt lấy hai tai của mẹ và con để dâng cho giặc… ”
Tộc ác của quân Minh không sao kể cho hết được. Đúng như lời Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi
Trước đây, khi quân Minh tiến vào nước ta nhiều tầng lớp nhân dân vẫn mù mờ về dã tâm của giặc. Đến khi nước Minh áp đặt được chế độ trực trị, tội ác đã quá rõ ràng, người người bèn rủ nhau chống lại. Trong dân gian có lời nguyền :
“Muốn sống đi ẩn rừng ẩn núi
Muốn chết làm quan triều Minh”
Rõ ràng những chính sách chiêu an giả tạo của người Minh đã không lừa dối được đại đa số nhân dân nữa, khi mà hành tung của chúng luôn đi ngược với những lời nói nhân nghĩa. Ngay lúc nhà Hồ sụp đổ, các cuộc khởi nghĩa đã manh nha nổ ra khắp đất nước.
Có thể nói rằng vua khai sáng nước Minh là Chu Nguyên Chương đã có một tầm nhìn xác đáng về vấn đề đối ngoại. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn, Chu Nguyên Chương đã nhắc nhở các vua kế vị thận trọng khi động binh đao với những nước láng giềng:
“Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người. Hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy !”.
Nhưng Chu Đệ với bản tính tham công ngạo mạn của mình đã bỏ ngoài tai, phạm đúng vào sai lầm “tham chiến công một thời”. Khi chiếm được nước ta rồi, Trương Phụ về triều tâng công với Chu Đệ. Vua tôi mặc sức tâng bốc lẫn nhau. Chu Đệ nói:
“Trẫm là vị chúa nhân dân trong bốn bể, há lại ưa dùng binh đến cùng, tham giàu có đất đai nhân dân ư! Vì nghịch tặc không thể không tru diệt, dân cùng khổ không thể không giúp. Bọn Phụ tuân theo mệnh của Trẫm, phấn dũng ra mưu, giết bắt bọn hung đồ, bình định một phương, công đó có thể gọi là hùng vĩ phi thường vậy!”.
Trương Phụ đáp lời: “Do Hoàng thượng trù hoạch cùng uy linh của quốc gia, còn kẻ ngu thần này có công gì?”
Chu Đệ lại nói: “Công của ngươi sẽ được vĩnh viễn ghi trong sử sách không bao giờ lu mờ, tuy Hán Phục Ba [tức Mã Viện - TG] cũng không hơn vậy”
Việc so sánh Trương Phụ với Mã Viện – viên tướng đời Hán đã đánh bại hai bà Trưng, thiết lập nền đô hộ của đế chế Hán lên vùng Lĩnh Nam cho thấy tư tưởng bành trướng của Chu Đệ chẳng thua kém vua Hán Quang Vũ Lưu Tú (vua của Mã Viện), và cả hai đều bất chấp nỗi thống khổ của nhân dân, sự mất mát việc nhân mạng cho thần dân, quân lính để đạt được mục đích. Tuy nhiên bấy giờ thời thế đã thay đổi. Dân tộc Việt thế kỷ 15 đã là một dân tộc đông đúc, có nền tảng văn minh mạnh, có ý thức quốc gia dân tộc mạnh, đủ sức để đương đầu với đế chế phương bắc trong một cuộc chiến đầu trường kỳ. Trước những tội ác của quân Minh, nhân dân đã từng bước nhận rõ bộ mặt thật của chúng. Phong trào chống Minh cũng do đó mà tăng dần theo thời gian, bất chấp sự đàn áp vô cùng tàn bạo của giặc. Trong bối cảnh nước Minh thời này vẫn phải chịu sự đe dọa thường trực và mạnh mẽ từ thế lực Bắc Nguyên, cuộc sa lầy ở Đại Việt càng làm cho nước Minh thêm khốn đốn.
Hầu như tiếp sau cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ, ngay trong năm 1407 nhân dân nhiều nơi trong nước đã đứng lên chống Minh.Cho đến tháng 8.1407, Mộc Thạnh phải đem một phần quân chủ lực rút về nước Minh để giảm bớt gánh nặng hậu cần cho đạo quân khổng lồ (20 vạn lính lúc ra quân). Trương Phụ vẫn ở lại với một lực lượng khá đông đúc, tiếp tục chính sách xây dựng thêm các lực lượng ngụy binh để chia sẻ gánh nặng với quân chủ lực nước Minh. Hào kiệt các nơi thừa cơ Mộc Thạnh rút bớt quân về nước, càng hăng hái nổi lên chống giặc.
Nghĩa quân Thất Nguyên :
Tại châu Thất Nguyên (Lạng Sơn), những lực lượng còn sót lại của quân đội Đại Ngu vẫn kiên quyết đánh giặc bất chấp triều đình nhà Hồ đã sụp đổ. Họ trở thành một trong những nghĩa quân đầu tiên trong cuộc chiến tự phát chống quân Minh. Nghĩa quân lợi dụng địa thế hiểm trở mà cố thủ, quân Minh dù có lực lượng lớn vẫn không thể tung quân tiến đánh một trận được. Tháng 9.1407, nghĩa quân ở châu Thất Nguyên hoạt động mạnh ở khắp các vùng biên giới phía bắc. Trương Phụ phái Tiền quân đô đốc Cao Sĩ Văn đem quân tiến đánh, đến châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) thì đụng độ quân ta. Hai bên giáp chiến hồi lâu, nghĩa quân rút vào trại cố thủ. Cao Sĩ Văn ngày đêm thúc quân công phá. Khi trại sắp vỡ, nghĩa quân cho một cánh quân ra khiêu khích rồi nhử giặc vào trong núi. Cao Sĩ Văn dẫn quân đuổi theo, trúng mai phục. Nghĩa quân dựa vào vách núi lăn đá, bắn tên đạn xuống tới tấp. Cao Sĩ Văn trúng đạn chết. Quân Minh tổn thất nặng, nhưng bộ tướng dưới trướng Cao Sĩ Văn lên thay thế vẫn cố sức đánh. Nghĩa quân phải rút về căn cứ Thất Nguyên. Trương Phụ lại phái thêm một đạo quân khác dưới quyền của Đô chỉ huy Trịnh Sảng tiến đánh Thất Nguyên. Nghĩa quân vốn đã chịu nhiều tổn thất ở Quảng Nguyên, lại bị quân Minh liên tiếp tăng viện nên không chống nổi, bị quân Minh đánh tan.
Nổi dậy ở phủ Diễn Châu (Nghệ An) :
Mùa thu năm 1407, nhân dân ở các huyện Đông Lan, Trà Thanh thuộc phủ Diễn Châu nổi dậy phá nhà ngục, giết chết huyện quan.
Khởi nghĩa Đông Triều (Quảng Ninh) :
Cuối năm 1407, tại bến Bình Than một tôn thất nhà Trần là Trần Nguyệt Hồ được thổ hào Phạm Chấn tôn làm vua, hiệu triệu nhân dân phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân giương cờ Trung nghĩa quân đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa thu hút nhiều tướng lĩnh, binh lính cũ của nhà Hồ tham gia, gây cho quân Minh rất nhiều khó khăn.
Khởi nghĩa Lục Ngạn (Bắc Ninh) :
Cũng cuối năm 1407, Phạm Tất Đại cùng chín chiến hữu của mình khởi binh chống Minh ở Lục Ngạn.
Các cuộc khởi nghĩa năm 1408 :
- Trần Nguyên Thôi khởi binh ở Tam Đái (Vĩnh Phú)
- Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí khởi binh ở Thái Nguyên
- Trần Nguyên Lộc khởi nghĩa tại huyện Tuyên Hóa (Bắc Kạn)
- Trần Nguyên Tôn khởi nghĩa tại châu Hạ Hồng phủ Tân An (Hải Dương)
- Các cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), Đan Phượng, Thạch Thất (Hà Nội ngày nay), Nam Sách (Hải Dương), Kiến Hưng (Thái Bình, Nam Định), Kiến Bình (Nam Định), Lạng Giang (Bắc Ninh, Lạng Sơn), ngoại thành Đông Quan (Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa) …
Phong trào khởi nghĩa diễn ra rầm rộ khắp nơi, gần như tiến tới tổng khởi nghĩa khiến cho quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Cho đến hết năm 1408, quân giặc chỉ thực sự nắm quyền kiểm soát tại các điểm đóng trong các thành trì. Những bản đồ mà nền đô hộ áp đặt lên đất nước ta vẫn chỉ là lý thuyết trên giấy. Ngay tại thủ phủ Đông Quan (tên của Đông Đô khi giặc Minh chiếm đóng), quân giặc cũng không dám tùy tiện đi lại ra khỏi thành lũy. Ở các vùng nông thôn, hầu hết quân dân người Việt vẫn làm chủ trên thực địa.
Nhưng với tính chất tự phát và manh mún, các cuộc khởi nghĩa không thể tiến tới một hành động thống nhất để tung những đòn quyết định nhằm vào giặc được. Quân Minh với lợi thế binh lực tập trung và sự thống nhất về bộ máy đã từng bước dồn quân đánh diệt từng cuộc khởi nghĩa. Giống như một bó đũa bị chia ra từng chiếc để rồi bị bẻ gãy nhanh chóng, các cuộc khởi nghĩa diễn ra rầm rộ nhưng rồi lần lượt bị giặc Minh dập tắt.
Các cuộc khởi nghĩa tự phát ban đầu dù thất bại nhưng cũng đóng góp rất lớn vào cuộc chiến chung của dân tộc chống lại quân Minh. Với việc phải bận chống lại các phong trào khởi nghĩa, quân Minh đã bị chậm tiến độ áp đặt nền đô hộ lên toàn cõi nước ta. Điều đó tạo thuận lợi cho những phong trào lớn hơn mang tính chất toàn quốc có thời gian, không gian tụ họp lực lượng để tung những đòn mạnh mẽ hơn vào quân xâm lược. Một bộ phận khá đông đảo thuộc các cuộc khởi nghĩa bị quân Minh đàn áp vẫn sống sót và trở thành những chiến binh kinh nghiệm, bổ sung cho các phong trào kháng chiến về sau.
Từ trong phong trào kháng Minh rầm rộ, một cuộc thế lực mới đã nổi lên mà về sau khiến cho quân Minh phải nhiều phen kinh hồn bạt vía. Ngày 1.11.1407, tại Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên thổ hào Trần Triệu Cơ đã phò tôn thất Trần Ngỗi lên ngôi, lấy danh xưng là Giản Định Đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại nhà Trần. Nhà Hậu Trần trong sử Việt bắt đầu từ đây. Một chương bi tráng bậc nhất của sử sách nước ta sắp sửa diễn ra.
Những lời lẽ đó đã lung lạc không ít người cả tin trong nước, khiến cho tay gươm buông lỏng, để cho quân xâm lược có được lợi thế. Họ không hay biết rằng, đằng sau những lời chính nghĩa là cả một âm mưu hủy diệt dân tộc của vua tôi nước Minh. Thực tế, ngay trước khi xuất quân thì Minh Thành Tổ Chu Đệ đã ra lệnh cho các tướng: “Khi tiến quân vào An Nam thì chỉ trừ những bản kinh và sách về Đạo, Thích không hủy. Còn tất cả những bản in sách, các giấy tờ cho đến sách học trẻ con như loại “thượng, đại, nhân, khẩu, ất, kỷ” thì nhất thiết một mảnh giấy, một chữ đều phải thiêu hủy hết. Trong nước ấy, chỉ có những bia do Trung Quốc dựng lên ngày trước thì để lại. Còn những bia do An Nam lập ra thì phải phá cho hết, một chữ cũng không được để lại”. Nhìn mệnh lệnh của Chu Đệ có thể thấy, việc xóa sổ nước ta là một âm mưu trước sau rất rõ ràng và nhất quán của giặc Minh, với trọng tâm xuyên suốt được Chu Đệ xác định là hủy diệt văn hóa, cắt đứt sợi dây liên kết giữa các thế hệ người Việt, biến dân ta thành một giống dân không văn hóa, không lịch sử, không bản sắc. Khi đó, kẻ đô hộ có thể dễ dàng hơn trong việc đồng hóa nhân dân nước ta.
Để thực hiện âm mưu của mình, Trương Phụ ngay sau khi chiếm quyền kiểm soát Đông Đô và các vùng phụ cận liền lập tức dựng lên một màn kịch hợp thức hóa việc xóa sổ nước Việt. Đầu tiên Trương Phụ vẫn cho phao tin tìm con cháu họ Trần ra làm vua. Kế đến, bọn phản quốc đứng đầu là Mạc Thúy được giặc giật dây mạo xưng là “quan lại và kỳ lão” nước ta nhiều lần khai rằng: “Họ Trần không còn người nào có thể thừa kế được. An Nam nguyên trước là Giao Châu, xin khôi phục lại chế độ quận huyện, cho dân được đổi mới”. Trương Phụ theo lời đó tâu về triều, Chu Đệ lập tức đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, trực thuộc nước Minh. Tên nước Đại Việt bị xóa bỏ, nhân dân bấy giờ nhìn rõ hơn bao giờ hết nỗi đau mất nước và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của giặc.
Mọi việc không chỉ dừng lại ở đó. Mặc dù tiếng là người chung một nước với quân Minh, thực chất kẻ đô hộ chỉ coi dân ta là những “dân hạng hai”. Trong các văn bản, lời nói vẫn nhiều lúc gọi người Việt là “người Di”, “người Man”. Về các chính sách cai trị, người ở quận Giao Chỉ thuộc Minh đều phải chịu sự phân biệt với những dân mà Minh triều coi là “trong vòng thanh giáo”.
Về tổ chức chính quyền cai trị, giặc Minh bãi bỏ mô hình hành chính cũ của nước ta và thay thế bằng mô hình hành chính của “chính quốc”. Đứng đầu bộ máy cai trị quận Giao Chỉ là ba ti gồm Đô ti phụ trách quân sự, Bố chính ti phụ trách dân sự và tài chính, Án sát ti phụ trách tư pháp và giám sát. Chúng lại chia “quận Giao Chỉ” thành 15 phủ, 36 châu, 118 huyện. Ngoài ra còn có 5 châu trực thuộc quận. Ở các làng xã nông thôn, giặc Minh chia làm các lí và giáp. Mỗi lí gồm 110 hộ, mỗi giáp gồm 10 hộ. Ở kinh thành làng xã chia thành phường và sương với số hộ tương đương với các lí, giáp tại nông thôn. Giặc Minh cố gắng can thiệp vào hệ thống làng xã truyền thống của người Việt. Nhưng đó chỉ là trên lý thuyết của chúng. Trên thực tế quân Minh chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ nước ta. Ngay trong các vùng giặc kiểm soát, tính tự trị của làng xã vẫn rất lớn. Điểm nổi bật nhất trong việc tổ chức cai trị là việc quân sự hóa một cách cao độ. Trên toàn cõi nước ta, quân Minh xây dựng một hệ thống đồn lũy, thành trì dày đặc. Có đến 39 thành trì lớn, với số quân thường trực khoảng 10 vạn quân (chưa kể ngụy binh) được duy trì để sẵn sàng đán áp các sự phản kháng của nhân dân ta.
Ngay từ lúc tiến đánh nước Đại Ngu thì quân Minh đã thẳng tay vơ vét, cướp bóc của cải. Số “chiến lợi phẩm” mà Trương Phụ báo về Minh triều gồm 235.000 voi, ngựa, trâu bò, 13.600.000 thạch thóc, 8.670 chiến thuyền, 2.539.800 đồ quân khí. Những con số khổng lồ đó cũng là minh chứng cho việc cướp bóc một cách tàn nhẫn của giặc. Sau đợt cướp bóc đó là sự vơ vét bằng các loại thuế muối, thuế khai mỏ, thuế đinh, thuế ruộng… Nhân dân còn bị bắt phu để khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai, tìm lâm sản… Chẳng những bóc lột của cải vật chất, nước Minh còn bắt rất nhiều người Việt làm nô lệ cho chúng. Rất nhiều người bao gồm thợ thủ công, nhạc công, thầy thuốc, phụ nữ, trẻ em… đã bị bắt về nước Minh phục dịch suốt đời cho triều đình, quan lại người Minh. Tàn ác hơn cả là chúng đã tìm bắt những bé trai tuấn tú lúc còn rất nhỏ để đem về nước thiến hoạn, rồi giáo dục các bé trai đó trở thành nô bộc suốt đời trong cung cấm Minh triều, không chút ý niệm về sự phản kháng.
Để thực hiện chính sách “dùng người Di trị người Di”, giặc Minh lôi kéo những trí thức, quý tộc người Việt làm tay sai cho chúng. Người Minh đem người trẻ con người Việt gọi là “Giao Đồng” về nước dạy dỗ để chúng trở thành những kẻ vong bản, rồi lại phái về nước làm ngụy quan. Thanh niên trai tráng người Việt được chiêu mộ hoặc cưỡng ép tòng quân. Số lượng ngụy quan, ngụy quân thời thuộc Minh rất đông đảo. Giặc Minh dùng chính những người này để kìm kẹp nhân dân, đàn áp các lực lượng chống lại chúng, đồng thời cũng là cách để chia rẽ người Việt với nhau, khiến cho dân ta không đoàn kết lại. Với những người mà giặc Minh không lung lạc được, chúng tìm cách giam lỏng, bắt bớ, giết hại.
Nhất quán và xuyên suốt hơn cả là chính sách hủy diệt văn minh, đồng hóa dân tộc của giặc Minh. Các sách vở, văn bia bị phá hủy không thương tiếc. Một số sách bị thu gom về nước Minh. Các công trình kiến trúc đã xây dựng xuyên suốt mấy trăm năm của người Việt phút chốc tan tành trước sự tàn phá của quân giặc. An Nam Tứ Đại Khí bao gồm vạc Phổ Minh, chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng phật Quỳnh Lâm là những báu vật bằng đồng quý giá, biểu trưng cho văn minh Đại Việt lần lượt bị quân Minh phá hủy. Các phong tục, tập quán của người Việt đều bị coi là “Man tục”. Quân Minh cấm người nước ta không được nhuộm răng đen, nam không được cắt tóc, nữ không được mặc váy… Mọi nghi lễ, chuẩn mực đều phải theo người nước Minh. Những người chống đối lại bị tàn sát không thương tiếc. Sách Cương Mục nhà Nguyễn viết về sự tàn bạo của quân Minh: “… đi đến đâu chém giết thả cửa, hoặc xếp thây người làm quả núi, hoặc bồn ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có người theo lệnh giặc, mổ bụng người chửa, cắt lấy hai tai của mẹ và con để dâng cho giặc… ”
Tộc ác của quân Minh không sao kể cho hết được. Đúng như lời Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi
Trước đây, khi quân Minh tiến vào nước ta nhiều tầng lớp nhân dân vẫn mù mờ về dã tâm của giặc. Đến khi nước Minh áp đặt được chế độ trực trị, tội ác đã quá rõ ràng, người người bèn rủ nhau chống lại. Trong dân gian có lời nguyền :
“Muốn sống đi ẩn rừng ẩn núi
Muốn chết làm quan triều Minh”
Rõ ràng những chính sách chiêu an giả tạo của người Minh đã không lừa dối được đại đa số nhân dân nữa, khi mà hành tung của chúng luôn đi ngược với những lời nói nhân nghĩa. Ngay lúc nhà Hồ sụp đổ, các cuộc khởi nghĩa đã manh nha nổ ra khắp đất nước.
Giặc Minh sa lầy khi lộ rõ bộ mặt thật trên đất Việt
Quân đội nhà Minh
Trước những tội ác của quân Minh, nhân dân đã từng bước nhận rõ bộ mặt thật của chúng. Phong trào chống Minh cũng do đó mà tăng dần theo thời gian, bất chấp sự đàn áp vô cùng tàn bạo của giặc. Trong bối cảnh nước Minh thời này vẫn phải chịu sự đe dọa thường trực và mạnh mẽ từ thế lực Bắc Nguyên, cuộc sa lầy ở Đại Việt càng làm cho nước Minh thêm khốn đốn.
Có thể nói rằng vua khai sáng nước Minh là Chu Nguyên Chương đã có một tầm nhìn xác đáng về vấn đề đối ngoại. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn, Chu Nguyên Chương đã nhắc nhở các vua kế vị thận trọng khi động binh đao với những nước láng giềng:
“Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người. Hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy !”.
Nhưng Chu Đệ với bản tính tham công ngạo mạn của mình đã bỏ ngoài tai, phạm đúng vào sai lầm “tham chiến công một thời”. Khi chiếm được nước ta rồi, Trương Phụ về triều tâng công với Chu Đệ. Vua tôi mặc sức tâng bốc lẫn nhau. Chu Đệ nói:
“Trẫm là vị chúa nhân dân trong bốn bể, há lại ưa dùng binh đến cùng, tham giàu có đất đai nhân dân ư! Vì nghịch tặc không thể không tru diệt, dân cùng khổ không thể không giúp. Bọn Phụ tuân theo mệnh của Trẫm, phấn dũng ra mưu, giết bắt bọn hung đồ, bình định một phương, công đó có thể gọi là hùng vĩ phi thường vậy!”.
Trương Phụ đáp lời: “Do Hoàng thượng trù hoạch cùng uy linh của quốc gia, còn kẻ ngu thần này có công gì?”
Chu Đệ lại nói: “Công của ngươi sẽ được vĩnh viễn ghi trong sử sách không bao giờ lu mờ, tuy Hán Phục Ba [tức Mã Viện - TG] cũng không hơn vậy”
Việc so sánh Trương Phụ với Mã Viện – viên tướng đời Hán đã đánh bại hai bà Trưng, thiết lập nền đô hộ của đế chế Hán lên vùng Lĩnh Nam cho thấy tư tưởng bành trướng của Chu Đệ chẳng thua kém vua Hán Quang Vũ Lưu Tú (vua của Mã Viện), và cả hai đều bất chấp nỗi thống khổ của nhân dân, sự mất mát việc nhân mạng cho thần dân, quân lính để đạt được mục đích. Tuy nhiên bấy giờ thời thế đã thay đổi. Dân tộc Việt thế kỷ 15 đã là một dân tộc đông đúc, có nền tảng văn minh mạnh, có ý thức quốc gia dân tộc mạnh, đủ sức để đương đầu với đế chế phương bắc trong một cuộc chiến đầu trường kỳ. Trước những tội ác của quân Minh, nhân dân đã từng bước nhận rõ bộ mặt thật của chúng. Phong trào chống Minh cũng do đó mà tăng dần theo thời gian, bất chấp sự đàn áp vô cùng tàn bạo của giặc. Trong bối cảnh nước Minh thời này vẫn phải chịu sự đe dọa thường trực và mạnh mẽ từ thế lực Bắc Nguyên, cuộc sa lầy ở Đại Việt càng làm cho nước Minh thêm khốn đốn.
Hầu như tiếp sau cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ, ngay trong năm 1407 nhân dân nhiều nơi trong nước đã đứng lên chống Minh.Cho đến tháng 8.1407, Mộc Thạnh phải đem một phần quân chủ lực rút về nước Minh để giảm bớt gánh nặng hậu cần cho đạo quân khổng lồ (20 vạn lính lúc ra quân). Trương Phụ vẫn ở lại với một lực lượng khá đông đúc, tiếp tục chính sách xây dựng thêm các lực lượng ngụy binh để chia sẻ gánh nặng với quân chủ lực nước Minh. Hào kiệt các nơi thừa cơ Mộc Thạnh rút bớt quân về nước, càng hăng hái nổi lên chống giặc.
Nghĩa quân Thất Nguyên :
Tại châu Thất Nguyên (Lạng Sơn), những lực lượng còn sót lại của quân đội Đại Ngu vẫn kiên quyết đánh giặc bất chấp triều đình nhà Hồ đã sụp đổ. Họ trở thành một trong những nghĩa quân đầu tiên trong cuộc chiến tự phát chống quân Minh. Nghĩa quân lợi dụng địa thế hiểm trở mà cố thủ, quân Minh dù có lực lượng lớn vẫn không thể tung quân tiến đánh một trận được. Tháng 9.1407, nghĩa quân ở châu Thất Nguyên hoạt động mạnh ở khắp các vùng biên giới phía bắc. Trương Phụ phái Tiền quân đô đốc Cao Sĩ Văn đem quân tiến đánh, đến châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) thì đụng độ quân ta. Hai bên giáp chiến hồi lâu, nghĩa quân rút vào trại cố thủ. Cao Sĩ Văn ngày đêm thúc quân công phá. Khi trại sắp vỡ, nghĩa quân cho một cánh quân ra khiêu khích rồi nhử giặc vào trong núi. Cao Sĩ Văn dẫn quân đuổi theo, trúng mai phục. Nghĩa quân dựa vào vách núi lăn đá, bắn tên đạn xuống tới tấp. Cao Sĩ Văn trúng đạn chết. Quân Minh tổn thất nặng, nhưng bộ tướng dưới trướng Cao Sĩ Văn lên thay thế vẫn cố sức đánh. Nghĩa quân phải rút về căn cứ Thất Nguyên. Trương Phụ lại phái thêm một đạo quân khác dưới quyền của Đô chỉ huy Trịnh Sảng tiến đánh Thất Nguyên. Nghĩa quân vốn đã chịu nhiều tổn thất ở Quảng Nguyên, lại bị quân Minh liên tiếp tăng viện nên không chống nổi, bị quân Minh đánh tan.
Nổi dậy ở phủ Diễn Châu (Nghệ An) :
Mùa thu năm 1407, nhân dân ở các huyện Đông Lan, Trà Thanh thuộc phủ Diễn Châu nổi dậy phá nhà ngục, giết chết huyện quan.
Khởi nghĩa Đông Triều (Quảng Ninh) :
Cuối năm 1407, tại bến Bình Than một tôn thất nhà Trần là Trần Nguyệt Hồ được thổ hào Phạm Chấn tôn làm vua, hiệu triệu nhân dân phất cờ khởi nghĩa. Nghĩa quân giương cờ Trung nghĩa quân đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa thu hút nhiều tướng lĩnh, binh lính cũ của nhà Hồ tham gia, gây cho quân Minh rất nhiều khó khăn.
Khởi nghĩa Lục Ngạn (Bắc Ninh) :
Cũng cuối năm 1407, Phạm Tất Đại cùng chín chiến hữu của mình khởi binh chống Minh ở Lục Ngạn.
Các cuộc khởi nghĩa năm 1408 :
- Trần Nguyên Thôi khởi binh ở Tam Đái (Vĩnh Phú)
- Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí khởi binh ở Thái Nguyên
- Trần Nguyên Lộc khởi nghĩa tại huyện Tuyên Hóa (Bắc Kạn)
- Trần Nguyên Tôn khởi nghĩa tại châu Hạ Hồng phủ Tân An (Hải Dương)
- Các cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Lộc (Thanh Hóa), Đan Phượng, Thạch Thất (Hà Nội ngày nay), Nam Sách (Hải Dương), Kiến Hưng (Thái Bình, Nam Định), Kiến Bình (Nam Định), Lạng Giang (Bắc Ninh, Lạng Sơn), ngoại thành Đông Quan (Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa) …
Phong trào khởi nghĩa diễn ra rầm rộ khắp nơi, gần như tiến tới tổng khởi nghĩa khiến cho quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Cho đến hết năm 1408, quân giặc chỉ thực sự nắm quyền kiểm soát tại các điểm đóng trong các thành trì. Những bản đồ mà nền đô hộ áp đặt lên đất nước ta vẫn chỉ là lý thuyết trên giấy. Ngay tại thủ phủ Đông Quan (tên của Đông Đô khi giặc Minh chiếm đóng), quân giặc cũng không dám tùy tiện đi lại ra khỏi thành lũy. Ở các vùng nông thôn, hầu hết quân dân người Việt vẫn làm chủ trên thực địa.
Nhưng với tính chất tự phát và manh mún, các cuộc khởi nghĩa không thể tiến tới một hành động thống nhất để tung những đòn quyết định nhằm vào giặc được. Quân Minh với lợi thế binh lực tập trung và sự thống nhất về bộ máy đã từng bước dồn quân đánh diệt từng cuộc khởi nghĩa. Giống như một bó đũa bị chia ra từng chiếc để rồi bị bẻ gãy nhanh chóng, các cuộc khởi nghĩa diễn ra rầm rộ nhưng rồi lần lượt bị giặc Minh dập tắt.
Các cuộc khởi nghĩa tự phát ban đầu dù thất bại nhưng cũng đóng góp rất lớn vào cuộc chiến chung của dân tộc chống lại quân Minh. Với việc phải bận chống lại các phong trào khởi nghĩa, quân Minh đã bị chậm tiến độ áp đặt nền đô hộ lên toàn cõi nước ta. Điều đó tạo thuận lợi cho những phong trào lớn hơn mang tính chất toàn quốc có thời gian, không gian tụ họp lực lượng để tung những đòn mạnh mẽ hơn vào quân xâm lược. Một bộ phận khá đông đảo thuộc các cuộc khởi nghĩa bị quân Minh đàn áp vẫn sống sót và trở thành những chiến binh kinh nghiệm, bổ sung cho các phong trào kháng chiến về sau.
Từ trong phong trào kháng Minh rầm rộ, một cuộc thế lực mới đã nổi lên mà về sau khiến cho quân Minh phải nhiều phen kinh hồn bạt vía. Ngày 1.11.1407, tại Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên thổ hào Trần Triệu Cơ đã phò tôn thất Trần Ngỗi lên ngôi, lấy danh xưng là Giản Định Đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại nhà Trần. Nhà Hậu Trần trong sử Việt bắt đầu từ đây. Một chương bi tráng bậc nhất của sử sách nước ta sắp sửa diễn ra.
Nhà Hậu Trần có Đặng Tất như hổ mọc cánh chiến đấu với quân Minh
Quân Minh rút về nước
Giản Định đế có uy tín của một quý tộc Trần để hiệu triệu toàn dân, Đặng Tất có tài trí và quân đội mạnh. Sự kết hợp của hai nhân vật này là điểm tựa quan trọng đầu tiên để gây dựng một phong trào kháng chiến chống Minh to lớn. Quần hùng các nơi biết tin Đặng Tất phò vua Giản Định ở Nghệ An, lũ lượt kéo nhau đến hội quân.
Giản Định đế Trần Ngỗi (hoặc Trần Quỹ) vốn là con thứ của vua Trần Nghệ Tông, tước Giản Định vương thời Trần, về sau mang tước Nhật Nam quận vương dưới triều nhà Hồ. Được Trần Triệu Cơ tôn phò buổi ban đầu, Giản Định đế là vị vua danh chính ngôn thuận theo chuẩn mực thời bấy giờ. Vua Giản Định vừa lên ngôi, tung tin rầm rộ đi các nơi hiệu triệu toàn dân. Nhân dân các vùng lân cận lần lượt theo về. Quân Minh dò biết tin, lập tức kéo đến đánh thẳng vào đại doanh của Giản Định. Quân nhà Hậu Trần là quân mới hợp, chưa quen chiến trận, chưa đánh đã tan chạy. Giản Định dẫn tàn quân tránh được, rút vào Nghệ An. Lúc này Đại tri châu Đặng Tất ở Hóa Châu biết tin, bèn giết chết viên quan giám sát người Minh, dẫn hơn 1 vạn quân bản bộ dùng thuyền vượt biển ra Nghệ An đón rước nhà vua.
Đặng Tất tự biết mình đã đầu hàng quân Minh, dù là việc bất đắc dĩ cũng khó tránh nghi ngại của vua. Bởi thế, ông đã đem con gái dâng cho vua Giản Định để tỏ lòng thành. Giản Định thu nhận Đặng Tất, phong làm Quốc công. Các con trai của Đặng Tất cũng đều được phong các chức vụ chủ chốt. Giản Định đế có uy tín của một quý tộc Trần để hiệu triệu toàn dân, Đặng Tất có tài trí và quân đội mạnh. Sự kết hợp của hai nhân vật này là điểm tựa quan trọng đầu tiên để gây dựng một phong trào kháng chiến chống Minh to lớn. Quần hùng các nơi biết tin Đặng Tất phò vua Giản Định ở Nghệ An, lũ lượt kéo nhau đến hội quân.
Nguyễn Cảnh Chân bấy giờ đang ở Thăng Hoa, tập họp các quân lính dưới trướng cũ của mình kéo ra Nghệ An gia nhập hàng ngũ quân nhà Hậu Trần. Giản Định đế phong cho Nguyễn Cảnh Chân làm Đồng tri khu mật viện. Nguyễn Cảnh Chân từ đó trở thành mưu thần hàng đầu, cùng với Đặng Tất là hai cánh tay đắc lực của nhà vua.
Cuối năm 1407, cuộc khởi nghĩa ở Đông Triều do thổ hào Phạm Chấn cùng hoàng thất nhà Trần là Trần Nguyệt Hồ đứng đầu bị quân Minh đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị giặc bắt. Phạm Chấn chạy thoát được, dẫn lực lượng còn lại chạy vào Nghệ An theo về với Giản Định. Các lãnh tụ khởi nghĩa khác là Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình, Trần Ngạn Chiêu… cũng từ các nơi kéo quân đến hội. Cho đến đầu năm 1408, nhà Hậu Trần đã trở thành ngọn cờ đầu thu hút lực lượng kháng chiến tập hợp lại với nhau. Thanh thế quân dưới trướng Giản Định đã khá mạnh. Nghệ An lúc này tương đối xa thủ phủ của giặc Minh ở Đông Quan, tin tức không thông, giặc tạm thời chưa nắm rõ tình hình tụ nghĩa của quân ta.Nghĩa quân Hậu Trần không chủ trương đối địch ngay với chủ lực quân Minh tại vùng trung tâm Đại Việt mà thực hiện chiến lược nam tiến. Binh lực của giặc Minh từ vùng Thanh Nghệ trở về nam vốn chủ yếu dựa vào các ngụy quan, ngụy binh đóng giữ. Đó là những chỗ yếu trong hệ thống của quân Minh. Ngụy binh có tinh thần chiến đấu kém do phải theo giặc đánh lại người trong nước, dễ đầu hàng và vỡ chạy trong chiến trận. Quân Minh bất đắc dĩ phải dùng ngụy binh là do chúng không thể có đủ binh lực người Minh để chống lại toàn dân ta.
Giản Định muốn tiếp tục phân tán sự chú ý của quân Minh, sai Phạm Chấn, Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình, Trần Ngạn Chiêu đem quân ra bắc thu nhập tàn quân tái chiếm lại Bình Than, lập căn cứ phòng thủ. Quân Minh biết tin, đem quân đến đánh Bình Than. Các tướng cầm cự được ít thời gian thì lại thua tan, rút lui về đại doanh ở Nghệ An.
Tranh thủ thời cơ, Đặng Tất tham mưu với vua Giản Định đem quân chủ lực vào chiêu dụ thành Nghệ An, Diễn Châu. Ngụy quan trấn giữ thành Nghệ An là Trần Nhật Chiêu, ngụy quan Trần Thúc Giao giữ thành Diễn Châu. Quân Hậu Trần kéo đến, cả hai thành đều đóng cửa không ra đón rước. Giản Định bèn tung quân đánh chiếm lấy thành trì. Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao binh lực mỏng không cầm cự nổi, nhanh chóng bị đánh bại và bị Giản Định bắt chém đầu. Thuộc hạ của Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao hơn 500 người cũng bị xử chém. Việc giết hai ngụy quan là hợp lý vì họ đã theo giặc Minh mà cố giữ lấy thành trì. Nhưng việc giết hại những người dưới quyền vốn bị lệ thuộc vào chủ nhân khiến cho sử sách chê bai vua Giản Định là không có lòng nhân. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên bình rằng :
“Thiên hạ đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết ai là chân chúa. Thúc Dao là con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh, giữ đất trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó hay sao? Thế mà lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quân nhân nghĩa được?”
Quả thực Giản Định dù có chí lớn nhưng tính cách đa nghi và thiếu nhân đức. Lời bình của Ngô Sĩ Liên thật xác đáng. Tuy nhiên xét về chiến lược chung, vua Giản Định cùng hàng ngũ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã có những bước đi ban đầu đúng đắn. Chiếm được thành Nghệ An và thành Diễn Châu, quân Hậu Trần đã có đất đứng chân ban đầu để thu hút lực lượng. Nhân dân trong vùng nô nức đến cửa quân xin theo diệt giặc.
Bấy giờ ở nước Minh, vua Chu Đệ vẫn phải lo đối phó với các bộ tộc Mông Cổ ở phía bắc. Nước Bắc Nguyên trên thực tế đã bị phân liệt thành các tiểu quốc nhưng vẫn rất hùng mạnh, thiện chiến. Trương Phụ sau cuộc chiến với nhà Hồ đã được Chu Đệ triệu hồi về nước để tăng cường cho quân đội trong nước Minh trước mối đe dọa từ phía bắc. Phụ toan rút quân về nước, nhưng nhà Hậu Trần nổi lên đã buộc hắn phải nấn ná lại. Hay tin quân Hậu Trần chiếm được hai thành Nghệ An, Diễn Châu, Trương Phụ cùng với ngụy quan Mạc Thúy lập tức đem lực lượng lớn tiến đánh. Quân lính dưới trướng Trương Phụ đều là tinh binh đã kinh qua nhiều trận, rất thông thuộc chiến trường Đại Việt. Quân Minh tiến đánh thành Diễn Châu, thế như nước vỡ bờ. Quân Hậu Trần cố sức chống giữ, nhưng rồi phải rút lui về thành Nghệ An tránh mũi nhọn của giặc.
Trương Phụ lại đem hết quân đánh thành Nghệ An, Đặng Tất cùng các tướng thúc quân chống trả kiên cường. Quân Minh không hạ thành ngay được, Trương Phụ đều quân bao vây thành Nghệ An. Giản Định cùng các tướng bàn nhau sợ rằng ở trong thành bị vây hết lương thì sẽ nguy. Quân Hậu Trần bèn lựa chỗ mỏng yếu của quân Minh mà mở cổng thành đánh phá vòng vây, đem binh thuyền vượt biển rút về Hóa Châu (bấy giờ Hóa Châu là châu lớn bao gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, bắc Quảng Nam ngày nay). Lúc này, Hóa Châu đã là địa bàn vững chắc do thế lực của Quốc công Đặng Tất cai trị. Khi Đặng Tất đem quân ra Nghệ An phò vua Giản Định, Hóa Châu được hai em trai của Đặng Tất là Đặng Đức, Đặng Quý trấn giữ.
Khi quân ta phá vây rút lui, Trương Phụ thúc quân lên thuyền tức tốc đuổi theo nhưng quân ta đã kịp rút đi an toàn. Trương Phụ dẫn quân vượt biển đuổi theo, đến cửa biển Bố Chính thì gặp Phạm Thế Căng đón đường xin hàng. Phạm Thế Căng là người Mường làm quan cho nhà Trần và nhà Hồ, trước đã từng hàng Trương Phụ rồi. Nhưng khi quân Minh lơ là vùng phía nam thì y đã trở thành một quân phiệt cát cứ địa phương, không thuộc quản lý của ai trên thực tế. Nay Trương Phụ lại đem quân vào nam, y liền về hàng thêm lần nữa. Trương Phụ tuy cố cất quân vượt biển vào nam để truy kích quân Hậu Trần nhưng quân lệnh của vua Chu Đệ không thể trì hoãn lâu. Phụ nhân có được Phạm Thế Căng về hàng, bèn phong cho Phạm Thế Căng chức Tri phủ Tân Bình (Quảng Bình và bắc Quảng Trị), giao cho Phạm Thế Căng quyền cai trị các châu lộ phía nam và nhiệm vụ phải đánh dẹp quân Hậu Trần. Được sự cam kết của Phạm Thế Căng rồi, Trương Phụ dẫn quân về bắc. Tháng 4.1408, Trương Phụ cùng quân bản bộ tinh nhuệ của mình rút về nước Minh. Như vậy là cả hai tên tướng đầu sỏ của quân Minh khi đem quân xâm lược Đại Ngu là Trương Phụ, Mộc Thạnh đều đã rút về nước cùng với những lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Quân Minh trên khắp nước ta lúc này chỉ còn trên dưới 5 vạn, là thời cơ tốt cho các phong trào khởi nghĩa hành động quyết liệt.
Khi quyết định rút đại quân về nước, Trương Phụ đặt nhiều kỳ vọng vào ngụy quan Phạm Thế Căng. Thực tế Phạm Thế Căng không làm được gì nhiều ngoài việc tự tung ra oai trong vùng. Y tự xưng là Vũ Duệ Đại Vương, đóng đại doanh ở núi An Đại (thuộc Lệ Thủy, Quảng Bình ngày nay), muốn dùng phủ Tân Bình làm chỗ chắn ngang đường nhà Hậu Trần tiến quân của ra bắc. Nhưng với đặt thù của vùng phía nam Đại Việt là hẹp về đường bộ, rộng về đường biển thì sự phòng giữ của Phạm Thế Căng trở nên vô ích. Khi Trương Phụ rút về bắc, Đặng Tất giao hậu phương Hóa Châu lại cho hai người em trai Đặng Đức, Đặng Quý cai quản. Còn bản thân Đặng Tất cùng vua Giản Định đem thủy quân vượt biển tiến thẳng ra chiếm lại Nghệ An.
Thành Nghệ An bấy giờ do ngụy quan Phan Quý Hữu đóng giữ. Tuy quân lực trong thành không bằng quân Hậu Trần, nhưng nếu dựa vào thành trì mà chống giữ thì cũng có khả năng gây thương vong đáng kể cho quân công thành. Biết được điều đó, Đặng Tất một mặt cho quân phô trương thanh thế, mặt khác thảo thư chiêu hàng Phan Quý Hữu. Lời lẽ trong thư chiêu hàng của Đặng Tất hết sức khiêm nhường, được giao cho chính người con trai trưởng của ông là Đặng Dung đem thư chuyển tận tay Phan Quý Hữu. Thư viết :
“… Đệ cùng với đại huynh nguyên là thần tử nhà Trần. Bởi mệnh trời đổi trở thành bề tôi họ Hồ, mới đây mới khuất thân về với Thiên triều [chỉ giặc Minh]. Từ đó ngày đêm đau đáu niềm tủi hổ, thân làm quốc sĩ mà phải chịu phận hàng thần, đắc tội với xã tắc, mang tiếng xấu ngàn thu.
Nay đệ quản Hóa Châu, sĩ tốt có hơn 10 ngàn. Nếu được đại huynh dùng tướng hùng binh mạnh của Hoan Châu chung sức chung lòng thì một dải từ Mã Giang đến Hải Vân Sơn lo gì không trở thành đất Ba Thục của nhà Hậu Hán [tức nước Thục của Lưu Bị thời Tam Quốc].
Đệ liều chết dâng thư này, bộc bạch ruột gan, nên chăng thế nào mong đại huynh chỉ giáo.” (theo sử gia Đặng Duy Phúc)
Các ngụy quan đa phần chỉ là những người xuôi theo kẻ mạnh. Phan Quý Hữu cũng nằm trong số đó. Nhận được thư của Đặng Tất, Phan Quý Hữu ban đầu còn phân vân chưa chịu hàng. Sau lại thấy lực lượng quân Hậu Trần hùng mạnh nên đã cùng con trai là Phan Liêu mở cổng thành ra hàng. Nhờ vậy mà nghĩa quân có được đất Nghệ An dễ dàng, đỡ tốn nhiều xương máu.
Cùng với việc chiêu hàng Phan Quý Hữu, Đặng Tất còn dụ hàng ngụy quân, ngụy quan ở các nơi dọc đường tiến quân từ Hóa Châu ra Nghệ An. Hầu hết các ngụy quan đều buông giáo quy hàng. Duy chỉ có Phạm Thế Căng giữ phủ Tân Bình là ra mặt chống lại. Y trù tính rằng Đặng Tất có sở trường dùng bộ binh, nên đã tăng cường xây đắp thành lũy ở núi An Đại để phòng thủ, lại bố trí phục binh ở các chỗ hiểm để đón đánh quân Hậu Trần. Thủy quân của Phạm Thế Căng thì đóng phòng tuyến ở cửa biển Nhật Lệ, chắn ngang đường đi lại của quân Hậu Trần giữa hai vùng cứ địa Nghệ An và Thuận Hóa. Thái độ của Phạm Thế Căng buộc vua tôi nhà Hậu Trần phải kiên quyết đánh dẹp.
Tháng 7.1408, quân nhà Hậu Trần chia đường thủy bộ tiến đánh phủ Tân Bình. Quân thủy do Đặng Tất chỉ huy nhân ngày gió thuận căng buồm chèo nhanh đánh thẳng vào khối quân chính của Phạm Thế Căng đang phòng giữ cửa biển Nhật Lệ. Mặc dù đã có phòng bị, Phạm Thế Căng cũng không thể nào chống nổi quân của Đặng Tất có tinh thần chiến đấu cao hơn hẳn. Quân đội của Phạm Thế Căng chỉ giao chiến được một lúc đang thi nhau tan chạy, chỉ có một số ít chống cự và nhanh chóng bị giết. Phạm Thế Căng cùng cháu là Phạm Đống Cao bị bắt sống tại trận. Đặng Tất cho giải Thế Căng và cháu y về Nghệ An, bị vua Giản Định cho xử chém. Phủ Tân Bình được giải phóng. Nghĩa quân thừa thắng kéo xuống Thuận Châu (Quảng Trị ngày nay). Ngụy quan giữ Thuận Châu liệu thế không thể chống cự, liền mở cổng thành đầu hàng quân nhà Hậu Trần.
Cho đến mùa thu năm 1408, một dải giang sơn từ Nghệ An đến Hóa Châu đã được nhà Hậu Trần khôi phục lại chủ quyền. Sức người sức của trong vùng giải phóng đủ cho Giản Định đế hoàn thành công cuộc đánh đuổi giặc Minh. Quốc công Đặng Tất được giao nhiệm vụ đem lực lượng tiến ra bắc chiếm lại Đông Đô. Tình hình chuẩn bị của toàn quân ta rất khẩn trương. Khắp nơi hào kiệt thi nhau hưởng ứng, quyết cùng chung sức đánh giặc.
Trong bối cảnh đó, Minh triều cố gắng tìm biện pháp đối phó lại sự lớn mạnh của phong trào giải phóng đất nước của quân dân Việt. Tháng 8.1408, hạm đội quân Minh gồm 1 vạn quân dưới trướng của Đô chỉ huy sứ Tôn Toàn từ Quảng Đông được phái sang nước ta tăng viện cho quân chiếm đóng. Nhưng bấy nhiêu quân đó không thể đủ làm nên sự khác biệt trên chiến trường. Đặng Tất cất quân bắc tiến, đánh chiếm lại được phủ Trường Yên, Phúc Thành (Ninh Bình), các quan thuộc cũ của nhà Trần, nhà Hồ và anh hùng hào kiệt không ai không theo về. Nghĩa quân tiến công đến tận Hàm Tử (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Bình Than (thuộc Nam Sách, Hải Dương), Thượng Hồng (thuộc Hải Dương). Các toàn quân Hậu Trần tập kích quân Minh ở khắp nơi. Tại vùng Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang ngày nay), nghĩa quân chặn đường tải lương của quân Minh từ Vân Nam đến Đông Quan. Ngay xung quanh thành Đông Quan, đã xuất hiện những toán quân tác chiến độc lập của nhà Hậu Trần thừa cơ đánh tỉa quân Minh.
Các tướng Minh gồm Lữ Nghị, Hoàng Phúc, Hoàng Trung hễ cất quân đi đánh là thua, chỉ còn cách đóng chặt cửa thành cố thủ và gởi thư về nước xin thêm viện binh: “Nghịch tặc Giản Định cùng bọn Đặng Tất tụ tập dân chúng làm loạn, xin tăng thêm binh để tiễu bình”. Một thư xin cứu viện khác thẳng thắn thừa nhận: “… thế lực của giặc [chỉ quân ta] mỗi ngày một mạnh. Quan quân nhiều lần đánh không nổi …” (Minh Thực Lục)
Minh Thành Tổ Chu Đệ vốn là một bạo chúa hiếu danh, không thể để yên cho nhà Hậu Trần phá tan “kỳ công” của hắn. Nhận được báo cáo từ bọn tướng Minh ở thành Đông Quan, Chu Đệ liền cử ngay Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem quân sang tăng viện. Khoảng đầu tháng 9.1408, Mộc Thạnh lĩnh ấn “Chinh Di tướng quân” đem 5 vạn quân tiến sang nước ta, hội với quân Minh ở thành Đông Quan bấy giờ còn trên dưới 5 vạn tên, trong đó có 2 vạn thủy quân. Quân Minh ở thành Đông Quan cả mới lẫn cũ cộng lại có hơn 10 vạn tên, bắt đầu lên kế hoạch phản công lại quân Hậu Trần.
Bên cạnh việc liên tiếp điều quân tăng viện, Chu Đệ còn dùng biện pháp ngoại giao hòng lung lạc tinh thần quân ta. Sứ giả Minh triều đem thư của Chu Đệ đến cho Giản Định để chiêu hàng. Thư viết:
“Mới đây cha con giặc họ Lê [chỉ nhà Hồ gây việc soán đoạt, buông tuồng bạo lọan, độc hại người trong nước, chiếm đoạt biên cảnh, bèn mệnh xuất sư điếu phạt, bọn ác đầu sỏ bị bắt, dư đảng bị tiêu diệt, rồi thiết lập quận huyện, vỗ về thiện lương, một phương nhân dân đều được yên nghiệp. Chỉ riêng các ngươi ương ngạnh, lập đảng chống cự triều mệnh, cướp bóc dân chúng. Quần thần xin hưng sư tiêu diệt, Trẫm nghĩ dưới lằn tên mũi đạn, sợ liên lụy đến dân vô tội mà những kẻ bất thiện như các ngươi cũng còn được cơ hội để có thể sửa đổi, nên ban sắc dụ này.
Phàm cử sự cần phải hợp đạo trời, cha con giặc họ Lê tội ác đầy rẫy , trời đã phế thì không thể giữ được. Các ngươi là đám tàn dư, trái đạo, nghịch mệnh trời , thì cũng đợi để tiêu diệt mà thôi! Tuy nhiên vui được sống, ghét chết là sự thường tình của con người ta. Nếu trước đây các ngươi chưa nghĩ kỹ nên làm việc bội nghịch trái đạo, hoặc do bọn quan lại hà khắc phải liều lĩnh mưu đồ tự tồn, lòng muốn hối cải nhưng còn nghi ngờ chưa dám quyết! Phàm con người ai mà không sai, sai mà biết sửa, còn gì tốt bằng. Bọn các ngươi hãy nhân lúc này, minh định lẽ nghịch thuận, xem xét cơ duyên họa phúc, tìm yên ổn có lợi cho bản thân, bảo vệ được gia tộc, mưu đồ kế vĩnh cữu.
Hãy dốc lòng thành quy phụ, sự sai lầm trong quá khứ được tha hết không hỏi đến, còn được giao chức quan, trả lại đất để cai trị, con cháu đời đời được thế tập . Lời Trẫm phát xuất từ tâm lòng, thông với trời đất; nếu các ngươi chấp mê không theo, họa sẽ đến với bản thân và gia đình, lúc đó hối cũng không kịp!” (theo Minh Thực Lục)
Chu Đệ còn xuống chiếu cho quan lại nước Minh và dân chúng trong nước ta rằng:“Còn nghĩ bọn dư chúng vốn là ngu muội, hoặc vì đói nghèo bức bách, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hặc bị bọn gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình cũng đáng thương, nếu nhất loạt bắt tội cả, trẫm thực không nỡ. Khi chiếu thư này tới, đều tha cho cả. Quan lại ở các nha môn, quân dân thuộc đất Giao Chỉ hãy thể lòng chí nhân của trẫm phải khoan hồng thương xót, chớ làm ráo riết, chớ vơ vét của dân, hết thảy những việc không cần kíp phải ngừng bỏ cả”. (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Chu Đệ tuy nói lý lẽ nhưng vẫn khỏa lấp những lý lẽ cơ bản. Giản Định đế Trần Ngỗi là con cháu hoàng tộc Trần, nếu xét về tình về lý thì quân Minh phải trả nước cho Giản Định làm vua như lời chúng đã rêu rao khi xâm lược nước ta là “phù Trần diệt Hồ”. Nhưng bởi vốn chúng đã manh tâm lừa dối để cướp nước người, nên trước sau vẫn chỉ coi Giản Định là tàn dư “nghịch mệnh trời”. Lời lẽ của quân giặc trước sau bất nhất, mặc dù có đem lợi lộc ra dụ dỗ, đem vũ lực ra răn đe cũng khó mà khiến người ta tin mà nghe theo.
Tất nhiên, vua tôi nhà Hậu Trần đã bỏ ngoài tai những lời dối trá của Chu Đệ. Quân Hậu Trần biết Mộc Thạnh kéo quân sang, đã tích cực chuẩn bị đánh những trận sống mái với giặc.
Về phía quân Minh, Mộc Thạnh rất mong muốn nhanh chóng đánh bại quân ta trong một trận lớn, để chúng có thể tận dụng tối đa ưu thế về quân số, trình độ chiến đấu của một đội quân chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm. Mộc Thạnh hiểu rằng càng kéo dài thời gian, chúng sẽ càng gặp khó khăn khi mà quân Hậu Trần ngày càng nhận được nhiều sự hỗ trợ, hướng ứng của nhân dân khắp cả nước. Đó là một nguồn sức mạnh gần như không bao giờ cạn kiệt và khiến quân giặc rất sợ phải đối đầu. Bởi thế, ngay khi đến Đông Quan, Mộc Thạnh đã gấp rút chuẩn bị một cuộc tấn công tổng lực nhắm thẳng vào căn cứ địa của nhà Hậu Trần.
Cho đến cuối năm 1408, nhà Hậu Trần đã xây dựng được một đội quân chính quy đông hơn 3 vạn quân với đầy đủ trang bị, đầy đủ binh chủng bộ binh, thủy binh, kỵ binh và một đội tượng binh gồm 20 thớt voi. Cùng sát cánh với lực lượng chính quy là lực lượng trợ chiến đông đảo. Tuy nghĩa quân không có số quân chính quy đông như giặc Minh nhưng bù lại, quân ta có thời sự hỗ trợ đắc lực của nhân dân các nơi. Cụ thể, khi được lòng dân ủng hộ nghĩa là quân Hậu Trần luôn có đủ thông tin về quân Minh, trái lại quân giặc luôn mù mờ về tin tức của quân ta. Với lợi thế trong bóng tối nhìn ra ngoài sáng, quân Hậu Trần có thể thoải mái áp dụng các chiến thuật mai phục, tập kích mà không sợ lộ quân cơ. Có được lòng dân, nhà Hậu Trần có được nguồn nhân lực dồi dào để dùng vào các việc xây thành lũy, chuẩn bị chiến trường, vận lương, đóng thuyền, đúc vũ khí…
Các trai tráng trong vùng giải phóng là lực lượng dự bị bổ sung vào quân đội. Song song với việc bắc tiến, nhà Hậu Trần cũng chú trọng xây dựng hậu phương, củng cố lực lượng. Cha con nhà họ Đặng đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu. Hóa Châu, Thăng Hoa vốn là đất căn bản của Đặng Tất cung cấp rất nhiều sức người, sức của. Các xưởng đúc vũ khí, chiến thuyền hoạt động nhộn nhịp. Các quan lại, hào phú không tiếc của quyên góp cho nghĩa quân. Với tiềm lực có được và khí thế đang dâng cao, vua tôi nhà Hậu Trần không ngần ngại đối đầu với Mộc Thạnh trong một trận chiến lớn để nhanh chóng khôi phục lại chủ quyền toàn bộ đất nước.
Đại bộ phận chủ lực quân Hậu Trần từ Nghệ An kéo ra đã tập kết ở phủ Kiến Bình (Nam Định) và châu Trường Yên (Ninh Bình). Quốc công Đặng Tất sau khi khảo sát hình thế các nơi, quyết định lựa chọn bến Bô Cô thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Vọng Doanh (nay thuộc Ý Yên, Nam Định) làm địa điểm đón đánh quân Minh. Bến Bô Cô thời bấy giờ là một bến đò nhỏ hoang vắng nối hai bờ sông Lộ Bố (sông Đáy chảy qua Ninh Bình và Nam Định), là điểm tiếp giáp giữa phủ Kiến Bình và châu Trường Yên, lại nằm trên trục đường Thiên lý, vốn là con đường nối liền đất nước từ bắc vào nam. Đây là địa điểm mà gần như chắc chắn quân Minh phải đi qua để tiến quân xuống phía nam, dù cho đi bằng đường bộ hay đường thủy. Xung quanh bến Bô Cô là một vùng đầm lầy hoang vắng với lau sậy mọc um tùm, cùng với hệ thống các con kênh lạc nhỏ dày đặc. Địa hình nơi đây đặc biệt thuận lợi cho việc đặt phục binh quy mô lớn.
Tại khu vực bến Bô Cô, Đặng Tất đã cho điều động quân dân dựng lên một công trình phòng thủ quy mô. Cọc nhọn được cắm dưới lòng sông để làm chướng ngại vật ngăn cản thủy quân giặc. Dọc hai bên bờ đều có chiến lũy kiên cố. Dưới sông có lực lượng thủy quân dưới quyền chỉ huy của Trấn quốc tướng quân Đặng Dung chốt giữ. Thủy quân nhà Hậu Trần không dùng các chiến thuyền lớn mà dùng các loại thuyền nhỏ có sức cơ động cao, thích hợp với lối đánh mai phục. Sau khi bố trí các trận địa, Đặng Tất cho người vào Nghệ An đón vua Giản Định đến đại doanh đặt tại Phúc Thành.
Nửa cuối tháng 12.1408, 10 vạn quân Minh chia hai đường thủy bộ rầm rộ nhằm vào hướng châu Trường Yên mà tiến. Bộ binh quân Minh gồm 8 vạn đi dọc theo đường Thiên Lý. Thủy quân giặc gồm 2 vạn tên xuôi dòng sông Cái (sông Hồng), sông Châu Giang để vào sông Lộ Bố. Mộc Thạnh rất tự tin và nóng lòng tiêu diệt toàn quân ta trong một trận. Ngày 29/12/1408, tiền quân của giặc đã tiến đến gần Bô Cô. Phát hiện ra chiến tuyến kiên cố của quân ta, quân Minh bắt đầu dựng trại tập kết. Quân Minh chia làm ba thê đội. Tiền quân dưới quyền Đô đốc thiêm sự Lữ Nghị, trung quân do chính Kiềm quốc công Mộc Thạnh điều động, hậu quân thuộc quyền chỉ huy của Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn. Ngoài ra, quân Minh còn có các tướng lĩnh chủ chốt khác là Tham chính Lưu Dục, Đô chỉ huy sứ Liễu Tông… Chín phần mười binh lực của nước Minh ở Đại Việt (chưa kể ngụy binh) đã đổ dồn vào trận, cho thấy quyết tâm cao độ của tướng lĩnh quân Minh trong việc tiêu diệt nhà Hậu Trần.
Với binh lực mạnh trong tay, Mộc Thạnh cùng các tướng lĩnh quân Minh dự định sẽ nhanh chóng dùng sức mạnh kỵ bộ đánh thủng các chiến lũy của quân Hậu Trần ở bờ bắc, rồi cùng với cánh thủy quân phối hợp vượt sông đánh thẳng vào Phúc Thành, bắt giết vua Giản Định. Tuy nhiên, Quốc công Đặng Tất đã chuẩn bị những đòn không ngờ tới dành cho quân giặc. Mặc dù quân Minh hành quân rất quy củ, luôn có du binh do thám kỹ càng để tránh việc bị mai phục nhưng đã không lường trước được toan tính của quân ta. Đặng Tất đã tận dụng lợi thế địa hình lau sậy mọc um tùm, không đặt phục binh ven đường mà cho quân mai phục đóng cách xa con đường, đủ để vượt ngoài tầm do thám của quân Minh. Quân mai phục cùng với quân đóng ở chiến lũy làm thành một trận địa lợi hại như một cái bẫy lớn chờ quân giặc chui vào để tiêu diệt.
Ở dưới sông, thủy quân ta cũng dựa vào bãi cọc và hệ thống kênh rạch nhỏ mà đặt mai phục sẵn sàng chặn thủy quân giặc, không cho chúng phối hợp với bộ binh. Đặng Tất cùng bộ chỉ huy nghĩa quân đóng trên núi Dục Thúy, một ngọn núi cao trong vùng để quan sát trận địa. Xét về mức độ tinh nhuệ, quân ta lúc này vẫn thua kém quân Minh. Nhưng toàn quân trên dưới đều một lòng xả thân giết giặc. Tinh thần đó hoàn toàn khác hẳn với sự bạc nhược của quân đội Đại Ngu của nhà Hồ. Chính tinh thần quyết tử đã làm nên một sức mạnh phi thường mà quân Minh sẽ phải đối đầu.
Đặng Tất tự biết mình đã đầu hàng quân Minh, dù là việc bất đắc dĩ cũng khó tránh nghi ngại của vua. Bởi thế, ông đã đem con gái dâng cho vua Giản Định để tỏ lòng thành. Giản Định thu nhận Đặng Tất, phong làm Quốc công. Các con trai của Đặng Tất cũng đều được phong các chức vụ chủ chốt. Giản Định đế có uy tín của một quý tộc Trần để hiệu triệu toàn dân, Đặng Tất có tài trí và quân đội mạnh. Sự kết hợp của hai nhân vật này là điểm tựa quan trọng đầu tiên để gây dựng một phong trào kháng chiến chống Minh to lớn. Quần hùng các nơi biết tin Đặng Tất phò vua Giản Định ở Nghệ An, lũ lượt kéo nhau đến hội quân.
Nguyễn Cảnh Chân bấy giờ đang ở Thăng Hoa, tập họp các quân lính dưới trướng cũ của mình kéo ra Nghệ An gia nhập hàng ngũ quân nhà Hậu Trần. Giản Định đế phong cho Nguyễn Cảnh Chân làm Đồng tri khu mật viện. Nguyễn Cảnh Chân từ đó trở thành mưu thần hàng đầu, cùng với Đặng Tất là hai cánh tay đắc lực của nhà vua.
Cuối năm 1407, cuộc khởi nghĩa ở Đông Triều do thổ hào Phạm Chấn cùng hoàng thất nhà Trần là Trần Nguyệt Hồ đứng đầu bị quân Minh đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị giặc bắt. Phạm Chấn chạy thoát được, dẫn lực lượng còn lại chạy vào Nghệ An theo về với Giản Định. Các lãnh tụ khởi nghĩa khác là Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình, Trần Ngạn Chiêu… cũng từ các nơi kéo quân đến hội. Cho đến đầu năm 1408, nhà Hậu Trần đã trở thành ngọn cờ đầu thu hút lực lượng kháng chiến tập hợp lại với nhau. Thanh thế quân dưới trướng Giản Định đã khá mạnh. Nghệ An lúc này tương đối xa thủ phủ của giặc Minh ở Đông Quan, tin tức không thông, giặc tạm thời chưa nắm rõ tình hình tụ nghĩa của quân ta.Nghĩa quân Hậu Trần không chủ trương đối địch ngay với chủ lực quân Minh tại vùng trung tâm Đại Việt mà thực hiện chiến lược nam tiến. Binh lực của giặc Minh từ vùng Thanh Nghệ trở về nam vốn chủ yếu dựa vào các ngụy quan, ngụy binh đóng giữ. Đó là những chỗ yếu trong hệ thống của quân Minh. Ngụy binh có tinh thần chiến đấu kém do phải theo giặc đánh lại người trong nước, dễ đầu hàng và vỡ chạy trong chiến trận. Quân Minh bất đắc dĩ phải dùng ngụy binh là do chúng không thể có đủ binh lực người Minh để chống lại toàn dân ta.
Giản Định muốn tiếp tục phân tán sự chú ý của quân Minh, sai Phạm Chấn, Trần Nguyên Tôn, Trần Dương Đình, Trần Ngạn Chiêu đem quân ra bắc thu nhập tàn quân tái chiếm lại Bình Than, lập căn cứ phòng thủ. Quân Minh biết tin, đem quân đến đánh Bình Than. Các tướng cầm cự được ít thời gian thì lại thua tan, rút lui về đại doanh ở Nghệ An.
Tranh thủ thời cơ, Đặng Tất tham mưu với vua Giản Định đem quân chủ lực vào chiêu dụ thành Nghệ An, Diễn Châu. Ngụy quan trấn giữ thành Nghệ An là Trần Nhật Chiêu, ngụy quan Trần Thúc Giao giữ thành Diễn Châu. Quân Hậu Trần kéo đến, cả hai thành đều đóng cửa không ra đón rước. Giản Định bèn tung quân đánh chiếm lấy thành trì. Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao binh lực mỏng không cầm cự nổi, nhanh chóng bị đánh bại và bị Giản Định bắt chém đầu. Thuộc hạ của Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao hơn 500 người cũng bị xử chém. Việc giết hai ngụy quan là hợp lý vì họ đã theo giặc Minh mà cố giữ lấy thành trì. Nhưng việc giết hại những người dưới quyền vốn bị lệ thuộc vào chủ nhân khiến cho sử sách chê bai vua Giản Định là không có lòng nhân. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên bình rằng :
“Thiên hạ đại loạn, nhân dân Nghệ An, Diễn Châu biết ai là chân chúa. Thúc Dao là con người tôn thất, Nhật Chiêu là tướng quân cũ, nhận quan tước của nhà Minh, giữ đất trị dân, dân không theo có được không? Giết Thúc Dao và Nhật Chiêu là phải, còn bọn thuộc hạ nên vỗ về mà dùng, thì chúng không cảm kích ơn đức đó hay sao? Thế mà lại giết nhiều như vậy, sao gọi là quân nhân nghĩa được?”
Quả thực Giản Định dù có chí lớn nhưng tính cách đa nghi và thiếu nhân đức. Lời bình của Ngô Sĩ Liên thật xác đáng. Tuy nhiên xét về chiến lược chung, vua Giản Định cùng hàng ngũ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã có những bước đi ban đầu đúng đắn. Chiếm được thành Nghệ An và thành Diễn Châu, quân Hậu Trần đã có đất đứng chân ban đầu để thu hút lực lượng. Nhân dân trong vùng nô nức đến cửa quân xin theo diệt giặc.
Bấy giờ ở nước Minh, vua Chu Đệ vẫn phải lo đối phó với các bộ tộc Mông Cổ ở phía bắc. Nước Bắc Nguyên trên thực tế đã bị phân liệt thành các tiểu quốc nhưng vẫn rất hùng mạnh, thiện chiến. Trương Phụ sau cuộc chiến với nhà Hồ đã được Chu Đệ triệu hồi về nước để tăng cường cho quân đội trong nước Minh trước mối đe dọa từ phía bắc. Phụ toan rút quân về nước, nhưng nhà Hậu Trần nổi lên đã buộc hắn phải nấn ná lại. Hay tin quân Hậu Trần chiếm được hai thành Nghệ An, Diễn Châu, Trương Phụ cùng với ngụy quan Mạc Thúy lập tức đem lực lượng lớn tiến đánh. Quân lính dưới trướng Trương Phụ đều là tinh binh đã kinh qua nhiều trận, rất thông thuộc chiến trường Đại Việt. Quân Minh tiến đánh thành Diễn Châu, thế như nước vỡ bờ. Quân Hậu Trần cố sức chống giữ, nhưng rồi phải rút lui về thành Nghệ An tránh mũi nhọn của giặc.
Trương Phụ lại đem hết quân đánh thành Nghệ An, Đặng Tất cùng các tướng thúc quân chống trả kiên cường. Quân Minh không hạ thành ngay được, Trương Phụ đều quân bao vây thành Nghệ An. Giản Định cùng các tướng bàn nhau sợ rằng ở trong thành bị vây hết lương thì sẽ nguy. Quân Hậu Trần bèn lựa chỗ mỏng yếu của quân Minh mà mở cổng thành đánh phá vòng vây, đem binh thuyền vượt biển rút về Hóa Châu (bấy giờ Hóa Châu là châu lớn bao gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, bắc Quảng Nam ngày nay). Lúc này, Hóa Châu đã là địa bàn vững chắc do thế lực của Quốc công Đặng Tất cai trị. Khi Đặng Tất đem quân ra Nghệ An phò vua Giản Định, Hóa Châu được hai em trai của Đặng Tất là Đặng Đức, Đặng Quý trấn giữ.
Khi quân ta phá vây rút lui, Trương Phụ thúc quân lên thuyền tức tốc đuổi theo nhưng quân ta đã kịp rút đi an toàn. Trương Phụ dẫn quân vượt biển đuổi theo, đến cửa biển Bố Chính thì gặp Phạm Thế Căng đón đường xin hàng. Phạm Thế Căng là người Mường làm quan cho nhà Trần và nhà Hồ, trước đã từng hàng Trương Phụ rồi. Nhưng khi quân Minh lơ là vùng phía nam thì y đã trở thành một quân phiệt cát cứ địa phương, không thuộc quản lý của ai trên thực tế. Nay Trương Phụ lại đem quân vào nam, y liền về hàng thêm lần nữa. Trương Phụ tuy cố cất quân vượt biển vào nam để truy kích quân Hậu Trần nhưng quân lệnh của vua Chu Đệ không thể trì hoãn lâu. Phụ nhân có được Phạm Thế Căng về hàng, bèn phong cho Phạm Thế Căng chức Tri phủ Tân Bình (Quảng Bình và bắc Quảng Trị), giao cho Phạm Thế Căng quyền cai trị các châu lộ phía nam và nhiệm vụ phải đánh dẹp quân Hậu Trần. Được sự cam kết của Phạm Thế Căng rồi, Trương Phụ dẫn quân về bắc. Tháng 4.1408, Trương Phụ cùng quân bản bộ tinh nhuệ của mình rút về nước Minh. Như vậy là cả hai tên tướng đầu sỏ của quân Minh khi đem quân xâm lược Đại Ngu là Trương Phụ, Mộc Thạnh đều đã rút về nước cùng với những lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Quân Minh trên khắp nước ta lúc này chỉ còn trên dưới 5 vạn, là thời cơ tốt cho các phong trào khởi nghĩa hành động quyết liệt.
Đặng Tất đem quân bắc phạt, tiễu trừ quân phản quốc
Phục dựng binh lính Việt thế kỷ 14-15
Cho đến mùa thu năm 1408, một dải giang sơn từ Nghệ An đến Hóa Châu đã được nhà Hậu Trần khôi phục lại chủ quyền. Sức người sức của trong vùng giải phóng đủ cho Giản Định đế hoàn thành công cuộc đánh đuổi giặc Minh.
Thành Nghệ An bấy giờ do ngụy quan Phan Quý Hữu đóng giữ. Tuy quân lực trong thành không bằng quân Hậu Trần, nhưng nếu dựa vào thành trì mà chống giữ thì cũng có khả năng gây thương vong đáng kể cho quân công thành. Biết được điều đó, Đặng Tất một mặt cho quân phô trương thanh thế, mặt khác thảo thư chiêu hàng Phan Quý Hữu. Lời lẽ trong thư chiêu hàng của Đặng Tất hết sức khiêm nhường, được giao cho chính người con trai trưởng của ông là Đặng Dung đem thư chuyển tận tay Phan Quý Hữu. Thư viết :
“… Đệ cùng với đại huynh nguyên là thần tử nhà Trần. Bởi mệnh trời đổi trở thành bề tôi họ Hồ, mới đây mới khuất thân về với Thiên triều [chỉ giặc Minh]. Từ đó ngày đêm đau đáu niềm tủi hổ, thân làm quốc sĩ mà phải chịu phận hàng thần, đắc tội với xã tắc, mang tiếng xấu ngàn thu.
Nay đệ quản Hóa Châu, sĩ tốt có hơn 10 ngàn. Nếu được đại huynh dùng tướng hùng binh mạnh của Hoan Châu chung sức chung lòng thì một dải từ Mã Giang đến Hải Vân Sơn lo gì không trở thành đất Ba Thục của nhà Hậu Hán [tức nước Thục của Lưu Bị thời Tam Quốc].
Đệ liều chết dâng thư này, bộc bạch ruột gan, nên chăng thế nào mong đại huynh chỉ giáo.” (theo sử gia Đặng Duy Phúc)
Các ngụy quan đa phần chỉ là những người xuôi theo kẻ mạnh. Phan Quý Hữu cũng nằm trong số đó. Nhận được thư của Đặng Tất, Phan Quý Hữu ban đầu còn phân vân chưa chịu hàng. Sau lại thấy lực lượng quân Hậu Trần hùng mạnh nên đã cùng con trai là Phan Liêu mở cổng thành ra hàng. Nhờ vậy mà nghĩa quân có được đất Nghệ An dễ dàng, đỡ tốn nhiều xương máu.
Cùng với việc chiêu hàng Phan Quý Hữu, Đặng Tất còn dụ hàng ngụy quân, ngụy quan ở các nơi dọc đường tiến quân từ Hóa Châu ra Nghệ An. Hầu hết các ngụy quan đều buông giáo quy hàng. Duy chỉ có Phạm Thế Căng giữ phủ Tân Bình là ra mặt chống lại. Y trù tính rằng Đặng Tất có sở trường dùng bộ binh, nên đã tăng cường xây đắp thành lũy ở núi An Đại để phòng thủ, lại bố trí phục binh ở các chỗ hiểm để đón đánh quân Hậu Trần. Thủy quân của Phạm Thế Căng thì đóng phòng tuyến ở cửa biển Nhật Lệ, chắn ngang đường đi lại của quân Hậu Trần giữa hai vùng cứ địa Nghệ An và Thuận Hóa. Thái độ của Phạm Thế Căng buộc vua tôi nhà Hậu Trần phải kiên quyết đánh dẹp.
Tháng 7.1408, quân nhà Hậu Trần chia đường thủy bộ tiến đánh phủ Tân Bình. Quân thủy do Đặng Tất chỉ huy nhân ngày gió thuận căng buồm chèo nhanh đánh thẳng vào khối quân chính của Phạm Thế Căng đang phòng giữ cửa biển Nhật Lệ. Mặc dù đã có phòng bị, Phạm Thế Căng cũng không thể nào chống nổi quân của Đặng Tất có tinh thần chiến đấu cao hơn hẳn. Quân đội của Phạm Thế Căng chỉ giao chiến được một lúc đang thi nhau tan chạy, chỉ có một số ít chống cự và nhanh chóng bị giết. Phạm Thế Căng cùng cháu là Phạm Đống Cao bị bắt sống tại trận. Đặng Tất cho giải Thế Căng và cháu y về Nghệ An, bị vua Giản Định cho xử chém. Phủ Tân Bình được giải phóng. Nghĩa quân thừa thắng kéo xuống Thuận Châu (Quảng Trị ngày nay). Ngụy quan giữ Thuận Châu liệu thế không thể chống cự, liền mở cổng thành đầu hàng quân nhà Hậu Trần.
Cho đến mùa thu năm 1408, một dải giang sơn từ Nghệ An đến Hóa Châu đã được nhà Hậu Trần khôi phục lại chủ quyền. Sức người sức của trong vùng giải phóng đủ cho Giản Định đế hoàn thành công cuộc đánh đuổi giặc Minh. Quốc công Đặng Tất được giao nhiệm vụ đem lực lượng tiến ra bắc chiếm lại Đông Đô. Tình hình chuẩn bị của toàn quân ta rất khẩn trương. Khắp nơi hào kiệt thi nhau hưởng ứng, quyết cùng chung sức đánh giặc.
Trong bối cảnh đó, Minh triều cố gắng tìm biện pháp đối phó lại sự lớn mạnh của phong trào giải phóng đất nước của quân dân Việt. Tháng 8.1408, hạm đội quân Minh gồm 1 vạn quân dưới trướng của Đô chỉ huy sứ Tôn Toàn từ Quảng Đông được phái sang nước ta tăng viện cho quân chiếm đóng. Nhưng bấy nhiêu quân đó không thể đủ làm nên sự khác biệt trên chiến trường. Đặng Tất cất quân bắc tiến, đánh chiếm lại được phủ Trường Yên, Phúc Thành (Ninh Bình), các quan thuộc cũ của nhà Trần, nhà Hồ và anh hùng hào kiệt không ai không theo về. Nghĩa quân tiến công đến tận Hàm Tử (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Bình Than (thuộc Nam Sách, Hải Dương), Thượng Hồng (thuộc Hải Dương). Các toàn quân Hậu Trần tập kích quân Minh ở khắp nơi. Tại vùng Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang ngày nay), nghĩa quân chặn đường tải lương của quân Minh từ Vân Nam đến Đông Quan. Ngay xung quanh thành Đông Quan, đã xuất hiện những toán quân tác chiến độc lập của nhà Hậu Trần thừa cơ đánh tỉa quân Minh.
Các tướng Minh gồm Lữ Nghị, Hoàng Phúc, Hoàng Trung hễ cất quân đi đánh là thua, chỉ còn cách đóng chặt cửa thành cố thủ và gởi thư về nước xin thêm viện binh: “Nghịch tặc Giản Định cùng bọn Đặng Tất tụ tập dân chúng làm loạn, xin tăng thêm binh để tiễu bình”. Một thư xin cứu viện khác thẳng thắn thừa nhận: “… thế lực của giặc [chỉ quân ta] mỗi ngày một mạnh. Quan quân nhiều lần đánh không nổi …” (Minh Thực Lục)
Minh Thành Tổ Chu Đệ vốn là một bạo chúa hiếu danh, không thể để yên cho nhà Hậu Trần phá tan “kỳ công” của hắn. Nhận được báo cáo từ bọn tướng Minh ở thành Đông Quan, Chu Đệ liền cử ngay Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem quân sang tăng viện. Khoảng đầu tháng 9.1408, Mộc Thạnh lĩnh ấn “Chinh Di tướng quân” đem 5 vạn quân tiến sang nước ta, hội với quân Minh ở thành Đông Quan bấy giờ còn trên dưới 5 vạn tên, trong đó có 2 vạn thủy quân. Quân Minh ở thành Đông Quan cả mới lẫn cũ cộng lại có hơn 10 vạn tên, bắt đầu lên kế hoạch phản công lại quân Hậu Trần.
Bên cạnh việc liên tiếp điều quân tăng viện, Chu Đệ còn dùng biện pháp ngoại giao hòng lung lạc tinh thần quân ta. Sứ giả Minh triều đem thư của Chu Đệ đến cho Giản Định để chiêu hàng. Thư viết:
“Mới đây cha con giặc họ Lê [chỉ nhà Hồ gây việc soán đoạt, buông tuồng bạo lọan, độc hại người trong nước, chiếm đoạt biên cảnh, bèn mệnh xuất sư điếu phạt, bọn ác đầu sỏ bị bắt, dư đảng bị tiêu diệt, rồi thiết lập quận huyện, vỗ về thiện lương, một phương nhân dân đều được yên nghiệp. Chỉ riêng các ngươi ương ngạnh, lập đảng chống cự triều mệnh, cướp bóc dân chúng. Quần thần xin hưng sư tiêu diệt, Trẫm nghĩ dưới lằn tên mũi đạn, sợ liên lụy đến dân vô tội mà những kẻ bất thiện như các ngươi cũng còn được cơ hội để có thể sửa đổi, nên ban sắc dụ này.
Phàm cử sự cần phải hợp đạo trời, cha con giặc họ Lê tội ác đầy rẫy , trời đã phế thì không thể giữ được. Các ngươi là đám tàn dư, trái đạo, nghịch mệnh trời , thì cũng đợi để tiêu diệt mà thôi! Tuy nhiên vui được sống, ghét chết là sự thường tình của con người ta. Nếu trước đây các ngươi chưa nghĩ kỹ nên làm việc bội nghịch trái đạo, hoặc do bọn quan lại hà khắc phải liều lĩnh mưu đồ tự tồn, lòng muốn hối cải nhưng còn nghi ngờ chưa dám quyết! Phàm con người ai mà không sai, sai mà biết sửa, còn gì tốt bằng. Bọn các ngươi hãy nhân lúc này, minh định lẽ nghịch thuận, xem xét cơ duyên họa phúc, tìm yên ổn có lợi cho bản thân, bảo vệ được gia tộc, mưu đồ kế vĩnh cữu.
Hãy dốc lòng thành quy phụ, sự sai lầm trong quá khứ được tha hết không hỏi đến, còn được giao chức quan, trả lại đất để cai trị, con cháu đời đời được thế tập . Lời Trẫm phát xuất từ tâm lòng, thông với trời đất; nếu các ngươi chấp mê không theo, họa sẽ đến với bản thân và gia đình, lúc đó hối cũng không kịp!” (theo Minh Thực Lục)
Chu Đệ còn xuống chiếu cho quan lại nước Minh và dân chúng trong nước ta rằng:“Còn nghĩ bọn dư chúng vốn là ngu muội, hoặc vì đói nghèo bức bách, hoặc bị kẻ mạnh bắt ép, hặc bị bọn gian dụ dỗ, việc không thể đừng, tình cũng đáng thương, nếu nhất loạt bắt tội cả, trẫm thực không nỡ. Khi chiếu thư này tới, đều tha cho cả. Quan lại ở các nha môn, quân dân thuộc đất Giao Chỉ hãy thể lòng chí nhân của trẫm phải khoan hồng thương xót, chớ làm ráo riết, chớ vơ vét của dân, hết thảy những việc không cần kíp phải ngừng bỏ cả”. (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Chu Đệ tuy nói lý lẽ nhưng vẫn khỏa lấp những lý lẽ cơ bản. Giản Định đế Trần Ngỗi là con cháu hoàng tộc Trần, nếu xét về tình về lý thì quân Minh phải trả nước cho Giản Định làm vua như lời chúng đã rêu rao khi xâm lược nước ta là “phù Trần diệt Hồ”. Nhưng bởi vốn chúng đã manh tâm lừa dối để cướp nước người, nên trước sau vẫn chỉ coi Giản Định là tàn dư “nghịch mệnh trời”. Lời lẽ của quân giặc trước sau bất nhất, mặc dù có đem lợi lộc ra dụ dỗ, đem vũ lực ra răn đe cũng khó mà khiến người ta tin mà nghe theo.
Tất nhiên, vua tôi nhà Hậu Trần đã bỏ ngoài tai những lời dối trá của Chu Đệ. Quân Hậu Trần biết Mộc Thạnh kéo quân sang, đã tích cực chuẩn bị đánh những trận sống mái với giặc.
Đặng Tất đặt thiên la địa võng, chờ đấu 10 vạn quân giặc Minh
Mùa đông năm 1408, cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt bước vào giai đoạn mang tính quyết định. Trong khi Mộc Thạnh cùng các tướng Minh hội quân ở Đông Quan trên 10 vạn thì quân nhà Hậu Trần cũng khẩn trương tập trung lực lượng để đủ sức đương đầu với quân giặc ở những trận chiến quy mô lớn.
Cho đến cuối năm 1408, nhà Hậu Trần đã xây dựng được một đội quân chính quy đông hơn 3 vạn quân với đầy đủ trang bị, đầy đủ binh chủng bộ binh, thủy binh, kỵ binh và một đội tượng binh gồm 20 thớt voi. Cùng sát cánh với lực lượng chính quy là lực lượng trợ chiến đông đảo. Tuy nghĩa quân không có số quân chính quy đông như giặc Minh nhưng bù lại, quân ta có thời sự hỗ trợ đắc lực của nhân dân các nơi. Cụ thể, khi được lòng dân ủng hộ nghĩa là quân Hậu Trần luôn có đủ thông tin về quân Minh, trái lại quân giặc luôn mù mờ về tin tức của quân ta. Với lợi thế trong bóng tối nhìn ra ngoài sáng, quân Hậu Trần có thể thoải mái áp dụng các chiến thuật mai phục, tập kích mà không sợ lộ quân cơ. Có được lòng dân, nhà Hậu Trần có được nguồn nhân lực dồi dào để dùng vào các việc xây thành lũy, chuẩn bị chiến trường, vận lương, đóng thuyền, đúc vũ khí…
Các trai tráng trong vùng giải phóng là lực lượng dự bị bổ sung vào quân đội. Song song với việc bắc tiến, nhà Hậu Trần cũng chú trọng xây dựng hậu phương, củng cố lực lượng. Cha con nhà họ Đặng đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu. Hóa Châu, Thăng Hoa vốn là đất căn bản của Đặng Tất cung cấp rất nhiều sức người, sức của. Các xưởng đúc vũ khí, chiến thuyền hoạt động nhộn nhịp. Các quan lại, hào phú không tiếc của quyên góp cho nghĩa quân. Với tiềm lực có được và khí thế đang dâng cao, vua tôi nhà Hậu Trần không ngần ngại đối đầu với Mộc Thạnh trong một trận chiến lớn để nhanh chóng khôi phục lại chủ quyền toàn bộ đất nước.
Đại bộ phận chủ lực quân Hậu Trần từ Nghệ An kéo ra đã tập kết ở phủ Kiến Bình (Nam Định) và châu Trường Yên (Ninh Bình). Quốc công Đặng Tất sau khi khảo sát hình thế các nơi, quyết định lựa chọn bến Bô Cô thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Vọng Doanh (nay thuộc Ý Yên, Nam Định) làm địa điểm đón đánh quân Minh. Bến Bô Cô thời bấy giờ là một bến đò nhỏ hoang vắng nối hai bờ sông Lộ Bố (sông Đáy chảy qua Ninh Bình và Nam Định), là điểm tiếp giáp giữa phủ Kiến Bình và châu Trường Yên, lại nằm trên trục đường Thiên lý, vốn là con đường nối liền đất nước từ bắc vào nam. Đây là địa điểm mà gần như chắc chắn quân Minh phải đi qua để tiến quân xuống phía nam, dù cho đi bằng đường bộ hay đường thủy. Xung quanh bến Bô Cô là một vùng đầm lầy hoang vắng với lau sậy mọc um tùm, cùng với hệ thống các con kênh lạc nhỏ dày đặc. Địa hình nơi đây đặc biệt thuận lợi cho việc đặt phục binh quy mô lớn.
Tại khu vực bến Bô Cô, Đặng Tất đã cho điều động quân dân dựng lên một công trình phòng thủ quy mô. Cọc nhọn được cắm dưới lòng sông để làm chướng ngại vật ngăn cản thủy quân giặc. Dọc hai bên bờ đều có chiến lũy kiên cố. Dưới sông có lực lượng thủy quân dưới quyền chỉ huy của Trấn quốc tướng quân Đặng Dung chốt giữ. Thủy quân nhà Hậu Trần không dùng các chiến thuyền lớn mà dùng các loại thuyền nhỏ có sức cơ động cao, thích hợp với lối đánh mai phục. Sau khi bố trí các trận địa, Đặng Tất cho người vào Nghệ An đón vua Giản Định đến đại doanh đặt tại Phúc Thành.
Nửa cuối tháng 12.1408, 10 vạn quân Minh chia hai đường thủy bộ rầm rộ nhằm vào hướng châu Trường Yên mà tiến. Bộ binh quân Minh gồm 8 vạn đi dọc theo đường Thiên Lý. Thủy quân giặc gồm 2 vạn tên xuôi dòng sông Cái (sông Hồng), sông Châu Giang để vào sông Lộ Bố. Mộc Thạnh rất tự tin và nóng lòng tiêu diệt toàn quân ta trong một trận. Ngày 29/12/1408, tiền quân của giặc đã tiến đến gần Bô Cô. Phát hiện ra chiến tuyến kiên cố của quân ta, quân Minh bắt đầu dựng trại tập kết. Quân Minh chia làm ba thê đội. Tiền quân dưới quyền Đô đốc thiêm sự Lữ Nghị, trung quân do chính Kiềm quốc công Mộc Thạnh điều động, hậu quân thuộc quyền chỉ huy của Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn. Ngoài ra, quân Minh còn có các tướng lĩnh chủ chốt khác là Tham chính Lưu Dục, Đô chỉ huy sứ Liễu Tông… Chín phần mười binh lực của nước Minh ở Đại Việt (chưa kể ngụy binh) đã đổ dồn vào trận, cho thấy quyết tâm cao độ của tướng lĩnh quân Minh trong việc tiêu diệt nhà Hậu Trần.
Với binh lực mạnh trong tay, Mộc Thạnh cùng các tướng lĩnh quân Minh dự định sẽ nhanh chóng dùng sức mạnh kỵ bộ đánh thủng các chiến lũy của quân Hậu Trần ở bờ bắc, rồi cùng với cánh thủy quân phối hợp vượt sông đánh thẳng vào Phúc Thành, bắt giết vua Giản Định. Tuy nhiên, Quốc công Đặng Tất đã chuẩn bị những đòn không ngờ tới dành cho quân giặc. Mặc dù quân Minh hành quân rất quy củ, luôn có du binh do thám kỹ càng để tránh việc bị mai phục nhưng đã không lường trước được toan tính của quân ta. Đặng Tất đã tận dụng lợi thế địa hình lau sậy mọc um tùm, không đặt phục binh ven đường mà cho quân mai phục đóng cách xa con đường, đủ để vượt ngoài tầm do thám của quân Minh. Quân mai phục cùng với quân đóng ở chiến lũy làm thành một trận địa lợi hại như một cái bẫy lớn chờ quân giặc chui vào để tiêu diệt.
Ở dưới sông, thủy quân ta cũng dựa vào bãi cọc và hệ thống kênh rạch nhỏ mà đặt mai phục sẵn sàng chặn thủy quân giặc, không cho chúng phối hợp với bộ binh. Đặng Tất cùng bộ chỉ huy nghĩa quân đóng trên núi Dục Thúy, một ngọn núi cao trong vùng để quan sát trận địa. Xét về mức độ tinh nhuệ, quân ta lúc này vẫn thua kém quân Minh. Nhưng toàn quân trên dưới đều một lòng xả thân giết giặc. Tinh thần đó hoàn toàn khác hẳn với sự bạc nhược của quân đội Đại Ngu của nhà Hồ. Chính tinh thần quyết tử đã làm nên một sức mạnh phi thường mà quân Minh sẽ phải đối đầu.
Cha con Đặng Tất, Đặng Dung tiêu diệt 10 vạn quân Minh
Bãi cọc chôn hàng vạn quân Minh
Kết thúc trận đánh, cả thảy gần 10 vạn quân Minh bỏ thây trong trận chiến. Các tướng Minh gồm Thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, Tham chính Lưu Dục, Đô chỉ huy Liễu Tông… cùng với hàng loạt tướng lĩnh chủ chốt khác đều bị giết tại trận. Về phía quân Hậu Trần dù thắng trận cũng tổn thất hơn vạn quân.
Tướng lĩnh quân Minh đổ rất nhiều tâm huyết vào trận Bô Cô với hy vọng nhanh chóng dập tắt phong trào khởi nghĩa của quân dân Đại Việt. Sau những bước chuẩn bị, hừng sáng ngày 14 tháng Chạp năm Mậu Tý (30.12.1408), quân Minh bắt đầu tấn công vào trận địa quân Hậu Trần. Ở trên bộ, Đô ty Lữ Nghị chỉ huy tiền quân bắn hỏa pháo rồi thúc bộ binh ào lên bắt thang mây tấn công chiến lũy. Do có thời gian chuẩn bị khá dài nên chiến lũy của quân Hậu Trần đã vững, đủ để chịu đựng những loạt pháo của địch. Khi bộ binh giặc tràn đến cận chiến, quân Hậu Trần bình tĩnh dựa vào chiến lũy cố thủ.
Gần như đồng thời với cuộc tấn công trên bộ, các chiến thuyền của quân Minh cũng từ sông Châu Giang tiến vào sông Lộ Bố đánh phối hợp với cánh bộ binh. Quân Minh liệu rằng khi bộ binh phá xong chiến lũy ở bờ bắc thì thủy quân cũng làm chủ được khúc sông, bộ binh giặc sẽ lên thuyền vượt sông để dứt điểm quân Hậu Trần ở bờ nam. Trước sức tấn công của thủy quân nước Minh, thủy quân Hậu Trần dưới sự chỉ huy của Đặng Dung cũng xuất quân nghênh địch, ngăn chặn từ xa không cho thủy quân giặc tiếp cận trận địa chính của quân ta ở Bô Cô. Mọi chuyện diễn ra theo như dự tính của Đặng Tất, thủy quân ta cầm cự đợi cho thủy triều lên che đi bãi cọc ngầm đã cắm ở gần Bô Cô.
Chiến sự dằn co kéo dài hàng giờ liền. Trung quân của Mộc Thạnh dần kéo đến nối sau đội tiền quân của Lữ Nghị nhưng không thể phối hợp dàn trận do đường hẹp không đủ không gian cho số quân Minh đông đúc. Đội hình quân Minh vì vậy mà bị dồn ứa lại dọc theo đường đi. Đặng Tất quan sát tình hình, phất cờ mật lệnh ra dấu hiệu cho lực lượng mai phục ở hai bên đường Thiên lý lặng lẽ di chuyển áp sát đội hình quân Minh.
Trong lúc đó, các lực lượng đóng ở chiến lũy bờ bắc bến Bô Cô vẫn kiên cường chống trả quân địch công phá lũy. Quân Minh lăn xả tấn công, tử trận rất nhiều nhưng vẫn không thể qua được chiến lũy quân Hậu Trần. Kỵ binh giặc tinh nhuệ cũng không thể thi thố trước chiến lũy của quân ta. Khi đó quân mai phục đã tiếp cận đến gần ven đường, nơi mà số đông quân Minh đang đứng chôn chân chờ đợi tiền quân hoàn thành nhiệm vụ. Đặng Tất ở trên cao quan sát, cho bắn pháo phất cờ phát lệnh tổng công kích. Từ trong những hàng lau sậy hai bên đường, hàng vạn quân mai phục của nhà Hậu Trần hò reo xông vào đánh tạt sườn quân Minh, ai nấy đều mang khí thế hùng hồn, giáp chiến dữ dội với quân Minh. Mộc Thạnh bị bất ngờ hoàn toàn.
Dù có số quân đông hơn và tinh nhuệ hơn, đòn tấn công thình lình khiến quân Minh không kịp dàn trận đối phó. Mọi sự phản kháng của địch đều rời rạc trước sức tấn công như bão táp của quân ta. Quân Minh chết như rạ, từng tên một bị hạ trước mũi giáo của quân Hậu Trần mà không thể phối hợp với nhau. Các tướng Minh ra sức quát tháo chỉnh đốn hàng ngũ, nhưng âm thanh chiến trường lúc này bị khỏa lấp bị tiếng hò reo vang trời của quân ta. Đội hình địch đứt đoạn, bị xé nát thành từng cụm, không thể liên lạc với nhau và bị quân Hậu Trần lăn xả chém giết. Các chiến binh Việt vốn ít hơn, đã đặt mình vào thế không còn đường lùi và ra sức tử chiến với giặc với một quyết tâm không gì cản nổi.
Bấy giờ đã vào buổi trưa, thủy triều đã lên cao che khuất bãi cọc ngầm. Thủy quân Hậu Trần ở dưới sông cũng theo kế hoạch giả vờ thua và rút lui. Thủy quân Minh hăm hở đuổi theo sau. Đoàn thuyền giặc to lớn tưởng chừng có thể phá được thủy trận của quân ta, tiến nhanh vào bãi cọc ngầm chờ sẵn. Thuyền của quân Hậu Trần là loại thuyền nhẹ, dễ dàng lướt qua bãi cọc. Thuyền quân Minh theo sau, vì to lớn, đáy chìm sâu dưới nước nên vướng cọc hàng loạt, nối đuôi nhau chìm đắm.
Đoàn thuyền quân Hậu Trần đang rút lui thừa cơ đánh ập lại. Cùng lúc đó pháo lệnh phát ra, các đội thuyền nhỏ mai phục trong các kênh rạch, các đám lau sậy ven sông nhất tề đổ ra vây kín hạm đội quân Minh. Thuyền giặc lớp bị cọc đâm chìm, lớp va vào nhau, lớp khác bị thủy quân ta tiêu diệt. Chẳng mấy chốc đa số thuyền giặc đã bị loạt khỏi vòng chiến với thương vong lớn. Số thủy quân còn lại của giặc Minh hốt hoảng toan quay đầu chạy nhưng đã quá muộn. Cán cân lực lượng nhanh chóng nghiêng hoàn toàn về phía quân ta. Các chiến thuyền nhỏ của quân Hậu Trần xiết vòng vây, lần lượt tiêu diệt gần như toàn bộ 2 vạn thủy quân nước Minh.
Đến chiều, chiến sự trên bộ vẫn diễn ra đẫm máu. Trung quân và tiền quân giặc Minh đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Đang lúc đó thì hậu quân Minh dưới trướng của Lưu Tuấn tiến đến cứu viện, cố gắng giải nguy và lật ngược thế trận. Có quân tiếp viện, số quân tướng Minh bị trúng mai phục từ trước định thần lại cố gắng phản kích quân Hậu Trần. Quân ta quần nhau với giặc hồi lâu, cơ hồ cũng đã mỏi mệt nên hơi núng thế. Lúc này Đặng Tất mới ra đòn kết thúc. Quân từ chiến lũy mở cửa xông ra đánh trực diện vào giặc. Các lực lượng dự bị của quân Hậu Trần từ bờ nam đồng loạt phất cờ gióng trống dùng thuyền nhỏ vượt sông tiếp ứng với bờ bắc. Vua Giản Định từ trên núi cao thẳng tay đánh trống thúc quân. Được sự cổ vũ to lớn của nhà vua, các cánh quân ta dẫu mệt mỏi cũng phấn chấn tinh thần mà cố sức đánh mạnh.
Nắng chiều tắt dần, quân Minh dù có tiếp viện cũng không chống nổi khí thế quân Hậu Trần. Cầm cự được một hồi thì quân Minh vỡ trận hoàn toàn, quân tướng nối nhau bỏ chạy. Quân Hậu Trần quyết truy kích đến cùng, giết gần hết giặc. Chỉ có Mộc Thạnh lợi dụng trời nhá nhem tối cùng đám thân binh dẫm bừa lên xác đồng đội cố chết phá vòng vây chạy thoát được về thành Cổ Lộng, tòa thành cũ ở gần Bô Cô. Kết thúc trận đánh, cả thảy gần 10 vạn quân Minh bỏ thây trong trận chiến. Các tướng Minh gồm Thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, Tham chính Lưu Dục, Đô chỉ huy Liễu Tông… cùng với hàng loạt tướng lĩnh chủ chốt khác đều bị giết tại trận. Về phía quân Hậu Trần dù thắng trận cũng tổn thất hơn vạn quân.
Trận Bô Cô là một trong những chiến thắng hào hùng của dân tộc Việt Nam, cũng là một trong những trận chiến đẫm máu bậc nhất. Chưa trong chưa đầy một ngày, 10 vạn quân giặc cả quân cũ lẫn quân mới bị đánh tan tác không còn manh giáp. Không ít trong số này đã gây nhiều tội ác trên đất nước ta trong quá trình xâm lược và đô hộ. Nói về thuật dùng binh, Đặng Tất đã áp dụng tư tưởng tử chiến đến cùng với quân giặc. Đây là điều mà binh pháp đời trước rất thận trọng khi dùng. Để thắng được quân địch đông mạnh, quân Hậu Trần đã chẳng tiếc thân mình trong chiến đấu và cũng chịu đựng những mất mát lớn. Sau đại thắng bến Bô Cô, vận mệnh của dân tộc lại trở nên sáng sủa. Giản Định đế và nhà Hậu Trần đứng trước thời cơ lớn để hoàn thành nghiệp trung hưng nước Đại Việt.
Gần như đồng thời với cuộc tấn công trên bộ, các chiến thuyền của quân Minh cũng từ sông Châu Giang tiến vào sông Lộ Bố đánh phối hợp với cánh bộ binh. Quân Minh liệu rằng khi bộ binh phá xong chiến lũy ở bờ bắc thì thủy quân cũng làm chủ được khúc sông, bộ binh giặc sẽ lên thuyền vượt sông để dứt điểm quân Hậu Trần ở bờ nam. Trước sức tấn công của thủy quân nước Minh, thủy quân Hậu Trần dưới sự chỉ huy của Đặng Dung cũng xuất quân nghênh địch, ngăn chặn từ xa không cho thủy quân giặc tiếp cận trận địa chính của quân ta ở Bô Cô. Mọi chuyện diễn ra theo như dự tính của Đặng Tất, thủy quân ta cầm cự đợi cho thủy triều lên che đi bãi cọc ngầm đã cắm ở gần Bô Cô.
Chiến sự dằn co kéo dài hàng giờ liền. Trung quân của Mộc Thạnh dần kéo đến nối sau đội tiền quân của Lữ Nghị nhưng không thể phối hợp dàn trận do đường hẹp không đủ không gian cho số quân Minh đông đúc. Đội hình quân Minh vì vậy mà bị dồn ứa lại dọc theo đường đi. Đặng Tất quan sát tình hình, phất cờ mật lệnh ra dấu hiệu cho lực lượng mai phục ở hai bên đường Thiên lý lặng lẽ di chuyển áp sát đội hình quân Minh.
Trong lúc đó, các lực lượng đóng ở chiến lũy bờ bắc bến Bô Cô vẫn kiên cường chống trả quân địch công phá lũy. Quân Minh lăn xả tấn công, tử trận rất nhiều nhưng vẫn không thể qua được chiến lũy quân Hậu Trần. Kỵ binh giặc tinh nhuệ cũng không thể thi thố trước chiến lũy của quân ta. Khi đó quân mai phục đã tiếp cận đến gần ven đường, nơi mà số đông quân Minh đang đứng chôn chân chờ đợi tiền quân hoàn thành nhiệm vụ. Đặng Tất ở trên cao quan sát, cho bắn pháo phất cờ phát lệnh tổng công kích. Từ trong những hàng lau sậy hai bên đường, hàng vạn quân mai phục của nhà Hậu Trần hò reo xông vào đánh tạt sườn quân Minh, ai nấy đều mang khí thế hùng hồn, giáp chiến dữ dội với quân Minh. Mộc Thạnh bị bất ngờ hoàn toàn.
Dù có số quân đông hơn và tinh nhuệ hơn, đòn tấn công thình lình khiến quân Minh không kịp dàn trận đối phó. Mọi sự phản kháng của địch đều rời rạc trước sức tấn công như bão táp của quân ta. Quân Minh chết như rạ, từng tên một bị hạ trước mũi giáo của quân Hậu Trần mà không thể phối hợp với nhau. Các tướng Minh ra sức quát tháo chỉnh đốn hàng ngũ, nhưng âm thanh chiến trường lúc này bị khỏa lấp bị tiếng hò reo vang trời của quân ta. Đội hình địch đứt đoạn, bị xé nát thành từng cụm, không thể liên lạc với nhau và bị quân Hậu Trần lăn xả chém giết. Các chiến binh Việt vốn ít hơn, đã đặt mình vào thế không còn đường lùi và ra sức tử chiến với giặc với một quyết tâm không gì cản nổi.
Bấy giờ đã vào buổi trưa, thủy triều đã lên cao che khuất bãi cọc ngầm. Thủy quân Hậu Trần ở dưới sông cũng theo kế hoạch giả vờ thua và rút lui. Thủy quân Minh hăm hở đuổi theo sau. Đoàn thuyền giặc to lớn tưởng chừng có thể phá được thủy trận của quân ta, tiến nhanh vào bãi cọc ngầm chờ sẵn. Thuyền của quân Hậu Trần là loại thuyền nhẹ, dễ dàng lướt qua bãi cọc. Thuyền quân Minh theo sau, vì to lớn, đáy chìm sâu dưới nước nên vướng cọc hàng loạt, nối đuôi nhau chìm đắm.
Đoàn thuyền quân Hậu Trần đang rút lui thừa cơ đánh ập lại. Cùng lúc đó pháo lệnh phát ra, các đội thuyền nhỏ mai phục trong các kênh rạch, các đám lau sậy ven sông nhất tề đổ ra vây kín hạm đội quân Minh. Thuyền giặc lớp bị cọc đâm chìm, lớp va vào nhau, lớp khác bị thủy quân ta tiêu diệt. Chẳng mấy chốc đa số thuyền giặc đã bị loạt khỏi vòng chiến với thương vong lớn. Số thủy quân còn lại của giặc Minh hốt hoảng toan quay đầu chạy nhưng đã quá muộn. Cán cân lực lượng nhanh chóng nghiêng hoàn toàn về phía quân ta. Các chiến thuyền nhỏ của quân Hậu Trần xiết vòng vây, lần lượt tiêu diệt gần như toàn bộ 2 vạn thủy quân nước Minh.
Đến chiều, chiến sự trên bộ vẫn diễn ra đẫm máu. Trung quân và tiền quân giặc Minh đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Đang lúc đó thì hậu quân Minh dưới trướng của Lưu Tuấn tiến đến cứu viện, cố gắng giải nguy và lật ngược thế trận. Có quân tiếp viện, số quân tướng Minh bị trúng mai phục từ trước định thần lại cố gắng phản kích quân Hậu Trần. Quân ta quần nhau với giặc hồi lâu, cơ hồ cũng đã mỏi mệt nên hơi núng thế. Lúc này Đặng Tất mới ra đòn kết thúc. Quân từ chiến lũy mở cửa xông ra đánh trực diện vào giặc. Các lực lượng dự bị của quân Hậu Trần từ bờ nam đồng loạt phất cờ gióng trống dùng thuyền nhỏ vượt sông tiếp ứng với bờ bắc. Vua Giản Định từ trên núi cao thẳng tay đánh trống thúc quân. Được sự cổ vũ to lớn của nhà vua, các cánh quân ta dẫu mệt mỏi cũng phấn chấn tinh thần mà cố sức đánh mạnh.
Nắng chiều tắt dần, quân Minh dù có tiếp viện cũng không chống nổi khí thế quân Hậu Trần. Cầm cự được một hồi thì quân Minh vỡ trận hoàn toàn, quân tướng nối nhau bỏ chạy. Quân Hậu Trần quyết truy kích đến cùng, giết gần hết giặc. Chỉ có Mộc Thạnh lợi dụng trời nhá nhem tối cùng đám thân binh dẫm bừa lên xác đồng đội cố chết phá vòng vây chạy thoát được về thành Cổ Lộng, tòa thành cũ ở gần Bô Cô. Kết thúc trận đánh, cả thảy gần 10 vạn quân Minh bỏ thây trong trận chiến. Các tướng Minh gồm Thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, Tham chính Lưu Dục, Đô chỉ huy Liễu Tông… cùng với hàng loạt tướng lĩnh chủ chốt khác đều bị giết tại trận. Về phía quân Hậu Trần dù thắng trận cũng tổn thất hơn vạn quân.
Trận Bô Cô là một trong những chiến thắng hào hùng của dân tộc Việt Nam, cũng là một trong những trận chiến đẫm máu bậc nhất. Chưa trong chưa đầy một ngày, 10 vạn quân giặc cả quân cũ lẫn quân mới bị đánh tan tác không còn manh giáp. Không ít trong số này đã gây nhiều tội ác trên đất nước ta trong quá trình xâm lược và đô hộ. Nói về thuật dùng binh, Đặng Tất đã áp dụng tư tưởng tử chiến đến cùng với quân giặc. Đây là điều mà binh pháp đời trước rất thận trọng khi dùng. Để thắng được quân địch đông mạnh, quân Hậu Trần đã chẳng tiếc thân mình trong chiến đấu và cũng chịu đựng những mất mát lớn. Sau đại thắng bến Bô Cô, vận mệnh của dân tộc lại trở nên sáng sủa. Giản Định đế và nhà Hậu Trần đứng trước thời cơ lớn để hoàn thành nghiệp trung hưng nước Đại Việt.
Hai vua nhà Trần bao vây quân Minh tại Đông Quan
Trùng Quang đích thân đi thuyền đến sông Tam Chế (thuộc Nghi Xuân, Hà Tĩnh ngày nay) đón Giản Định về thành Chi La, tôn làm Thái thượng hoàng. Trên danh nghĩa Giản Định vẫn cùng vua Trùng Quang trông coi việc nước để cho nhân tâm không bị hoang mang
Tháng 3.1409, nhà Hậu Trần theo đang trên đà thắng lợi thì Giản Định lại nhẫn tâm giết đi hai vị đại tướng của mình là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Tin ấy truyền ra, ba quân nhiều người thương tiếc không cầm được nước mắt. Lòng quân lung lay đến cực độ. Các chiến binh dưới trướng Giản Định bị giằng xé giữa một bên là tình cảm dành cho hai vị chỉ huy đã nhiều phen cùng họ vào sinh ra tử, dẫn dắt họ qua gian nguy với một bên là luân lý phải trung thành với nhà vua trong hệ tư tưởng phong kiến đương thời. Đó là nói chung tất cả quân đội Hậu Trần, còn riêng những tướng sĩ cũ từng ở dưới trướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân trước khi hai ông đem quân đón rước vua Giản Định thì hầu hết đều cực kỳ phẫn nộ.
Các tướng sĩ Hóa Châu, Thuận Châu, Nghệ An đã từng cùng Đặng Tất nuốt nhục theo về quân Minh để chờ thời cơ, rồi cùng chiến đấu với ông gây dựng những nền tảng vững chắc cho phong trào khởi nghĩa. Hơn ai hết họ hiểu rõ vua Giản Định có thể đã sớm bỏ thây dưới lưỡi gươm của quân Minh nếu như không có công lao phò tá của Đặng Tất, cũng như khó mà có được thành tựu phi thường nếu không có tài thao lược của Nguyễn Cảnh Chân.
Với sự bất mãn và phẫn nộ tột cùng, Đặng gia tướng với hàng loạt tướng lĩnh tài ba đứng đầu là Đặng Dung, con trai trưởng của Đặng Tất cùng các tướng Đặng Chủng, Đặng Thát, Đặng Liên, Đăng A Thiết đã bàn với Nguyễn Cảnh Dị, người con trai của Nguyễn Cảnh Chân đem quân bản bộ các xứ Hóa Châu, Thuận Châu, Nghệ An… rời bỏ vua Giản Định rút về Nghệ An, tìm một tôn thất khác của họ Trần để lập làm vua, tiếp tục giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống Minh. Thực ra với quân lực của hai họ Đặng và họ Nguyễn hợp lại, họ hoàn toàn có thể làm binh biến giết chết vua Giản Định để báo thù. Nhưng họ đã không làm vậy vì để tránh tội giết vua, bảo tồn tính chính danh cho cuộc kháng chiến.
Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị rút quân, nhiều binh sĩ thuộc quyền các tướng khác, các binh lính mới tuyển cũng rút theo, một số khác bất mãn rời đội ngũ. Số quân còn lại dưới trướng Giản Định trở nên cực kỳ yếu ớt, hầu như không còn tinh thần chiến đấu. Sự nghiệp của Giản Định có lúc đã tiến rất gần tới vinh quang tột đỉnh, chỉ vì nghe theo lời nịnh, đi một bước sai lầm mà tiêu tan tất cả, thanh danh cũng bị hủy đi trong phút chốc.
Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng các tướng tìm được tôn thất họ Trần là Trần Quý Khoáng lúc này đang ở ẩn tại Thanh Hoa, rước vào Nghệ An tôn làm vua. Trần Quý Khoáng có thân thế là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, con thứ của Mẫn vương Trần Ngạc. Trong thời Trần, Trần Quý Khoáng từng giữ chức Nhập nội thị trung. Ngày 2.4.1409, Trần Quý Khoáng lên ngôi ở huyện Chi La (Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay), lấy hiệu là Trùng Quang Đế. Đặng Dung được vua phong làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Cảnh Dị lãnh chức Thái bảo, Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Chương làm Tư mã, Nguyễn Biểu làm Điện tiền thị ngự sử.
Trên thực tế, sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh dưới ngọn cờ khôi phục vương triều Trần đã chuyển giao về tay vua Trùng Quang. Các lực lượng trước đây theo vua Giản Định thì nay đa số theo về với Trùng Quang Đế. Bộ khung lãnh đạo mới dưới trướng vua Trùng Quang có ba trụ cột chính là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy. Nghĩa quân đắp thành Chi La, lấy đất Nghệ An làm căn bản.
Trong khi đó, Giản Định đế đóng quân ở thành Ngự Thiên (thuộc Thái Bình) cùng một số quân tướng trung thành còn lại, lực lượng cô độc ít ỏi, vô phương tiến thoái. Quân Minh thừa cơ hội kéo đến vây đánh, thế bại vong của Giản Định chỉ còn tính bằng ngày. Để tránh việc một nước hai vua cũng như không để cho quân Minh đánh bắt được vua Giản Định, Trùng Quang Đế theo lời các tướng bàn đã quyết định ra quân bắt sống Giản Định trước. Tướng Nguyễn Súy nhận lệnh vua Trùng Quang, kéo quân tinh nhuệ đóng giả làm thường dân rồi trà trộn vào thành Ngự Thiên, nhanh chóng đánh úp bắt gọn được vua Giản Định và các cận thần giải về Nghệ An giam lỏng.
Lúc này mẹ của Giản Định là Hưng Khánh Hoàng thái hậu vẫn chưa bị Nguyễn Súy bắt, họp cùng các tướng cũ của Giản Định là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đĩnh khởi binh ở Hát Giang (Quốc Oai, Hà Nội ngày nay), lập mưu đánh úp vua Trùng Quang để khôi phục lại quyền lực cho Giản Định. Có người hầu cận thái hậu là Nguyễn Trạo người Nghệ An đem mưu ấy báo với Trùng Quang. Vua Trùng Quang sai tướng đến Hát Giang đánh bắt gọn quân phản loạn, xử tử Lê Tiệt và Lê Nguyên Đĩnh, còn lại thuộc hạ đồng mưu đều được tha chết. Hưng Khánh hoàng thái hậu cũng không bị xử tội, nhưng ít lâu sau thì bệnh chết.
Sau khi bắt được vua Giản Định, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã bàn với vua Trùng Quang, vì đại nghĩa mà dẹp bỏ tư thù, lấy lễ hoàng thân mà tiếp đón vua Giản Định. Trùng Quang đích thân đi thuyền đến sông Tam Chế (thuộc Nghi Xuân, Hà Tĩnh ngày nay) đón Giản Định về thành Chi La, tôn làm Thái thượng hoàng. Trên danh nghĩa Giản Định vẫn cùng vua Trùng Quang trông coi việc nước để cho nhân tâm không bị hoang mang. Việc tôn Giản Định làm Thượng hoàng đã thể hiện sự bao dung của hai vị Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cũng như sự thức thời của vua Trùng Quang. Nhờ hành động này, hàng ngũ nhà Hậu Trần đã quy về một mối.
Tuy nhiên, kể từ khi vua Giản Định giết hại Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân đến khi nội bộ nhà Hậu Trần ổn định trở lại như cũ đã phải mất hàng tháng trời. Các tin tức về sự chia rẽ nội bộ của quân ta đã được tướng lĩnh nước Minh nắm được thông qua do thám. Mộc Thạnh biết Trùng Quang lên ngôi, đã sai Hoàng La đến dụ hàng. Trùng Quang đế sai người tiếp Hoàng La ở Nỗ Giang (sông Mã chảy qua Hoằng Hóa, Thanh Hóa), nói về việc không đầu hàng và yêu cầu quân Minh trả nước cho họ Trần như lời hứa khi xưa.
Sau nhiều thời gian trì hoãn do biến cố nội bộ, cho đến tháng 7.1409, quân Hậu Trần mới bắt tay vào chiến dịch tấn công thành Đông Quan, lúc bấy giờ do Mộc Thạnh cùng một số quân tướng nước Minh còn sót lại sau trận Bô Cô cố thủ. Thành Đông Quan tuy ít quân nhưng là một tòa thành mà quân Minh đổ nhiều công sức để xây dựng rất kiên cố, trên thành có đặt súng lớn, rất khó công phá. Quân Hậu Trần thiếu kinh nghiệm đánh thành trì lớn như thế, nên phải dùng kế bao vây. Vua Trùng Quang cùng các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đem quân đóng ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương).
Nguyễn Súy cùng thượng hoàng Giản Định đem quân đóng ở Hạ Hồng (thuộc Hải Dương). Trùng Quang một mặt vây thành Đông Quan, sai quân cứ cách 4 – 5 ngày tuần tra một lần. Mặt khác vua gởi hịch kêu gọi hào kiệt các vùng Kinh lộ cùng góp sức người và của cải, người người nô nức hưởng ứng. Chỉ có Tri phủ Tam Giang (Phú Thọ ngày nay) là Đỗ Duy Trung vẫn không chịu theo về.
Có thể thấy quân Hậu Trần dưới thời kỳ vua Trùng Quang vẫn chiếm thế thượng phong trước quân Minh. Các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều tỏ rõ tài năng của con nhà tướng. Bên cạnh còn có Nguyễn Súy, nhân vật bật dưới thời vua Trùng Quang cũng là một tướng tài. Lực lượng nhà Hậu Trần vẫn rất vững mạnh.
Thế nhưng, cái mất quan trọng nhất cho cuộc đổi ngôi chính là thời cơ chiến lược. Sau hàng tháng trời tranh thủ, nước Minh cho đến tháng 7.1409 đã chuẩn bị được một đạo viện binh đông đảo dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, viên tướng lão luyện của giặc Minh. Khi quân Hậu Trần cất quân bao vây thành Đông Quan, Trương Phụ cũng bắt đầu tiến sang Đại Việt. Vua tôi nhà Hậu Trần chưa diệt được hoàn toàn sức kháng cự của quân Minh ở trong nước, lại sắp phải đối phó với viện binh đông mạnh của giặc sắp tới.
Các tướng sĩ Hóa Châu, Thuận Châu, Nghệ An đã từng cùng Đặng Tất nuốt nhục theo về quân Minh để chờ thời cơ, rồi cùng chiến đấu với ông gây dựng những nền tảng vững chắc cho phong trào khởi nghĩa. Hơn ai hết họ hiểu rõ vua Giản Định có thể đã sớm bỏ thây dưới lưỡi gươm của quân Minh nếu như không có công lao phò tá của Đặng Tất, cũng như khó mà có được thành tựu phi thường nếu không có tài thao lược của Nguyễn Cảnh Chân.
Với sự bất mãn và phẫn nộ tột cùng, Đặng gia tướng với hàng loạt tướng lĩnh tài ba đứng đầu là Đặng Dung, con trai trưởng của Đặng Tất cùng các tướng Đặng Chủng, Đặng Thát, Đặng Liên, Đăng A Thiết đã bàn với Nguyễn Cảnh Dị, người con trai của Nguyễn Cảnh Chân đem quân bản bộ các xứ Hóa Châu, Thuận Châu, Nghệ An… rời bỏ vua Giản Định rút về Nghệ An, tìm một tôn thất khác của họ Trần để lập làm vua, tiếp tục giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống Minh. Thực ra với quân lực của hai họ Đặng và họ Nguyễn hợp lại, họ hoàn toàn có thể làm binh biến giết chết vua Giản Định để báo thù. Nhưng họ đã không làm vậy vì để tránh tội giết vua, bảo tồn tính chính danh cho cuộc kháng chiến.
Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị rút quân, nhiều binh sĩ thuộc quyền các tướng khác, các binh lính mới tuyển cũng rút theo, một số khác bất mãn rời đội ngũ. Số quân còn lại dưới trướng Giản Định trở nên cực kỳ yếu ớt, hầu như không còn tinh thần chiến đấu. Sự nghiệp của Giản Định có lúc đã tiến rất gần tới vinh quang tột đỉnh, chỉ vì nghe theo lời nịnh, đi một bước sai lầm mà tiêu tan tất cả, thanh danh cũng bị hủy đi trong phút chốc.
Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng các tướng tìm được tôn thất họ Trần là Trần Quý Khoáng lúc này đang ở ẩn tại Thanh Hoa, rước vào Nghệ An tôn làm vua. Trần Quý Khoáng có thân thế là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, con thứ của Mẫn vương Trần Ngạc. Trong thời Trần, Trần Quý Khoáng từng giữ chức Nhập nội thị trung. Ngày 2.4.1409, Trần Quý Khoáng lên ngôi ở huyện Chi La (Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay), lấy hiệu là Trùng Quang Đế. Đặng Dung được vua phong làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Cảnh Dị lãnh chức Thái bảo, Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Chương làm Tư mã, Nguyễn Biểu làm Điện tiền thị ngự sử.
Trên thực tế, sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh dưới ngọn cờ khôi phục vương triều Trần đã chuyển giao về tay vua Trùng Quang. Các lực lượng trước đây theo vua Giản Định thì nay đa số theo về với Trùng Quang Đế. Bộ khung lãnh đạo mới dưới trướng vua Trùng Quang có ba trụ cột chính là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy. Nghĩa quân đắp thành Chi La, lấy đất Nghệ An làm căn bản.
Trong khi đó, Giản Định đế đóng quân ở thành Ngự Thiên (thuộc Thái Bình) cùng một số quân tướng trung thành còn lại, lực lượng cô độc ít ỏi, vô phương tiến thoái. Quân Minh thừa cơ hội kéo đến vây đánh, thế bại vong của Giản Định chỉ còn tính bằng ngày. Để tránh việc một nước hai vua cũng như không để cho quân Minh đánh bắt được vua Giản Định, Trùng Quang Đế theo lời các tướng bàn đã quyết định ra quân bắt sống Giản Định trước. Tướng Nguyễn Súy nhận lệnh vua Trùng Quang, kéo quân tinh nhuệ đóng giả làm thường dân rồi trà trộn vào thành Ngự Thiên, nhanh chóng đánh úp bắt gọn được vua Giản Định và các cận thần giải về Nghệ An giam lỏng.
Lúc này mẹ của Giản Định là Hưng Khánh Hoàng thái hậu vẫn chưa bị Nguyễn Súy bắt, họp cùng các tướng cũ của Giản Định là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đĩnh khởi binh ở Hát Giang (Quốc Oai, Hà Nội ngày nay), lập mưu đánh úp vua Trùng Quang để khôi phục lại quyền lực cho Giản Định. Có người hầu cận thái hậu là Nguyễn Trạo người Nghệ An đem mưu ấy báo với Trùng Quang. Vua Trùng Quang sai tướng đến Hát Giang đánh bắt gọn quân phản loạn, xử tử Lê Tiệt và Lê Nguyên Đĩnh, còn lại thuộc hạ đồng mưu đều được tha chết. Hưng Khánh hoàng thái hậu cũng không bị xử tội, nhưng ít lâu sau thì bệnh chết.
Sau khi bắt được vua Giản Định, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã bàn với vua Trùng Quang, vì đại nghĩa mà dẹp bỏ tư thù, lấy lễ hoàng thân mà tiếp đón vua Giản Định. Trùng Quang đích thân đi thuyền đến sông Tam Chế (thuộc Nghi Xuân, Hà Tĩnh ngày nay) đón Giản Định về thành Chi La, tôn làm Thái thượng hoàng. Trên danh nghĩa Giản Định vẫn cùng vua Trùng Quang trông coi việc nước để cho nhân tâm không bị hoang mang. Việc tôn Giản Định làm Thượng hoàng đã thể hiện sự bao dung của hai vị Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cũng như sự thức thời của vua Trùng Quang. Nhờ hành động này, hàng ngũ nhà Hậu Trần đã quy về một mối.
Tuy nhiên, kể từ khi vua Giản Định giết hại Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân đến khi nội bộ nhà Hậu Trần ổn định trở lại như cũ đã phải mất hàng tháng trời. Các tin tức về sự chia rẽ nội bộ của quân ta đã được tướng lĩnh nước Minh nắm được thông qua do thám. Mộc Thạnh biết Trùng Quang lên ngôi, đã sai Hoàng La đến dụ hàng. Trùng Quang đế sai người tiếp Hoàng La ở Nỗ Giang (sông Mã chảy qua Hoằng Hóa, Thanh Hóa), nói về việc không đầu hàng và yêu cầu quân Minh trả nước cho họ Trần như lời hứa khi xưa.
Sau nhiều thời gian trì hoãn do biến cố nội bộ, cho đến tháng 7.1409, quân Hậu Trần mới bắt tay vào chiến dịch tấn công thành Đông Quan, lúc bấy giờ do Mộc Thạnh cùng một số quân tướng nước Minh còn sót lại sau trận Bô Cô cố thủ. Thành Đông Quan tuy ít quân nhưng là một tòa thành mà quân Minh đổ nhiều công sức để xây dựng rất kiên cố, trên thành có đặt súng lớn, rất khó công phá. Quân Hậu Trần thiếu kinh nghiệm đánh thành trì lớn như thế, nên phải dùng kế bao vây. Vua Trùng Quang cùng các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đem quân đóng ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương).
Nguyễn Súy cùng thượng hoàng Giản Định đem quân đóng ở Hạ Hồng (thuộc Hải Dương). Trùng Quang một mặt vây thành Đông Quan, sai quân cứ cách 4 – 5 ngày tuần tra một lần. Mặt khác vua gởi hịch kêu gọi hào kiệt các vùng Kinh lộ cùng góp sức người và của cải, người người nô nức hưởng ứng. Chỉ có Tri phủ Tam Giang (Phú Thọ ngày nay) là Đỗ Duy Trung vẫn không chịu theo về.
Có thể thấy quân Hậu Trần dưới thời kỳ vua Trùng Quang vẫn chiếm thế thượng phong trước quân Minh. Các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều tỏ rõ tài năng của con nhà tướng. Bên cạnh còn có Nguyễn Súy, nhân vật bật dưới thời vua Trùng Quang cũng là một tướng tài. Lực lượng nhà Hậu Trần vẫn rất vững mạnh.
Thế nhưng, cái mất quan trọng nhất cho cuộc đổi ngôi chính là thời cơ chiến lược. Sau hàng tháng trời tranh thủ, nước Minh cho đến tháng 7.1409 đã chuẩn bị được một đạo viện binh đông đảo dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, viên tướng lão luyện của giặc Minh. Khi quân Hậu Trần cất quân bao vây thành Đông Quan, Trương Phụ cũng bắt đầu tiến sang Đại Việt. Vua tôi nhà Hậu Trần chưa diệt được hoàn toàn sức kháng cự của quân Minh ở trong nước, lại sắp phải đối phó với viện binh đông mạnh của giặc sắp tới.
Bại trận, nhà Minh lại khởi quân 10 tỉnh nhòm ngó nước ta
Quân đội nhà Minh
Khi tin tức bại trận ở Bô Cô về đến triều đình nước Minh, tháng 2.1409 Chu Đệ ra lệnh tập họp binh mã 10 tỉnh là Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, Quí Châu, Vân Nam, Trấn Giang tất cả cộng lại gồm 13 vệ quân.
Cuộc chuyển giao quyền lực từ vua Giản Định sang vua Trùng Quang đã may mắn không trở thành một cuộc chiến tương tàn tai hại, dù cũng có một số mất mát nhất định. Nhưng điều tai hại nhất là chính là quân ta đã lãng phí quá nhiều thời gian lẽ ra nên dành cho việc tiếp tục đà thắng lợi để đánh đuổi hoàn toàn quân Minh. Tranh thủ lúc nội bộ nhà Hậu Trần lục đục, Minh triều đã có những bước đi quan trọng để đảo ngược tình thế.
Trong lúc Mộc Thạnh vẫn cố gắng tử thủ tại thành Đông Quan và tận dụng lực lượng ngụy binh của chúng ở Đại Việt kéo dài thời gian thì ở nước Minh, một kế hoạch tăng viện quy mô đã được tiến hành. Khi tin tức bại trận ở Bô Cô về đến triều đình nước Minh, tháng 2.1409 Chu Đệ ra lệnh tập họp binh mã 10 tỉnh là Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, Quí Châu, Vân Nam, Trấn Giang tất cả cộng lại gồm 13 vệ quân, tổng quân số là 78.400 người (Minh Thực Lục chép giảm còn 4 vạn, không khớp với số quân biên chế cho 13 vệ, mỗi vệ 5.600 quân).
Ngoài số quân này, còn có 7.000 quân hộ vệ tinh nhuệ. Tổng số quân Minh tăng viện dưới trướng Mộc Thạnh là khoảng 85.400 tên. Số quân này đông hơn gấp đôi quân đội nhà Hậu Trần, lại hầu hết là quân đã được huấn luyện kỹ, trang bị tốt và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Đồng thời với việc lãnh nhiệm vụ chỉ huy quân tiếp viện, Trương Phụ cũng thay thế Mộc Thạnh lãnh chức Tổng binh. Còn Mộc Thạnh vì đã để thua trận thảm hại ở Bô Cô nên bị gián xuống làm Phó tổng binh.
Tháng 3.1409, vừa lúc Trương Phụ sắp ra quân cũng là lúc Quốc công Đặng Tất và Đồng tri khu mật viện Nguyễn Cảnh Chân bị ám hại. Các tin tức này đều được vua Minh theo dõi sát sao. Chu Đệ đã gởi chiếu thư cho Trương Phụ :
“Từ khi Kiềm quốc công Mộc Thạnh ra quân thất luật, bọn giặc trở nên giảo hoạt. Nay nghe rằng tên Đặng Tất thuộc đảng giặc đã chết, mà bọn Lão Qua, Bát Bách vẫn còn cung cấp lương thực, vậy cung cấp cho ai? Nghe giặc rêu rao rằng có đến 50.000 con voi, và bảo tướng soái ta dễ đánh. Đó là do tướng soái ta trước đây thiếu mưu kế, để cho man di khinh lờn. Các ngươi phải lấy đó làm răn, cùng đồng tâm hiệp lực dẹp đám giặc này, để được yên một phương”.
Qua lời chiếu của Chu Đệ một lần nữa cho thấy rằng nước Minh vẫn có lòng khinh thường dân ta. Chiếu thư cũng phản ánh được việc hư trương thanh thế của quân Hậu Trần. Quả thực quân ta có đội tượng binh khá mạnh đã góp công không nhỏ vào các trận chiến, nhưng số lượng chỉ có khoảng hàng trăm mà thôi.
Tháng 7.1409, hai vua nhà Hậu Trần chia quân vây thành Đông Quan và phủ dụ nhân dân vùng Kinh lộ cùng hưởng ứng chống Minh. Lúc này Trương Phụ đã kéo quân sang nước ta rồi nhưng vẫn chưa tung quân đánh ngay mà đang đóng ở Bắc Giang, vào rừng đốn gỗ đóng chiến thuyền. Vì hắn đã nhìn thấy được sức mạnh của thủy quân Hậu Trần thông qua các thông tin tình báo, nên muốn xây dựng một đội thủy quân hùng hậu để giành lợi thế.
Trương Phụ chưa xuất quân là vì muốn chuẩn bị cho thật kỹ càng. Còn về phía quân ta, phong trào kháng Minh do nhà Hậu Trần phát động đã lan rộng, xuất hiện hàng loạt các cuộc khởi nghĩa khác nổi lên phối hợp. Lạng Giang có quân của Hoàng Thiêm Hữu. Quảng Oai có Hoàng Cự Liêm. Kiến Thụy (Hải Phòng) có Nguyễn Sư Cối và Đỗ Nguyên Thổ khởi binh đông hàng vạn. Thanh Hoa có Đồng Mặc xưng Lỗ lược tướng quân, đánh giết được tướng Minh là Tả Địch, khiến tướng khác là Vương Tuyên Thế cùng quẫn phải thắt cổ tự tử. Trường Yên có Đỗ Cối và Nguyễn Hiệu. Khoái Châu có Phạm Tuần. Thái Nguyên có Ông Lão, Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng…
Ngay tại ngoại vi thành Đông Quan cũng có Lê Nhị nổi lên giết được Đô ty Lư Vượng, Lê Khang khởi binh tiễu trừ ngụy binh. Quân Minh cùng ngụy binh phải rút cả vào thành. Nhân dân Đại Việt một lần nữa gần như tiến tới tổng khởi nghĩa chống giặc. Ngoài ra, nhà Hậu Trần còn liên minh được với nước Lão Qua (thuộc Lào), nước Bát Bách (Chiềng Mai, Thái Lan ngày nay), nhờ hai nước này cung cấp lương thực, voi ngựa để đánh quân Minh.
Phong trào khởi nghĩa toàn quốc lúc này tuy rầm rộ nhưng vẫn có điểm yếu cố hữu của những phong trào toàn dân có tổ chức lỏng lẻo. Dù có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhưng cũng chỉ có quân của nhà Hậu Trần và vài ba cuộc khởi nghĩa khác có lực lượng thống nhất về hành động, thủ lĩnh có năng lực chỉ huy, quân sĩ có kỷ luật. Còn lại đa số cũng chỉ là những người dân cầm vũ khí, không có năng lực chiến đấu khi phải đối đầu với đội quân có kỷ luật. Và ngay chính trong hàng ngũ quân Hậu Trần thì chất lượng quân lính cũng không đồng đều. Thời gian không đủ nhiều để Trùng Quang đế và các tướng lĩnh có thể huấn luyện tốt cho tất cả những tân binh mới gia nhập.
Vì vậy, khi xét tương quan lực lượng thì quân Hậu Trần không đến nỗi quá thua kém quân Minh về số lượng nhưng nếu tính về lực lượng quân chính quy thì quân ta chỉ có tầm 3-4 vạn quân, còn lại chỉ là quân trợ chiến, sẽ dễ dàng tan rã nếu chiến đấu độc lập với quân chính quy. Còn các lực lượng khởi nghĩa khác chỉ đủ năng lực quấy rối, kìm chế quân Minh ở một số nơi chứ vẫn không đủ lực để phối hợp với quân Hậu Trần.
Tháng 9.1409, nhận thấy việc chuẩn bị thủy quân đã đủ, Trương Phụ tung quân tiến đánh nhà Hậu Trần. Bấy giờ Đông Quan đã bị quân ta uy hiếp trầm trọng nhưng Trùng Quang đế vẫn không tung quân phá thành vì để làm điều đó, đòi hỏi một sự hy sinh đáng kể trong khi Trương Phụ đóng quân ở Bắc Giang mới là lực lượng hùng mạnh đáng lo nhất. Khối quân của Trùng Quang vẫn đóng ở Bình Than, còn vua Giản Định thì đóng ở Hạ Hồng. Trương Phụ đem quân xuống, trước tiên tiến đến Đông Quan đánh dẹp các quân khởi nghĩa đang bao vây quân Minh dưới trướng Mộc Thạnh. Quân Minh với lực lượng đông mạnh hơn tuyệt đối, bắt đầu từ Đông Quan đánh tỏa ra xung quanh. Các quân khởi nghĩa ở ngoại vi Đông Quan dù kiên cường chiến đấu nhưng nhanh chóng bị đánh tan, nhiều người bị tàn sát.
Củng cố được thành Đông Quan rồi, Mộc Thạnh cùng Trương Phụ bắt đầu đem quân nhằm thẳng vào lực lượng của nhà Hậu Trần, lá cờ đầu của phong trào chống Minh lúc bấy giờ. Một giai đoạn khó khăn mới lại đến với nhà Hậu Trần khi phải đối đầu trực tiếp với hai tướng lão luyện hàng đầu của nước Minh.
Trong lúc Mộc Thạnh vẫn cố gắng tử thủ tại thành Đông Quan và tận dụng lực lượng ngụy binh của chúng ở Đại Việt kéo dài thời gian thì ở nước Minh, một kế hoạch tăng viện quy mô đã được tiến hành. Khi tin tức bại trận ở Bô Cô về đến triều đình nước Minh, tháng 2.1409 Chu Đệ ra lệnh tập họp binh mã 10 tỉnh là Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, Quí Châu, Vân Nam, Trấn Giang tất cả cộng lại gồm 13 vệ quân, tổng quân số là 78.400 người (Minh Thực Lục chép giảm còn 4 vạn, không khớp với số quân biên chế cho 13 vệ, mỗi vệ 5.600 quân).
Ngoài số quân này, còn có 7.000 quân hộ vệ tinh nhuệ. Tổng số quân Minh tăng viện dưới trướng Mộc Thạnh là khoảng 85.400 tên. Số quân này đông hơn gấp đôi quân đội nhà Hậu Trần, lại hầu hết là quân đã được huấn luyện kỹ, trang bị tốt và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Đồng thời với việc lãnh nhiệm vụ chỉ huy quân tiếp viện, Trương Phụ cũng thay thế Mộc Thạnh lãnh chức Tổng binh. Còn Mộc Thạnh vì đã để thua trận thảm hại ở Bô Cô nên bị gián xuống làm Phó tổng binh.
Tháng 3.1409, vừa lúc Trương Phụ sắp ra quân cũng là lúc Quốc công Đặng Tất và Đồng tri khu mật viện Nguyễn Cảnh Chân bị ám hại. Các tin tức này đều được vua Minh theo dõi sát sao. Chu Đệ đã gởi chiếu thư cho Trương Phụ :
“Từ khi Kiềm quốc công Mộc Thạnh ra quân thất luật, bọn giặc trở nên giảo hoạt. Nay nghe rằng tên Đặng Tất thuộc đảng giặc đã chết, mà bọn Lão Qua, Bát Bách vẫn còn cung cấp lương thực, vậy cung cấp cho ai? Nghe giặc rêu rao rằng có đến 50.000 con voi, và bảo tướng soái ta dễ đánh. Đó là do tướng soái ta trước đây thiếu mưu kế, để cho man di khinh lờn. Các ngươi phải lấy đó làm răn, cùng đồng tâm hiệp lực dẹp đám giặc này, để được yên một phương”.
Qua lời chiếu của Chu Đệ một lần nữa cho thấy rằng nước Minh vẫn có lòng khinh thường dân ta. Chiếu thư cũng phản ánh được việc hư trương thanh thế của quân Hậu Trần. Quả thực quân ta có đội tượng binh khá mạnh đã góp công không nhỏ vào các trận chiến, nhưng số lượng chỉ có khoảng hàng trăm mà thôi.
Tháng 7.1409, hai vua nhà Hậu Trần chia quân vây thành Đông Quan và phủ dụ nhân dân vùng Kinh lộ cùng hưởng ứng chống Minh. Lúc này Trương Phụ đã kéo quân sang nước ta rồi nhưng vẫn chưa tung quân đánh ngay mà đang đóng ở Bắc Giang, vào rừng đốn gỗ đóng chiến thuyền. Vì hắn đã nhìn thấy được sức mạnh của thủy quân Hậu Trần thông qua các thông tin tình báo, nên muốn xây dựng một đội thủy quân hùng hậu để giành lợi thế.
Trương Phụ chưa xuất quân là vì muốn chuẩn bị cho thật kỹ càng. Còn về phía quân ta, phong trào kháng Minh do nhà Hậu Trần phát động đã lan rộng, xuất hiện hàng loạt các cuộc khởi nghĩa khác nổi lên phối hợp. Lạng Giang có quân của Hoàng Thiêm Hữu. Quảng Oai có Hoàng Cự Liêm. Kiến Thụy (Hải Phòng) có Nguyễn Sư Cối và Đỗ Nguyên Thổ khởi binh đông hàng vạn. Thanh Hoa có Đồng Mặc xưng Lỗ lược tướng quân, đánh giết được tướng Minh là Tả Địch, khiến tướng khác là Vương Tuyên Thế cùng quẫn phải thắt cổ tự tử. Trường Yên có Đỗ Cối và Nguyễn Hiệu. Khoái Châu có Phạm Tuần. Thái Nguyên có Ông Lão, Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thăng…
Ngay tại ngoại vi thành Đông Quan cũng có Lê Nhị nổi lên giết được Đô ty Lư Vượng, Lê Khang khởi binh tiễu trừ ngụy binh. Quân Minh cùng ngụy binh phải rút cả vào thành. Nhân dân Đại Việt một lần nữa gần như tiến tới tổng khởi nghĩa chống giặc. Ngoài ra, nhà Hậu Trần còn liên minh được với nước Lão Qua (thuộc Lào), nước Bát Bách (Chiềng Mai, Thái Lan ngày nay), nhờ hai nước này cung cấp lương thực, voi ngựa để đánh quân Minh.
Phong trào khởi nghĩa toàn quốc lúc này tuy rầm rộ nhưng vẫn có điểm yếu cố hữu của những phong trào toàn dân có tổ chức lỏng lẻo. Dù có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhưng cũng chỉ có quân của nhà Hậu Trần và vài ba cuộc khởi nghĩa khác có lực lượng thống nhất về hành động, thủ lĩnh có năng lực chỉ huy, quân sĩ có kỷ luật. Còn lại đa số cũng chỉ là những người dân cầm vũ khí, không có năng lực chiến đấu khi phải đối đầu với đội quân có kỷ luật. Và ngay chính trong hàng ngũ quân Hậu Trần thì chất lượng quân lính cũng không đồng đều. Thời gian không đủ nhiều để Trùng Quang đế và các tướng lĩnh có thể huấn luyện tốt cho tất cả những tân binh mới gia nhập.
Vì vậy, khi xét tương quan lực lượng thì quân Hậu Trần không đến nỗi quá thua kém quân Minh về số lượng nhưng nếu tính về lực lượng quân chính quy thì quân ta chỉ có tầm 3-4 vạn quân, còn lại chỉ là quân trợ chiến, sẽ dễ dàng tan rã nếu chiến đấu độc lập với quân chính quy. Còn các lực lượng khởi nghĩa khác chỉ đủ năng lực quấy rối, kìm chế quân Minh ở một số nơi chứ vẫn không đủ lực để phối hợp với quân Hậu Trần.
Tháng 9.1409, nhận thấy việc chuẩn bị thủy quân đã đủ, Trương Phụ tung quân tiến đánh nhà Hậu Trần. Bấy giờ Đông Quan đã bị quân ta uy hiếp trầm trọng nhưng Trùng Quang đế vẫn không tung quân phá thành vì để làm điều đó, đòi hỏi một sự hy sinh đáng kể trong khi Trương Phụ đóng quân ở Bắc Giang mới là lực lượng hùng mạnh đáng lo nhất. Khối quân của Trùng Quang vẫn đóng ở Bình Than, còn vua Giản Định thì đóng ở Hạ Hồng. Trương Phụ đem quân xuống, trước tiên tiến đến Đông Quan đánh dẹp các quân khởi nghĩa đang bao vây quân Minh dưới trướng Mộc Thạnh. Quân Minh với lực lượng đông mạnh hơn tuyệt đối, bắt đầu từ Đông Quan đánh tỏa ra xung quanh. Các quân khởi nghĩa ở ngoại vi Đông Quan dù kiên cường chiến đấu nhưng nhanh chóng bị đánh tan, nhiều người bị tàn sát.
Củng cố được thành Đông Quan rồi, Mộc Thạnh cùng Trương Phụ bắt đầu đem quân nhằm thẳng vào lực lượng của nhà Hậu Trần, lá cờ đầu của phong trào chống Minh lúc bấy giờ. Một giai đoạn khó khăn mới lại đến với nhà Hậu Trần khi phải đối đầu trực tiếp với hai tướng lão luyện hàng đầu của nước Minh.
Đặng Dung huyết chiến quân Minh tại cửa Hàm Tử
Ngày 29.9.1409, quân Minh chia đường thủy bộ tiến đánh dữ dội vào Hàm Tử quan. Trương Phụ sai các tướng Trần Húc, Du Nhượng chỉ huy thủy quân, thuyền lớn thuyền nhỏ dàn trận dày kín mặt sông tiến đánh. Kỵ bộ quân Minh thì dưới quyền chỉ huy của Chu Quảng, Phương Chính cũng tiến đánh dọc bờ phía tây, phối hợp với thủy quân.
Vua Trùng Quang lên ngôi trong một bối cảnh khá đặc biệt. Trùng Quang thừa kế lực lượng nhà Hậu Trần đã được các tướng lĩnh gây dựng lên tương đối vững mạnh, trở thành điểm tựa cho toàn bộ phong trào khởi nghĩa chống Minh trên cả nước. Vua có tình nhân từ, đã thu phục được lòng người, giúp cho nhà Hậu Trần giữ được sự thống nhất về tổ chức, lực lượng. Thế nhưng Nhân Hòa đã có, Thiên Thời lại mất. Khi Trương Phụ kéo viện binh sang, tình thế lúc này đã khó khăn cho quân ta rất nhiều so với lúc Đặng Tất vừa chiến thắng quân Minh ở Bô Cô. Giặc có quân đội chính quy đông mạnh, đã từng bước tìm cách giành lại thế trận.
Tháng 9.1409, Trương Phụ hội quân với Mộc Thạnh ở Đông Quan, đánh dẹp ngoại vi thành Đông Quan rồi bắt đầu kế hoạch phản kích toàn diện nhằm vào quân Hậu Trần và các lực lượng khởi nghĩa khác. Trước tiên, quân Minh nhằm vào khối quân Hậu Trần đóng ở Hạ Hồng (thuộc Hải Dương ngày nay) do Nguyễn Súy cùng Giản Định đế chỉ huy. Quân ta chống không nổi, Nguyễn Súy và Giản Định phải chia quân rút lui. Thượng hoàng Giản Định bỏ thuyền lên bộ tách ra đi đường khác, đến đóng ở trấn Thiên Quan (nằm ở Lạc Thủy, Hòa Bình và Gia Viễn, Ninh Bình ngày nay). Trùng Quang đế hay tin, nghi ngờ thượng hoàng Giản Định muốn ly khai nên sai Nguyễn Súy cầm quân đuổi theo nhưng không kịp.
Tại trấn Thiên Quan Trương Phụ đã kéo quân tới trước. Trương Phụ tự mình thống lĩnh kỵ binh, Mộc Thạnh cầm bộ binh. Các tướng Minh là Chu Vinh, La Văn dẫn thủy binh chia nhau mở cuộc vây bắt lớn. Quân Minh có lực lượng áp đảo hoàn toàn so với quân của Giản Định, truy đuổi rất gấp. Giản Định vừa đến trấn Thiên Quan trú trong nhà dân, thấy quân Minh kéo tới chỉ còn cách bỏ trốn vào trong rừng. Quân Minh lục soát nhà dân rồi bao vây cả khu rừng, rốt cuộc Giản Định cùng các tướng Trần Hy Cát, Nguyễn Nhữ Lệ, Nguyễn Yến đều sa lưới giặc. Trương Phụ sai quân giải cả về kinh đô Kim Lăng nước Minh, sau vua Minh đem giết đi. Nguyễn Súy tới chậm, phải dẫn quân rút lui về Thanh Hoa bảo toàn lực lượng.
Liền sau khi đánh bắt được Giản Định, Trương Phụ một mặt sai đô đốc Giang Hạo cầm quân đóng lại Hạ Hồng, mặt khác lại tổ chức một chiến dịch lớn tiến đánh khối quân của vua Trùng Quang đang đóng ở vùng Bình Than – Khoái Châu. Vua Trùng Quang lệnh cho Đặng Dung đem quân giữ Hàm Tử quan, để gây áp lực cho thành Đông Quan từ phía nam, lực lượng còn lại do Trùng Quang và Nguyễn Cảnh Dị chỉ huy vẫn đóng giữ tại Bình Than để uy hiếp Đông Quan từ mặt đông.
Cách bố trí quân như vậy là để buộc Trương Phụ phải chia nhỏ lực lượng để giữ thành Đông Quan, không thể dồn đánh một trận lớn được. Nhưng vì quân ta ít nên trong hai khối quân ở Hàm Tử và Bình Than cũng chỉ có một khối được ưu tiên mà thôi. Đó là khối quân của vua Trùng Quang. Còn quân của Đặng Dung ở Hàm Tử thì yếu hơn, chỉ tầm 1 vạn quân, chủ yếu giữ thế phòng thủ. Trương Phụ có trong tay hơn 8 vạn quân, cũng không ngần ngại chia quân làm hai cánh. Một cánh quân Minh do Đô chỉ huy Từ Chính chỉ huy tiến đánh Bình Than. Còn Trương Phụ đem quân thủy bộ tiến đánh Hàm Tử.
Từ Chính đem quân đến đánh Bình Than, quân Hậu Trần nghi binh rút lui tránh đi, rồi xuôi dòng sông Thái Bình đến đánh Hạ Hồng, đánh bại được quân của Giang Hạo đóng tại đây. Giang Hạo rút chạy về hướng Bình Than, quân ta thừa thế đuổi theo ráo riết. Nguyễn Cảnh Dị cùng vua Trùng Quang tổ chức bao vây quân Minh ở Bình Than, đánh phá dữ dội. Quân Minh không chống nổi, Đô chỉ huy Từ Chính bị quân ta giết chết, thuyền trại quân Minh bị đốt gần hết. Trận này quân Hậu Trần toàn thắng, chiếm lại được căn cứ Bình Than. Qua đó, cả vùng ven biển đông bắc vẫn được giữ vững.
Trong khi đó tại mặt trận Hàm Tử quan, tình hình không được thuận lợi. Đặng Dung đóng quân ở Hàm Tử, cho quân đóng cọc dưới sông, dựng lũy trên bờ phía đông sông Hồng, dàn thuyền thành các đội phòng thủ và mai phục rất bài bản. Trương Phụ đem đại quân tới, thấy trận thế quân Hậu Trần đã vững, chưa dám đánh ngay, đóng quân chờ gió tây bắc. Lúc này vào khoảng cuối tháng 8 Âm lịch (9.1409 dương lịch), đang mùa lúa sớm. Quân Hậu Trần bị thiếu lương thực, trưng mua trong dân không đáp ứng đủ. Tình hình nghiêm trọng khiến Đặng Dung phải ra lệnh chia quân đi gặt lúa sớm làm quân lương. Trương Phụ dò biết tin, tung quân đánh lớn.
Ngày 29.9.1409, quân Minh chia đường thủy bộ tiến đánh dữ dội vào Hàm Tử quan. Trương Phụ sai các tướng Trần Húc, Du Nhượng chỉ huy thủy quân, thuyền lớn thuyền nhỏ dàn trận dày kín mặt sông tiến đánh. Kỵ bộ quân Minh thì dưới quyền chỉ huy của Chu Quảng, Phương Chính cũng tiến đánh dọc bờ phía tây, phối hợp với thủy quân. Trương Phụ dẫn đi thuyền lớn theo sau đội thủy quân làm hậu viện, khí thế rất dữ dội. Đặng Dung sai Nguyễn Thế Mỗi đem 600 chiến thuyền dàn trận ngênh địch. Thủy quân giặc Minh lợi dụng nước triều chảy xuôi và gió mùa đông bắc mà chèo nhanh xáp vào trận địa quân Hậu Trần, dùng súng lớn súng nhỏ bắn tới tấp, cung tên từ các thuyền và từ bên bờ phía tây cũng bắn như mưa.
Quân Hậu Trần mặc dù có chuẩn bị tốt và chống trả rất kiên cường nhưng vì bị áp đảo hoàn toàn về số lượng nên dần núng thế. Nguyễn Thế Mỗi thấy không chống nổi, lệnh cho quân quay thuyền chèo rút lui. Quân Minh cố sức chèo nhanh đuổi theo. Thuyền quân Hậu Trần nhỏ gọn nên lướt qua được bãi cọc đã bố trí sẵn, còn thuyền quân Minh có những chiếc to lớn đi trước bị vướng cọc nối nhau vỡ đắm. Đặng Dung lúc này mới phát pháo lệnh cho các thuyền nhỏ mai phục ở các kênh rạch xông ra đánh tạt sườn. Thế trận dằn co, quân Minh chết trận rất nhiều nhưng số lượng vẫn áp đảo quân ta. Kỵ binh, bộ binh giặc được các thuyền chở vượt sông đánh vào chiến lũy quân Hậu Trần. Quân tướng nhà Hậu Trần không nao núng, dựa vào chiến lũy mà đánh hạ rất nhiều quân giặc. Đặng Dung lấy ít địch nhiều vẫn giữ được thế trận ngang ngửa với quân Minh, khắp chiến trường gươm giáo tua tủa, tên đạn bay rợp trời.
Đương lúc giằng co thì Trương Phụ đích thân cầm đầu đội thuyền chiến lớn từ hậu quân đến tiếp viện. Đặng Dung vốn đã tung hết lực lượng mà mình có ra để cố sức chống cự, đến khi Trương Phụ đem binh tới thì thế trận đã an bài. Quân Hậu Trần ít không địch nổi nhiều, Đặng Dung cố gắng cầm cự đến lúc trời chập tối liền hạ lệnh rút lui. Quân Minh thừa thế chém giết. Cả trận quân Hậu Trần mất hơn 400 chiến thuyền, hàng ngàn nghĩa sĩ tử trận. Tướng Phan Đê cùng khoảng 200 quân ta bị giặc bắt sống. Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chết nhiều vô kể, nhất là thủy quân thiệt hại nặng vì vướng cọc của quân ta. Đặng Dung lợi dụng trời tối cho quân rút lui về Nghệ An. Trương Phụ cũng không dám tung quân truy kích quá xa, sợ trúng mai phục lần nữa.
Đặng Dung thua trận tại Hàm Tử, chẳng những lực lượng bị hao tổn mà còn khiến cho khối quân của Trùng Quang đế ở Bình Than rơi vào thế nguy hiểm. Trương Phụ chiếm được Hàm Tử là có thể uy hiếp được các tuyến sông quan trọng ở vùng đông bắc, có thể hình thành thế bao vây căn cứ Bình Than, chặn đường rút lui của Trùng Quang ra biển hay về nam. Bởi vậy, khi hay tin Hàm Tử quan thất thủ, Trùng Quang cùng Nguyễn Cảnh Dị cũng bàn nhau rút lui về Nghệ An lo việc phòng giữ.
Trương Phụ thừa thắng, đem quân thủy bộ tiến về nam. Nhưng hắn chưa thể rảnh tay dốc đòn tổng lực mà còn phải chia quân đánh dẹp từng cuộc khởi nghĩa một trong tổng số hàng loạt các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng. Quân Minh chiêu dụ, mua chuộc bọn vong bản về phe chúng, đua nhau chỉ điểm, bắt giết đồng bào để được nhận tiền bạc, quan tước. Mặt khác Trương Phụ theo chính sách tàn ác mà Minh Thành Tổ đã từng áp dụng với chính dân nước Minh là “một người có tội dây dưa đến mười họ”, theo đó mà thả sức tàn sát nhân dân vô cùng ghê rợn.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã chép những dòng đầy đau thương: “Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ, hoặc nướng đốt làm trò. Thậm chí có đứa mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả.” Thế nhưng sự giết chóc, tàn sát của quân Minh chỉ làm cho nhân dân sợ hãi nhất thời, mà càng nuôi mối thù sâu vậy. Đó cũng là mối họa mà bọn giặc tự gieo cho chúng về sau. Người Việt lúc này ai ai cũng thù hận quân Minh đến tận xương tủy. Họ đã chẳng cần thiết phải có một nhà quý tộc họ Trần nào đó nổi lên mới đi theo mà chống giặc nữa. Lúc này, bất cứ ai có khả năng hiệu triệu toàn dân, đem lại độc lập cho người Việt, họ đều mong muốn hưởng ứng.
Tháng 9.1409, Trương Phụ hội quân với Mộc Thạnh ở Đông Quan, đánh dẹp ngoại vi thành Đông Quan rồi bắt đầu kế hoạch phản kích toàn diện nhằm vào quân Hậu Trần và các lực lượng khởi nghĩa khác. Trước tiên, quân Minh nhằm vào khối quân Hậu Trần đóng ở Hạ Hồng (thuộc Hải Dương ngày nay) do Nguyễn Súy cùng Giản Định đế chỉ huy. Quân ta chống không nổi, Nguyễn Súy và Giản Định phải chia quân rút lui. Thượng hoàng Giản Định bỏ thuyền lên bộ tách ra đi đường khác, đến đóng ở trấn Thiên Quan (nằm ở Lạc Thủy, Hòa Bình và Gia Viễn, Ninh Bình ngày nay). Trùng Quang đế hay tin, nghi ngờ thượng hoàng Giản Định muốn ly khai nên sai Nguyễn Súy cầm quân đuổi theo nhưng không kịp.
Tại trấn Thiên Quan Trương Phụ đã kéo quân tới trước. Trương Phụ tự mình thống lĩnh kỵ binh, Mộc Thạnh cầm bộ binh. Các tướng Minh là Chu Vinh, La Văn dẫn thủy binh chia nhau mở cuộc vây bắt lớn. Quân Minh có lực lượng áp đảo hoàn toàn so với quân của Giản Định, truy đuổi rất gấp. Giản Định vừa đến trấn Thiên Quan trú trong nhà dân, thấy quân Minh kéo tới chỉ còn cách bỏ trốn vào trong rừng. Quân Minh lục soát nhà dân rồi bao vây cả khu rừng, rốt cuộc Giản Định cùng các tướng Trần Hy Cát, Nguyễn Nhữ Lệ, Nguyễn Yến đều sa lưới giặc. Trương Phụ sai quân giải cả về kinh đô Kim Lăng nước Minh, sau vua Minh đem giết đi. Nguyễn Súy tới chậm, phải dẫn quân rút lui về Thanh Hoa bảo toàn lực lượng.
Liền sau khi đánh bắt được Giản Định, Trương Phụ một mặt sai đô đốc Giang Hạo cầm quân đóng lại Hạ Hồng, mặt khác lại tổ chức một chiến dịch lớn tiến đánh khối quân của vua Trùng Quang đang đóng ở vùng Bình Than – Khoái Châu. Vua Trùng Quang lệnh cho Đặng Dung đem quân giữ Hàm Tử quan, để gây áp lực cho thành Đông Quan từ phía nam, lực lượng còn lại do Trùng Quang và Nguyễn Cảnh Dị chỉ huy vẫn đóng giữ tại Bình Than để uy hiếp Đông Quan từ mặt đông.
Cách bố trí quân như vậy là để buộc Trương Phụ phải chia nhỏ lực lượng để giữ thành Đông Quan, không thể dồn đánh một trận lớn được. Nhưng vì quân ta ít nên trong hai khối quân ở Hàm Tử và Bình Than cũng chỉ có một khối được ưu tiên mà thôi. Đó là khối quân của vua Trùng Quang. Còn quân của Đặng Dung ở Hàm Tử thì yếu hơn, chỉ tầm 1 vạn quân, chủ yếu giữ thế phòng thủ. Trương Phụ có trong tay hơn 8 vạn quân, cũng không ngần ngại chia quân làm hai cánh. Một cánh quân Minh do Đô chỉ huy Từ Chính chỉ huy tiến đánh Bình Than. Còn Trương Phụ đem quân thủy bộ tiến đánh Hàm Tử.
Từ Chính đem quân đến đánh Bình Than, quân Hậu Trần nghi binh rút lui tránh đi, rồi xuôi dòng sông Thái Bình đến đánh Hạ Hồng, đánh bại được quân của Giang Hạo đóng tại đây. Giang Hạo rút chạy về hướng Bình Than, quân ta thừa thế đuổi theo ráo riết. Nguyễn Cảnh Dị cùng vua Trùng Quang tổ chức bao vây quân Minh ở Bình Than, đánh phá dữ dội. Quân Minh không chống nổi, Đô chỉ huy Từ Chính bị quân ta giết chết, thuyền trại quân Minh bị đốt gần hết. Trận này quân Hậu Trần toàn thắng, chiếm lại được căn cứ Bình Than. Qua đó, cả vùng ven biển đông bắc vẫn được giữ vững.
Trong khi đó tại mặt trận Hàm Tử quan, tình hình không được thuận lợi. Đặng Dung đóng quân ở Hàm Tử, cho quân đóng cọc dưới sông, dựng lũy trên bờ phía đông sông Hồng, dàn thuyền thành các đội phòng thủ và mai phục rất bài bản. Trương Phụ đem đại quân tới, thấy trận thế quân Hậu Trần đã vững, chưa dám đánh ngay, đóng quân chờ gió tây bắc. Lúc này vào khoảng cuối tháng 8 Âm lịch (9.1409 dương lịch), đang mùa lúa sớm. Quân Hậu Trần bị thiếu lương thực, trưng mua trong dân không đáp ứng đủ. Tình hình nghiêm trọng khiến Đặng Dung phải ra lệnh chia quân đi gặt lúa sớm làm quân lương. Trương Phụ dò biết tin, tung quân đánh lớn.
Ngày 29.9.1409, quân Minh chia đường thủy bộ tiến đánh dữ dội vào Hàm Tử quan. Trương Phụ sai các tướng Trần Húc, Du Nhượng chỉ huy thủy quân, thuyền lớn thuyền nhỏ dàn trận dày kín mặt sông tiến đánh. Kỵ bộ quân Minh thì dưới quyền chỉ huy của Chu Quảng, Phương Chính cũng tiến đánh dọc bờ phía tây, phối hợp với thủy quân. Trương Phụ dẫn đi thuyền lớn theo sau đội thủy quân làm hậu viện, khí thế rất dữ dội. Đặng Dung sai Nguyễn Thế Mỗi đem 600 chiến thuyền dàn trận ngênh địch. Thủy quân giặc Minh lợi dụng nước triều chảy xuôi và gió mùa đông bắc mà chèo nhanh xáp vào trận địa quân Hậu Trần, dùng súng lớn súng nhỏ bắn tới tấp, cung tên từ các thuyền và từ bên bờ phía tây cũng bắn như mưa.
Quân Hậu Trần mặc dù có chuẩn bị tốt và chống trả rất kiên cường nhưng vì bị áp đảo hoàn toàn về số lượng nên dần núng thế. Nguyễn Thế Mỗi thấy không chống nổi, lệnh cho quân quay thuyền chèo rút lui. Quân Minh cố sức chèo nhanh đuổi theo. Thuyền quân Hậu Trần nhỏ gọn nên lướt qua được bãi cọc đã bố trí sẵn, còn thuyền quân Minh có những chiếc to lớn đi trước bị vướng cọc nối nhau vỡ đắm. Đặng Dung lúc này mới phát pháo lệnh cho các thuyền nhỏ mai phục ở các kênh rạch xông ra đánh tạt sườn. Thế trận dằn co, quân Minh chết trận rất nhiều nhưng số lượng vẫn áp đảo quân ta. Kỵ binh, bộ binh giặc được các thuyền chở vượt sông đánh vào chiến lũy quân Hậu Trần. Quân tướng nhà Hậu Trần không nao núng, dựa vào chiến lũy mà đánh hạ rất nhiều quân giặc. Đặng Dung lấy ít địch nhiều vẫn giữ được thế trận ngang ngửa với quân Minh, khắp chiến trường gươm giáo tua tủa, tên đạn bay rợp trời.
Đương lúc giằng co thì Trương Phụ đích thân cầm đầu đội thuyền chiến lớn từ hậu quân đến tiếp viện. Đặng Dung vốn đã tung hết lực lượng mà mình có ra để cố sức chống cự, đến khi Trương Phụ đem binh tới thì thế trận đã an bài. Quân Hậu Trần ít không địch nổi nhiều, Đặng Dung cố gắng cầm cự đến lúc trời chập tối liền hạ lệnh rút lui. Quân Minh thừa thế chém giết. Cả trận quân Hậu Trần mất hơn 400 chiến thuyền, hàng ngàn nghĩa sĩ tử trận. Tướng Phan Đê cùng khoảng 200 quân ta bị giặc bắt sống. Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chết nhiều vô kể, nhất là thủy quân thiệt hại nặng vì vướng cọc của quân ta. Đặng Dung lợi dụng trời tối cho quân rút lui về Nghệ An. Trương Phụ cũng không dám tung quân truy kích quá xa, sợ trúng mai phục lần nữa.
Đặng Dung thua trận tại Hàm Tử, chẳng những lực lượng bị hao tổn mà còn khiến cho khối quân của Trùng Quang đế ở Bình Than rơi vào thế nguy hiểm. Trương Phụ chiếm được Hàm Tử là có thể uy hiếp được các tuyến sông quan trọng ở vùng đông bắc, có thể hình thành thế bao vây căn cứ Bình Than, chặn đường rút lui của Trùng Quang ra biển hay về nam. Bởi vậy, khi hay tin Hàm Tử quan thất thủ, Trùng Quang cùng Nguyễn Cảnh Dị cũng bàn nhau rút lui về Nghệ An lo việc phòng giữ.
Trương Phụ thừa thắng, đem quân thủy bộ tiến về nam. Nhưng hắn chưa thể rảnh tay dốc đòn tổng lực mà còn phải chia quân đánh dẹp từng cuộc khởi nghĩa một trong tổng số hàng loạt các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng. Quân Minh chiêu dụ, mua chuộc bọn vong bản về phe chúng, đua nhau chỉ điểm, bắt giết đồng bào để được nhận tiền bạc, quan tước. Mặt khác Trương Phụ theo chính sách tàn ác mà Minh Thành Tổ đã từng áp dụng với chính dân nước Minh là “một người có tội dây dưa đến mười họ”, theo đó mà thả sức tàn sát nhân dân vô cùng ghê rợn.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã chép những dòng đầy đau thương: “Phụ đi đến đâu, giết chóc rất nhiều, có nơi thây chất thành núi, có chỗ moi ruột quấn vào cây, hoặc rán thịt lấy mỡ, hoặc nướng đốt làm trò. Thậm chí có đứa mổ bụng lấy thai, cắt lấy hai cái tai để nộp theo lệnh. Kinh lộ các nơi lần lượt đầu hàng. Những dân còn sót lại bắt hết làm nô tỳ và bị đem bán, tan tác khắp bốn phương cả.” Thế nhưng sự giết chóc, tàn sát của quân Minh chỉ làm cho nhân dân sợ hãi nhất thời, mà càng nuôi mối thù sâu vậy. Đó cũng là mối họa mà bọn giặc tự gieo cho chúng về sau. Người Việt lúc này ai ai cũng thù hận quân Minh đến tận xương tủy. Họ đã chẳng cần thiết phải có một nhà quý tộc họ Trần nào đó nổi lên mới đi theo mà chống giặc nữa. Lúc này, bất cứ ai có khả năng hiệu triệu toàn dân, đem lại độc lập cho người Việt, họ đều mong muốn hưởng ứng.
Vừa sa lầy tại Đại Việt, nhà Minh lại bị quân Nguyên chém sứ, phá đồn
Nhà Minh gặp khó trước quân Nguyên
Giữa lúc đó, ở nước Minh lại có việc binh đao lớn. Quân Bắc Nguyên dưới sự chỉ huy của Khả hãn Bản Nha Thất Lý (Bunyashiri) từ những năm trước đã thường xuyên đem quân đánh phá biên giới nước Minh.
Cuối năm 1409, Trùng Quang đế cho rút quân về Nghệ An lo việc phòng thủ lâu dài. Trương Phụ tranh thủ đánh dẹp các lực lượng khởi nghĩa ở vùng Kinh lộ để lấy vùng này làm bàn đạp vững chắc cho cuộc tấn công tổng lực vào vùng Thanh Nghệ, tiêu diệt nhà Hậu Trần, dập tắt sự phản kháng của nhân dân ta. Do các lực lượng khởi nghĩa ở các nơi rời rạc thiếu đồng bộ nên lần lượt bị quân Minh nhanh chóng đánh bại.
Một số ít cuộc khởi nghĩa không bị tiêu diệt, tan rã thì cũng phải rút lui vào núi cao, rừng sâu để lẫn tránh. Quân Minh lại dùng chính sách chiêu dụ và khủng bố một cách rất tàn bạo, khiến cho nhân dân vùng Kinh lộ phải ngậm đắng nuốt hờn. Chiến sự kéo dài liên miên khiến cho việc hậu cần của quân Minh gặp khó khăn. Liệu thế không thể dứt điểm nhanh, Trương Phụ sai quân thay phiên lập đồn điền tự cung tự cấp lấy một phần lương thực.
Trong bối cảnh đó, quân Hậu Trần tại vùng Thanh Nghệ cũng không thể ngồi yên chờ giặc đến. Nghĩa quân cố gắng tranh thủ từng ngày để củng cố lực lượng, tích trữ quân lương, rèn đúc vũ khí. Đặng Dung sau khi bại trận ở Hàm Tử vẫn còn lại một phần quân lực kịp rút lui. Ông đã cố gắng điều động quân dân xây dựng một hệ thống chướng ngại dọc các tuyến sông chính từ bắc vào nam để ngăn chặn quân Minh. Quân dân ta cùng nhau đổ đá, đóng cọc phong tỏa các tuyến sông, cửa sông, đồng thời bố trí các cánh quân mai phục chờ chặn giặc.
Nguyễn Cảnh Dị dẫn hàng trăm chiến thuyền đánh phá các nơi dọc sông Thái Bình để tạo vùng đệm với quân chủ lực của Trương Phụ. Hạm đội nhà Hậu Trần chia thành các toán quân nhỏ đánh phá các thuyền buôn nước Minh ở vùng biển đông bắc, đánh cả sang vùng biển Khâm Châu để cướp lương thực và quấy rối, buộc giặc phải chia quân đi đánh. Hai cánh quân của Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đóng vai trò tiền tiêu che chắn cho toàn bộ lực lượng nhà Hậu Trần ở tuyến sau đang cố gắng tăng cường lực lượng, vật chất.
Do sự đánh phá của Nguyễn Cảnh Dị, Trương Phụ quả nhiên phải cầm quân hướng ra biển để đối phó. Ngày 9.10.1409, quân của Trương Phụ đụng trận với quân của Nguyễn Cảnh Dị tại cửa biển Thái Bình. Thuyền quân Minh hành quân gặp thuyền do thám của quân Hậu Trần, bèn chèo nhanh đuổi kịp, đánh bắt cả. Trương Phụ thấy 300 chiến thuyền của Nguyễn Cảnh Dị đóng gần đó, thúc quân vây đánh. Quân Minh trước tiên bắn tên và đạn đá, rồi chèo thuyền đâm thẳng vào hàng ngũ quân Hậu Trần. Nguyễn Cảnh Dị liệu thế khó thủ thắng, lệnh cho quân quay thuyền rút lui, chỉ để lại một đội thuyền đánh chặn hậu và rút sau. Quân Minh đánh hăng, khiến quân chặn hậu của ta tổn thất nặng, Ninh Vệ đại tướng quân Phạm Tất Lật bị giặc bắt. Nguyễn Cảnh Dị dẫn số thuyền còn lại rút về nam. Sau trận này, thủy quân nước Minh cũng chia nhau tuần tiễu vùng biển từ Khâm Châu trở xuống nước ta rất nghiêm ngặt. Các chiến thuyền của quân Hậu Trần vì thế phải rút khỏi vùng biển.
Mặc dù những hoạt động của quân Hậu Trần không giúp tạo nên một chuyển biến rõ ràng tương quan lực lượng, nhưng đã khiến cho quân Minh phải mất nhiều thời gian để đối phó. Trương Phụ sau khi tạm thời bình định được các châu lộ gần Đông Quan, kiểm soát lại được vùng biển đông bắc thì liền tập trung lực lượng kéo xuống đánh quân Hậu Trần. Thế nhưng một lần nữa kế hoạch của hắn bị chậm trễ trước mưu kế của Đặng Dung. Chỉ riêng việc tháo dỡ chướng ngại vật, phá cọc, dỡ đá khỏi các tuyến sông đã bị quân ta lấp chặn cũng khiến quân Minh rất vất vả. Lại thêm Đặng Dung giỏi dùng thủy quân mai phục.
Giặc hành quân đông thì sông bị tắt nghẽn bởi vật cản, hành quân ít để khai thông đường thủy thì bị phục kích. Trương Phụ phải tiến quân chậm chạp, mất gần nửa tháng mới tiến được đến Thanh Hóa đóng doanh trại. Trùng Quang đế sai sứ giả là Đoàn Tự Thủy đến trại quân Minh giảng hòa, xin được phong tước để làm kế hoãn binh. Trương Phụ lật lọng nói rằng trước đã tìm con cháu họ Trần nhưng không gặp, nay chỉ biết nhận lệnh đánh dẹp không cần biết chuyện khác. Sứ giả Đoàn Tự Thủy bị giặc bắt giết. Việc giảng hòa không thành.
Trước sức tấn công của Trương Phụ, quân Hậu Trần đều lần lượt rút dần khỏi Thanh Hóa, về Nghệ An cố thủ. Chỉ riêng các lực lượng thủy quân dưới trướng của Đặng Dung vẫn bám trụ ở các con sông tại Thanh Hóa và cả ở hạ lưu sông Hồng dùng chiến thuật tập kích, gây cho quân Minh khá nhiều phiền toái. Đặng Dung cầm quân thoắt ẩn thoắt hiện, lúc đánh trong sông, lúc vòng ra biển. Quân Minh chẳng biết đâu mà lần theo dấu vết. Việc không hoàn toàn xác lập được một chiến tuyến rõ ràng khiến cho Trương Phụ gặp khó khăn trong huy động hậu cần và tập kết các mũi tấn công lớn. Nhờ sự bám trụ kiên cường của Đặng Dung, quân Minh không thể bình định được Thanh Hóa để làm bàn đạp tấn công Nghệ An.
Sang đầu năm 1410, gần 4 tháng kể từ khi Trương Phụ kéo viện binh sang, quân Minh vẫn chưa thể giành được lợi thế mang tính quyết định. Giữa lúc đó, ở nước Minh lại có việc binh đao lớn. Quân Bắc Nguyên dưới sự chỉ huy của Khả hãn Bản Nha Thất Lý (Bunyashiri) từ những năm trước đã thường xuyên đem quân đánh phá biên giới nước Minh. Minh Thành Tổ Chu Đệ đã sai sứ đến giảng hòa. Nhưng Bản Nha Thất Lý đã giết sứ giả nước Minh, tiếp tục các cuộc cướp phá. Chu Đệ phái 10 vạn quân dưới quyền chỉ huy của Kỳ quốc công Khâu Phúc đi đánh báo thù. Quân Minh bị quân Bắc Nguyên đánh tan tác tại trận Lỗ Luân.
Lúc này Chu Đệ hết sức tức giận và càng nhận rõ sức mạnh đáng sợ của các bộ tộc Bắc Nguyên, liền lên kế hoạch điều động 50 vạn quân đi đánh. Trương Phụ là một trong những tướng giỏi nhất của nước Minh và hiện đang nắm giữ một lực lượng tinh nhuệ đáng kể tại chiến trường Đại Việt cũng được vua Minh triệu hồi gấp về nước. Tháng 2.1410, Trương Phụ cùng các thuộc tướng là Vương Hữu, Chu Vinh, Thái Phúc, Lâm Thiết Mộc Nhi cùng các quân lính đã điều động tiếp viện cho Mộc Thạnh trước đó đều nhận lệnh phải quay trở về nước, hành quân đến thành Bắc Kinh hội quân với Chu Đệ để đối phó với quân Bắc Nguyên. Mộc Thạnh với các lực lượng còn lại phải tự gánh lấy nhiệm vụ đối đầu với nhà Hậu Trần.
Trương Phụ nhận quân lệnh không thể không về. Nhưng trước khi rút quân, hắn cố gắng mở một cuộc hành quân lớn để giải tỏa sức ép cho số quân Minh còn lại dưới trướng của Mộc Thạnh. Lực lượng lớn nhất ngoài quân Hậu Trần lúc bấy giờ là quân của Nguyễn Sư Cối ở Đông Triều. Sử nước Minh ghi có đến 2 vạn quân, nhiều khả năng là phóng đại để tô điểm cho chiến công của tướng Minh. Trương Phụ coi lực lượng của Nguyễn Sư Cối là cái gai ngay sát cạnh Đông Quan cần phải nhổ bỏ nên đã đích thân cầm quân mở cuộc càn quét lớn. Nghĩa quân vốn không có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, chỉ trong một đợt càng quét đã bị quân Minh đánh tan, thương vong đến hàng ngàn quân cùng nhiều tướng lĩnh chủ chốt. Trương Phụ sai gom xác nghĩa quân chết trận cùng xác tù binh bị hành quyết chất thành gò đống, lấy đất phủ lên trên để khủng bố tinh thần nhân dân.
Rõ ràng tình thế lúc này đã buộc vua Minh lựa chọn giữa hai mặt trận bắc và nam. Việc chỉ để Mộc Thạnh lại với đám quân ít ỏi chắc chắn sẽ tạo thời cơ thuận lợi cho quân Hậu Trần đánh bại quân Minh. Trương Phụ biết rõ điều đó, bởi vậy hắn vẫn chưa cam tâm rút hết quân như lệnh, mà cố gắng gởi một bản tấu về vua Minh, lên kế hoạch về xếp đặt lực lượng cho chiến trường Đại Việt :
“Nhận được sắc chỉ mang quân trở về nước, bọn thần tuân mệnh lên đường. Nay đầu sỏ giặc là Trần Quí Khoáng, bọn đồ đảng Nguyễn Súy, Hồ Kỳ, Nguyễn Cảnh Dị vẫn đóng tại Diễn Châu, Nghệ An, sát Thanh Hoá. Đặng Dung lãnh quân ngăn chặn cửa sông Thần Đầu, Phúc Thành chiếm cứ đường huyết mạch Thanh Hoá, ra vào vùng cửa biển Đại An cướp phá. Nếu điều động hết số quân trước đây trở về, sợ Kiềm quốc công Mộc Thạnh binh ít không địch nổi, khiến công sắp thành phải bỏ lỡ. Nay muốn lưu lại Đô đốc Giang Hạo, Đô Chỉ Huy sứ Du Nhượng, Hoa Anh, Sư Hữu lãnh 4 Đô ty Vân Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tây ; 2 hành Đô ty Tứ Xuyên, Phúc Kiến ; các binh đoàn Hộ vệ cùng các đơn vị lập công chuộc tội thuộc các xứ Kinh Châu, Nam Xương, Vũ Xương, Quảng Tây dưới quyền điều động của Thạnh. Riêng thần suất lãnh quan quân tuỳ tòng, đơn vị Hổ Bôn quan quân tại kinh Trực Lệ, cùng 4 Đô ty Hồ Quảng, Quí Châu, Tứ Xuyên, Chiết Giang trở về. Ngoài ra Thạnh nắm giữ đại quân một mình, xin cho Vân Dương bá Trần Húc giữ chức Phó, để cùng bàn bạc việc quân.”(theo Minh Thực Lục)
Lời của Trương Phụ được vua Minh chấp nhận. Như vậy là Trương Phụ dù rút quân nhưng vẫn để lại một lực lượng khá hùng hậu giao lại cho Mộc Thạnh tiếp tục cuộc đàn áp nhân dân ta. Tháng 3.1410, Trương Phụ phải rút quân về nước. Mộc Thạnh lĩnh ấn soái thay thế. Tương quan lực lượng bấy giờ thay đổi rõ rệt. Quân Hậu Trần không còn là bên quá thua thiệt về quân số như khi Trương Phụ còn ở nước ta nữa. Vả lại, những tướng lĩnh còn lại của quân Minh cũng không giỏi bằng Trương Phụ và các thuộc tướng của hắn. Tận dụng thời cơ, nhà Hậu Trần bắt đầu có những hoạt động giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Tháng 3.1410, Mộc Thạnh thay Trương Phụ lĩnh ấn “Chinh di tướng quân”, tiếp tục thực hiện việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt. Dù Trương Phụ đã rút quân, vẫn còn một lực lượng khá mạnh được để lại cho Mộc Thạnh. Quân Minh bấy giờ ở nước ta vào khoảng hơn 4 vạn quân, cùng với hàng vạn ngụy binh. Mộc Thạnh vẫn đủ lực lượng chiến đấu và tiếp tục cố gắng duy trì thế chủ động trên chiến trường. Về phía quân Hậu Trần cũng muốn chớp thời cơ Trương Phụ rút quân mà chiếm lại đất đai. Lúc này chiến tuyến giữa quân Minh và quân Hậu Trần vẫn ở thế đan xen vào nhau. Quân Hậu Trần không chỉ giữ thế phòng thủ vùng Thanh Nghệ. Các nhánh quân ta vẫn cố gắng bám trụ ở đồng bằng sông Hồng, đánh phá tuyến sau của Mộc Thạnh. Mũi tấn công của Mộc Thạnh đã tiến sâu vào Thanh Hóa, nhưng tại các vùng hạ lưu sông Hồng quân Hậu Trần vẫn hiện diện. Tháng 6.1410, lần lượt nổ ra những trận đánh lớn giữa ta và giặc.
Ngày 13.06.1410, quân Minh dưới sự chỉ huy trực tiếp của Mộc Thạnh đụng trận với quân Hậu Trần do vua Trùng Quang đế trực tiếp chỉ huy tại sông Ngu Giang (Nga Sơn, Thanh Hóa). Trận này quân Minh chủ động dùng thủy quân tấn công, quân Hậu Trần bị thua phải rút lui. Quân Minh truy đuổi đến Cổ Hoằng (Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Trận này quân Hậu Trần mất 3.000 quân, tướng Lê Lộng bị giặc bắt. Thế nhưng quân Minh vẫn không thể kiểm soát được vùng Thanh Hóa. Bên cạnh lực lượng quân Hậu Trần, còn có lực lượng nghĩa quân của Lỗ Lược tướng quân Đồng Mặc kiên cường chiến đấu, giết giặc rất nhiều. Đồng Mặc đánh bắt được tướng Minh là Tả Địch, vây bức khiến cho một tướng khác là Vương Tuyên cùng kế tự vẫn. Nhờ có sự tương trợ của nghĩa quân Đồng Mặc, quân Hậu Trần vẫn giữ vững được Thanh Hóa. Vua Trùng Quang đế thấy Đồng Mặc lập được công lớn, phong cho chức Phủ quản quận Thanh Hóa. Qua đó, việc hiệu lệnh cũng được thống nhất. Nghĩa quân của Đồng Mặc trở thành một bộ phận của quân Hậu Trần.
Ngày 14.06.1410, một cánh quân Minh khác dưới quyền chỉ huy của đô đốc Giang Hạo tiến đến Hạ Hồng (thuộc Hải Dương ngày nay) gặp phải quân Hậu Trần dưới trướng Nguyễn Cảnh Dị đón đánh. Trận này quân Minh đại bại, Nguyễn Cảnh Dị thúc quân đuổi theo quân Minh đến tận bến Bình Than, đốt phá thuyền trại quân Minh gần hết. Một nhánh quân Minh khác cũng thua to tại sông Tranh (Ninh Bình ngày nay), tướng giặc là Tô Toàn bị đâm chết tại trận. Các trận thắng này đã cổ vũ phong trào khởi nghĩa ở các nơi. Các cuộc khởi nghĩa lúc này có khác biệt lớn về khả năng chiến đấu. Bên cạnh nhiều cuộc khởi nghĩa có tổ chức lỏng lẻo, quân tướng không được trang bị và huấn luyện tốt, dễ dàng bị quân Minh đánh tan thì cũng xuất hiện một số cuộc khởi nghĩa có chiều sâu về tổ chức. Ở phủ Thái Nguyên có khởi nghĩa Ông Lão, ở Thanh Hóa có Nguyễn Ngân Hà, ở Thanh Oai có Lê Nhị đều là những nhân vật nổi trội trong đám hào kiệt, đủ sức đương đầu với quân Minh.
Vừa chiếm được một số lợi thế trên chiến trường, một lần nữa Trùng Quang đế và bộ chỉ huy nhà Hậu Trần thử dùng biện pháp ngoại giao, hy vọng rằng vua Minh sẽ bỏ việc đô hộ ở nước ta mà chuyên tâm lo việc biên phòng ở phương bắc chống lại các bộ tộc Bắc Nguyên. Trùng Quang chủ động lui quân về Nghệ An, tạm ngưng chiến và củng cố lực lượng. Hành khiển Nguyễn Nhật Tư và Thẩm hình viện sứ Lê Ngân được vua Trùng Quang giao trọng trách sang kinh đô Kim Lăng nước Minh bàn việc điều đình và cầu phong. Thế nhưng đáp lại thiện chí đó, vua Minh Chu Đệ đã nhẫn tâm cho bắt giết sứ giả. Qua đó một lần nữa thể hiện quyết tâm cướp nước ta của vị bạo chúa này. Việc điều đình thất bại, vua tôi nhà Hậu Trần hết sức căm giận sự ngang ngược của giặc, lại tiếp tục đẩy mạnh tiến công. Trên khắp các mặt trận từ Thanh Hóa trở ra, quân Hậu Trần cùng các lực lượng khởi nghĩa khác liên tiếp đánh phá các đồn trại quân Minh. Mộc Thạnh phải vất vả chống đỡ.
Khí thế quân dân ta dâng cao khiến cho quan tướng nước Minh phải tìm kế mua chuộc, dụ dỗ bên cạnh việc đánh phá, tàn sát. Thượng thư Hoàng Phúc nước Minh lúc này giữ chức Bố Chính ty trong bộ máy cai trị ở nước ta đã tăng cường cấp ruộng đất, tăng bổng lộc cho đám ngụy quan hòng khích lệ đám tay sai này ra sức phục vụ cho quân Minh. Đồng thời Hoàng Phúc cũng dâng sớ xin vua Minh nới lỏng chính sách cai trị ở “quận Giao Chỉ”, hòng giảm bớt sự chống đối trong dân chúng. Chu Đệ thấy tình hình đã nghiêm trọng, mà binh lực nước Minh bấy giờ phần nhiều tập trung ở phía bắc để đánh quân Bắc Nguyên, bèn chủ trương thi hành chính sách chiêu dụ, hòa hoãn.
Vua Minh xuống chiếu ân xá: “Giao Chỉ đã thuộc về Chức phương [tức thuộc bản đồ nước Minh] mà liền mấy năm chưa được yên nghỉ. Nghĩ thương dân ấy sau cơn khốn khổ, đặc cách ban ân khoan thứ, xót thương, ngõ hầu khiến cho triệu dân đều được thấm nhuần đức trạch.”
Lại dụ cho các quan lại cai trị và dân chúng nước ta rằng: “Người Giao Chỉ đều là dân của trời, đã vỗ về chúng, thì chúng đều là con đỏ của trẫm. Chúng nhất thời đi theo bọn giặc, nghe nói bị giết, trẫm thực thương xót trong lòng, sao lại nỡ để chúng như vậy? Vả lại, bọn gây tội ác chỉ có mấy đứa thôi, còn trăm họ nơi bãi biển, hang núi,bị chúng cưỡng bức, uy hiếp, hoặc giúp chúng lương thực, hoặc bị chúng đem theo làm giặc ở các nơi, đều là bắt đắc dĩ, bị chúng làm cho lầm lỡ chứ không phải là do bản tâm. Nếu biết hối hận sửa bỏ lỗi lầm, đều cho được đổi mới. Làm ác chỉ có mấy đứa, trăm họ không có tội gì. Trong đó, người nào hiên ngang dũng cảm, có kiến thức, có thể bắt được mấy đứa kia đem dâng thì nhất định sẽ ban cho quan to, tước cao. Còn bọn làm ác, nếu biết tẩy rửa tâm trí, đổi lỗi sửa mình, thì chẳng những được khoan tha tội lỗi, lại còn chắc chắn được làm quan vinh hiển nữa”.
Đối với các ngụy quan, vua Minh càng ra sức mua chuộc bằng danh lợi, chức tước và xuống chiếu phủ dụ: “Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình, nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ,ốc sức lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai người sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh lệnh ân sủng này”.(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Đầu năm 1411, nhận thấy rằng những đòn tấn công của quân ta đã khiến quân Minh phải khốn đốn và thay đổi chính sách cai trị, nhà Hậu Trần lại một lần nữa kiên trì việc ngoại giao. Lần này, Mộc Thạnh đã nhân nhượng, để cho sứ bộ Đại Việt do Hành khiển Hồ Ngạn Thần, Thẩm hình viện sứ Bùi Nột Ngôn đem cống phẩm và thư cầu phong sang Kim Lăng. Thái độ của vua Minh lần này đã có chuyển biến khác trước. Hắn không còn ngang ngược bắt giết sứ giả, mà chuyển sang đem quan tước ra dụ dỗ. Vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng, nguyên là Tả tướng quốc triều Hồ đã đầu hàng và đang làm quan cho Minh triều giả cách đến gặp sứ bộ hỏi han chuyện quê nhà, kỳ thực là ngầm dò la tin tức và làm thuyết khách cho nước Minh. Hồ Ngột Ngôn dao động, đem việc nước thổ lộ với Hồ Nguyên Trừng, lại nhận chức Tri phủ Nghệ An của vua Minh phong cho. Vua Minh cũng xuống chiếu phong cho vua Trùng Quang chức Bố chính sứ Giao Chỉ, Trần Nguyên Tôn làm Tham chính. Lại phong cho các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Cụ làm Đô chỉ huy, Phan Quý Hữu làm Phó sứ ty Án sát.
Chu Đệ lại cho người đem thư cho vua Trùng Quang dụ rằng: “Bọn các ngươi dâng biểu xin hàng, nay chấp nhận lời xin, mỗi người được nhận chức quan, nếu quả thành thực thì một phương hưởng phúc, vĩnh viễn thái bình. Nếu ôm lòng man trá không có lòng thành, đại quân tiến đánh thì chính các ngươi để hoạ lại cho dân chúng, hối cũng không kịp.”(theo Minh Thực Lục)
Từ góc độ của vua Minh mà nói, đây đã là một sự xuống nước khá rõ ràng. Nhưng từ góc độ của vua tôi nhà Hậu Trần, việc vua Minh đem những chức tước ra chiêu dụ chẳng khác nào một sự sỉ nhục, và như vậy có nghĩa là việc điều đình đã thất bại. Bởi vì mục tiêu của nhà Hậu Trần là khôi phục lại nước Đại Việt cùng vương triều Trần, chứ không phải nhận lấy chức tước của vua Minh trong một “quận Giao Chỉ”. Việc Hồ Ngạn Thần đi sứ mà nhân chức tước của giặc, lại đem quân cơ tiết lộ đã bị sứ giả Bùi Nột Ngôn đi cùng trình báo lên với Trùng Quang đế. Vua hết sức bất bình, liền hạ lệnh bắt giam và đem Hồ Ngạn Thần giết đi. Qua đó, Trùng Quang đế đã thể hiện tinh thần quyết chiến đến cùng với quân Minh, hòng giành lại độc lập hoàn toàn cho Đại Việt.
Đầu năm 1411, vua nước Minh ra một số chính sách mang tính chất chiêu an và dùng chức tước mua chuộc vua tôi nhà Hậu Trần. Điều đó xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn của nước Minh. Ở phương bắc chiến tranh lớn với Bắc Nguyên đòi hỏi Chu Đệ phải tập trung phần binh lực lớn về hướng bắc. Phương nam vì thế trở nên mỏng yếu, nền đô hộ ở Đại Việt của Minh triều trở nên lung lay. Tóm lại, việc giảng hòa của vua Minh chỉ là một bước đi tình thế. Đi cùng với đó là việc củng cố bộ máy ngụy quyền trên đất nước ta, chứng minh rằng quyết tâm đô hộ, đồng hóa nhân dân Đại Việt của bạo chúa Chu Đệ vẫn không thay đổi.
Trước sự phản kháng mạnh mẽ của quân dân Việt, người Minh liên tiếp tổn hao nhân mạng và tiền của không hề nhỏ. Sự tổn thất này vượt lên trên tất cả những nguồn lợi mà giặc Minh thu được từ việc đô hộ nước ta. Điều này đã khiến trong nội bộ Minh triều xuất hiện những ý kiến bất đồng với chủ trương cố sống cố chết không chịu trao trả độc lập cho Đại Việt của vua Minh. Tiến sĩ Giải Tấn, người từng làm Hàn lâm đại học sĩ trong triều đình nước Minh, được cử sang nước ta nhậm chức Tham nghị. Khi đến nhậm chức, nhận thấy tình hình lòng dân đều tỏ ý phản kháng, Giải Tấn đã nói thẳng với các quan tướng Minh ở Đông Quan: “Giao Chỉ chia đặt làm quận huyện không bằng để nguyên như cũ, nên phong tước chia đất cho các thổ hào để họ cai quản lẫn nhau. Chia đặt quận huyện dẫu có cái được cũng không bù được những cái mất, cái lợi không chữa được cái hại”.
Lời có Giải Tấn thể hiện cái nhìn sâu sắc, biết mình biết người nhưng rất tiếc lại nói ra không hợp thời khi mà hầu hết bạn đồng liêu xung quanh ông và cả vua của ông đều là những con người tham công, hiếu chiến. Từ Đông Quan, các quan lại đô hộ mật tâu lời của Giải Tấn về cho Kim Lăng. Chu Đệ nghe được, đùng đùng nổi giận xuống lệnh bắt ngay Giải Tấn dẫn về nước, rồi giao cho Cẩm Y Vệ giam giữ. Giải Tấn không lâu sau đó bệnh chết trong ngục. Đó là một sự dằn mặt các ý kiến trái chiều của vua Minh. Sau việc này, văn võ bá quan Minh triều đều chỉ ngậm tăm mà thi hành những chủ trương bạo ngược, hiếu chiến đối với Đại Việt.
Bên cạnh những sự hoài nghi trong nội bộ Minh triều về cuộc đô hộ, thì trong hàng ngũ ngụy quan cũng không thiếu những người bất bình. Giáo thụ Lê Cảnh Tuân, người từng là Giám sinh Quốc tử giám, vì nghe lời dụ dỗ “phù Trần diệt Hồ” mà từng bước trở thành kẻ tay sai cho giặc. Nay trước những hành động ngang ngược, bất chấp lý lẽ của quân Minh đã không có kìm nén được, viết một “Vạn ngôn thư” gởi cho viên Tham nghị Bùi Bá Kỳ, văn ngôn là một bức kiến nghị các sách lược thượng, trung, hạ sách cho quân Minh, nhưng lồng vào đó các lời khuyên thực thi những lời hứa của quân Minh năm xưa khi mới tiến quân vào đánh nhà Hồ. Bức thư đó cũng bị quan lại nước Minh trình tấu về Kim Lăng. Chu Đệ không ngần ngại bắt giải Lê Cảnh Tuân sang Kim Lăng, cũng giam vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ để bịt miệng. Sau Lê Cảnh Tuân bị giam 5 năm trong ngục, cuối cùng bệnh chết trong đó.
Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh và quân tướng nước Minh rất cố gắng phối hợp với đám ngụy quân, ngụy quan chống trả các đợt tấn công của quân Hậu Trần. Tuy quân Minh chiến đấu rất hiệu quả, nhưng cũng núng thế dần trước khí thế của quân ta. Quân Hậu Trần không còn mở những cuộc hành quân lớn nhằm thẳng vào Đông Quan như trước, mà tổ chức những chiến dịch quy mô nhỏ hòng lấn đất dần. Các châu huyện thuộc các phủ Kiến Bình, Trấn Man, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa (các vùng này thuộc các hướng đông bắc, đông nam đồng bằng sông Hồng) dần dần về tay quân Hậu Trần. Bên cạnh đó, một dải giang sơn từ Thanh Hóa trở vào trở thành vùng hậu phương vững chắc cho nhà Hậu Trần. Trong vùng lãnh thổ này, bản sắc Đại Việt vẫn tồn tại và phát triển qua thời gian. Còn tại các vùng quân Minh chiếm đóng, nhân dân vẫn hết mức trông chờ được giải phóng khỏi ách đô hộ, dù cho vua Minh đã ra một số chính sách nới lỏng việc cai trị, hòng thu phục nhân tâm.
Tình hình khách quan thuận lợi cho nhà Hậu Trần không kéo dài lâu, vì cuộc chiến giữa nước Minh và quân Bắc Nguyên dưới trướng khả hãn Bản Nha Thất Lý đã định đoạt xong trong năm 1410. Các bộ tộc Bắc Nguyên tuy thiện chiến nhưng rời rạc về tổ chức. Trong khi liên minh bộ tộc Thát Đát (Tatar) của Bản Nha Thất Lý kiên quyết chống Minh thì bộ tộc Ngõa Lạt (Oirat) lại chấp nhận hòa nghị với nước Minh, liên binh tấn công Thát Đát. Bản Nha Thất Lý cuối cùng chống không nổi trước quân Minh đông đến 50 vạn người dưới quyền tổng chỉ huy của chính Chu Đệ, lực lượng bị tiêu diệt gần hết. Do đó, quân Minh chiếm ưu thế hoàn toàn ở phương bắc, lập tức chia quân hướng mũi giáo về nam.
Vua Minh thi hành một chính sách tráo trở hai mặt. Hắn dùng chiêu bài dụ dỗ, mua chuộc các tầng lớp nhân dân bằng việc giảm nhẹ thuế khóa, tăng bổng lộc cho ngụy quan, đem chức tước ra để chiêu hồi những lực lượng khởi nghĩa. Nhưng ngay sau khi tình hình trong nước thuận lợi, một đạo viện binh lớn lập tức được chuẩn bị tiến sang Đại Việt hòng đàn áp thẳng tay nhân dân ta. Và một khi việc dùng binh thuận lợi, sẽ không có chuyện bạo chúa Chu Đệ khoan dung cho người Việt bất cứ điều gì.
Tháng 2.1411, Trương Phụ lại lĩnh ấn “Chinh Di tướng quân” nhận lệnh đem một đạo viện binh lớn tiến sang nước ta. Lực lượng quân Minh lần này bao gồm binh mã của 6 đô ty Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam, Quý Châu, cả thảy có 14 vệ quân. Theo quân chế nước Minh, 14 vệ quân sẽ có quân số 78.400 lính (mỗi vệ có 5.600 lính). Tuy nhiên, Minh Thực Lục lại chỉ chép có 2.400 lính. Nhiều khả năng sử nước Minh đã dùng thủ thuật quen thuộc là nói giảm quân số để đề cao chiến công của tướng Minh, khỏa lấp thất bại nếu có khi đi chinh phạt.
Dù đã hạ lệnh cho quân tiếp viện, nhưng việc gom quân, chuẩn bị cũng mất hàng tháng trời. Bởi vậy, vua Minh vẫn dùng thủ đoạn dụ dỗ để che giấu đi lưỡi gươm hiểm ác của mình. Tháng 3.1411, vua Minh xuống “chiếu dụ Giao Chỉ”:
“Trẫm nhận mệnh trời, cai trị muôn phương, vĩnh viễn che chở soi xét tình cảnh kẻ dưới, lòng đầy sự thương yêu, sớm chiều canh cánh. Nghĩ rằng Giao chỉ đã được sáp nhập vào bản đồ, nhưng suốt năm chưa được yên ổn nghỉ ngơi, sau buổi khốn khó giặc giả bèn ban ân khoan hồng như sau :
- Kể từ ngày 24 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 9 trở về trước, những người Giao Chỉ tụ tập trong núi rừng đều được xá tội, quân cho trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ, quan lại quân dân phạm tội chưa bị phát giác cũng được tha.
- Ngoài thuế lương thực, các loại thuế vàng, bạc, muối, sắt, cá, hoa quả được miễn trưng thu trong vòng 3 năm. Vàng, bạc vẫn cấm không được khai thác
- Nội bộ trong dân được phép giao dịch bằng vàng, bạc, tiền đồng nhưng không được đưa ra khỏi lãnh thổ.
- Những Thổ quan Giao Chỉ có tài năng rõ ràng về việc cai trị quân dân, hãy tâu lên cho biết tên để thưởng cờ biển làm bằng. ”(theo Minh Thực Lục)
Như vậy là vua tôi nước Minh sau nhiều phen khốn đốn vẫn kiên quyết không từ bỏ việc cướp nước ta. Việc binh đao giữa hai nước vẫn liên miên mãi không ngừng vì dã tâm của giặc. Vua tôi nhà Hậu Trần lại phải đương đầu với một cơn sóng dữ mới nữa.
Như đã nêu ở những kỳ trước đây, cuộc chiến dai dẳng giữa nước Minh và dân tộc Việt đầu thế kỷ 15 không chỉ là nỗi bất hạnh lớn cho nhân dân ta, mà còn đem lại những tổn thất to lớn cho chính bên gây chiến chính là nước Minh. Bất chấp những tổn thất, vua Minh Thành Tổ (hay còn gọi là Minh Thái Tông) Chu Đệ vẫn liên tiếp điều quân tiếp viện để duy trì nền đô hộ. Vì sao vua nước Minh lại không thể từ bỏ khi mà nhân tâm bất phục, lợi ích từ việc đô hộ không bù nổi thiệt hại và còn khiến vấn đề Đại Việt trở thành mối lo lâu dài tiềm ẩn nguy cơ cho cả đời vua kế nhiệm ? Ắt hẳn đó không đơn thuần đến từ lợi ích. Có một thứ còn lớn hơn mà Chu Đệ rất sợ mất đi, đó chính là uy danh. Chính chữ Danh đã khiến vị vua này bất chấp hy sinh tính mạng quân tướng của mình và sẵn sàng tiêu diệt cả giống nòi người Việt nếu cần. Từ bỏ Đại Việt để rút quân về nước, đối với Chu Đệ chính là một sự thừa nhận rằng hắn đã sai lầm và thất bại. Tên bạo chúa với tính cách cố chấp, ngông cuồng không bao giờ dám đối diện với điều đó.
Tháng 4.1411, trong lúc tại nước Minh, đội quân tăng viện dưới trướng Trương Phụ đang ráo riết chuẩn bị mọi thứ để tiến sang nước ta, Chu Đệ cho ban thưởng hậu hĩnh cho các ngụy quan và xuống chiếu khích lệ tinh thần bọn tay sai bằng những lời có cánh: “Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình, nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ, dốc sức lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. Hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai người sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh lệnh ân sủng này”. (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Qua những việc trên mà Chu Đệ đã làm cho thấy, hắn đã cùng lúc thực hiện cả hai chính sách lớn. Đó là chính sách dùng người Việt đánh người Việt để giúp duy trì sự kiểm soát trên lãnh thổ chiếm đóng, kế đến là chính sách sử dụng quân đội chính quy đông mạnh từ nước Minh tiến sang để tấn công dứt điểm nhà Hậu Trần và các phong trào khởi nghĩa khác.
Tháng 5.1411, Trương Phụ đem quân tiến vào địa phận nước ta, vào thành Đông Quan hội quân với Mộc Thạnh. Đến đây, Trương Phụ lại thay Mộc Thạnh nắm quyền chủ soái, còn Mộc Thạnh làm phó soái. Quân Minh đêm này cho người dò la tin tức và bàn bạc kế hoạch tấn công.Quân Minh lần này cũng sử dụng lực lượng lớn thủy quân. Trong các kế hoạch hành quân, giặc chủ yếu di chuyển bằng thuyền dọc các con sông. Công việc chuẩn bị của quân Minh lần này rất công phu.Các lực lượng ngụy quan, ngụy binh được lệnh đóng chiến thuyền, làm đồn điền cung cấp quân lương cho đạo quân viễn chinh nước Minh. Từ giữ năm 1411 cho đến mùa hạ năm 1412, quan tướng nước Minh ra sức bắt nhân dân vùng Kinh lộ phục dịch, góp lương thảo để nuôi quân vô cùng khổ sở.
Điều này hoàn toàn trái ngược với những lời hứa trong các chiếu chỉ của vua Minh chỉ mới cách đó không lâu. Hoàn toàn không có sự tốt đẹp nào mà chính quyền đô hộ dành cho nhân dân ta, chỉ có thực tế là những việc bắt giết, đàn áp, bóc lột thậm tệ. Sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ bình luận về sự trái ngược trong lời lẽ của vua Minh và hành động của quan tướng nước Minh đối với dân ta như sau: “Người Minh thống trị nước ta, tự nghĩ có thể lấy oai lực mà áp chế được. Nhưng từ tháng 5 năm Đinh Hợi bắt được Hồ (Quý Ly) rồi, tháng 10 vua Giản Định lại lên ngôi, nối đến là vua Trùng Quang. Trong 5 - 6 năm, chiến tranh không thôi, mới biết là khó bình được. Bấy giờ mới cầm quyền ban chiếu sắc, nghĩ cách úy dụ dân. Nhưng mà Trương Phụ đi đến đâu, dữ hơn hổ cái. Hoàng Phúc ra mệnh lệnh rối như lông lươn. Vua Minh ở xa cách, không biết dân thuộc quốc khốn khổ đến thế, bảo sao mà dân chả nhớ nước cũ, mà coi người Minh là cừu thù”.
Lời bàn của Ngô Thì Sĩ quả xác đáng với bối cảnh lúc bấy giờ. Nhưng riêng việc vua Minh không biết rằng dân ta khốn khổ thì không hẳn là đúng. Việc nhân dân ta có khốn khổ hay không, kỳ thực đó chỉ là mối quan tâm thứ yếu đối với Chu Đệ. Cái hắn quan tâm chính là nhân dân ta có phục tùng hay không.
Việc tập trung nguồn lực của Trương Phụ cũng không hề dễ dàng mà bị chậm tiến độ do các sự chống đối của nhân dân. Trước khi Trương Phụ kéo quân sang, tại các vùng trung du, rừng núi hiểm trở vẫn còn tồn tại những đội nghĩa quân tự phát thường xuyên là mối đe dọa với quân đồn trú nước Minh. Đến khi Trương Phụ sang, bóc lột nhân dân tàn tệ. Mọi người vì thế mà căm phẫn, dù bị kìm kẹp gắt gao nhưng vẫn chực chờ cơ hội vùng lên.
Tháng 7.1411, Trương Phụ mở chiến dịch lớn tiến đánh nhà Hậu Trần. Từ Đông Quan, quân Minh chia làm hai đạo thủy bộ. Đạo thủy binh là lực lượng chính dưới quyền chỉ huy của Trương Phụ. Mộc Thạnh chỉ huy cánh bộ binh. Mục tiêu của hai cánh quân Minh là tấn công đánh lấn nhanh về phía nam, giành quyền kiểm soát vùng Thanh Hóa rồi từ đó làm bàn đạp đánh xuống Nghệ An, bắt vua Trùng Quang đế.
Trương Phụ bị quân Hậu Trần dưới sự chỉ huy của hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đánh cầm chân ở Trường Yên. Quân Minh vừa vất vả tháo dỡ đá mà quân ta đã lấp sông, nhổ cọc khơi nguồn vừa phải chống đỡ với các đội quân mai phục, tập kích đánh tỉa. Trương Phụ tiến rất chậm, tổn thất một lực lượng đáng kể. Đến cửa Thần Phù, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị lại tung quân đánh một trận nữa, cố gắng tiêu hao lực lượng giặc trước khi cho quân rút lui về Thanh Hóa bảo toàn lực lượng, lập trận địa mới. Cánh quân bộ của Mộc Thạnh thì bị trúng mai phục của Nguyễn Súy ở đèo Tam Điệp. Quân Minh tổn thất không nhỏ, nhưng vẫn đủ lực lượng vượt qua được. Nguyễn Súy sau đó cũng lui về Thanh Hóa hội quân với các tướng khác.
Quân Minh tiến vào Thanh Hóa vào tháng 8.1411. Hai cánh quân của giặc tập kết, dồn sức tổng lực đánh vào cứ điểm phòng thủ của quân Hậu Trần tại sông Nguyệt Thường (hạ lưu sông Mã). Tại đây, các tướng Hậu Trần là Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Hồ Cụ … cũng gom hết quân để cùng nhau phòng thủ. Ban đầu, Trương Phụ dùng cánh đánh vỗ mặt, bị nghĩa quân dựa vào phòng tuyến chống trả quyết liệt. Hai bên đánh nhau liên tiếp mấy ngày trời bất phân thắng bại. Sau đó, Trương Phụ mới theo phép “đông hơn hai lần thì phân ra”, lệnh cho Đô đốc Chu Quảng, Đô chỉ huy Trương Thắng, Du Quảng cứ dẫn chiến thuyền theo dòng sông mà tiến đánh, bất chấp chướng ngại vật và thiệt hại từ cung tên, súng đạn của quân ta. Mộc Thạnh dẫn quân kỵ bộ tấn công mạnh vào một hướng khác. Còn Trương Phụ dẫn quân men theo đường rừng, đi vòng đánh vào mặt sau trận địa của quân Hậu Trần.
Quân ta đang cố sức đánh trả mặt trước, lại bị Trương Phụ bất ngờ tấn công từ mặt sau, thế trận bỗng chốc trở nên bất lợi. Thấy quân Minh ba mặt giáp công, các tướng cùng nhau gấp rút hạ lệnh rút quân, nhanh chóng thoát khỏi thế bị bao vây. Rốt cuộc quân Minh phá được tuyến phòng ngự Nguyệt Trường, với một cái giá rất đắt. Những cánh nghi binh của quân Minh bị quân phòng thủ của ta gây thiệt hại nặng, xác giặc nằm la liệt khắp chiến trường, trôi lềnh bềnh dưới sông. Quân Hậu Trần trong trận tổn thất hơn 400 quân, mất nhiều chiến thuyền. Các tướng Hậu Trần là Đặng Tôn Mục, Lê Đức Di, Nguyễn Trung bị giặc bắt.
Thắng trận tại Nguyệt Trường, nhưng Trương Phụ chẳng thể tiếp tục cuộc tấn công. Bởi vì khi quân Minh rời Đông Quan tiến xuống phía nam, thì hào kiệt vùng Kinh lộ (trung tâm đồng bằng sông Hồng) đã thừa cơ vùng lên đánh phá khắp nơi. Lê Nhị, Phạm Khảng ở Thanh Oai, uy hiếp Đông Quan từ mặt đông nam. Nghĩa quân Ông Lão ở Thái Nguyên, trước bị quân Minh bức bách, nay lại có dịp hoạt động mạnh trở lại. Ông Lão lãnh đạo nghĩa quân tiến đánh Cổ Lũng (Lạng Sơn), Động Hỷ, Tư Nông (Thái Nguyên)… uy hiếp Đông Quan từ hướng bắc. Quan tướng Minh ở thành Đông Quan phải biên thư cáo gấp. Trương Phụ không thể dứt điểm được nhà Hậu Trần trong một sớm một chiều, mà Đông Quan lại đang nguy cấp. Sau khi cân nhắc, hắn phải cùng Mộc Thạnh đem đại quân rút nhanh về cứu thành Đông Quan. Thế trận bỗng chốc đảo chiều. Rõ ràng chiến cuộc tại Đại Việt không chỉ có quân Minh và nhà Hậu Trần. Quân giặc thực sự đã phải đương đầu với cả một dân tộc.
Nửa cuối năm 1411, Trương Phụ phải bỏ dở giữa chừng chiến dịch đánh diệt nhà Hậu Trần để đem quân về cứu thành Đông Quan đang bị các toán quân khởi nghĩa uy hiếp. Điều này đã giúp nhà Hậu Trần được giải vây, nhưng gánh nặng là dồn sang các lực lượng khởi nghĩa ở phía bắc. Bấy giờ Lê Nhị xưng là Long Hổ tướng quân Đại đô đốc, lãnh đạo quân dân mở chiến dịch công phá thành Đông Quan. Lê Nhịvới đạo quân 5.000 người tiến đến ngay sát cạnh Đông Quan thì đã bị một lực lượng quân Minh áp đảo tuyệt đối dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trương Phụ từ phía nam trở về tiến đánh dữ dội. Nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng nhưng không chống nổi do tương quan quá chênh lệch.
Hơn 1.500 nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận chiến, một số tan rã hàng ngũ. Lê Nhị trúng tên tử trận. Tướng dưới trướng ông là Phạm Khảng cùng số tàn quân còn lại kịp rút lui, kéo nhau vào rừng núi lẩn trốn. Đánh tan quân của Lê Nhị rồi, Trương Phụ sai tướng đánh thốc lên phía bắc thành Đông Quan, hòng tiêu diệt nghĩa quân Ông Lão. Liệu sức không thể đối đầu ngay với giặc, Ông Lão cho thu quân rút vào rừng sâu, chia nhỏ lực lượng chực chờ quân Minh rút đi thì lại đánh phá các đồn trại của bọn ngụy quan. Các hoạt động này khiến quân Minh mất rất nhiều thời gian đánh dẹp.
Cũng trong năm 1411, hàng loạt cuộc khởi nghĩa khác trên khắp vùng miền bắc đã khiến quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Nhà Hậu Trần cũng hành động để phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân. Đặng Dung, Nguyễn Súy cùng các tướng Hậu Trần khác là Tôn Nhân, Trần Lỗi đem thủy quân vượt biển ra bắc đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp lương thực, hỗ trợ và cổ vũ nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng càng nô nức giết giặc.Thành Đông Quan gần như lọt thỏm giữa muôn trùng vây các cuộc khởi nghĩa. Mặc dù các toán quân khởi nghĩa lần lượt bị đàn áp do rời rạc thiếu đồng bộ, nhưng cũng đã khiến cho hàng ngàn quân Minh bỏ thây. Và nhất là, khiến cho mục tiêu sớm bình định Đại Việt của vua Minh thất bại.
Trương Phụ càng đánh nhiều, thắng nhiều thì càng khiến cho sự chống đối càng thêm dữ dội. Quân Minh không có năng lực để diệt chủng toàn bộ nhân dân Đại Việt cũng như hoàn toàn tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân, nên phải duy trì lực lượng ngụy quân, ngụy quan để chia sẻ gánh nặng với quân viễn chinh người Minh và khiến người Việt bị chia rẽ. Nhưng rồi chính trong lực lượng tay sai đó cũng xuất hiện những người chống đối, vì rằng nhiều người trong số họ cũng bị lừa dối và ép buộc. Sách Bình Định Giao Nam Lục của người Minh phải viết: “Vì rằng trong những quân vệ châu huyện mới đặt, người Giao Châu nhiều, xưa nay vốn ở ngoài vòng thanh giáo (!?), ưa thích phóng túng, không chịu nổi sự sách nhiễu của quan lại, tướng sĩ. Họ thường nhớ tục cũ, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng hưởng ứng, tướng giặc đến đâu là được chúng cung ứng, giấu giếm. Cho nên giặc tan rồi lại hợp…”
Đầu năm 1412, tại Thái Nguyên, viên phụ đạo là Nguyễn Nhuế khởi binh đánh phá quân Minh. Tình hình nghiêm trọng buộc Trương Phụ phải đích thân dẫn quân đi đánh mới dẹp được. Để có được một vùng Kinh lộ tạm yên ổn làm bàn đạp tiến về phía nam, Trương Phụ phải mất hơn nửa năm trời. Quãng thời gian này là ngắn hay dài? Chúng ta cần biết rằng, thời trước quân Tống chỉ bị cầm chân ở Như Nguyệt 2 tháng trời mà cạn kiệt lương thực, phải rơi vào cảnh khốn đốn. Quân Nguyên Mông chưa bao ở nước ta được tới nửa năm, lại phải thường xuyên cướp bóc vơ vét lương thực trong dân mà cũng lâm vào cảnh đói khát. Vậy nên, việc quân Minh loay hoay phá vòng vây quanh Đông Quan là một sự sa lầy trầm trọng. Chiến sự liên miên bào mòn quốc lực của nước Minh, và càng khiến quân Minh tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân ta ở vùng chúng chiếm đóng. Chiến tranh là một cái vòng lẩn quẩn điên rồ, nơi mà những kẻ tham tàn ném quân dân cả hai bên vào chỗ khổ sở, chết chóc.
Tuy nhiên, dựa vào việc được cung cấp nhân lực, vật lực liên tục từ nước Minh và việc lập đồn điền cho ngụy quân sản xuất lương thực, quân Minh đã giải quyết được khó khăn về hậu cần. Trương Phụ sai quân tấn công đội thủy quân của Nguyễn Súy đang hoạt động ở ven biển vùng Hải Đông (Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay), giành được thắng lợi. Quân dưới trướng Nguyễn Súy bị hao tổn đến quá nửa, các tướng phải cho lui quân về Nghệ An. Không có sự hậu thuẫn của quân Hậu Trần, phong trào khởi nghĩa cũng tạm thời lắng xuống. Đến giữa năm 1412, Trương Phụ đã bắt đầu mở chiến dịch mới tiến về phía nam, tiếp tục công việc đàn áp nhà Hậu Trần, chỗ dựa của toàn bộ phong trào kháng Minh thời bấy giờ.
Tháng 7.1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem đại binh từ Đông Quan vào đánh Nghệ An, với mục tiêu là nhanh chóng tiêu diệt nhà Hậu Trần. Quân Minh vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Hậu Trần tại vùng Trường Yên (Ninh Bình). Tại đây, vua Trùng Quang sai ba tướng giỏi nhất của mình là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy đón đánh. Về sau, phò mã Hồ Bối cũng được lệnh đem quân tăng cường. Tuy nhiên, lực lượng quân Hậu Trần vẫn ít hơn quân Minh rất nhiều. Chẳng những vậy, cả quân lẫn tướng giặc đều tinh nhuệ, nhiều tên dày dặn kinh nghiệm. Quân ta dùng kế chia quân đánh tỉa, cốt làm chậm nhịp tiến quân của giặc. Trương Phụ phải mất nhiều thời gian ở Trường Yên. Dù vậy, là một tướng lão luyện, Phụ vẫn giữ được phần đông lực lượng trước sự đánh phá của quân Hậu Trần, lầm lũi từng bước một tiến dần về phương nam.
Đầu tháng 9.1412, quân Minh và quân Hậu Trần đánh nhau một trận lớn. Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng nhau chia quân bày trận ở Mô Độ - huyện Yên Mô. Quân Hậu Trần tập trung lực lượng chặn cửa biển Thần Phù, nơi sông Đáy đổ ra biển. Thủy quân ta có khoảng 400 chiến thuyền, bộ binh có vài ngàn quân mai phục trên bờ chờ đánh bộ binh của giặc. Cửa biển Thần Phù là vị trí mà quân Minh phải đi qua để vượt biển tiến đánh Nghệ An, nơi mà Trùng Quang đế đóng đại doanh.
Do vị trí chiến lược quan trọng mà binh thuyền do ba tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy nắm giữ cũng là lực lượng mạnh nhất mà Trùng Quang đế có thể điều động được vào lúc đó. Dẫu rằng lực lượng này vẫn thua kém quân của Trương Phụ, Mộc Thạnh, nhưng nhà Hậu Trần cố gắng trông cậy vào địa lợi. Nơi mà quân ta lựa chọn để đặt trận địa đón đánh giặc là nơi đường hẹp lầy lội, nhằm hạn chế tối đa sức mạnh kỵ binh của giặc.Ngày 6.9.1412, Trương Phụ đem binh thuyền tiến đển cửa biển, cùng quân Hậu Trần giao chiến một trận đẫm máu
Trận Mô Độ là một trong những trận đánh lớn nhất trong giai đoạn nhà Hậu Trần chống quân Minh. Vua Trùng Quang coi vùng Trường Yên như một tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ căn cứ địa, nên đã điều động những lực lượng ưu tú nhất mà mình có để chiến đấu tại vùng này. Về phần các tướng lĩnh Hậu Trần, việc lựa chọn quyết chiến tại vùng cửa biển, địa hình phức tạp giúp cho quân HậuTrần có thể hạn chế tối đa sở trường của giặc. Thế nhưng quân Minh là một đạo quân khá toàn diện về các binh chủng. Mặc dù kỵ bộ vẫn là sở trường của quân Minh cũng như các quân đội phương bắc, thủy quân của giặc cũng khá tinh nhuệ, và nhất là được trang bị các thuyền chiến tốt, có lợi thế về quân số so với quân ta.
1. Diễn biến trận Mô Độ:
Ngày 6.9.1412, sau những ngày dài vừa hành quân vừa quần nhau với quân Hậu Trần, quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính… tiến đến dọc sông Đáy, nhằm hướng cửa biển Thần Phù, thuộc Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên để ra biển. Quân Hậu Trần với lực lượng gồm 400 chiến thuyền, dưới quyền chỉ huy của các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Bối… đã bày sẵn thủy trận trên sông đón đánh. Nhác trông thấy thuyền của quân ta, Trương Phụ với lực lượng mạnh trong tay, không ngần ngại sai Đô chỉ huy Phương Chính dẫn đội thuyền tiên phong hàng trăm chiếc hùng hổ xáp lại, còn Phụ thì tiến sau với đội thuyền chủ lực. Kỵ binh quân Minh vốn vẫn hành quân ven bờ để hộ tống hạm đội chủ lực, nay không thể theo kịp vì địa hình địa vật phức tạp trên đường ra cửa biển. Dù vậy, Trương Phụ vẫn tự tin với hạm đội của mình.
Bấy giờ gió bắc đang thổi, thuyền giặc có lợi về hướng gió. Thời kỳ này, các chiến thuyền vẫn dùng buồm để tận dụng gió làm tăng tốc độ của thuyền bên cạnh các tay chèo. Quân Hậu Trần không vội giao tranh, mà cũng xuôi theo chiều gió chèo ngược ra hướng cửa biển. Hai đoàn thuyền lướt nhanh rượt đuổi nhau. Quân Hậu Trần vừa ra đến cửa biển thì theo kế sách tản ra thành ba đội. Trong thời khắc đó, phần lớn hạm đội quân Minh vẫn còn ở trong sông, không gian chật hẹp hơn nên không thể dàn trận hết được, mà đội hình các thuyền vẫn đang nối đuôi nhau thành những hàng dài. Đó là tính toán rất lợi hại của tướng lĩnh Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã hình thành thế trận lấy ít vây nhiều. Chỉ có như vậy, quân Hậu Trần mới có cơ hội đánh thắng quân Minh vượt trội hơn cả về trang bị lẫn quân số, lại đang ở thế thượng phong (từ trên gió đánh xuống).
Khi thế trận đã hình thành như dự kiến, Đặng Dung hạ lệnh toàn quân quay thuyền lại đánh. Thủy quân Hậu Trần rất tinh nhuệ, cùng quân Minh đánh nhau dữ dội. Khắp vùng biển vang rền tiếng súng từ hai phía. Cuộc đấu pháo giữa các thuyền xen lẫn với những màn giáp chiến. Thủy quân ta dùng câu liêm móc vào thuyền giặc, nhảy lên thuyền đánh xáp là cà. Gươm giáo tua tủa vang động khắp chiến trường. Nguyễn Súy đốc suất một nhánh quân chiếm lĩnh chỗ đất ven bờ, từ trên bộ bắn tên và đạn pháo hỗ trợ cho thủy quân ta diệt giặc. Quân ta khiến đội thuyền tiên phong của Phương Chính bị thiệt hại nặng nề. Trương Phụ phải tự mình lên tuyến đầu, đốc thúc quân lính liều chết mà xông lên. Quân Minh cũng chia làm ba mặt, cố sức đánh thốc ra biển. Thuyền giặc to lớn, nhân hướng gió thuận chèo nhanh đâm thẳng vào thuyền của quân ta, hễ chiếc trước chìm vỡ thì chiếc sau lại xông tới.
Bấy giờ bên quân Hậu Trần thì dựa vào địa lợi, bên quân Minh dựa nhờ vào thiên thời. Đồng bình chương sự Đặng Dung là vị tướng dũng mãnh nhất trong quân Hậu Trần, không quản gian lao cùng các binh sĩ chiến đấu với giặc ngay ở tuyến đầu, xông pha giữa trận, ai chống là chết. Thấy chủ tướng gan dạ như thế, nhuệ khí của quân Hậu Trần càng dâng cao, khiến cho quân Minh khốn đốn, trận thế bắt đầu rối loạn. Trương Phụ cũng chẳng phải dạng vừa, quyết không để Đặng Dung mặc sức tung hoành. Chủ tướng quân Minh thấy thế quân mình chùn xuống, cũng dẫn các cận vệ, thuộc tướng bên cạnh xông lên trước, mặt giáp mặt với cánh quân của Đặng Dung, hai bên đều liều chết đánh nhau bất phân thắng bại.
Trong khi cánh quân của Đặng Dung chiến đấu vô cùng dũng cảm thì bước ngoặc quyết định của trận chiến lại đến từ hướng khác. Các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Bối cầm cự với quân Minh hồi lâu, bị giặc công kích dữ dội. Trương Phụ sai một cánh quân đổ bộ đi xuyên qua rừng nứa, nửa đêm đánh vào khối quân của Nguyễn Súy. Vì thiếu phòng bị, Nguyễn Súy không chống nổi, đơn phương hạ lệnh cho quân mình xuống thuyền rút lui khỏi trận. Đây là một quyết định làm thay đổi toàn bộ cục diện trận chiến. Nguyễn Cảnh Dị thấy cánh quân Nguyễn Súy rút, cũng cho quân rút theo. Vòng vây mà quân Hậu Trần đã dày công toan tính bỗng chốc bị thủng hai mảnh lớn. Thuyền quân Minh từ trong sông thừa thế tràn ra khắp mặt biển, hình thành thế bao vây ngược lại.
Bấy giờ đội thuyền dưới trướng phò mã Hồ Bối còn đang chiến đấu ở gần trong nội thủy, phút chốc bị thuyền quân Minh dày đặc vây quanh, che cả lối thoát ra biển. Thấy thế không thể thủ thắng nổi nữa, Hồ Bối nhanh trí lệnh cho quân mình bỏ thuyền lên bờ, rút lui theo đường rừng. Quân Minh không đuổi theo các hướng quân Hậu Trần rút lui mà dồn hết lực lượng nhắm vào khối quân của Đặng Dung mà đánh diệt. Đặng Dung cùng các chiến sĩ dưới trướng bị đồng đội bỏ rơi lại, đơn độc chiến đấu giữa muôn trùng vây quân Minh.
Giữa tình cảnh thập tử nhất sinh, Đặng Dung cùng thuộc hạ chỉ còn cách liều chết mở một con đường máu phá đột phá vòng vây, thoát ra biển để rút về phương nam theo đồng đội. May thay, vòng vây của quân Minh vẫn chưa thể khép kín ngay được mà vẫn còn những khoảng trống phía ngoài mặt biển. Đặng Dung cùng quân sĩ tả xung hữu đột, rốt cuộc cũng thoát được ra biển mà rút về nam. Trương Phụ đắc thắng thúc quân giương buồm đuổi theo truy kích sát rạt, dùng câu liêm móc các thuyền quân ta lại để đánh giết. Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ chèo nhanh để thoát. Quân sĩ dưới trướng Dung vốn đã mệt mỏi vì trận chiến, vừa xả thân đánh chặn cho chủ tướng vừa rút theo sau. Nhiều người ngã xuống dọc đường rút khỏi trận địa, tình cảnh vừa bi vừa hùng. Sau hồi truy đuổi, Trương Phụ hạ lệnh thu quân để tổ chức lại lực lượng trước khi tiếp tục cuộc tiến công vào Thanh Hóa, Nghệ An.
2. Kết quả và nhận định:
Trận này diễn ra từ sáng sớm ngày 6.9 đến tận trưa ngày 7.9.1412, đánh liên tục không ngừng nghỉ. Quân Hậu Trần bị thiệt hại hàng ngàn quân, nhiều thuyền bị đắm và bị giặc cướp. Minh Thực Lục chép rằng có hơn 1.000 quân và 75 tướng Hậu Trần bị bắt trong trận. Trong số đó có những tướng lĩnh cao cấp là Dực vệ Đại tướng quân Trần Lỗi, Long hổ Tướng quân Đặng Nhữ Hý, tướng Lê Mục, tướng Nguyễn Lâm… Về thiệt hại của quân Minh không có sách sử nào thống kê cụ thể, nhưng qua diễn biến gay cấn có lẽ cũng không dưới con số hàng ngàn. Một điều may mắn cho nhà Hậu Trần là phần nhiều quân ta vẫn thoát khỏi trận địa sau cuộc ác chiến, khiến cho kế hoạch đánh nhanh diệt gọn chủ lực nhà Hậu Trần của Trương Phụ không thực hiện được.
Trận Mô Độ có thể nói là một trận đánh mà quân Hậu Trần thể hiện cả những mặt ưu việt nhất cũng như những điểm yếu cố hữu của mình. Có thể thấy rằng, quân ta có tinh thần và kỷ luật rất cao, kỹ năng chiến đấu rất tốt. Đến cả sử nước Minh cũng phải công nhận “khí thế giặc rất tinh nhuệ”. Dù vậy, điểm yếu của quân Hậu Trần là họ không có một nền tảng cơ bản trong hiệp đồng tác chiến, thiếu các phương án dự phòng nên khi phối hợp với nhau trên chiến trường thì các tướng hành động không thống nhất. Trong khi người này đang quyết tử chiến, thì người kia lại muốn rút lui bảo toàn lực lượng. Khi lâm trận, các cánh quân cách nhau ngoài khoảng nghe thấy tiếng chiêng trống là hầu như mạnh tướng nào nấy đánh. Sâu xa hơn, quân đội Hậu Trần bấy giờ thiếu một vị tổng chỉ huy có uy tín vượt trội để điều hành toàn bộ các tướng quân khác. Trong sách sử thường ghi chép về quân của Trùng Quang khi đánh lớn thường được chỉ huy bởi ba bốn tướng soái. Nghe qua có vẻ đông đúc, nhưng kỳ thực là thiếu chỉ huy chung nhất. Các tướng chỉ huy như một hội đồng, có lợi khi thảo luận kế hoạch nhưng thiếu đi sự linh hoạt trong tác chiến. Điều này khác với thời mà Đặng Tất còn tại thế. Lúc đó, ông là người có uy tín để chỉ huy toàn bộ quân tướng, giống như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt thưở trước. Quân Hậu Trần lúc đó muôn người như một, hành động nhất quán như tay chân trong cơ thể. Đó là điều mà quân Hậu Trần dưới thời vua Trùng Quang không có được.
Quân Minh sau khi thắng trận, tràn vào Thanh Hóa như thác lũ. Trương Phụ đi đến đâu là đánh giết tàn bạo. Quân Hậu Trần thì rút về Diễn Châu, Nghệ An sốc lại lực lượng, quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc dữ
.
Một số ít cuộc khởi nghĩa không bị tiêu diệt, tan rã thì cũng phải rút lui vào núi cao, rừng sâu để lẫn tránh. Quân Minh lại dùng chính sách chiêu dụ và khủng bố một cách rất tàn bạo, khiến cho nhân dân vùng Kinh lộ phải ngậm đắng nuốt hờn. Chiến sự kéo dài liên miên khiến cho việc hậu cần của quân Minh gặp khó khăn. Liệu thế không thể dứt điểm nhanh, Trương Phụ sai quân thay phiên lập đồn điền tự cung tự cấp lấy một phần lương thực.
Trong bối cảnh đó, quân Hậu Trần tại vùng Thanh Nghệ cũng không thể ngồi yên chờ giặc đến. Nghĩa quân cố gắng tranh thủ từng ngày để củng cố lực lượng, tích trữ quân lương, rèn đúc vũ khí. Đặng Dung sau khi bại trận ở Hàm Tử vẫn còn lại một phần quân lực kịp rút lui. Ông đã cố gắng điều động quân dân xây dựng một hệ thống chướng ngại dọc các tuyến sông chính từ bắc vào nam để ngăn chặn quân Minh. Quân dân ta cùng nhau đổ đá, đóng cọc phong tỏa các tuyến sông, cửa sông, đồng thời bố trí các cánh quân mai phục chờ chặn giặc.
Nguyễn Cảnh Dị dẫn hàng trăm chiến thuyền đánh phá các nơi dọc sông Thái Bình để tạo vùng đệm với quân chủ lực của Trương Phụ. Hạm đội nhà Hậu Trần chia thành các toán quân nhỏ đánh phá các thuyền buôn nước Minh ở vùng biển đông bắc, đánh cả sang vùng biển Khâm Châu để cướp lương thực và quấy rối, buộc giặc phải chia quân đi đánh. Hai cánh quân của Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đóng vai trò tiền tiêu che chắn cho toàn bộ lực lượng nhà Hậu Trần ở tuyến sau đang cố gắng tăng cường lực lượng, vật chất.
Do sự đánh phá của Nguyễn Cảnh Dị, Trương Phụ quả nhiên phải cầm quân hướng ra biển để đối phó. Ngày 9.10.1409, quân của Trương Phụ đụng trận với quân của Nguyễn Cảnh Dị tại cửa biển Thái Bình. Thuyền quân Minh hành quân gặp thuyền do thám của quân Hậu Trần, bèn chèo nhanh đuổi kịp, đánh bắt cả. Trương Phụ thấy 300 chiến thuyền của Nguyễn Cảnh Dị đóng gần đó, thúc quân vây đánh. Quân Minh trước tiên bắn tên và đạn đá, rồi chèo thuyền đâm thẳng vào hàng ngũ quân Hậu Trần. Nguyễn Cảnh Dị liệu thế khó thủ thắng, lệnh cho quân quay thuyền rút lui, chỉ để lại một đội thuyền đánh chặn hậu và rút sau. Quân Minh đánh hăng, khiến quân chặn hậu của ta tổn thất nặng, Ninh Vệ đại tướng quân Phạm Tất Lật bị giặc bắt. Nguyễn Cảnh Dị dẫn số thuyền còn lại rút về nam. Sau trận này, thủy quân nước Minh cũng chia nhau tuần tiễu vùng biển từ Khâm Châu trở xuống nước ta rất nghiêm ngặt. Các chiến thuyền của quân Hậu Trần vì thế phải rút khỏi vùng biển.
Mặc dù những hoạt động của quân Hậu Trần không giúp tạo nên một chuyển biến rõ ràng tương quan lực lượng, nhưng đã khiến cho quân Minh phải mất nhiều thời gian để đối phó. Trương Phụ sau khi tạm thời bình định được các châu lộ gần Đông Quan, kiểm soát lại được vùng biển đông bắc thì liền tập trung lực lượng kéo xuống đánh quân Hậu Trần. Thế nhưng một lần nữa kế hoạch của hắn bị chậm trễ trước mưu kế của Đặng Dung. Chỉ riêng việc tháo dỡ chướng ngại vật, phá cọc, dỡ đá khỏi các tuyến sông đã bị quân ta lấp chặn cũng khiến quân Minh rất vất vả. Lại thêm Đặng Dung giỏi dùng thủy quân mai phục.
Giặc hành quân đông thì sông bị tắt nghẽn bởi vật cản, hành quân ít để khai thông đường thủy thì bị phục kích. Trương Phụ phải tiến quân chậm chạp, mất gần nửa tháng mới tiến được đến Thanh Hóa đóng doanh trại. Trùng Quang đế sai sứ giả là Đoàn Tự Thủy đến trại quân Minh giảng hòa, xin được phong tước để làm kế hoãn binh. Trương Phụ lật lọng nói rằng trước đã tìm con cháu họ Trần nhưng không gặp, nay chỉ biết nhận lệnh đánh dẹp không cần biết chuyện khác. Sứ giả Đoàn Tự Thủy bị giặc bắt giết. Việc giảng hòa không thành.
Trước sức tấn công của Trương Phụ, quân Hậu Trần đều lần lượt rút dần khỏi Thanh Hóa, về Nghệ An cố thủ. Chỉ riêng các lực lượng thủy quân dưới trướng của Đặng Dung vẫn bám trụ ở các con sông tại Thanh Hóa và cả ở hạ lưu sông Hồng dùng chiến thuật tập kích, gây cho quân Minh khá nhiều phiền toái. Đặng Dung cầm quân thoắt ẩn thoắt hiện, lúc đánh trong sông, lúc vòng ra biển. Quân Minh chẳng biết đâu mà lần theo dấu vết. Việc không hoàn toàn xác lập được một chiến tuyến rõ ràng khiến cho Trương Phụ gặp khó khăn trong huy động hậu cần và tập kết các mũi tấn công lớn. Nhờ sự bám trụ kiên cường của Đặng Dung, quân Minh không thể bình định được Thanh Hóa để làm bàn đạp tấn công Nghệ An.
Sang đầu năm 1410, gần 4 tháng kể từ khi Trương Phụ kéo viện binh sang, quân Minh vẫn chưa thể giành được lợi thế mang tính quyết định. Giữa lúc đó, ở nước Minh lại có việc binh đao lớn. Quân Bắc Nguyên dưới sự chỉ huy của Khả hãn Bản Nha Thất Lý (Bunyashiri) từ những năm trước đã thường xuyên đem quân đánh phá biên giới nước Minh. Minh Thành Tổ Chu Đệ đã sai sứ đến giảng hòa. Nhưng Bản Nha Thất Lý đã giết sứ giả nước Minh, tiếp tục các cuộc cướp phá. Chu Đệ phái 10 vạn quân dưới quyền chỉ huy của Kỳ quốc công Khâu Phúc đi đánh báo thù. Quân Minh bị quân Bắc Nguyên đánh tan tác tại trận Lỗ Luân.
Lúc này Chu Đệ hết sức tức giận và càng nhận rõ sức mạnh đáng sợ của các bộ tộc Bắc Nguyên, liền lên kế hoạch điều động 50 vạn quân đi đánh. Trương Phụ là một trong những tướng giỏi nhất của nước Minh và hiện đang nắm giữ một lực lượng tinh nhuệ đáng kể tại chiến trường Đại Việt cũng được vua Minh triệu hồi gấp về nước. Tháng 2.1410, Trương Phụ cùng các thuộc tướng là Vương Hữu, Chu Vinh, Thái Phúc, Lâm Thiết Mộc Nhi cùng các quân lính đã điều động tiếp viện cho Mộc Thạnh trước đó đều nhận lệnh phải quay trở về nước, hành quân đến thành Bắc Kinh hội quân với Chu Đệ để đối phó với quân Bắc Nguyên. Mộc Thạnh với các lực lượng còn lại phải tự gánh lấy nhiệm vụ đối đầu với nhà Hậu Trần.
Trương Phụ nhận quân lệnh không thể không về. Nhưng trước khi rút quân, hắn cố gắng mở một cuộc hành quân lớn để giải tỏa sức ép cho số quân Minh còn lại dưới trướng của Mộc Thạnh. Lực lượng lớn nhất ngoài quân Hậu Trần lúc bấy giờ là quân của Nguyễn Sư Cối ở Đông Triều. Sử nước Minh ghi có đến 2 vạn quân, nhiều khả năng là phóng đại để tô điểm cho chiến công của tướng Minh. Trương Phụ coi lực lượng của Nguyễn Sư Cối là cái gai ngay sát cạnh Đông Quan cần phải nhổ bỏ nên đã đích thân cầm quân mở cuộc càn quét lớn. Nghĩa quân vốn không có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, chỉ trong một đợt càng quét đã bị quân Minh đánh tan, thương vong đến hàng ngàn quân cùng nhiều tướng lĩnh chủ chốt. Trương Phụ sai gom xác nghĩa quân chết trận cùng xác tù binh bị hành quyết chất thành gò đống, lấy đất phủ lên trên để khủng bố tinh thần nhân dân.
Rõ ràng tình thế lúc này đã buộc vua Minh lựa chọn giữa hai mặt trận bắc và nam. Việc chỉ để Mộc Thạnh lại với đám quân ít ỏi chắc chắn sẽ tạo thời cơ thuận lợi cho quân Hậu Trần đánh bại quân Minh. Trương Phụ biết rõ điều đó, bởi vậy hắn vẫn chưa cam tâm rút hết quân như lệnh, mà cố gắng gởi một bản tấu về vua Minh, lên kế hoạch về xếp đặt lực lượng cho chiến trường Đại Việt :
“Nhận được sắc chỉ mang quân trở về nước, bọn thần tuân mệnh lên đường. Nay đầu sỏ giặc là Trần Quí Khoáng, bọn đồ đảng Nguyễn Súy, Hồ Kỳ, Nguyễn Cảnh Dị vẫn đóng tại Diễn Châu, Nghệ An, sát Thanh Hoá. Đặng Dung lãnh quân ngăn chặn cửa sông Thần Đầu, Phúc Thành chiếm cứ đường huyết mạch Thanh Hoá, ra vào vùng cửa biển Đại An cướp phá. Nếu điều động hết số quân trước đây trở về, sợ Kiềm quốc công Mộc Thạnh binh ít không địch nổi, khiến công sắp thành phải bỏ lỡ. Nay muốn lưu lại Đô đốc Giang Hạo, Đô Chỉ Huy sứ Du Nhượng, Hoa Anh, Sư Hữu lãnh 4 Đô ty Vân Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tây ; 2 hành Đô ty Tứ Xuyên, Phúc Kiến ; các binh đoàn Hộ vệ cùng các đơn vị lập công chuộc tội thuộc các xứ Kinh Châu, Nam Xương, Vũ Xương, Quảng Tây dưới quyền điều động của Thạnh. Riêng thần suất lãnh quan quân tuỳ tòng, đơn vị Hổ Bôn quan quân tại kinh Trực Lệ, cùng 4 Đô ty Hồ Quảng, Quí Châu, Tứ Xuyên, Chiết Giang trở về. Ngoài ra Thạnh nắm giữ đại quân một mình, xin cho Vân Dương bá Trần Húc giữ chức Phó, để cùng bàn bạc việc quân.”(theo Minh Thực Lục)
Lời của Trương Phụ được vua Minh chấp nhận. Như vậy là Trương Phụ dù rút quân nhưng vẫn để lại một lực lượng khá hùng hậu giao lại cho Mộc Thạnh tiếp tục cuộc đàn áp nhân dân ta. Tháng 3.1410, Trương Phụ phải rút quân về nước. Mộc Thạnh lĩnh ấn soái thay thế. Tương quan lực lượng bấy giờ thay đổi rõ rệt. Quân Hậu Trần không còn là bên quá thua thiệt về quân số như khi Trương Phụ còn ở nước ta nữa. Vả lại, những tướng lĩnh còn lại của quân Minh cũng không giỏi bằng Trương Phụ và các thuộc tướng của hắn. Tận dụng thời cơ, nhà Hậu Trần bắt đầu có những hoạt động giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Hồ Nguyên Trừng làm gián điệp cho nhà Minh
Kỵ binh quân Minh
Vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng, nguyên là Tả tướng quốc triều Hồ đã đầu hàng và đang làm quan cho Minh triều giả cách đến gặp sứ bộ hỏi han chuyện quê nhà, kỳ thực là ngầm dò la tin tức và làm thuyết khách cho nước Minh.
Tháng 3.1410, Mộc Thạnh thay Trương Phụ lĩnh ấn “Chinh di tướng quân”, tiếp tục thực hiện việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt. Dù Trương Phụ đã rút quân, vẫn còn một lực lượng khá mạnh được để lại cho Mộc Thạnh. Quân Minh bấy giờ ở nước ta vào khoảng hơn 4 vạn quân, cùng với hàng vạn ngụy binh. Mộc Thạnh vẫn đủ lực lượng chiến đấu và tiếp tục cố gắng duy trì thế chủ động trên chiến trường. Về phía quân Hậu Trần cũng muốn chớp thời cơ Trương Phụ rút quân mà chiếm lại đất đai. Lúc này chiến tuyến giữa quân Minh và quân Hậu Trần vẫn ở thế đan xen vào nhau. Quân Hậu Trần không chỉ giữ thế phòng thủ vùng Thanh Nghệ. Các nhánh quân ta vẫn cố gắng bám trụ ở đồng bằng sông Hồng, đánh phá tuyến sau của Mộc Thạnh. Mũi tấn công của Mộc Thạnh đã tiến sâu vào Thanh Hóa, nhưng tại các vùng hạ lưu sông Hồng quân Hậu Trần vẫn hiện diện. Tháng 6.1410, lần lượt nổ ra những trận đánh lớn giữa ta và giặc.
Ngày 13.06.1410, quân Minh dưới sự chỉ huy trực tiếp của Mộc Thạnh đụng trận với quân Hậu Trần do vua Trùng Quang đế trực tiếp chỉ huy tại sông Ngu Giang (Nga Sơn, Thanh Hóa). Trận này quân Minh chủ động dùng thủy quân tấn công, quân Hậu Trần bị thua phải rút lui. Quân Minh truy đuổi đến Cổ Hoằng (Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Trận này quân Hậu Trần mất 3.000 quân, tướng Lê Lộng bị giặc bắt. Thế nhưng quân Minh vẫn không thể kiểm soát được vùng Thanh Hóa. Bên cạnh lực lượng quân Hậu Trần, còn có lực lượng nghĩa quân của Lỗ Lược tướng quân Đồng Mặc kiên cường chiến đấu, giết giặc rất nhiều. Đồng Mặc đánh bắt được tướng Minh là Tả Địch, vây bức khiến cho một tướng khác là Vương Tuyên cùng kế tự vẫn. Nhờ có sự tương trợ của nghĩa quân Đồng Mặc, quân Hậu Trần vẫn giữ vững được Thanh Hóa. Vua Trùng Quang đế thấy Đồng Mặc lập được công lớn, phong cho chức Phủ quản quận Thanh Hóa. Qua đó, việc hiệu lệnh cũng được thống nhất. Nghĩa quân của Đồng Mặc trở thành một bộ phận của quân Hậu Trần.
Ngày 14.06.1410, một cánh quân Minh khác dưới quyền chỉ huy của đô đốc Giang Hạo tiến đến Hạ Hồng (thuộc Hải Dương ngày nay) gặp phải quân Hậu Trần dưới trướng Nguyễn Cảnh Dị đón đánh. Trận này quân Minh đại bại, Nguyễn Cảnh Dị thúc quân đuổi theo quân Minh đến tận bến Bình Than, đốt phá thuyền trại quân Minh gần hết. Một nhánh quân Minh khác cũng thua to tại sông Tranh (Ninh Bình ngày nay), tướng giặc là Tô Toàn bị đâm chết tại trận. Các trận thắng này đã cổ vũ phong trào khởi nghĩa ở các nơi. Các cuộc khởi nghĩa lúc này có khác biệt lớn về khả năng chiến đấu. Bên cạnh nhiều cuộc khởi nghĩa có tổ chức lỏng lẻo, quân tướng không được trang bị và huấn luyện tốt, dễ dàng bị quân Minh đánh tan thì cũng xuất hiện một số cuộc khởi nghĩa có chiều sâu về tổ chức. Ở phủ Thái Nguyên có khởi nghĩa Ông Lão, ở Thanh Hóa có Nguyễn Ngân Hà, ở Thanh Oai có Lê Nhị đều là những nhân vật nổi trội trong đám hào kiệt, đủ sức đương đầu với quân Minh.
Vừa chiếm được một số lợi thế trên chiến trường, một lần nữa Trùng Quang đế và bộ chỉ huy nhà Hậu Trần thử dùng biện pháp ngoại giao, hy vọng rằng vua Minh sẽ bỏ việc đô hộ ở nước ta mà chuyên tâm lo việc biên phòng ở phương bắc chống lại các bộ tộc Bắc Nguyên. Trùng Quang chủ động lui quân về Nghệ An, tạm ngưng chiến và củng cố lực lượng. Hành khiển Nguyễn Nhật Tư và Thẩm hình viện sứ Lê Ngân được vua Trùng Quang giao trọng trách sang kinh đô Kim Lăng nước Minh bàn việc điều đình và cầu phong. Thế nhưng đáp lại thiện chí đó, vua Minh Chu Đệ đã nhẫn tâm cho bắt giết sứ giả. Qua đó một lần nữa thể hiện quyết tâm cướp nước ta của vị bạo chúa này. Việc điều đình thất bại, vua tôi nhà Hậu Trần hết sức căm giận sự ngang ngược của giặc, lại tiếp tục đẩy mạnh tiến công. Trên khắp các mặt trận từ Thanh Hóa trở ra, quân Hậu Trần cùng các lực lượng khởi nghĩa khác liên tiếp đánh phá các đồn trại quân Minh. Mộc Thạnh phải vất vả chống đỡ.
Khí thế quân dân ta dâng cao khiến cho quan tướng nước Minh phải tìm kế mua chuộc, dụ dỗ bên cạnh việc đánh phá, tàn sát. Thượng thư Hoàng Phúc nước Minh lúc này giữ chức Bố Chính ty trong bộ máy cai trị ở nước ta đã tăng cường cấp ruộng đất, tăng bổng lộc cho đám ngụy quan hòng khích lệ đám tay sai này ra sức phục vụ cho quân Minh. Đồng thời Hoàng Phúc cũng dâng sớ xin vua Minh nới lỏng chính sách cai trị ở “quận Giao Chỉ”, hòng giảm bớt sự chống đối trong dân chúng. Chu Đệ thấy tình hình đã nghiêm trọng, mà binh lực nước Minh bấy giờ phần nhiều tập trung ở phía bắc để đánh quân Bắc Nguyên, bèn chủ trương thi hành chính sách chiêu dụ, hòa hoãn.
Vua Minh xuống chiếu ân xá: “Giao Chỉ đã thuộc về Chức phương [tức thuộc bản đồ nước Minh] mà liền mấy năm chưa được yên nghỉ. Nghĩ thương dân ấy sau cơn khốn khổ, đặc cách ban ân khoan thứ, xót thương, ngõ hầu khiến cho triệu dân đều được thấm nhuần đức trạch.”
Lại dụ cho các quan lại cai trị và dân chúng nước ta rằng: “Người Giao Chỉ đều là dân của trời, đã vỗ về chúng, thì chúng đều là con đỏ của trẫm. Chúng nhất thời đi theo bọn giặc, nghe nói bị giết, trẫm thực thương xót trong lòng, sao lại nỡ để chúng như vậy? Vả lại, bọn gây tội ác chỉ có mấy đứa thôi, còn trăm họ nơi bãi biển, hang núi,bị chúng cưỡng bức, uy hiếp, hoặc giúp chúng lương thực, hoặc bị chúng đem theo làm giặc ở các nơi, đều là bắt đắc dĩ, bị chúng làm cho lầm lỡ chứ không phải là do bản tâm. Nếu biết hối hận sửa bỏ lỗi lầm, đều cho được đổi mới. Làm ác chỉ có mấy đứa, trăm họ không có tội gì. Trong đó, người nào hiên ngang dũng cảm, có kiến thức, có thể bắt được mấy đứa kia đem dâng thì nhất định sẽ ban cho quan to, tước cao. Còn bọn làm ác, nếu biết tẩy rửa tâm trí, đổi lỗi sửa mình, thì chẳng những được khoan tha tội lỗi, lại còn chắc chắn được làm quan vinh hiển nữa”.
Đối với các ngụy quan, vua Minh càng ra sức mua chuộc bằng danh lợi, chức tước và xuống chiếu phủ dụ: “Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình, nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ,ốc sức lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai người sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh lệnh ân sủng này”.(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Đầu năm 1411, nhận thấy rằng những đòn tấn công của quân ta đã khiến quân Minh phải khốn đốn và thay đổi chính sách cai trị, nhà Hậu Trần lại một lần nữa kiên trì việc ngoại giao. Lần này, Mộc Thạnh đã nhân nhượng, để cho sứ bộ Đại Việt do Hành khiển Hồ Ngạn Thần, Thẩm hình viện sứ Bùi Nột Ngôn đem cống phẩm và thư cầu phong sang Kim Lăng. Thái độ của vua Minh lần này đã có chuyển biến khác trước. Hắn không còn ngang ngược bắt giết sứ giả, mà chuyển sang đem quan tước ra dụ dỗ. Vua Minh sai Hồ Nguyên Trừng, nguyên là Tả tướng quốc triều Hồ đã đầu hàng và đang làm quan cho Minh triều giả cách đến gặp sứ bộ hỏi han chuyện quê nhà, kỳ thực là ngầm dò la tin tức và làm thuyết khách cho nước Minh. Hồ Ngột Ngôn dao động, đem việc nước thổ lộ với Hồ Nguyên Trừng, lại nhận chức Tri phủ Nghệ An của vua Minh phong cho. Vua Minh cũng xuống chiếu phong cho vua Trùng Quang chức Bố chính sứ Giao Chỉ, Trần Nguyên Tôn làm Tham chính. Lại phong cho các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Cụ làm Đô chỉ huy, Phan Quý Hữu làm Phó sứ ty Án sát.
Chu Đệ lại cho người đem thư cho vua Trùng Quang dụ rằng: “Bọn các ngươi dâng biểu xin hàng, nay chấp nhận lời xin, mỗi người được nhận chức quan, nếu quả thành thực thì một phương hưởng phúc, vĩnh viễn thái bình. Nếu ôm lòng man trá không có lòng thành, đại quân tiến đánh thì chính các ngươi để hoạ lại cho dân chúng, hối cũng không kịp.”(theo Minh Thực Lục)
Từ góc độ của vua Minh mà nói, đây đã là một sự xuống nước khá rõ ràng. Nhưng từ góc độ của vua tôi nhà Hậu Trần, việc vua Minh đem những chức tước ra chiêu dụ chẳng khác nào một sự sỉ nhục, và như vậy có nghĩa là việc điều đình đã thất bại. Bởi vì mục tiêu của nhà Hậu Trần là khôi phục lại nước Đại Việt cùng vương triều Trần, chứ không phải nhận lấy chức tước của vua Minh trong một “quận Giao Chỉ”. Việc Hồ Ngạn Thần đi sứ mà nhân chức tước của giặc, lại đem quân cơ tiết lộ đã bị sứ giả Bùi Nột Ngôn đi cùng trình báo lên với Trùng Quang đế. Vua hết sức bất bình, liền hạ lệnh bắt giam và đem Hồ Ngạn Thần giết đi. Qua đó, Trùng Quang đế đã thể hiện tinh thần quyết chiến đến cùng với quân Minh, hòng giành lại độc lập hoàn toàn cho Đại Việt.
Nhà Minh giấu lưỡi gươm hiểm ác, nhà Trần dùng kế tằm ăn dâu
Quân đội nhà Minh
Trước sự phản kháng mạnh mẽ của quân dân Việt, người Minh liên tiếp tổn hao nhân mạng và tiền của không hề nhỏ. Sự tổn thất này vượt lên trên tất cả những nguồn lợi mà giặc Minh thu được từ việc đô hộ nước ta.
Đầu năm 1411, vua nước Minh ra một số chính sách mang tính chất chiêu an và dùng chức tước mua chuộc vua tôi nhà Hậu Trần. Điều đó xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn của nước Minh. Ở phương bắc chiến tranh lớn với Bắc Nguyên đòi hỏi Chu Đệ phải tập trung phần binh lực lớn về hướng bắc. Phương nam vì thế trở nên mỏng yếu, nền đô hộ ở Đại Việt của Minh triều trở nên lung lay. Tóm lại, việc giảng hòa của vua Minh chỉ là một bước đi tình thế. Đi cùng với đó là việc củng cố bộ máy ngụy quyền trên đất nước ta, chứng minh rằng quyết tâm đô hộ, đồng hóa nhân dân Đại Việt của bạo chúa Chu Đệ vẫn không thay đổi.
Trước sự phản kháng mạnh mẽ của quân dân Việt, người Minh liên tiếp tổn hao nhân mạng và tiền của không hề nhỏ. Sự tổn thất này vượt lên trên tất cả những nguồn lợi mà giặc Minh thu được từ việc đô hộ nước ta. Điều này đã khiến trong nội bộ Minh triều xuất hiện những ý kiến bất đồng với chủ trương cố sống cố chết không chịu trao trả độc lập cho Đại Việt của vua Minh. Tiến sĩ Giải Tấn, người từng làm Hàn lâm đại học sĩ trong triều đình nước Minh, được cử sang nước ta nhậm chức Tham nghị. Khi đến nhậm chức, nhận thấy tình hình lòng dân đều tỏ ý phản kháng, Giải Tấn đã nói thẳng với các quan tướng Minh ở Đông Quan: “Giao Chỉ chia đặt làm quận huyện không bằng để nguyên như cũ, nên phong tước chia đất cho các thổ hào để họ cai quản lẫn nhau. Chia đặt quận huyện dẫu có cái được cũng không bù được những cái mất, cái lợi không chữa được cái hại”.
Lời có Giải Tấn thể hiện cái nhìn sâu sắc, biết mình biết người nhưng rất tiếc lại nói ra không hợp thời khi mà hầu hết bạn đồng liêu xung quanh ông và cả vua của ông đều là những con người tham công, hiếu chiến. Từ Đông Quan, các quan lại đô hộ mật tâu lời của Giải Tấn về cho Kim Lăng. Chu Đệ nghe được, đùng đùng nổi giận xuống lệnh bắt ngay Giải Tấn dẫn về nước, rồi giao cho Cẩm Y Vệ giam giữ. Giải Tấn không lâu sau đó bệnh chết trong ngục. Đó là một sự dằn mặt các ý kiến trái chiều của vua Minh. Sau việc này, văn võ bá quan Minh triều đều chỉ ngậm tăm mà thi hành những chủ trương bạo ngược, hiếu chiến đối với Đại Việt.
Bên cạnh những sự hoài nghi trong nội bộ Minh triều về cuộc đô hộ, thì trong hàng ngũ ngụy quan cũng không thiếu những người bất bình. Giáo thụ Lê Cảnh Tuân, người từng là Giám sinh Quốc tử giám, vì nghe lời dụ dỗ “phù Trần diệt Hồ” mà từng bước trở thành kẻ tay sai cho giặc. Nay trước những hành động ngang ngược, bất chấp lý lẽ của quân Minh đã không có kìm nén được, viết một “Vạn ngôn thư” gởi cho viên Tham nghị Bùi Bá Kỳ, văn ngôn là một bức kiến nghị các sách lược thượng, trung, hạ sách cho quân Minh, nhưng lồng vào đó các lời khuyên thực thi những lời hứa của quân Minh năm xưa khi mới tiến quân vào đánh nhà Hồ. Bức thư đó cũng bị quan lại nước Minh trình tấu về Kim Lăng. Chu Đệ không ngần ngại bắt giải Lê Cảnh Tuân sang Kim Lăng, cũng giam vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ để bịt miệng. Sau Lê Cảnh Tuân bị giam 5 năm trong ngục, cuối cùng bệnh chết trong đó.
Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh và quân tướng nước Minh rất cố gắng phối hợp với đám ngụy quân, ngụy quan chống trả các đợt tấn công của quân Hậu Trần. Tuy quân Minh chiến đấu rất hiệu quả, nhưng cũng núng thế dần trước khí thế của quân ta. Quân Hậu Trần không còn mở những cuộc hành quân lớn nhằm thẳng vào Đông Quan như trước, mà tổ chức những chiến dịch quy mô nhỏ hòng lấn đất dần. Các châu huyện thuộc các phủ Kiến Bình, Trấn Man, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa (các vùng này thuộc các hướng đông bắc, đông nam đồng bằng sông Hồng) dần dần về tay quân Hậu Trần. Bên cạnh đó, một dải giang sơn từ Thanh Hóa trở vào trở thành vùng hậu phương vững chắc cho nhà Hậu Trần. Trong vùng lãnh thổ này, bản sắc Đại Việt vẫn tồn tại và phát triển qua thời gian. Còn tại các vùng quân Minh chiếm đóng, nhân dân vẫn hết mức trông chờ được giải phóng khỏi ách đô hộ, dù cho vua Minh đã ra một số chính sách nới lỏng việc cai trị, hòng thu phục nhân tâm.
Tình hình khách quan thuận lợi cho nhà Hậu Trần không kéo dài lâu, vì cuộc chiến giữa nước Minh và quân Bắc Nguyên dưới trướng khả hãn Bản Nha Thất Lý đã định đoạt xong trong năm 1410. Các bộ tộc Bắc Nguyên tuy thiện chiến nhưng rời rạc về tổ chức. Trong khi liên minh bộ tộc Thát Đát (Tatar) của Bản Nha Thất Lý kiên quyết chống Minh thì bộ tộc Ngõa Lạt (Oirat) lại chấp nhận hòa nghị với nước Minh, liên binh tấn công Thát Đát. Bản Nha Thất Lý cuối cùng chống không nổi trước quân Minh đông đến 50 vạn người dưới quyền tổng chỉ huy của chính Chu Đệ, lực lượng bị tiêu diệt gần hết. Do đó, quân Minh chiếm ưu thế hoàn toàn ở phương bắc, lập tức chia quân hướng mũi giáo về nam.
Vua Minh thi hành một chính sách tráo trở hai mặt. Hắn dùng chiêu bài dụ dỗ, mua chuộc các tầng lớp nhân dân bằng việc giảm nhẹ thuế khóa, tăng bổng lộc cho ngụy quan, đem chức tước ra để chiêu hồi những lực lượng khởi nghĩa. Nhưng ngay sau khi tình hình trong nước thuận lợi, một đạo viện binh lớn lập tức được chuẩn bị tiến sang Đại Việt hòng đàn áp thẳng tay nhân dân ta. Và một khi việc dùng binh thuận lợi, sẽ không có chuyện bạo chúa Chu Đệ khoan dung cho người Việt bất cứ điều gì.
Tháng 2.1411, Trương Phụ lại lĩnh ấn “Chinh Di tướng quân” nhận lệnh đem một đạo viện binh lớn tiến sang nước ta. Lực lượng quân Minh lần này bao gồm binh mã của 6 đô ty Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam, Quý Châu, cả thảy có 14 vệ quân. Theo quân chế nước Minh, 14 vệ quân sẽ có quân số 78.400 lính (mỗi vệ có 5.600 lính). Tuy nhiên, Minh Thực Lục lại chỉ chép có 2.400 lính. Nhiều khả năng sử nước Minh đã dùng thủ thuật quen thuộc là nói giảm quân số để đề cao chiến công của tướng Minh, khỏa lấp thất bại nếu có khi đi chinh phạt.
Dù đã hạ lệnh cho quân tiếp viện, nhưng việc gom quân, chuẩn bị cũng mất hàng tháng trời. Bởi vậy, vua Minh vẫn dùng thủ đoạn dụ dỗ để che giấu đi lưỡi gươm hiểm ác của mình. Tháng 3.1411, vua Minh xuống “chiếu dụ Giao Chỉ”:
“Trẫm nhận mệnh trời, cai trị muôn phương, vĩnh viễn che chở soi xét tình cảnh kẻ dưới, lòng đầy sự thương yêu, sớm chiều canh cánh. Nghĩ rằng Giao chỉ đã được sáp nhập vào bản đồ, nhưng suốt năm chưa được yên ổn nghỉ ngơi, sau buổi khốn khó giặc giả bèn ban ân khoan hồng như sau :
- Kể từ ngày 24 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 9 trở về trước, những người Giao Chỉ tụ tập trong núi rừng đều được xá tội, quân cho trở lại nguyên đơn vị, dân trở lại với nghề cũ, quan lại quân dân phạm tội chưa bị phát giác cũng được tha.
- Ngoài thuế lương thực, các loại thuế vàng, bạc, muối, sắt, cá, hoa quả được miễn trưng thu trong vòng 3 năm. Vàng, bạc vẫn cấm không được khai thác
- Nội bộ trong dân được phép giao dịch bằng vàng, bạc, tiền đồng nhưng không được đưa ra khỏi lãnh thổ.
- Những Thổ quan Giao Chỉ có tài năng rõ ràng về việc cai trị quân dân, hãy tâu lên cho biết tên để thưởng cờ biển làm bằng. ”(theo Minh Thực Lục)
Như vậy là vua tôi nước Minh sau nhiều phen khốn đốn vẫn kiên quyết không từ bỏ việc cướp nước ta. Việc binh đao giữa hai nước vẫn liên miên mãi không ngừng vì dã tâm của giặc. Vua tôi nhà Hậu Trần lại phải đương đầu với một cơn sóng dữ mới nữa.
Đặng Dung, Cảnh Dị dùng binh, bắt giặc Minh trả giá đắt
Trại quân Minh
Rốt cuộc quân Minh phá được tuyến phòng ngự Nguyệt Trường, với một cái giá rất đắt. Những cánh nghi binh của quân Minh bị quân phòng thủ của ta gây thiệt hại nặng, xác giặc nằm la liệt khắp chiến trường, trôi lềnh bềnh dưới sông.
Như đã nêu ở những kỳ trước đây, cuộc chiến dai dẳng giữa nước Minh và dân tộc Việt đầu thế kỷ 15 không chỉ là nỗi bất hạnh lớn cho nhân dân ta, mà còn đem lại những tổn thất to lớn cho chính bên gây chiến chính là nước Minh. Bất chấp những tổn thất, vua Minh Thành Tổ (hay còn gọi là Minh Thái Tông) Chu Đệ vẫn liên tiếp điều quân tiếp viện để duy trì nền đô hộ. Vì sao vua nước Minh lại không thể từ bỏ khi mà nhân tâm bất phục, lợi ích từ việc đô hộ không bù nổi thiệt hại và còn khiến vấn đề Đại Việt trở thành mối lo lâu dài tiềm ẩn nguy cơ cho cả đời vua kế nhiệm ? Ắt hẳn đó không đơn thuần đến từ lợi ích. Có một thứ còn lớn hơn mà Chu Đệ rất sợ mất đi, đó chính là uy danh. Chính chữ Danh đã khiến vị vua này bất chấp hy sinh tính mạng quân tướng của mình và sẵn sàng tiêu diệt cả giống nòi người Việt nếu cần. Từ bỏ Đại Việt để rút quân về nước, đối với Chu Đệ chính là một sự thừa nhận rằng hắn đã sai lầm và thất bại. Tên bạo chúa với tính cách cố chấp, ngông cuồng không bao giờ dám đối diện với điều đó.
Tháng 4.1411, trong lúc tại nước Minh, đội quân tăng viện dưới trướng Trương Phụ đang ráo riết chuẩn bị mọi thứ để tiến sang nước ta, Chu Đệ cho ban thưởng hậu hĩnh cho các ngụy quan và xuống chiếu khích lệ tinh thần bọn tay sai bằng những lời có cánh: “Các ngươi tài năng khôi kiệt, tư chất đôn hậu, sáng suốt nhìn xa, trước đã thành tâm gắng sức, tận trung với triều đình, nghĩ tới công lao của các ngươi, đặc ân thăng cho chức vụ vinh hiển. Nay nghe các ngươi biết làm tròn nghĩa vụ, dốc sức lập công, bắt giết bọn phản nghịch, giữ vững đất đai, nghĩ đến lòng trung thành ấy, xiết nỗi vui mừng khen ngợi. Hiện nay, bọn giặc còn sót chưa dẹp yên hết, các ngươi hãy lập thêm nhiều công, ra sức quét sạch bọn chúng để tiếp nối công tích trước đây. Ta đặc cách sai người sang úy lạo ban thưởng. Các ngươi hãy kính cẩn phục tùng mệnh lệnh ân sủng này”. (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Qua những việc trên mà Chu Đệ đã làm cho thấy, hắn đã cùng lúc thực hiện cả hai chính sách lớn. Đó là chính sách dùng người Việt đánh người Việt để giúp duy trì sự kiểm soát trên lãnh thổ chiếm đóng, kế đến là chính sách sử dụng quân đội chính quy đông mạnh từ nước Minh tiến sang để tấn công dứt điểm nhà Hậu Trần và các phong trào khởi nghĩa khác.
Tháng 5.1411, Trương Phụ đem quân tiến vào địa phận nước ta, vào thành Đông Quan hội quân với Mộc Thạnh. Đến đây, Trương Phụ lại thay Mộc Thạnh nắm quyền chủ soái, còn Mộc Thạnh làm phó soái. Quân Minh đêm này cho người dò la tin tức và bàn bạc kế hoạch tấn công.Quân Minh lần này cũng sử dụng lực lượng lớn thủy quân. Trong các kế hoạch hành quân, giặc chủ yếu di chuyển bằng thuyền dọc các con sông. Công việc chuẩn bị của quân Minh lần này rất công phu.Các lực lượng ngụy quan, ngụy binh được lệnh đóng chiến thuyền, làm đồn điền cung cấp quân lương cho đạo quân viễn chinh nước Minh. Từ giữ năm 1411 cho đến mùa hạ năm 1412, quan tướng nước Minh ra sức bắt nhân dân vùng Kinh lộ phục dịch, góp lương thảo để nuôi quân vô cùng khổ sở.
Điều này hoàn toàn trái ngược với những lời hứa trong các chiếu chỉ của vua Minh chỉ mới cách đó không lâu. Hoàn toàn không có sự tốt đẹp nào mà chính quyền đô hộ dành cho nhân dân ta, chỉ có thực tế là những việc bắt giết, đàn áp, bóc lột thậm tệ. Sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ bình luận về sự trái ngược trong lời lẽ của vua Minh và hành động của quan tướng nước Minh đối với dân ta như sau: “Người Minh thống trị nước ta, tự nghĩ có thể lấy oai lực mà áp chế được. Nhưng từ tháng 5 năm Đinh Hợi bắt được Hồ (Quý Ly) rồi, tháng 10 vua Giản Định lại lên ngôi, nối đến là vua Trùng Quang. Trong 5 - 6 năm, chiến tranh không thôi, mới biết là khó bình được. Bấy giờ mới cầm quyền ban chiếu sắc, nghĩ cách úy dụ dân. Nhưng mà Trương Phụ đi đến đâu, dữ hơn hổ cái. Hoàng Phúc ra mệnh lệnh rối như lông lươn. Vua Minh ở xa cách, không biết dân thuộc quốc khốn khổ đến thế, bảo sao mà dân chả nhớ nước cũ, mà coi người Minh là cừu thù”.
Lời bàn của Ngô Thì Sĩ quả xác đáng với bối cảnh lúc bấy giờ. Nhưng riêng việc vua Minh không biết rằng dân ta khốn khổ thì không hẳn là đúng. Việc nhân dân ta có khốn khổ hay không, kỳ thực đó chỉ là mối quan tâm thứ yếu đối với Chu Đệ. Cái hắn quan tâm chính là nhân dân ta có phục tùng hay không.
Việc tập trung nguồn lực của Trương Phụ cũng không hề dễ dàng mà bị chậm tiến độ do các sự chống đối của nhân dân. Trước khi Trương Phụ kéo quân sang, tại các vùng trung du, rừng núi hiểm trở vẫn còn tồn tại những đội nghĩa quân tự phát thường xuyên là mối đe dọa với quân đồn trú nước Minh. Đến khi Trương Phụ sang, bóc lột nhân dân tàn tệ. Mọi người vì thế mà căm phẫn, dù bị kìm kẹp gắt gao nhưng vẫn chực chờ cơ hội vùng lên.
Tháng 7.1411, Trương Phụ mở chiến dịch lớn tiến đánh nhà Hậu Trần. Từ Đông Quan, quân Minh chia làm hai đạo thủy bộ. Đạo thủy binh là lực lượng chính dưới quyền chỉ huy của Trương Phụ. Mộc Thạnh chỉ huy cánh bộ binh. Mục tiêu của hai cánh quân Minh là tấn công đánh lấn nhanh về phía nam, giành quyền kiểm soát vùng Thanh Hóa rồi từ đó làm bàn đạp đánh xuống Nghệ An, bắt vua Trùng Quang đế.
Trương Phụ bị quân Hậu Trần dưới sự chỉ huy của hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đánh cầm chân ở Trường Yên. Quân Minh vừa vất vả tháo dỡ đá mà quân ta đã lấp sông, nhổ cọc khơi nguồn vừa phải chống đỡ với các đội quân mai phục, tập kích đánh tỉa. Trương Phụ tiến rất chậm, tổn thất một lực lượng đáng kể. Đến cửa Thần Phù, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị lại tung quân đánh một trận nữa, cố gắng tiêu hao lực lượng giặc trước khi cho quân rút lui về Thanh Hóa bảo toàn lực lượng, lập trận địa mới. Cánh quân bộ của Mộc Thạnh thì bị trúng mai phục của Nguyễn Súy ở đèo Tam Điệp. Quân Minh tổn thất không nhỏ, nhưng vẫn đủ lực lượng vượt qua được. Nguyễn Súy sau đó cũng lui về Thanh Hóa hội quân với các tướng khác.
Quân Minh tiến vào Thanh Hóa vào tháng 8.1411. Hai cánh quân của giặc tập kết, dồn sức tổng lực đánh vào cứ điểm phòng thủ của quân Hậu Trần tại sông Nguyệt Thường (hạ lưu sông Mã). Tại đây, các tướng Hậu Trần là Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Hồ Cụ … cũng gom hết quân để cùng nhau phòng thủ. Ban đầu, Trương Phụ dùng cánh đánh vỗ mặt, bị nghĩa quân dựa vào phòng tuyến chống trả quyết liệt. Hai bên đánh nhau liên tiếp mấy ngày trời bất phân thắng bại. Sau đó, Trương Phụ mới theo phép “đông hơn hai lần thì phân ra”, lệnh cho Đô đốc Chu Quảng, Đô chỉ huy Trương Thắng, Du Quảng cứ dẫn chiến thuyền theo dòng sông mà tiến đánh, bất chấp chướng ngại vật và thiệt hại từ cung tên, súng đạn của quân ta. Mộc Thạnh dẫn quân kỵ bộ tấn công mạnh vào một hướng khác. Còn Trương Phụ dẫn quân men theo đường rừng, đi vòng đánh vào mặt sau trận địa của quân Hậu Trần.
Quân ta đang cố sức đánh trả mặt trước, lại bị Trương Phụ bất ngờ tấn công từ mặt sau, thế trận bỗng chốc trở nên bất lợi. Thấy quân Minh ba mặt giáp công, các tướng cùng nhau gấp rút hạ lệnh rút quân, nhanh chóng thoát khỏi thế bị bao vây. Rốt cuộc quân Minh phá được tuyến phòng ngự Nguyệt Trường, với một cái giá rất đắt. Những cánh nghi binh của quân Minh bị quân phòng thủ của ta gây thiệt hại nặng, xác giặc nằm la liệt khắp chiến trường, trôi lềnh bềnh dưới sông. Quân Hậu Trần trong trận tổn thất hơn 400 quân, mất nhiều chiến thuyền. Các tướng Hậu Trần là Đặng Tôn Mục, Lê Đức Di, Nguyễn Trung bị giặc bắt.
Thắng trận tại Nguyệt Trường, nhưng Trương Phụ chẳng thể tiếp tục cuộc tấn công. Bởi vì khi quân Minh rời Đông Quan tiến xuống phía nam, thì hào kiệt vùng Kinh lộ (trung tâm đồng bằng sông Hồng) đã thừa cơ vùng lên đánh phá khắp nơi. Lê Nhị, Phạm Khảng ở Thanh Oai, uy hiếp Đông Quan từ mặt đông nam. Nghĩa quân Ông Lão ở Thái Nguyên, trước bị quân Minh bức bách, nay lại có dịp hoạt động mạnh trở lại. Ông Lão lãnh đạo nghĩa quân tiến đánh Cổ Lũng (Lạng Sơn), Động Hỷ, Tư Nông (Thái Nguyên)… uy hiếp Đông Quan từ hướng bắc. Quan tướng Minh ở thành Đông Quan phải biên thư cáo gấp. Trương Phụ không thể dứt điểm được nhà Hậu Trần trong một sớm một chiều, mà Đông Quan lại đang nguy cấp. Sau khi cân nhắc, hắn phải cùng Mộc Thạnh đem đại quân rút nhanh về cứu thành Đông Quan. Thế trận bỗng chốc đảo chiều. Rõ ràng chiến cuộc tại Đại Việt không chỉ có quân Minh và nhà Hậu Trần. Quân giặc thực sự đã phải đương đầu với cả một dân tộc.
Quân Minh chịu cảnh sa lầy, vua Trần sai 3 ông tướng ra trận
Quân lính nhà Minh
Tháng 7.1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem đại binh từ Đông Quan vào đánh Nghệ An, với mục tiêu là nhanh chóng tiêu diệt nhà Hậu Trần. Quân Minh vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Hậu Trần tại vùng Trường Yên (Ninh Bình). Tại đây, vua Trùng Quang sai ba tướng giỏi nhất của mình là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy đón đánh.
Nửa cuối năm 1411, Trương Phụ phải bỏ dở giữa chừng chiến dịch đánh diệt nhà Hậu Trần để đem quân về cứu thành Đông Quan đang bị các toán quân khởi nghĩa uy hiếp. Điều này đã giúp nhà Hậu Trần được giải vây, nhưng gánh nặng là dồn sang các lực lượng khởi nghĩa ở phía bắc. Bấy giờ Lê Nhị xưng là Long Hổ tướng quân Đại đô đốc, lãnh đạo quân dân mở chiến dịch công phá thành Đông Quan. Lê Nhịvới đạo quân 5.000 người tiến đến ngay sát cạnh Đông Quan thì đã bị một lực lượng quân Minh áp đảo tuyệt đối dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trương Phụ từ phía nam trở về tiến đánh dữ dội. Nghĩa quân đã chiến đấu rất anh dũng nhưng không chống nổi do tương quan quá chênh lệch.
Hơn 1.500 nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận chiến, một số tan rã hàng ngũ. Lê Nhị trúng tên tử trận. Tướng dưới trướng ông là Phạm Khảng cùng số tàn quân còn lại kịp rút lui, kéo nhau vào rừng núi lẩn trốn. Đánh tan quân của Lê Nhị rồi, Trương Phụ sai tướng đánh thốc lên phía bắc thành Đông Quan, hòng tiêu diệt nghĩa quân Ông Lão. Liệu sức không thể đối đầu ngay với giặc, Ông Lão cho thu quân rút vào rừng sâu, chia nhỏ lực lượng chực chờ quân Minh rút đi thì lại đánh phá các đồn trại của bọn ngụy quan. Các hoạt động này khiến quân Minh mất rất nhiều thời gian đánh dẹp.
Cũng trong năm 1411, hàng loạt cuộc khởi nghĩa khác trên khắp vùng miền bắc đã khiến quân Minh vô cùng vất vả đối phó. Nhà Hậu Trần cũng hành động để phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân. Đặng Dung, Nguyễn Súy cùng các tướng Hậu Trần khác là Tôn Nhân, Trần Lỗi đem thủy quân vượt biển ra bắc đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp lương thực, hỗ trợ và cổ vũ nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng càng nô nức giết giặc.Thành Đông Quan gần như lọt thỏm giữa muôn trùng vây các cuộc khởi nghĩa. Mặc dù các toán quân khởi nghĩa lần lượt bị đàn áp do rời rạc thiếu đồng bộ, nhưng cũng đã khiến cho hàng ngàn quân Minh bỏ thây. Và nhất là, khiến cho mục tiêu sớm bình định Đại Việt của vua Minh thất bại.
Trương Phụ càng đánh nhiều, thắng nhiều thì càng khiến cho sự chống đối càng thêm dữ dội. Quân Minh không có năng lực để diệt chủng toàn bộ nhân dân Đại Việt cũng như hoàn toàn tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân, nên phải duy trì lực lượng ngụy quân, ngụy quan để chia sẻ gánh nặng với quân viễn chinh người Minh và khiến người Việt bị chia rẽ. Nhưng rồi chính trong lực lượng tay sai đó cũng xuất hiện những người chống đối, vì rằng nhiều người trong số họ cũng bị lừa dối và ép buộc. Sách Bình Định Giao Nam Lục của người Minh phải viết: “Vì rằng trong những quân vệ châu huyện mới đặt, người Giao Châu nhiều, xưa nay vốn ở ngoài vòng thanh giáo (!?), ưa thích phóng túng, không chịu nổi sự sách nhiễu của quan lại, tướng sĩ. Họ thường nhớ tục cũ, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng hưởng ứng, tướng giặc đến đâu là được chúng cung ứng, giấu giếm. Cho nên giặc tan rồi lại hợp…”
Đầu năm 1412, tại Thái Nguyên, viên phụ đạo là Nguyễn Nhuế khởi binh đánh phá quân Minh. Tình hình nghiêm trọng buộc Trương Phụ phải đích thân dẫn quân đi đánh mới dẹp được. Để có được một vùng Kinh lộ tạm yên ổn làm bàn đạp tiến về phía nam, Trương Phụ phải mất hơn nửa năm trời. Quãng thời gian này là ngắn hay dài? Chúng ta cần biết rằng, thời trước quân Tống chỉ bị cầm chân ở Như Nguyệt 2 tháng trời mà cạn kiệt lương thực, phải rơi vào cảnh khốn đốn. Quân Nguyên Mông chưa bao ở nước ta được tới nửa năm, lại phải thường xuyên cướp bóc vơ vét lương thực trong dân mà cũng lâm vào cảnh đói khát. Vậy nên, việc quân Minh loay hoay phá vòng vây quanh Đông Quan là một sự sa lầy trầm trọng. Chiến sự liên miên bào mòn quốc lực của nước Minh, và càng khiến quân Minh tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân ta ở vùng chúng chiếm đóng. Chiến tranh là một cái vòng lẩn quẩn điên rồ, nơi mà những kẻ tham tàn ném quân dân cả hai bên vào chỗ khổ sở, chết chóc.
Tuy nhiên, dựa vào việc được cung cấp nhân lực, vật lực liên tục từ nước Minh và việc lập đồn điền cho ngụy quân sản xuất lương thực, quân Minh đã giải quyết được khó khăn về hậu cần. Trương Phụ sai quân tấn công đội thủy quân của Nguyễn Súy đang hoạt động ở ven biển vùng Hải Đông (Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay), giành được thắng lợi. Quân dưới trướng Nguyễn Súy bị hao tổn đến quá nửa, các tướng phải cho lui quân về Nghệ An. Không có sự hậu thuẫn của quân Hậu Trần, phong trào khởi nghĩa cũng tạm thời lắng xuống. Đến giữa năm 1412, Trương Phụ đã bắt đầu mở chiến dịch mới tiến về phía nam, tiếp tục công việc đàn áp nhà Hậu Trần, chỗ dựa của toàn bộ phong trào kháng Minh thời bấy giờ.
Tháng 7.1412, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem đại binh từ Đông Quan vào đánh Nghệ An, với mục tiêu là nhanh chóng tiêu diệt nhà Hậu Trần. Quân Minh vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Hậu Trần tại vùng Trường Yên (Ninh Bình). Tại đây, vua Trùng Quang sai ba tướng giỏi nhất của mình là Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy đón đánh. Về sau, phò mã Hồ Bối cũng được lệnh đem quân tăng cường. Tuy nhiên, lực lượng quân Hậu Trần vẫn ít hơn quân Minh rất nhiều. Chẳng những vậy, cả quân lẫn tướng giặc đều tinh nhuệ, nhiều tên dày dặn kinh nghiệm. Quân ta dùng kế chia quân đánh tỉa, cốt làm chậm nhịp tiến quân của giặc. Trương Phụ phải mất nhiều thời gian ở Trường Yên. Dù vậy, là một tướng lão luyện, Phụ vẫn giữ được phần đông lực lượng trước sự đánh phá của quân Hậu Trần, lầm lũi từng bước một tiến dần về phương nam.
Đầu tháng 9.1412, quân Minh và quân Hậu Trần đánh nhau một trận lớn. Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cùng nhau chia quân bày trận ở Mô Độ - huyện Yên Mô. Quân Hậu Trần tập trung lực lượng chặn cửa biển Thần Phù, nơi sông Đáy đổ ra biển. Thủy quân ta có khoảng 400 chiến thuyền, bộ binh có vài ngàn quân mai phục trên bờ chờ đánh bộ binh của giặc. Cửa biển Thần Phù là vị trí mà quân Minh phải đi qua để vượt biển tiến đánh Nghệ An, nơi mà Trùng Quang đế đóng đại doanh.
Do vị trí chiến lược quan trọng mà binh thuyền do ba tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy nắm giữ cũng là lực lượng mạnh nhất mà Trùng Quang đế có thể điều động được vào lúc đó. Dẫu rằng lực lượng này vẫn thua kém quân của Trương Phụ, Mộc Thạnh, nhưng nhà Hậu Trần cố gắng trông cậy vào địa lợi. Nơi mà quân ta lựa chọn để đặt trận địa đón đánh giặc là nơi đường hẹp lầy lội, nhằm hạn chế tối đa sức mạnh kỵ binh của giặc.Ngày 6.9.1412, Trương Phụ đem binh thuyền tiến đển cửa biển, cùng quân Hậu Trần giao chiến một trận đẫm máu
Nhà Minh nể sợ Đặng Dung, nếu còn Đặng Tất giặc phải tan
Thủy binh nhà Minh
Đồng bình chương sự Đặng Dung là vị tướng dũng mãnh nhất trong quân Hậu Trần, không quản gian lao cùng các binh sĩ chiến đấu với giặc ngay ở tuyến đầu, xông pha giữa trận, ai chống là chết. Thấy chủ tướng gan dạ như thế, nhuệ khí của quân Hậu Trần càng dâng cao, khiến cho quân Minh khốn đốn, trận thế bắt đầu rối loạn.
Trận Mô Độ là một trong những trận đánh lớn nhất trong giai đoạn nhà Hậu Trần chống quân Minh. Vua Trùng Quang coi vùng Trường Yên như một tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ căn cứ địa, nên đã điều động những lực lượng ưu tú nhất mà mình có để chiến đấu tại vùng này. Về phần các tướng lĩnh Hậu Trần, việc lựa chọn quyết chiến tại vùng cửa biển, địa hình phức tạp giúp cho quân HậuTrần có thể hạn chế tối đa sở trường của giặc. Thế nhưng quân Minh là một đạo quân khá toàn diện về các binh chủng. Mặc dù kỵ bộ vẫn là sở trường của quân Minh cũng như các quân đội phương bắc, thủy quân của giặc cũng khá tinh nhuệ, và nhất là được trang bị các thuyền chiến tốt, có lợi thế về quân số so với quân ta.
1. Diễn biến trận Mô Độ:
Ngày 6.9.1412, sau những ngày dài vừa hành quân vừa quần nhau với quân Hậu Trần, quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, Mộc Thạnh, Phương Chính… tiến đến dọc sông Đáy, nhằm hướng cửa biển Thần Phù, thuộc Mô Độ, Yên Mô, Trường Yên để ra biển. Quân Hậu Trần với lực lượng gồm 400 chiến thuyền, dưới quyền chỉ huy của các tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Bối… đã bày sẵn thủy trận trên sông đón đánh. Nhác trông thấy thuyền của quân ta, Trương Phụ với lực lượng mạnh trong tay, không ngần ngại sai Đô chỉ huy Phương Chính dẫn đội thuyền tiên phong hàng trăm chiếc hùng hổ xáp lại, còn Phụ thì tiến sau với đội thuyền chủ lực. Kỵ binh quân Minh vốn vẫn hành quân ven bờ để hộ tống hạm đội chủ lực, nay không thể theo kịp vì địa hình địa vật phức tạp trên đường ra cửa biển. Dù vậy, Trương Phụ vẫn tự tin với hạm đội của mình.
Bấy giờ gió bắc đang thổi, thuyền giặc có lợi về hướng gió. Thời kỳ này, các chiến thuyền vẫn dùng buồm để tận dụng gió làm tăng tốc độ của thuyền bên cạnh các tay chèo. Quân Hậu Trần không vội giao tranh, mà cũng xuôi theo chiều gió chèo ngược ra hướng cửa biển. Hai đoàn thuyền lướt nhanh rượt đuổi nhau. Quân Hậu Trần vừa ra đến cửa biển thì theo kế sách tản ra thành ba đội. Trong thời khắc đó, phần lớn hạm đội quân Minh vẫn còn ở trong sông, không gian chật hẹp hơn nên không thể dàn trận hết được, mà đội hình các thuyền vẫn đang nối đuôi nhau thành những hàng dài. Đó là tính toán rất lợi hại của tướng lĩnh Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã hình thành thế trận lấy ít vây nhiều. Chỉ có như vậy, quân Hậu Trần mới có cơ hội đánh thắng quân Minh vượt trội hơn cả về trang bị lẫn quân số, lại đang ở thế thượng phong (từ trên gió đánh xuống).
Khi thế trận đã hình thành như dự kiến, Đặng Dung hạ lệnh toàn quân quay thuyền lại đánh. Thủy quân Hậu Trần rất tinh nhuệ, cùng quân Minh đánh nhau dữ dội. Khắp vùng biển vang rền tiếng súng từ hai phía. Cuộc đấu pháo giữa các thuyền xen lẫn với những màn giáp chiến. Thủy quân ta dùng câu liêm móc vào thuyền giặc, nhảy lên thuyền đánh xáp là cà. Gươm giáo tua tủa vang động khắp chiến trường. Nguyễn Súy đốc suất một nhánh quân chiếm lĩnh chỗ đất ven bờ, từ trên bộ bắn tên và đạn pháo hỗ trợ cho thủy quân ta diệt giặc. Quân ta khiến đội thuyền tiên phong của Phương Chính bị thiệt hại nặng nề. Trương Phụ phải tự mình lên tuyến đầu, đốc thúc quân lính liều chết mà xông lên. Quân Minh cũng chia làm ba mặt, cố sức đánh thốc ra biển. Thuyền giặc to lớn, nhân hướng gió thuận chèo nhanh đâm thẳng vào thuyền của quân ta, hễ chiếc trước chìm vỡ thì chiếc sau lại xông tới.
Bấy giờ bên quân Hậu Trần thì dựa vào địa lợi, bên quân Minh dựa nhờ vào thiên thời. Đồng bình chương sự Đặng Dung là vị tướng dũng mãnh nhất trong quân Hậu Trần, không quản gian lao cùng các binh sĩ chiến đấu với giặc ngay ở tuyến đầu, xông pha giữa trận, ai chống là chết. Thấy chủ tướng gan dạ như thế, nhuệ khí của quân Hậu Trần càng dâng cao, khiến cho quân Minh khốn đốn, trận thế bắt đầu rối loạn. Trương Phụ cũng chẳng phải dạng vừa, quyết không để Đặng Dung mặc sức tung hoành. Chủ tướng quân Minh thấy thế quân mình chùn xuống, cũng dẫn các cận vệ, thuộc tướng bên cạnh xông lên trước, mặt giáp mặt với cánh quân của Đặng Dung, hai bên đều liều chết đánh nhau bất phân thắng bại.
Trong khi cánh quân của Đặng Dung chiến đấu vô cùng dũng cảm thì bước ngoặc quyết định của trận chiến lại đến từ hướng khác. Các tướng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy, Hồ Bối cầm cự với quân Minh hồi lâu, bị giặc công kích dữ dội. Trương Phụ sai một cánh quân đổ bộ đi xuyên qua rừng nứa, nửa đêm đánh vào khối quân của Nguyễn Súy. Vì thiếu phòng bị, Nguyễn Súy không chống nổi, đơn phương hạ lệnh cho quân mình xuống thuyền rút lui khỏi trận. Đây là một quyết định làm thay đổi toàn bộ cục diện trận chiến. Nguyễn Cảnh Dị thấy cánh quân Nguyễn Súy rút, cũng cho quân rút theo. Vòng vây mà quân Hậu Trần đã dày công toan tính bỗng chốc bị thủng hai mảnh lớn. Thuyền quân Minh từ trong sông thừa thế tràn ra khắp mặt biển, hình thành thế bao vây ngược lại.
Bấy giờ đội thuyền dưới trướng phò mã Hồ Bối còn đang chiến đấu ở gần trong nội thủy, phút chốc bị thuyền quân Minh dày đặc vây quanh, che cả lối thoát ra biển. Thấy thế không thể thủ thắng nổi nữa, Hồ Bối nhanh trí lệnh cho quân mình bỏ thuyền lên bờ, rút lui theo đường rừng. Quân Minh không đuổi theo các hướng quân Hậu Trần rút lui mà dồn hết lực lượng nhắm vào khối quân của Đặng Dung mà đánh diệt. Đặng Dung cùng các chiến sĩ dưới trướng bị đồng đội bỏ rơi lại, đơn độc chiến đấu giữa muôn trùng vây quân Minh.
Giữa tình cảnh thập tử nhất sinh, Đặng Dung cùng thuộc hạ chỉ còn cách liều chết mở một con đường máu phá đột phá vòng vây, thoát ra biển để rút về phương nam theo đồng đội. May thay, vòng vây của quân Minh vẫn chưa thể khép kín ngay được mà vẫn còn những khoảng trống phía ngoài mặt biển. Đặng Dung cùng quân sĩ tả xung hữu đột, rốt cuộc cũng thoát được ra biển mà rút về nam. Trương Phụ đắc thắng thúc quân giương buồm đuổi theo truy kích sát rạt, dùng câu liêm móc các thuyền quân ta lại để đánh giết. Đặng Dung phải dùng thuyền nhẹ chèo nhanh để thoát. Quân sĩ dưới trướng Dung vốn đã mệt mỏi vì trận chiến, vừa xả thân đánh chặn cho chủ tướng vừa rút theo sau. Nhiều người ngã xuống dọc đường rút khỏi trận địa, tình cảnh vừa bi vừa hùng. Sau hồi truy đuổi, Trương Phụ hạ lệnh thu quân để tổ chức lại lực lượng trước khi tiếp tục cuộc tiến công vào Thanh Hóa, Nghệ An.
2. Kết quả và nhận định:
Trận này diễn ra từ sáng sớm ngày 6.9 đến tận trưa ngày 7.9.1412, đánh liên tục không ngừng nghỉ. Quân Hậu Trần bị thiệt hại hàng ngàn quân, nhiều thuyền bị đắm và bị giặc cướp. Minh Thực Lục chép rằng có hơn 1.000 quân và 75 tướng Hậu Trần bị bắt trong trận. Trong số đó có những tướng lĩnh cao cấp là Dực vệ Đại tướng quân Trần Lỗi, Long hổ Tướng quân Đặng Nhữ Hý, tướng Lê Mục, tướng Nguyễn Lâm… Về thiệt hại của quân Minh không có sách sử nào thống kê cụ thể, nhưng qua diễn biến gay cấn có lẽ cũng không dưới con số hàng ngàn. Một điều may mắn cho nhà Hậu Trần là phần nhiều quân ta vẫn thoát khỏi trận địa sau cuộc ác chiến, khiến cho kế hoạch đánh nhanh diệt gọn chủ lực nhà Hậu Trần của Trương Phụ không thực hiện được.
Trận Mô Độ có thể nói là một trận đánh mà quân Hậu Trần thể hiện cả những mặt ưu việt nhất cũng như những điểm yếu cố hữu của mình. Có thể thấy rằng, quân ta có tinh thần và kỷ luật rất cao, kỹ năng chiến đấu rất tốt. Đến cả sử nước Minh cũng phải công nhận “khí thế giặc rất tinh nhuệ”. Dù vậy, điểm yếu của quân Hậu Trần là họ không có một nền tảng cơ bản trong hiệp đồng tác chiến, thiếu các phương án dự phòng nên khi phối hợp với nhau trên chiến trường thì các tướng hành động không thống nhất. Trong khi người này đang quyết tử chiến, thì người kia lại muốn rút lui bảo toàn lực lượng. Khi lâm trận, các cánh quân cách nhau ngoài khoảng nghe thấy tiếng chiêng trống là hầu như mạnh tướng nào nấy đánh. Sâu xa hơn, quân đội Hậu Trần bấy giờ thiếu một vị tổng chỉ huy có uy tín vượt trội để điều hành toàn bộ các tướng quân khác. Trong sách sử thường ghi chép về quân của Trùng Quang khi đánh lớn thường được chỉ huy bởi ba bốn tướng soái. Nghe qua có vẻ đông đúc, nhưng kỳ thực là thiếu chỉ huy chung nhất. Các tướng chỉ huy như một hội đồng, có lợi khi thảo luận kế hoạch nhưng thiếu đi sự linh hoạt trong tác chiến. Điều này khác với thời mà Đặng Tất còn tại thế. Lúc đó, ông là người có uy tín để chỉ huy toàn bộ quân tướng, giống như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt thưở trước. Quân Hậu Trần lúc đó muôn người như một, hành động nhất quán như tay chân trong cơ thể. Đó là điều mà quân Hậu Trần dưới thời vua Trùng Quang không có được.
Quân Minh sau khi thắng trận, tràn vào Thanh Hóa như thác lũ. Trương Phụ đi đến đâu là đánh giết tàn bạo. Quân Hậu Trần thì rút về Diễn Châu, Nghệ An sốc lại lực lượng, quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc dữ
.
Nhà Minh đổi tướng thêm tội ác, vua Trần nam tiến tính kế lâu dài
Lính nhà Minh
Đúng với bản chất giả trá tàn bạo, trong khi những văn bản chiêu an của vua Minh còn chưa ráo mực thì quân Minh dưới trướng Trương Phụ đi đến đâu là tàn sát, cướp bóc man rợ đến đó. Việc cướp giết của giặc vừa để trả thù nhân dân các xứ Thanh Nghệ đã đóng góp nhiều cho nhà Hậu Trần, vừa để khủng bố tinh thần quân dân cả nước.
Sau khi bại trận tại Mô Độ, nhà Hậu Trần đã mất đi một chốt chặn thủy quân nước Minh tiến xuống theo đường biển, cửa ngõ tiến vào Thanh Hóa cũng mở toang trước mắt quân Minh. Nhiều nơi ở phía bắc Thanh Hóa rơi vào tay giặc mà hầu như không có sự kháng cự nào đáng kể. Quân Hậu Trần tập trung về giữ Nghệ An là đất căn bản của nhà Hậu Trần lúc bấy giờ, nơi mà Trùng Quang đế đóng hành doanh.
Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chưa dễ dàng tung ra đòn kết liễu. Để có được chiến thắng tại Mô Độ, giặc đã chịu những tổn thất không nhỏ về nhân mạng và thuyền bè. Đến khi tiến quân vào Thanh Hóa thì nhân dân rủ nhau trốn tránh, bất hợp tác, và kháng cự quyết liệt khiến quân Minh mất đi đáng kể nguồn hậu cần tại chỗ từ việc cướp bóc, trưng thu lương thực trong dân. Trong khi đó thì ở Nghệ An, quân Hậu Trần đã kịp tổ chức tuyến phòng thủ mới. Trước tình hình đó, Trương Phụ đã lệnh cho ngụy quan các xứ Tam Giang, Tuyên Hóa điều động ngụy quân, dân chúng đóng thêm chiến thuyền để bù đắp vào thiệt hại trước đó và tăng cường thêm sức mạnh thủy quân. Có lẽ sau trận chiến tại Mô Độ, Trương Phụ càng nhận thức rõ sự tinh nhuệ của thủy quân nhà Hậu Trần.
Chiến sự tại Đại Việt lúc này ưu thế đang nghiêng về quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, nhà Hậu Trần chỉ còn đủ sức giữ lấy phần đất từ Nghệ An trở vào nam. Thế nhưng quân Minh vẫn chưa đủ điều kiện để diệt được nhà Hậu Trần. Trương Phụ càng dẫn quân tiến sâu về phía nam, việc tiếp tế lương thực cho đạo quân đông đúc của hắn càng trở nên khó khăn. Thêm nữa, nguy cơ vùng Kinh lộ thừa lúc quân Minh đi đánh xa mà vùng lên vẫn luôn hiện hữu. Tình hình này khiến cho vua Minh là Chu Đệ nóng lòng. Vì vậy, hắn đã quyết định gửi thêm quân tiếp viện và nhiều quân lương để sớm kết thúc cuộc chiến, hoàn toàn khuất phục dân tộc Việt.
Đầu mùa thu 1412, tướng Minh là Hàn Quang, chức Hữu quân đô đốc đồng tri nhận lệnh vua Minh mang ấn “Chinh Nam tướng quân”, đem 1 vạn hộc lương và viện binh sang tăng cường cho Trương Phụ. Hàn Quang được phong chức Tổng binh, là chức quan mà Minh triều phong cho những tướng soái cầm quân đi đánh xa. Chức Tổng binh cũng là chức mà Trương Phụ trước đó đã được phong. Điều này cho thấy rằng những diễn biến chiến sự ở Đại Việt đã khiến cho vua Minh không hài lòng về Trương Phụ. Dù vậy, mọi diễn biến về sau cho thấy trên thực tế Trương Phụ vẫn là tướng soái chỉ huy chung nhất của quân Minh ở chiến trường Đại Việt.
Đồng thời với việc tăng cường quân tiếp viện và lương thực cho việc đàn áp, Chu Đệ tiếp tục dùng chính sách chiêu dụ. Vua Minh xuống chiếu “dạy dỗ” những ngụy quan và ru ngủ quân dân, kỳ lão nước ta :
“Trẫm vâng mệnh trời, thống trị thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển, xưa là đất của Trung Quốc, nay đã lại như cũ, binh lính và dân chúng theo về giáo hóa đến nay đã mấy năm rồi, đã đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty, chọn dùng những người trung lương, hiền năng để vỗ trị. Trẫm sớm khuya nghĩ đến, còn lo rằng đất xa dân đông, giáo hóa có chỗ không thấu tới, không được thấm ơn trạch yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.
Nay bọn các ngươi đều là bề tôi trung lươmg, phải thể lòng kính trời thương dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân cày ruộng, trồng dâu, khiến cho không trái thời vụ thì áo mặc, cơm ăn có chỗ trông cậy. Dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín, khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm sĩ, thì phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn thì thương xót giúp đỡ lẫn nhau. Lúc khốn cùng long đong thì chu cấp phù trì cho nhau. Người già phải dạy con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên, ai nấy phải thuận theo bản tính, không được làm trái với lễ. Chớ có làm trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa may văn chương mà đùa với luật pháp, chớ theo ý riêng mà bỏ lẽ công, muốn cho dân chúng an cư lạc nhgiệp, mãi mãi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh trị thái bình, thì bọn các người phải thận trọng với chức vị của mình, làm tròn công việc của mình, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm, để có thể sánh vai với những bậc thuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu sáng sử xanh, thế chẳng tốt đẹp lắm sao !” (!?) (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Về mặt văn chương và ý tứ của vua Minh, có thể nói là một văn bản đầy lời lẽ tốt đẹp. Thế nhưng trên thực tế đây vẫn chỉ là một thủ đoạn chính trị quen thuộc. Và trước những hành động thực tế hoàn toàn trái ngược với những tờ chiếu dụ, cũng chẳng mấy người nước ta tin vào lời của vua Minh. Một số kẻ đã rắp tâm làm tay sai cho giặc thì chẳng qua để mưu cầu danh lợi. Một số khác, phải luồn cúi trước cửa quân nước Minh cũng chỉ để giữ thân cầu sống, tìm kiếm sự yên ổn chứ chẳng ai thiết tha gì với những lời rao giảng về nhân nghĩa giả trá của giặc.
Lại nói Hàn Quang khi đem quân tiến sang Đại Việt, đã đóng đại quân ở thành Đông Quan để giữ vững mặt sau cho Trương Phụ có thể dốc toàn lực tấn công nhà Hậu Trần. Được sự hậu thuẫn của quân tiếp viện ở tuyến sau, tháng 10.1412 Trương Phụ cất quân vào đánh Nghệ An, Diễn Châu. Đúng với bản chất giả trá tàn bạo, trong khi những văn bản chiêu an của vua Minh còn chưa ráo mực thì quân Minh dưới trướng Trương Phụ đi đến đâu là tàn sát, cướp bóc man rợ đến đó. Việc cướp giết của giặc vừa để trả thù nhân dân các xứ Thanh Nghệ đã đóng góp nhiều cho nhà Hậu Trần, vừa để khủng bố tinh thần quân dân cả nước.
Vua Trùng Quang nhận thấy lực lượng quá chênh lệch nên phải cùng các tướng bỏ Nghệ An, đem đại quân tiếp tục vượt biển lui về nam. Thiếu bảo Phan Quý Hữu cùng một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ lưu thủ Nghệ An để cầm chân Trương Phụ. Quân Minh tiến đánh Phan Quý Hữu ở sông Ác, huyện Thổ Hoàng, phủ Nghệ An (tức sông Ngàn Sâu, Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay). Phan Quý Hữu không đánh nổi quân Minh, rút lên núi Khả Lôi cố thủ. Trương Phụ đem quân bao vây núi. Phan Quý Hữu có quân tinh nhuệ trong tay nhưng không có lòng quyết chiến, sai con là Phan Liêu đến gặp Trương Phụ xin hàng. Phụ chấp thuận, cho Phan Quý Hữu làm Tri phủ Nghệ An, Phó sứ ty Án sát Giao Chỉ.
Trước đây, Phan Quý Hữu cùng Đặng Tất đều làm quan nhà Hồ, thế lực có thể gọi là tương đương nhau. Đến khi nhà Hồ sụp đổ, cả hai họ Đặng và họ Phan đều phải theo hàng quân Minh. Sau đó Đặng Tất phò vua Giản Định, chiêu hàng được Phan Quý Hữu về với nhà Hậu Trần. Quý Hữu tuy hàng Hậu Trần, cũng chỉ là làm tròn vai để mong được yên ổn. Vua Trùng Quang phong chức cao, chẳng qua vì nể nang thế lực Phan gia. Chính vì có lý lịch hay trở cờ như thế nên thật dễ hiểu với hành động đầu hàng của Phan Quý Hữu.
Vì nhà vua đã bỏ Nghệ An vào nam và tướng có quân đông mạnh nhất là Phan Quý Hữu đã hàng, nên các tướng quân còn lại của nhà Hậu Trần càng dễ dàng dao động. Một loạt tướng lĩnh theo gót Phan Quý Hữu đầu hàng Trương Phụ gồm có Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Úc, Trần Toàn Mẫn, Trần Lập, Nguyễn Sảng, Nguyễn Yểm, Nguyễn Điệu… Điều này cho thấy tình cảnh bi đát của nhà Hậu Trần. Và nó cũng thể hiện được rằng nhà Hậu Trần được xây dựng từ những nền tảng không vững chắc. Các thế lực quân phiệt địa phương có sự tự trị rất cao. Một khi nhà vua không còn đủ sức để chế ngự, thì không có gì đảm bảo cho lòng trung thành của các đầu mục. Mất đi vùng đứng chân quan trọng là hai xứ Thanh – Nghệ, vua Trùng Quang đế chỉ còn lại các xứ phương nam là Tân Bình, Thuận Châu, Hóa Châu. Các nơi này xét về nhân lực, vật lực đều rất khiêm tốn không đủ sức để cho nhà Hậu Trần dựa vào mà tiếp tục cuộc chiến dai dẳng với quy mô khá lớn. Tuy nhiên bất chấp những điều đó, Trùng Quang đế cùng một số tướng lĩnh kiên cường và những chiến binh dũng cảm vẫn kiên quyết chiến đấu đến cùng với quân Minh. Nhà Hậu Trần vẫn chưa dừng lại hành trình viết lên những trang sử bi tráng của mình.
Cuối năm 1412, tình thế của nhà Hậu Trần đã như ngọn lửa dần tàn trước sức tấn công dồn dập của quân Minh. Vua Trùng Quang đế đã để mất các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu vốn là đất căn bản cung cấp nhiều nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến. Hóa Châu tuy cũng là một hậu phương đã đóng góp rất đáng kể cho nhà Hậu Trần thưở ban đầu, nhưng bấy giờ lại quá nhỏ bé so với nhu cầu của một cuộc chiến quy mô lớn và dai dẳng.
Trương Phụ lúc này đang đắc thắng, đã ráo riết chuẩn bị mở cuộc tấn công quyết định vào đất Hóa Châu, một trận mà tận diệt quân Hậu Trần. Nhưng đang lúc chuẩn bị thì một lần nữa hắn lại phải nhận hung tin. Tại xứ Lạng Sơn, một cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Lịch. Quân khởi nghĩa đã nắm quyền kiểm soát một địa bàn quan trọng nằm trên tuyến đường tiếp tế của quân Minh từ trong nước sang nước ta. Việc này rất hệ trọng đối với quân viễn chinh của Trương Phụ. Quân Minh tiến vào Nghệ An, đã là khá xa những nguồn tiếp tế chính. Một khi đem quân vào Hóa Châu, việc tiếp tế sẽ càng tốn kém, khó khăn hơn nữa và quân Minh cũng chẳng thể dễ dàng chiến thắng. Nguy cơ bị cầm chân và thiếu lương thực đang hiện hữu đối với đoàn quân của Trương Phụ.
Vì lẽ đó, Trương Phụ một lần nữa buộc phải dẫn quân quay trở về bắc để dập tắt những sự kháng cự. Mặc dù lúc này tại thành Đông Quan đã có quân của Hàn Quang đóng giữ để đàn áp phong trào khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và phụ cận, nhưng điều đó cũng chỉ đủ cho quân Minh đảm bảo trị an ở những nơi gần thành Đông Quan mà thôi. Quân dân ta vẫn tạo một sức ép rất lớn lên quân Minh đồn trú và các lực lượng ngụy quyền trên khắp lãnh thổ. Nông Văn Lịch với lối đánh xuất quỷ nhập thần, đã nhiều phen tập kích bắt giết nhiều quân Minh trên tuyến đường Lạng Sơn – Đông Quan.
Bấy giờ tên tay sai Mạc Thúy – người trước kia rất tích cực đón rước giặc Minh vào diệt nhà Hồ và giúp cho giặc đặt nền cai trị lên nước ta, đã được Minh triều phong cho chức Tham chính. Cuối năm 1412, Mạc Thúy theo lệnh giặc dẫn quân lên đánh Nông Văn Lịch. Nghĩa quân chiếm lấy chỗ hiểm mai phục chờ sẵn. Mạc Thúy đem quân tiến sâu vào núi, Nông Văn Lịch chỉ huy quân dùng cung tên tẩm thuốc độc chống trả mãnh liệt. Quân giặc bị thiệt hại nặng nề, Mạc Thúy trúng tên thuốc độc chết ngay tại trận. Tên đầu sỏ phản dân hại nước rốt cuộc đã phải đền tội, chẳng những vậy còn bị sử sách bêu tên, nhân dân nguyền rủa đến muôn đời.
Đã có lúc Nông Văn Lịch nổi lên như một nhân vật kiệt xuất nhất trong đám anh hùng hào kiệt các xứ phía bắc. Tiếc thay, vị thủ lĩnh này tuy có tài năng quân sự nhưng lại không đoan chính trong lối sống. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng vì Nông Văn Lịch quan hệ bất chính với vợ của thuộc cấp, nên bị binh sĩ dưới quyền làm phản giết chết. Cuộc khởi nghĩa vì thế cũng rơi vào thoái trào.
Ngoài cuộc khởi nghĩa Nông Văn Lịch, còn có cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Liễu ở Hà Nam cũng là phong trào khá lớn khiến cho quân Minh nhiều phen khốn đốn. Nguyễn Liễu nổi lên ở Lý Nhân (Hà Nam), sau mấy năm trời chiến đấu đã thu hút được một lực lượng lớn hoạt động ở khắp các vùng Lý Nhân, Lục Na (Bắc Giang), Vũ Lễ (Thái Nguyên)… tạo thành một thế vòng cung ngăn chặn đường đi lại của quân Minh từ Đông Quan tỏa đi các hướng. Quân Minh nhiều lần đánh dẹp không được bèn tìm cách mua chuộc. Tham nghị Nguyễn Huân vờ kết thông gia. Liễu không đề phòng, tự thân đi đến chỗ Nguyễn Huân và bị giặc bắt giết. Trong năm 1412 - 1413, vẫn còn những cuộc khởi nghĩa khác mà quân Minh chưa thể đàn áp nổi. Trong số đó có Lưu Phụng khởi nghĩa ở Quảng Oai, Giáp Giang ở Lạng Sơn, Phạm Khang ở Phù Lưu (thuộc Hà Nội ngày ngay), Trần Nguyên Hiến ở Tam Đái (Vĩnh Phú) …
Các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và trung du phía bắc đã một lần nữa giúp giải tỏa áp lực cho nhà Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã bị hao tổn rất nhiều sau liên tiếp những trận chiến lớn nhỏ với quân Minh, lại bị thiếu thốn lương thực vì để mất đất đứng chân Thanh Nghệ. Tận dụng thời cơ Trương Phụ phải đem quân về bắc khai bảo vệ nguồn hậu cần, vua Trùng Quang cùng các tướng sĩ từ Hóa Châu đã đem quân trở lại đánh chiếm phần lớn Nghệ An, Diễn Châu một cách nhanh chóng. Biết rằng không thể ngồi yên một chỗ để chờ Trương Phụ đem quân trở lại đánh, Trùng Quang đế quyết định chủ động đem thủy quân tấn công ra bắc.
Đầu năm 1413, Trùng Quang đế cùng các tướng Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung dẫn thủy quân vượt biển đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp phá lương thực của quân Minh ở trong các đồn trại và đánh cướp các thuyền buôn của giặc bấy giờ đang chở thóc lúa từ nước ta về bán ở trong nước Minh. Cuộc hành quân này rất gian khổ, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba Âm lịch năm 1413, đã giúp cho quân Hậu Trần giải quyết được vấn đề lương thực. Thế nhưng tình cảnh bấy giờ chẳng mấy khả quan. Vua Trùng Quang đế chỉ còn lại ba bốn phần mười quân lực so với lúc cực thịnh của quân Hậu Trần.
Khoảng tháng 5.1413, Trương Phụ lại dẫn quân trở vào đánh Nghệ An. Vua Trùng Quang binh ít không địch nổi, lại phải bôn ba vào lại Hóa Châu thủ hiểm. Trương Phụ xét thực lực chưa thể tấn công ngay vào Hóa Châu, lại cho dừng quân chuẩn bị khí cụ, thuyền bè, lương thực. Trùng Quang đế vào Hóa Châu rồi, sai Nguyễn Biểu làm sứ giả đến doanh của Trương Phụ xin đem lễ vật sang Minh cầu phong. Việc này là kế hoãn binh của Trùng Quang đế, nhưng rõ là rất vụng về bởi Trương Phụ là tên tướng không thể nói chuyện bằng lý lẽ được. Nhận lệnh của vua, Nguyễn Biểu chẳng từ nan để đi vào tử địa. Biểu đem lễ vật đến Nghệ An, Trương Phụ đã dùng thủ đoạn man rợ để làm nhục chí sứ giả nhà Hậu Trần. Phụ sai quân lấy đầu người nấu làm cỗ tiệc để “thiết đãi” sứ giả. Ắt hẳn đó là đầu của tử sĩ hay người dân vô tội nào đó đã không may bị giặc dày vò. Nguyễn Biểu cố giữ khí thế, tỏ ra không sợ hãi, vừa ăn tiệc đầu người vừa làm thơ ứng khẩu, còn nói to: “Chẳng mấy khi được ăn cỗ đầu người bắc”. Câu đó ngầm nói lên lòng căm thù và không sợ hãi trước giặc mạnh.
Khi vào tiếp sứ, Nguyễn Biểu đem chuyện cầu phong ra bàn nhưng Trương Phụ đều bác bỏ. Thấy Nguyễn Biểu ứng đối trôi chảy, Phụ vừa phục tài vừa e ngại, nên giữ không cho Nguyễn Biểu ra về. Nguyễn Biểu không kìm được cơn giận dữ, mắng chửi Trương Phụ thậm tệ: “Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn giết hại nhân dân, mày thật là thằng giặc bạo ngược” (theo Cương Mục).
Trương Phụ nghe xong nổi giận đùng đùng, sai lính đem Nguyễn Biểu đem trói dưới chân cầu Lam Kiều cho nước thủy triều dìm chết. Việc Nguyễn Biểu đi sứ là giai thoại khá nổi tiếng trong sử Việt. Người ta không trách Nguyễn Biểu không làm nên công trạng mà chỉ nể phục khí khái và thương tiếc cho số mệnh của ông. Trùng Quang đế lấy một Nho sĩ vào trại giặc lúc đang thất thế để mong đàm phán thật là hạ sách, phỏng có ích gì !? Nguyễn Biểu đi sứ, cố giữ tròn khí tiết, không sợ bị giặc giết. Thương thay!
Tháng 6.1413, Trương Phụ muốn đánh dẹp triệt để nhà Hậu Trần nhưng vẫn ngán ngại Hóa Châu hiểm trở và ở xa. Phụ hỏi Phan Liêu là con của Phan Quý Hữu về nội tình nhà Hậu Trần. Liêu đem hết chuyện tướng tá Hậu Trần ai hay ai dở, núi sông Hóa Châu chỗ nào hiểm chỗ nào bằng, binh lực mạnh yếu thế nào nói hết cho Trương Phụ biết. Bấy giờ Trương Phụ mới hạ quyết tâm đánh vào Hóa Châu, cho họp các tướng lại để bàn kế sách.
Mộc Thạnh nói : “Hóa Châu núi cao biển rộng, chưa dễ lấy được”.
Phụ nói:
“Tôi sống được cũng là vì Hóa Châu, có làm ma cũng là vì Hóa Châu. Hóa Châu mà chưa dẹp được, tôi còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa !”.
Trương Phụ cố chết lo tròn đạo trung thần, mà không nghĩ đến họa phúc của muôn dân. Bàn định xong xuôi, quân Minh hăm hở tiến đánh Hóa Châu
Tháng 8.1413, Trương Phụ đem binh hùng tướng mạnh nước Minh vào đánh Hóa Châu (Thừa Thiên Huế ngày nay) nơi cùng trời cuối đất của nước Đại Việt thời bấy giờ, nơi là vua Trùng Quang đế đã cùng các tướng sĩ trung kiên của mình quyết tâm thủ hiểm mà chiến đấu đến cùng.
Quân Minh từ Nghệ An đi thuyền vượt biển đánh vào cửa biển Nhật Lệ, cửa ngõ tiến vào đất Hóa Châu. Quân Hậu Trần lúc này chỉ còn quân số ít hơn quân Minh gấp mấy lần, lại ít lương thảo, khí giới. Trước tình hình đó, quân ta áp dụng chiến lược kéo giãn thời gian, vừa đánh vừa lùi dần để mong có thể đưa quân Minh vào thế dằn do kéo dài, gây khó khăn cho tiếp tế của giặc và khiến chúng mệt mỏi. Các tướng Hậu Trần thiết lập một loạt phòng tuyến che chắn cho thành Hóa Châu gồm phòng tuyến cửa Nhật Lệ, phòng tuyến sông Trà Bát, sông Trà Kệ… Trương Phụ thúc thủy quân đánh mạnh, quân ta vừa đánh cầm chừng vừa lùi dần. Sau một thời gian giao chiến, quân Minh đã kéo đến trước thành Hóa Châu mà bày trận công thành. Quân Hậu Trần chỉ cầm cự một thời gian ngắn trước khi rút quân khỏi thành. Quân Minh nhanh chóng chiếm được thành Hóa Châu, nhưng quân Hậu Trần đã thoát hiểm trong cuộc vây ráp của giặc bằng một cuộc hành quân khéo léo. Vua Trùng Quang đế được các tướng hộ tống theo đường biển dong thuyền ngược lên phía bắc, đổ bộ vào đất Thuận Châu (Quảng Trị ngày nay) , dựa vào thế núi rừng để ém quân và nghe ngóng chờ đợi quân Minh sơ hở.
Tháng 10.1413, Trương Phụ đã chiếm được Hóa Châu nhưng vẫn chưa bắt được vua Trùng Quang như dự tính. Đến khi hay tin quân Hậu Trần đã xâm nhập trở lại đất Thuận Châu, bèn lập tức điều quân đi ngược ra phía bắc, tấn công Thuận Châu. Nhà Hậu Trần tuy thất thế vẫn kiên trì bàn định mưu kế hòng đảo ngược tình thế. Nắm được tin tức hành quân của quân Minh, Nguyễn Súy cầm quân thủy bộ lập phòng tuyến tại cảng sông Sái Già (Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị ngày nay) để ngăn giặc. Đặng Dung thì ém quân mai phục ở gần đó chờ thời cơ.
Một ngày cuối thu, quân Minh hành quân đến vùng sông Sái Già, đụng trận với quân của Nguyễn Súy. Hai bên đối mặt đánh nhau từ sáng đến tối chưa phân thắng bại. Mệt mỏi vì các đợt hành quân và chiến đấu liên tục, Trương Phụ sai quân hạ trại nghỉ ngơi. Trương Phụ cùng thủy quân Minh quây thuyền lập thủy trại ngay giữa sông. Tướng Hoàng Trung dựng trại trên bờ cùng bộ binh. Trời về đêm không trăng, cách nhau trong gang tấc không rõ mặt. Doanh trại quân Minh đèn đuốc sáng rực khắp một vùng sông nước.
Nhận thấy thời cơ đã điểm, Đặng Dung âm thầm dẫn binh thuyền cùng tượng binh lợi dụng trời đêm đánh úp quân Minh. Nửa đêm thanh vắng, quân ta tắt hết đèn đuốc tiếp cận trại giặc rồi thình lình tấn công như vũ bão. Bầy voi chiến của nhà Hậu Trần như trên trời rơi xuống khiến cho quân Minh vô cùng hoảng loạn. Khối quân Minh đóng phía bờ sông chịu tổn thất nặng ngay từ đầu. Đoàn thủy quân của Đặng Dung bấy giờ không thuyền lớn, không súng đạn, chỉ trang bị nhẹ với thuyền con, gươm giáo mà chí khí ngút trời. Quân ta xả thân xông vào chém giết giặc, nhảy từ thuyền này sang thuyền khác, vừa đánh vừa phóng hỏa đốt thuyền bè của giặc. Quân Minh hoàn toàn bất ngờ và bị động với lối đánh tập kích xuất quỷ nhập thần của quân Hậu Trần. Nhiều tên chưa kịp sửa sang khiên giáp đã bị quân ta giết chết. Lúc này thuyền của giặc đang đậu san sát nhau và không sẵn sàng chiến đấu, lần lượt từng chiếc bị thiêu rụi bởi mồi lửa của quân ta. Chẳng mấy chốc, sông Sái Già đã sáng rực một biển lửa.
Các tướng Minh cố gắng điều động số quân còn lại để thiết lập lại trận địa phản kích. Quân ta cũng đã chuẩn bị tinh thần tử chiến vì đó là lợi khí duy nhất để giúp chiến thắng đội quân đông mạnh hơn nhiều, lại rất tình nhuệ. Lúc này chủ tướng Đặng Dung xuất hiện giữa trại quân Minh như một hung thần, tự mình cầm gươm xông pha giữa trận, tả xung hữu đột nhắm thẳng vào soái thuyền của Trương Phụ. Các tướng sĩ Hậu Trần nối bước theo sau, thế không ai chống nổi. Trương Phụ còn đang bận chỉ huy quân tướng của mình tổ chức phản kích thì Đặng Dung đã đánh đến thuyền của hắn. Đặng Dung nhảy sang thuyền của Trương Phụ, lần lượt hạ gục quân cận vệ và lùng giết Trương Phụ. Trời tối khiến cho vị hổ tướng nhà Hậu Trần không thể nhận rõ mặt Trương Phụ, để cho tên tướng già nhanh chân nhảy sang thuyền nhỏ chèo trốn. Quân Minh lúc này đang hoảng loạn, thấy chủ soái bỏ chạy cũng hè nhau chạy theo. Đặng Dung thừa thế thúc quân đuổi gấp.
Thế nhưng đúng lúc này thì trời chuyển rạng đông, quân Minh tưởng chừng đã bại trận lại gặp vận may. Trong ánh sáng ban ngày, đoàn quân của Đặng Dung hiện rõ ra quân số ít ỏi. Trương Phụ là một tướng lão luyện, đang tháo chạy trông lại thấy Đặng Dung quân ít, liền hô quân quay ngược trở lại đánh. Quân Minh có kỷ luật tốt nên theo lệnh chủ tướng đánh quật trở lại. Quân dưới trướng Đặng Dung chiến đấu trong đêm thì hăng hái nhưng không thể địch nổi số đông của giặc khi trời sáng, nhanh chóng để mất thế thượng phong và bị dồn ép vào đường nguy cấp.Đặng Dung dù dũng mãnh cũng không thể làm được việc quá sức mình, cùng quân sĩ rút chạy mỗi người một ngả.
Trận này quân Minh bị thiệt hại rất nặng nề, quân số bị hao tổn đến quá nửa. Thuyền bè, khí giới của giặc cũng bị đốt gần hết. Thế nhưng, dù chỉ còn non nửa quân lực nhưng quân Minh vẫn đông mạnh hơn quân Hậu Trần rất nhiều, nhất là khi quân của Đặng Dung cũng chịu thiệt hại không nhỏ trong trận chiến.
Nguyễn Súy đóng quân ở phòng tuyến lúc đêm thấy động nhưng ngờ vực không chịu đem quân đến hợp lực. Đến khi trời sáng thì quân Minh đã thoát hiểm, lại càng đánh lũy gấp rút. Nguyễn Súy tiếc mình đã lỡ thời cơ, bèn sai ba tráng sĩ làm thích khách đi ám sát Trương Phụ. Thích khách của Súy cả ba người đều lọt qua vòng canh giữ của quân Minh, vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Nhưng tên tướng già đã kịp cảnh giác, thấy động liền hô cận vệ vây bắt. Hai thích khách bị bắt sống, một người lặn trốn được. Kế hoạch ám sát của Nguyễn Súy thất bại vào phút chót. Trương Phụ hụt chết, đem tướng Hoàng Trung ra chém vì tội canh phòng thiếu cẩn mật. Các tướng Minh đều tái mặt. Chẳng lâu sau đó, Nguyễn Súy không chống nổi phải rút bỏ Sái Già, từ đó quân Hậu Trần chỉ còn lẩn tránh trong rừng núi.
Chiến cuộc tại Sái Già là một minh chứng đanh thép về tài dùng binh của Đặng Dung và tinh thần chiến đấu của quân Hậu Trần. Nguyễn Súy tuy phán đoán kém, nhưng cũng đã dùng quân ít ỏi mà cầm chân được quân Minh, tạo thời cơ của Đặng Dung tập kích, có thể gọi là trí tướng. Quân ta chỉ thua trận vì tiềm lực vượt trội của giặc. Kỳ thực từ đầu đến cuối cuộc chiến giữa Trương Phụ và Đặng Dung, tên tướng nước Minh luôn nắm ưu thế về quân số cũng như lương thực, khí giới. Nhận xét về trận Sái Già, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng rất hay trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
“Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tànquân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy?
Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!
Ngày xưa nước Lỗ đánh nhau với nước Tề ở đất Can Thì bị thất bại, thánh nhân không vì thua mà kiêng né, lại chép rõ để nêu niềm vinh quang chiến đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại. Thế thì trận đánh ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức kiệt mới chịu thua cũng vinh quang lắm thay!”.
Quân Minh tuy thắng trận nhưng cũng chưa dễ dàng tung ra đòn kết liễu. Để có được chiến thắng tại Mô Độ, giặc đã chịu những tổn thất không nhỏ về nhân mạng và thuyền bè. Đến khi tiến quân vào Thanh Hóa thì nhân dân rủ nhau trốn tránh, bất hợp tác, và kháng cự quyết liệt khiến quân Minh mất đi đáng kể nguồn hậu cần tại chỗ từ việc cướp bóc, trưng thu lương thực trong dân. Trong khi đó thì ở Nghệ An, quân Hậu Trần đã kịp tổ chức tuyến phòng thủ mới. Trước tình hình đó, Trương Phụ đã lệnh cho ngụy quan các xứ Tam Giang, Tuyên Hóa điều động ngụy quân, dân chúng đóng thêm chiến thuyền để bù đắp vào thiệt hại trước đó và tăng cường thêm sức mạnh thủy quân. Có lẽ sau trận chiến tại Mô Độ, Trương Phụ càng nhận thức rõ sự tinh nhuệ của thủy quân nhà Hậu Trần.
Chiến sự tại Đại Việt lúc này ưu thế đang nghiêng về quân Minh dưới sự chỉ huy của Trương Phụ, nhà Hậu Trần chỉ còn đủ sức giữ lấy phần đất từ Nghệ An trở vào nam. Thế nhưng quân Minh vẫn chưa đủ điều kiện để diệt được nhà Hậu Trần. Trương Phụ càng dẫn quân tiến sâu về phía nam, việc tiếp tế lương thực cho đạo quân đông đúc của hắn càng trở nên khó khăn. Thêm nữa, nguy cơ vùng Kinh lộ thừa lúc quân Minh đi đánh xa mà vùng lên vẫn luôn hiện hữu. Tình hình này khiến cho vua Minh là Chu Đệ nóng lòng. Vì vậy, hắn đã quyết định gửi thêm quân tiếp viện và nhiều quân lương để sớm kết thúc cuộc chiến, hoàn toàn khuất phục dân tộc Việt.
Đầu mùa thu 1412, tướng Minh là Hàn Quang, chức Hữu quân đô đốc đồng tri nhận lệnh vua Minh mang ấn “Chinh Nam tướng quân”, đem 1 vạn hộc lương và viện binh sang tăng cường cho Trương Phụ. Hàn Quang được phong chức Tổng binh, là chức quan mà Minh triều phong cho những tướng soái cầm quân đi đánh xa. Chức Tổng binh cũng là chức mà Trương Phụ trước đó đã được phong. Điều này cho thấy rằng những diễn biến chiến sự ở Đại Việt đã khiến cho vua Minh không hài lòng về Trương Phụ. Dù vậy, mọi diễn biến về sau cho thấy trên thực tế Trương Phụ vẫn là tướng soái chỉ huy chung nhất của quân Minh ở chiến trường Đại Việt.
Đồng thời với việc tăng cường quân tiếp viện và lương thực cho việc đàn áp, Chu Đệ tiếp tục dùng chính sách chiêu dụ. Vua Minh xuống chiếu “dạy dỗ” những ngụy quan và ru ngủ quân dân, kỳ lão nước ta :
“Trẫm vâng mệnh trời, thống trị thiên hạ, chỉ mong cho dân thiên hạ được yên ổn, Giao Chỉ ở xa tận ven biển, xưa là đất của Trung Quốc, nay đã lại như cũ, binh lính và dân chúng theo về giáo hóa đến nay đã mấy năm rồi, đã đặt mục, bá, thú, lệnh và quân, vệ, ty, chọn dùng những người trung lương, hiền năng để vỗ trị. Trẫm sớm khuya nghĩ đến, còn lo rằng đất xa dân đông, giáo hóa có chỗ không thấu tới, không được thấm ơn trạch yêu thương, nuôi nấng của nhà nước.
Nay bọn các ngươi đều là bề tôi trung lươmg, phải thể lòng kính trời thương dân của trẫm, hưng lợi trừ hại cho dân, thuận theo lòng yêu ghét của dân mà trừ bỏ mối gian tệ cho dân. Dạy dân cày ruộng, trồng dâu, khiến cho không trái thời vụ thì áo mặc, cơm ăn có chỗ trông cậy. Dạy dân bằng hiếu, để, trung, tín, khuyên dân điều lễ nghĩa, liêm sĩ, thì phong tục sẽ tốt lành. Khi tang ma, hoạn nạn thì thương xót giúp đỡ lẫn nhau. Lúc khốn cùng long đong thì chu cấp phù trì cho nhau. Người già phải dạy con trẻ, kẻ dưới phải kính bề trên, ai nấy phải thuận theo bản tính, không được làm trái với lễ. Chớ có làm trộm cướp, chớ có đi lừa dối, chớ múa may văn chương mà đùa với luật pháp, chớ theo ý riêng mà bỏ lẽ công, muốn cho dân chúng an cư lạc nhgiệp, mãi mãi là dân trời vô sự, để cùng vui thời thịnh trị thái bình, thì bọn các người phải thận trọng với chức vị của mình, làm tròn công việc của mình, theo được đức y thay trời nuôi dân của trẫm, để có thể sánh vai với những bậc thuần lương đời xưa, tên tuổi chiếu sáng sử xanh, thế chẳng tốt đẹp lắm sao !” (!?) (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Về mặt văn chương và ý tứ của vua Minh, có thể nói là một văn bản đầy lời lẽ tốt đẹp. Thế nhưng trên thực tế đây vẫn chỉ là một thủ đoạn chính trị quen thuộc. Và trước những hành động thực tế hoàn toàn trái ngược với những tờ chiếu dụ, cũng chẳng mấy người nước ta tin vào lời của vua Minh. Một số kẻ đã rắp tâm làm tay sai cho giặc thì chẳng qua để mưu cầu danh lợi. Một số khác, phải luồn cúi trước cửa quân nước Minh cũng chỉ để giữ thân cầu sống, tìm kiếm sự yên ổn chứ chẳng ai thiết tha gì với những lời rao giảng về nhân nghĩa giả trá của giặc.
Lại nói Hàn Quang khi đem quân tiến sang Đại Việt, đã đóng đại quân ở thành Đông Quan để giữ vững mặt sau cho Trương Phụ có thể dốc toàn lực tấn công nhà Hậu Trần. Được sự hậu thuẫn của quân tiếp viện ở tuyến sau, tháng 10.1412 Trương Phụ cất quân vào đánh Nghệ An, Diễn Châu. Đúng với bản chất giả trá tàn bạo, trong khi những văn bản chiêu an của vua Minh còn chưa ráo mực thì quân Minh dưới trướng Trương Phụ đi đến đâu là tàn sát, cướp bóc man rợ đến đó. Việc cướp giết của giặc vừa để trả thù nhân dân các xứ Thanh Nghệ đã đóng góp nhiều cho nhà Hậu Trần, vừa để khủng bố tinh thần quân dân cả nước.
Vua Trùng Quang nhận thấy lực lượng quá chênh lệch nên phải cùng các tướng bỏ Nghệ An, đem đại quân tiếp tục vượt biển lui về nam. Thiếu bảo Phan Quý Hữu cùng một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ lưu thủ Nghệ An để cầm chân Trương Phụ. Quân Minh tiến đánh Phan Quý Hữu ở sông Ác, huyện Thổ Hoàng, phủ Nghệ An (tức sông Ngàn Sâu, Hương Khê, Hà Tĩnh ngày nay). Phan Quý Hữu không đánh nổi quân Minh, rút lên núi Khả Lôi cố thủ. Trương Phụ đem quân bao vây núi. Phan Quý Hữu có quân tinh nhuệ trong tay nhưng không có lòng quyết chiến, sai con là Phan Liêu đến gặp Trương Phụ xin hàng. Phụ chấp thuận, cho Phan Quý Hữu làm Tri phủ Nghệ An, Phó sứ ty Án sát Giao Chỉ.
Trước đây, Phan Quý Hữu cùng Đặng Tất đều làm quan nhà Hồ, thế lực có thể gọi là tương đương nhau. Đến khi nhà Hồ sụp đổ, cả hai họ Đặng và họ Phan đều phải theo hàng quân Minh. Sau đó Đặng Tất phò vua Giản Định, chiêu hàng được Phan Quý Hữu về với nhà Hậu Trần. Quý Hữu tuy hàng Hậu Trần, cũng chỉ là làm tròn vai để mong được yên ổn. Vua Trùng Quang phong chức cao, chẳng qua vì nể nang thế lực Phan gia. Chính vì có lý lịch hay trở cờ như thế nên thật dễ hiểu với hành động đầu hàng của Phan Quý Hữu.
Vì nhà vua đã bỏ Nghệ An vào nam và tướng có quân đông mạnh nhất là Phan Quý Hữu đã hàng, nên các tướng quân còn lại của nhà Hậu Trần càng dễ dàng dao động. Một loạt tướng lĩnh theo gót Phan Quý Hữu đầu hàng Trương Phụ gồm có Trần Mẫn, Nguyễn Sĩ Cần, Trần Toàn Úc, Trần Toàn Mẫn, Trần Lập, Nguyễn Sảng, Nguyễn Yểm, Nguyễn Điệu… Điều này cho thấy tình cảnh bi đát của nhà Hậu Trần. Và nó cũng thể hiện được rằng nhà Hậu Trần được xây dựng từ những nền tảng không vững chắc. Các thế lực quân phiệt địa phương có sự tự trị rất cao. Một khi nhà vua không còn đủ sức để chế ngự, thì không có gì đảm bảo cho lòng trung thành của các đầu mục. Mất đi vùng đứng chân quan trọng là hai xứ Thanh – Nghệ, vua Trùng Quang đế chỉ còn lại các xứ phương nam là Tân Bình, Thuận Châu, Hóa Châu. Các nơi này xét về nhân lực, vật lực đều rất khiêm tốn không đủ sức để cho nhà Hậu Trần dựa vào mà tiếp tục cuộc chiến dai dẳng với quy mô khá lớn. Tuy nhiên bất chấp những điều đó, Trùng Quang đế cùng một số tướng lĩnh kiên cường và những chiến binh dũng cảm vẫn kiên quyết chiến đấu đến cùng với quân Minh. Nhà Hậu Trần vẫn chưa dừng lại hành trình viết lên những trang sử bi tráng của mình.
Bị Nguyễn Biểu nhục mạ, tướng Minh hành xử đáng khinh bỉ
Đền thờ Nguyễn Biểu
Việc Nguyễn Biểu đi sứ là giai thoại khá nổi tiếng trong sử Việt. Người ta không trách Nguyễn Biểu không làm nên công trạng mà chỉ nể phục khí khái và thương tiếc cho số mệnh của ông. Trùng Quang đế lấy một Nho sĩ vào trại giặc lúc đang thất thế để mong đàm phán thật là hạ sách, phỏng có ích gì !? Nguyễn Biểu đi sứ, cố giữ tròn khí tiết, không sợ bị giặc giết. Thương thay!
Cuối năm 1412, tình thế của nhà Hậu Trần đã như ngọn lửa dần tàn trước sức tấn công dồn dập của quân Minh. Vua Trùng Quang đế đã để mất các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu vốn là đất căn bản cung cấp nhiều nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến. Hóa Châu tuy cũng là một hậu phương đã đóng góp rất đáng kể cho nhà Hậu Trần thưở ban đầu, nhưng bấy giờ lại quá nhỏ bé so với nhu cầu của một cuộc chiến quy mô lớn và dai dẳng.
Trương Phụ lúc này đang đắc thắng, đã ráo riết chuẩn bị mở cuộc tấn công quyết định vào đất Hóa Châu, một trận mà tận diệt quân Hậu Trần. Nhưng đang lúc chuẩn bị thì một lần nữa hắn lại phải nhận hung tin. Tại xứ Lạng Sơn, một cuộc khởi nghĩa lớn đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Lịch. Quân khởi nghĩa đã nắm quyền kiểm soát một địa bàn quan trọng nằm trên tuyến đường tiếp tế của quân Minh từ trong nước sang nước ta. Việc này rất hệ trọng đối với quân viễn chinh của Trương Phụ. Quân Minh tiến vào Nghệ An, đã là khá xa những nguồn tiếp tế chính. Một khi đem quân vào Hóa Châu, việc tiếp tế sẽ càng tốn kém, khó khăn hơn nữa và quân Minh cũng chẳng thể dễ dàng chiến thắng. Nguy cơ bị cầm chân và thiếu lương thực đang hiện hữu đối với đoàn quân của Trương Phụ.
Vì lẽ đó, Trương Phụ một lần nữa buộc phải dẫn quân quay trở về bắc để dập tắt những sự kháng cự. Mặc dù lúc này tại thành Đông Quan đã có quân của Hàn Quang đóng giữ để đàn áp phong trào khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và phụ cận, nhưng điều đó cũng chỉ đủ cho quân Minh đảm bảo trị an ở những nơi gần thành Đông Quan mà thôi. Quân dân ta vẫn tạo một sức ép rất lớn lên quân Minh đồn trú và các lực lượng ngụy quyền trên khắp lãnh thổ. Nông Văn Lịch với lối đánh xuất quỷ nhập thần, đã nhiều phen tập kích bắt giết nhiều quân Minh trên tuyến đường Lạng Sơn – Đông Quan.
Bấy giờ tên tay sai Mạc Thúy – người trước kia rất tích cực đón rước giặc Minh vào diệt nhà Hồ và giúp cho giặc đặt nền cai trị lên nước ta, đã được Minh triều phong cho chức Tham chính. Cuối năm 1412, Mạc Thúy theo lệnh giặc dẫn quân lên đánh Nông Văn Lịch. Nghĩa quân chiếm lấy chỗ hiểm mai phục chờ sẵn. Mạc Thúy đem quân tiến sâu vào núi, Nông Văn Lịch chỉ huy quân dùng cung tên tẩm thuốc độc chống trả mãnh liệt. Quân giặc bị thiệt hại nặng nề, Mạc Thúy trúng tên thuốc độc chết ngay tại trận. Tên đầu sỏ phản dân hại nước rốt cuộc đã phải đền tội, chẳng những vậy còn bị sử sách bêu tên, nhân dân nguyền rủa đến muôn đời.
Đã có lúc Nông Văn Lịch nổi lên như một nhân vật kiệt xuất nhất trong đám anh hùng hào kiệt các xứ phía bắc. Tiếc thay, vị thủ lĩnh này tuy có tài năng quân sự nhưng lại không đoan chính trong lối sống. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng vì Nông Văn Lịch quan hệ bất chính với vợ của thuộc cấp, nên bị binh sĩ dưới quyền làm phản giết chết. Cuộc khởi nghĩa vì thế cũng rơi vào thoái trào.
Ngoài cuộc khởi nghĩa Nông Văn Lịch, còn có cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Liễu ở Hà Nam cũng là phong trào khá lớn khiến cho quân Minh nhiều phen khốn đốn. Nguyễn Liễu nổi lên ở Lý Nhân (Hà Nam), sau mấy năm trời chiến đấu đã thu hút được một lực lượng lớn hoạt động ở khắp các vùng Lý Nhân, Lục Na (Bắc Giang), Vũ Lễ (Thái Nguyên)… tạo thành một thế vòng cung ngăn chặn đường đi lại của quân Minh từ Đông Quan tỏa đi các hướng. Quân Minh nhiều lần đánh dẹp không được bèn tìm cách mua chuộc. Tham nghị Nguyễn Huân vờ kết thông gia. Liễu không đề phòng, tự thân đi đến chỗ Nguyễn Huân và bị giặc bắt giết. Trong năm 1412 - 1413, vẫn còn những cuộc khởi nghĩa khác mà quân Minh chưa thể đàn áp nổi. Trong số đó có Lưu Phụng khởi nghĩa ở Quảng Oai, Giáp Giang ở Lạng Sơn, Phạm Khang ở Phù Lưu (thuộc Hà Nội ngày ngay), Trần Nguyên Hiến ở Tam Đái (Vĩnh Phú) …
Các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng sông Hồng và trung du phía bắc đã một lần nữa giúp giải tỏa áp lực cho nhà Hậu Trần. Lúc này, quân Hậu Trần đã bị hao tổn rất nhiều sau liên tiếp những trận chiến lớn nhỏ với quân Minh, lại bị thiếu thốn lương thực vì để mất đất đứng chân Thanh Nghệ. Tận dụng thời cơ Trương Phụ phải đem quân về bắc khai bảo vệ nguồn hậu cần, vua Trùng Quang cùng các tướng sĩ từ Hóa Châu đã đem quân trở lại đánh chiếm phần lớn Nghệ An, Diễn Châu một cách nhanh chóng. Biết rằng không thể ngồi yên một chỗ để chờ Trương Phụ đem quân trở lại đánh, Trùng Quang đế quyết định chủ động đem thủy quân tấn công ra bắc.
Đầu năm 1413, Trùng Quang đế cùng các tướng Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung dẫn thủy quân vượt biển đánh vào Vân Đồn, Hải Đông để cướp phá lương thực của quân Minh ở trong các đồn trại và đánh cướp các thuyền buôn của giặc bấy giờ đang chở thóc lúa từ nước ta về bán ở trong nước Minh. Cuộc hành quân này rất gian khổ, kéo dài từ tháng giêng đến tháng ba Âm lịch năm 1413, đã giúp cho quân Hậu Trần giải quyết được vấn đề lương thực. Thế nhưng tình cảnh bấy giờ chẳng mấy khả quan. Vua Trùng Quang đế chỉ còn lại ba bốn phần mười quân lực so với lúc cực thịnh của quân Hậu Trần.
Khoảng tháng 5.1413, Trương Phụ lại dẫn quân trở vào đánh Nghệ An. Vua Trùng Quang binh ít không địch nổi, lại phải bôn ba vào lại Hóa Châu thủ hiểm. Trương Phụ xét thực lực chưa thể tấn công ngay vào Hóa Châu, lại cho dừng quân chuẩn bị khí cụ, thuyền bè, lương thực. Trùng Quang đế vào Hóa Châu rồi, sai Nguyễn Biểu làm sứ giả đến doanh của Trương Phụ xin đem lễ vật sang Minh cầu phong. Việc này là kế hoãn binh của Trùng Quang đế, nhưng rõ là rất vụng về bởi Trương Phụ là tên tướng không thể nói chuyện bằng lý lẽ được. Nhận lệnh của vua, Nguyễn Biểu chẳng từ nan để đi vào tử địa. Biểu đem lễ vật đến Nghệ An, Trương Phụ đã dùng thủ đoạn man rợ để làm nhục chí sứ giả nhà Hậu Trần. Phụ sai quân lấy đầu người nấu làm cỗ tiệc để “thiết đãi” sứ giả. Ắt hẳn đó là đầu của tử sĩ hay người dân vô tội nào đó đã không may bị giặc dày vò. Nguyễn Biểu cố giữ khí thế, tỏ ra không sợ hãi, vừa ăn tiệc đầu người vừa làm thơ ứng khẩu, còn nói to: “Chẳng mấy khi được ăn cỗ đầu người bắc”. Câu đó ngầm nói lên lòng căm thù và không sợ hãi trước giặc mạnh.
Khi vào tiếp sứ, Nguyễn Biểu đem chuyện cầu phong ra bàn nhưng Trương Phụ đều bác bỏ. Thấy Nguyễn Biểu ứng đối trôi chảy, Phụ vừa phục tài vừa e ngại, nên giữ không cho Nguyễn Biểu ra về. Nguyễn Biểu không kìm được cơn giận dữ, mắng chửi Trương Phụ thậm tệ: “Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn giết hại nhân dân, mày thật là thằng giặc bạo ngược” (theo Cương Mục).
Trương Phụ nghe xong nổi giận đùng đùng, sai lính đem Nguyễn Biểu đem trói dưới chân cầu Lam Kiều cho nước thủy triều dìm chết. Việc Nguyễn Biểu đi sứ là giai thoại khá nổi tiếng trong sử Việt. Người ta không trách Nguyễn Biểu không làm nên công trạng mà chỉ nể phục khí khái và thương tiếc cho số mệnh của ông. Trùng Quang đế lấy một Nho sĩ vào trại giặc lúc đang thất thế để mong đàm phán thật là hạ sách, phỏng có ích gì !? Nguyễn Biểu đi sứ, cố giữ tròn khí tiết, không sợ bị giặc giết. Thương thay!
Tháng 6.1413, Trương Phụ muốn đánh dẹp triệt để nhà Hậu Trần nhưng vẫn ngán ngại Hóa Châu hiểm trở và ở xa. Phụ hỏi Phan Liêu là con của Phan Quý Hữu về nội tình nhà Hậu Trần. Liêu đem hết chuyện tướng tá Hậu Trần ai hay ai dở, núi sông Hóa Châu chỗ nào hiểm chỗ nào bằng, binh lực mạnh yếu thế nào nói hết cho Trương Phụ biết. Bấy giờ Trương Phụ mới hạ quyết tâm đánh vào Hóa Châu, cho họp các tướng lại để bàn kế sách.
Mộc Thạnh nói : “Hóa Châu núi cao biển rộng, chưa dễ lấy được”.
Phụ nói:
“Tôi sống được cũng là vì Hóa Châu, có làm ma cũng là vì Hóa Châu. Hóa Châu mà chưa dẹp được, tôi còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa !”.
Trương Phụ cố chết lo tròn đạo trung thần, mà không nghĩ đến họa phúc của muôn dân. Bàn định xong xuôi, quân Minh hăm hở tiến đánh Hóa Châu
Đặng Dung dùng tượng binh đại phá thủy quân Minh
Nhận thấy thời cơ đã điểm, Đặng Dung âm thầm dẫn binh thuyền cùng tượng binh lợi dụng trời đêm đánh úp quân Minh. Nửa đêm thanh vắng, quân ta tắt hết đèn đuốc tiếp cận trại giặc rồi thình lình tấn công như vũ bão. Bầy voi chiến của nhà Hậu Trần như trên trời rơi xuống khiến cho quân Minh vô cùng hoảng loạn.
Tháng 8.1413, Trương Phụ đem binh hùng tướng mạnh nước Minh vào đánh Hóa Châu (Thừa Thiên Huế ngày nay) nơi cùng trời cuối đất của nước Đại Việt thời bấy giờ, nơi là vua Trùng Quang đế đã cùng các tướng sĩ trung kiên của mình quyết tâm thủ hiểm mà chiến đấu đến cùng.
Quân Minh từ Nghệ An đi thuyền vượt biển đánh vào cửa biển Nhật Lệ, cửa ngõ tiến vào đất Hóa Châu. Quân Hậu Trần lúc này chỉ còn quân số ít hơn quân Minh gấp mấy lần, lại ít lương thảo, khí giới. Trước tình hình đó, quân ta áp dụng chiến lược kéo giãn thời gian, vừa đánh vừa lùi dần để mong có thể đưa quân Minh vào thế dằn do kéo dài, gây khó khăn cho tiếp tế của giặc và khiến chúng mệt mỏi. Các tướng Hậu Trần thiết lập một loạt phòng tuyến che chắn cho thành Hóa Châu gồm phòng tuyến cửa Nhật Lệ, phòng tuyến sông Trà Bát, sông Trà Kệ… Trương Phụ thúc thủy quân đánh mạnh, quân ta vừa đánh cầm chừng vừa lùi dần. Sau một thời gian giao chiến, quân Minh đã kéo đến trước thành Hóa Châu mà bày trận công thành. Quân Hậu Trần chỉ cầm cự một thời gian ngắn trước khi rút quân khỏi thành. Quân Minh nhanh chóng chiếm được thành Hóa Châu, nhưng quân Hậu Trần đã thoát hiểm trong cuộc vây ráp của giặc bằng một cuộc hành quân khéo léo. Vua Trùng Quang đế được các tướng hộ tống theo đường biển dong thuyền ngược lên phía bắc, đổ bộ vào đất Thuận Châu (Quảng Trị ngày nay) , dựa vào thế núi rừng để ém quân và nghe ngóng chờ đợi quân Minh sơ hở.
Tháng 10.1413, Trương Phụ đã chiếm được Hóa Châu nhưng vẫn chưa bắt được vua Trùng Quang như dự tính. Đến khi hay tin quân Hậu Trần đã xâm nhập trở lại đất Thuận Châu, bèn lập tức điều quân đi ngược ra phía bắc, tấn công Thuận Châu. Nhà Hậu Trần tuy thất thế vẫn kiên trì bàn định mưu kế hòng đảo ngược tình thế. Nắm được tin tức hành quân của quân Minh, Nguyễn Súy cầm quân thủy bộ lập phòng tuyến tại cảng sông Sái Già (Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị ngày nay) để ngăn giặc. Đặng Dung thì ém quân mai phục ở gần đó chờ thời cơ.
Một ngày cuối thu, quân Minh hành quân đến vùng sông Sái Già, đụng trận với quân của Nguyễn Súy. Hai bên đối mặt đánh nhau từ sáng đến tối chưa phân thắng bại. Mệt mỏi vì các đợt hành quân và chiến đấu liên tục, Trương Phụ sai quân hạ trại nghỉ ngơi. Trương Phụ cùng thủy quân Minh quây thuyền lập thủy trại ngay giữa sông. Tướng Hoàng Trung dựng trại trên bờ cùng bộ binh. Trời về đêm không trăng, cách nhau trong gang tấc không rõ mặt. Doanh trại quân Minh đèn đuốc sáng rực khắp một vùng sông nước.
Nhận thấy thời cơ đã điểm, Đặng Dung âm thầm dẫn binh thuyền cùng tượng binh lợi dụng trời đêm đánh úp quân Minh. Nửa đêm thanh vắng, quân ta tắt hết đèn đuốc tiếp cận trại giặc rồi thình lình tấn công như vũ bão. Bầy voi chiến của nhà Hậu Trần như trên trời rơi xuống khiến cho quân Minh vô cùng hoảng loạn. Khối quân Minh đóng phía bờ sông chịu tổn thất nặng ngay từ đầu. Đoàn thủy quân của Đặng Dung bấy giờ không thuyền lớn, không súng đạn, chỉ trang bị nhẹ với thuyền con, gươm giáo mà chí khí ngút trời. Quân ta xả thân xông vào chém giết giặc, nhảy từ thuyền này sang thuyền khác, vừa đánh vừa phóng hỏa đốt thuyền bè của giặc. Quân Minh hoàn toàn bất ngờ và bị động với lối đánh tập kích xuất quỷ nhập thần của quân Hậu Trần. Nhiều tên chưa kịp sửa sang khiên giáp đã bị quân ta giết chết. Lúc này thuyền của giặc đang đậu san sát nhau và không sẵn sàng chiến đấu, lần lượt từng chiếc bị thiêu rụi bởi mồi lửa của quân ta. Chẳng mấy chốc, sông Sái Già đã sáng rực một biển lửa.
Các tướng Minh cố gắng điều động số quân còn lại để thiết lập lại trận địa phản kích. Quân ta cũng đã chuẩn bị tinh thần tử chiến vì đó là lợi khí duy nhất để giúp chiến thắng đội quân đông mạnh hơn nhiều, lại rất tình nhuệ. Lúc này chủ tướng Đặng Dung xuất hiện giữa trại quân Minh như một hung thần, tự mình cầm gươm xông pha giữa trận, tả xung hữu đột nhắm thẳng vào soái thuyền của Trương Phụ. Các tướng sĩ Hậu Trần nối bước theo sau, thế không ai chống nổi. Trương Phụ còn đang bận chỉ huy quân tướng của mình tổ chức phản kích thì Đặng Dung đã đánh đến thuyền của hắn. Đặng Dung nhảy sang thuyền của Trương Phụ, lần lượt hạ gục quân cận vệ và lùng giết Trương Phụ. Trời tối khiến cho vị hổ tướng nhà Hậu Trần không thể nhận rõ mặt Trương Phụ, để cho tên tướng già nhanh chân nhảy sang thuyền nhỏ chèo trốn. Quân Minh lúc này đang hoảng loạn, thấy chủ soái bỏ chạy cũng hè nhau chạy theo. Đặng Dung thừa thế thúc quân đuổi gấp.
Thế nhưng đúng lúc này thì trời chuyển rạng đông, quân Minh tưởng chừng đã bại trận lại gặp vận may. Trong ánh sáng ban ngày, đoàn quân của Đặng Dung hiện rõ ra quân số ít ỏi. Trương Phụ là một tướng lão luyện, đang tháo chạy trông lại thấy Đặng Dung quân ít, liền hô quân quay ngược trở lại đánh. Quân Minh có kỷ luật tốt nên theo lệnh chủ tướng đánh quật trở lại. Quân dưới trướng Đặng Dung chiến đấu trong đêm thì hăng hái nhưng không thể địch nổi số đông của giặc khi trời sáng, nhanh chóng để mất thế thượng phong và bị dồn ép vào đường nguy cấp.Đặng Dung dù dũng mãnh cũng không thể làm được việc quá sức mình, cùng quân sĩ rút chạy mỗi người một ngả.
Trận này quân Minh bị thiệt hại rất nặng nề, quân số bị hao tổn đến quá nửa. Thuyền bè, khí giới của giặc cũng bị đốt gần hết. Thế nhưng, dù chỉ còn non nửa quân lực nhưng quân Minh vẫn đông mạnh hơn quân Hậu Trần rất nhiều, nhất là khi quân của Đặng Dung cũng chịu thiệt hại không nhỏ trong trận chiến.
Nguyễn Súy đóng quân ở phòng tuyến lúc đêm thấy động nhưng ngờ vực không chịu đem quân đến hợp lực. Đến khi trời sáng thì quân Minh đã thoát hiểm, lại càng đánh lũy gấp rút. Nguyễn Súy tiếc mình đã lỡ thời cơ, bèn sai ba tráng sĩ làm thích khách đi ám sát Trương Phụ. Thích khách của Súy cả ba người đều lọt qua vòng canh giữ của quân Minh, vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Nhưng tên tướng già đã kịp cảnh giác, thấy động liền hô cận vệ vây bắt. Hai thích khách bị bắt sống, một người lặn trốn được. Kế hoạch ám sát của Nguyễn Súy thất bại vào phút chót. Trương Phụ hụt chết, đem tướng Hoàng Trung ra chém vì tội canh phòng thiếu cẩn mật. Các tướng Minh đều tái mặt. Chẳng lâu sau đó, Nguyễn Súy không chống nổi phải rút bỏ Sái Già, từ đó quân Hậu Trần chỉ còn lẩn tránh trong rừng núi.
Chiến cuộc tại Sái Già là một minh chứng đanh thép về tài dùng binh của Đặng Dung và tinh thần chiến đấu của quân Hậu Trần. Nguyễn Súy tuy phán đoán kém, nhưng cũng đã dùng quân ít ỏi mà cầm chân được quân Minh, tạo thời cơ của Đặng Dung tập kích, có thể gọi là trí tướng. Quân ta chỉ thua trận vì tiềm lực vượt trội của giặc. Kỳ thực từ đầu đến cuối cuộc chiến giữa Trương Phụ và Đặng Dung, tên tướng nước Minh luôn nắm ưu thế về quân số cũng như lương thực, khí giới. Nhận xét về trận Sái Già, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng rất hay trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
“Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy, đem tànquân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy?
Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!
Ngày xưa nước Lỗ đánh nhau với nước Tề ở đất Can Thì bị thất bại, thánh nhân không vì thua mà kiêng né, lại chép rõ để nêu niềm vinh quang chiến đấu với kẻ thù, chứ không bàn đến việc thành bại. Thế thì trận đánh ở Sái Già, quân Minh bị tan vỡ một nửa, quân ta đến khi sức kiệt mới chịu thua cũng vinh quang lắm thay!”.
Giữ khí tiết, vua tôi Hậu Trần không thành công cũng thể thành nhân
Mặc dù quan điểm của giới sử các đời có khác biệt, nhưng hầu hết đều bày tỏ sự thương tiếc, nể phục ý chí của Trùng Quang đế và các tướng sĩ Hậu Trần. Vua tôi Trùng Quang nhà Hậu Trần không chấp nhận sự dày vò trong tay giặc mà chọn cho mình một cái chết trong danh dự. Điều này hoàn toàn khác với cha con nhà Hồ Quý Ly đã chấp nhận trông chờ vào sự xót thương của giặc.
Trận chiến Sái Già có thể coi là trận chiến quy mô lớn cuối cùng mà quân Hậu Trần có thể làm được để chống quân Minh. Sau trận này, quan tướng Hậu Trần phải phân tán trong núi rừng tây Thuận Châu để trốn tránh sự truy lùng của giặc. Đến đầu năm 1414, quân Minh đã tràn ngập khắp đất Thuận Hóa, chia nhau lùng bắt Trùng Quang đế và quân tướng nhà Hậu Trần.
Bấy giờ vua tôi thất lạc, nhiều binh sĩ Hậu Trần không tìm được đội ngũ, mạnh ai nấy tìm chốn nương thân. Hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cố tìm được nhau, đóng quân tại núi Côn Truyền để tập họp lại lực lượng. Trương Phụ dẫn quân chia đường tấn công vào núi. Đặng Dung cho tượng binh đi đầu, cùng các tướng sĩ từ trên núi đánh xuống. Quân Minh từ dưới núi bắn cung nỏ lên như mưa, tượng binh của quân ta phải chùn bước. Kế đó kỵ binh quân Minh đông như kiến đánh lên, quân Hậu Trần lại tan vỡ, nhiều tướng lĩnh tử trận. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị mở đường máu thoát khỏi vòng vây, bên mình chỉ còn hơn 700 quân bản bộ trung thành. Dung và Dị bàn nhau rút sang nước Tiêm La (Sukhotai – nay thuộc Thái Lan) để tránh tạm.
Nhưng chẳng mấy chốc truy binh của giặc đã đuổi theo kịp hai ông, tổ chức vây bắt. Hai tướng Hậu Trần cùng binh sĩ ra sức đánh giết giặc rất nhiều, nhưng rồi cũng sức cùng lực kiệt trước số lượng áp đảo hoàn toàn của quân Minh. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều sa lưới quân Minh. Khi giải đến doanh trại của Trương Phụ, Nguyễn Cảnh Dị lập tức mắng vào mặt Phụ : “Tao định giết mày, lại bị mày bắt”. Sau đó ông không ngớt lời chửi rủa thậm tệ. Trương Phụ tức giận không đợi giải về Nguyễn Cảnh Dị về nước Minh, mà giết ông ngay tại chỗ, lại moi gan ăn. Nguyễn Cảnh Dị là một trong những danh tướng hàng đầu của nhà Hậu Trần, đến lúc sa cơ, ông buông lời thoái mạ là cố ý muốn cho giặc giết mình ngay, không muốn sống trong sự giam cầm của giặc.
Về phần Nguyễn Súy sau khi từ mặt trận Sái Già rút quân về núi, lại rút về phía nam chạy sang hướng các nước Chiêm Thành, Chân Lạp. Ông cũng không thoát khỏi sự truy lùng của quân Minh. Tại châu Minh Linh bấy giờ thuộc quyền của nước Chiêm Thành, Nguyễn Súy sa lưới giặc. Vua Trùng Quang đế cùng đoàn tùy tùng chạy sang đất Ai Lao, giặc đuổi theo ráo riết, cuối cùng bắt được Trùng Quang tại sách Cập Môn (Khăm Muội, Lào ngày nay). Trương Phụ sai giải Trùng Quang đế, Nguyễn Súy, Đặng Dung cùng các tướng Hậu Trần khác về nước Minh xử trí. Trên thuyền sang Yên Kinh nước Minh, vua Trùng Quang đế nhảy xuống biển tự vẫn. Đặng Dung cũng nhảy theo vua cùng chết. Nguyễn Súy thì không chết theo vua ngay, mà tìm cách gạ gẫm viên quan áp giải chơi cờ với mình. Trong lúc đánh cờ, Súy lấy bàn cờ đập viên quan áp giải nước Minh một phát chết tươi, rồi mới nhảy xuống biển tự vẫn.
Nhà Hậu Trần bắt đầu từ vua Giản Định đế dựng cờ khởi nghĩa năm 1407 đến khi vua Trùng Quang bị giặc bắt đầu năm 1414, tổng cộng được 7 năm. Đây cũng là quãng thời gian mà người Việt từ vua đến dân chinh chiến không ngừng để mong đánh đuổi giặc Minh. Các bộ sử xưa coi nhà Hậu Trần là một triều đại nối tiếp sau nhà Hồ, cũng là vẫn công nhận sự tồn tại của nước Đại Việt sau khi giặc Minh đánh bại họ Hồ. Chỉ sau khi Trùng Quang đế thất bại mới tính vào kỷ thuộc Minh. Riêng các sách sử hiện đại lại chỉ coi nhà Hậu Trần là một phong trào khởi nghĩa lớn, còn kỳ thuộc Minh tính từ khi nhà Hồ kháng chiến thất bại.
Cả hai trường phái nhìn nhận này điều đó lý lẽ riêng của mình. Công nhận nhà Hậu Trần là một triều đại phong kiến chính thức trong lịch sử Việt Nam là vì vua Hậu Trần thực sự là vua danh chính ngôn thuận được hầu hết nhân dân cả nước thời đó tin theo, và thực tế đã duy trì chủ quyền thường xuyên trên một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào, nhiều lúc kiểm soát cả những vùng lớn thuộc đồng bằng sông Hồng. Không công nhận nhà Hậu Trần là vì quân Hậu Trần chưa bao giờ chiếm được thành Đông Quan – thủ phủ của nước Đại Việt, cũng như chưa hề đánh đổ được ách đô hộ mà quân Minh đã thiết lập từ sau cuộc chiến Minh – Đại Ngu (1406 – 1407).
Mặc dù quan điểm của giới sử các đời có khác biệt, nhưng hầu hết đều bày tỏ sự thương tiếc, nể phục ý chí của Trùng Quang đế và các tướng sĩ Hậu Trần. Vua tôi Trùng Quang nhà Hậu Trần không chấp nhận sự dày vò trong tay giặc mà chọn cho mình một cái chết trong danh dự. Điều này hoàn toàn khác với cha con nhà Hồ Quý Ly đã chấp nhận trông chờ vào sự xót thương của giặc. Tuy thất bại, nhưng thanh danh của Trùng Quang đế và các danh tướng Hậu Trần luôn mãi rực sáng với sử xanh, được nhiều thế hệ người Việt tôn thờ. Đặc biệt ngoài sự tôn kính và biết ơn, sử sách còn dành cho vua tôi Trùng Quang đế lòng thương cảm sâu sắc vì ý chí vượt qua nghịch cảnh của họ, vì một sự nghiệp khôi phục sơn hà.
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng đầy thương tiếc khi bắt đầu chép đến thời kỳ vua Trùng Quang: “Vua gặp thời loạn lạc, gắng chí mưu việc khôi phục. Nhưng vì trời không giúp nhà Trần nữa, nuốt hận mà chết. Thương thay!”
Khi Ngô Sĩ Liên chép xong những dòng cuối cùng về nhà Hậu Trần, sử gia lại tiếp tục có những nhận xét đầy tiếc nối và cảm thông: “Trùng Quang Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc loạn lạc lưu ly, ví như dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đã đổ, chả lẽ không biết rằng thế không thể cứu vãn được nữa hay sao? Nhưng hãy làm hết bổn phận nên làm, ngõ hầu có thể vãn hồi được thiên mệnh !Còn như khi bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu nhục, cam lòng nhảy xuống biển mà chết để cùng mất với nước, thực đúng là "quốc quân chết vì xã tắc". Các bề tôi của ngài như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết ngay mình, Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, đều là những người đáng ca ngợi cả.”
Khen ngợi chí khí của các bậc anh hùng nhà Hậu Trần rồi, Ngô Sĩ Liên cũng không quên chê trách những kẻ phản thần: “ … Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ làm nhục mệnh vua, đã bị giết rồi. Phan Liêu đem tình hình mạnh yếu trong nước đi báo cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái Tổ Cao Hoàng Đế ta (tức vua Lê Thái Tổ Lê Lợi) giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước tuy chết vì nghĩa không có tội gì, mà để lại tiếng thơm mãi mãi, còn bọn bất trung phản quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại còn để tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như thế.”
Các sử gia thời kỳ phong kiến chịu ảnh hưởng nặng tư tưởng Thiên Thời, Thiên Mệnh nên khá nhất quán về nhận định cho rằng nhà Hậu Trần thất bại là do trời không giúp, hay nói cách khác là không gặp thời. Như sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn có nhận xét ngắn gọn về trận Sái Già: “Trời nuông Trương Phụ”. Nói rằng nhà Hậu Trần thất bại do không gặp thời, không gặp may thì không hẳn sai, nhưng chưa đủ. Đó chỉ là nguyên nhân khách quan. Còn nguyên nhân chủ quan chúng ta cũng cần phải nhìn nhận. Cần biết rằng nền tảng sức mạnh của nhà Hậu Trần không đến từ các vua Giản Định hay Trùng Quang, mà đến từ những thế lực quân phiệt như Trần Triệu Cơ, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân… Chính vì vua không có lực lượng ban đầu mà hoàn toàn phải dựa vào các tướng lĩnh của mình nên chưa bao giờ quyền lực vua Hậu Trần được trọn vẹn, và cũng chính vì thế mà giữa vua tôi luôn có sự nghi kỵ lẫn nhau.
Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết oan khuất của Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân khi mà vua Giản Định muốn dùng thủ đoạn đen tối để tập trung quyền lực về mình, gạt bỏ mối lo từ hai vị tướng nhiều công lao nhưng đồng thời cũng là đối tượng mà nhà vua phải san sẻ quyền lực. Sang đến thời vua Trùng Quang, nhà vua đã chập nhận việc trao nhiều quyền lực cho các tướng còn tự mình đóng vai trò thủ lĩnh tinh thần, để giúp cho nội bộ được đoàn kết. Thế nhưng tình thế lúc này đã chuyển xấu, hoàn cảnh khách quan đã quá bất lợi cho việc đánh đuổi quân Minh.
Nhà Hậu Trần nổi lên chống Minh không chỉ có ý nghĩa về mặt cổ vũ tinh thần độc lập, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm mà thực sự còn đóng vai trò thiết thực hơn thế rất nhiều. Với khoảng 7 năm ròng chiến đấu của tướng sĩ Hậu Trần, quân Minh đã không thể áp đặt được nền đô hộ lên đất nước ta. Vùng đất từ Thanh Hóa trở vào nam bấy giờ, một nước Đại Việt (dù không trọn vẹn) vẫn tồn tại. Ở đó, những giá trị văn minh người Việt đã được bảo tồn. Việc vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân dân ta dưới lá cờ đầu là nhà Hậu Trần khiến cho quân Minh bị hao tổn rất nhiều quân lực, tạo thuận lợi cho các phong trào khởi nghĩa về sau.
Ngoài ra, cuộc chiến đấu của nhà Hậu Trần đã làm chậm tiến trình đồng hóa của quân Minh, và đôi lúc buộc chúng phải có một số chính sách nhượng bộ nhất định trong cai trị. Không thể chỉ trông chờ vào quân viễn chinh và không thể diệt chủng người Việt, giặc Minh phải buộc lòng phải xây dựng một bộ máy ngụy quyền đồ sộ để cai trị, chấp nhận nới lỏng một số quyền tự trị đối với các thổ hào địa phương để làm dịu bớt sự chống đối.
Chính trong số các thổ hào này, một nhân vật kiệt xuất mới đã xuất hiện, chính là Lê Lợi – lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại. Trương Phụ và quân tướng nước Minh những tưởng rằng đánh dẹp được nhà Hậu Trần là xong việc, nhưng kỳ thực đó chỉ là thắng lợi tạm thời đối với chúng mà thôi. Kẻ gieo gió rồi sẽ gặp bão. Chẳng bao lâu sau, những phong trào khởi nghĩa mới của người Việt lại bùng lên mà không cần phải nhân danh một dòng họ nào nữa
Bấy giờ vua tôi thất lạc, nhiều binh sĩ Hậu Trần không tìm được đội ngũ, mạnh ai nấy tìm chốn nương thân. Hai tướng Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cố tìm được nhau, đóng quân tại núi Côn Truyền để tập họp lại lực lượng. Trương Phụ dẫn quân chia đường tấn công vào núi. Đặng Dung cho tượng binh đi đầu, cùng các tướng sĩ từ trên núi đánh xuống. Quân Minh từ dưới núi bắn cung nỏ lên như mưa, tượng binh của quân ta phải chùn bước. Kế đó kỵ binh quân Minh đông như kiến đánh lên, quân Hậu Trần lại tan vỡ, nhiều tướng lĩnh tử trận. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị mở đường máu thoát khỏi vòng vây, bên mình chỉ còn hơn 700 quân bản bộ trung thành. Dung và Dị bàn nhau rút sang nước Tiêm La (Sukhotai – nay thuộc Thái Lan) để tránh tạm.
Nhưng chẳng mấy chốc truy binh của giặc đã đuổi theo kịp hai ông, tổ chức vây bắt. Hai tướng Hậu Trần cùng binh sĩ ra sức đánh giết giặc rất nhiều, nhưng rồi cũng sức cùng lực kiệt trước số lượng áp đảo hoàn toàn của quân Minh. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị đều sa lưới quân Minh. Khi giải đến doanh trại của Trương Phụ, Nguyễn Cảnh Dị lập tức mắng vào mặt Phụ : “Tao định giết mày, lại bị mày bắt”. Sau đó ông không ngớt lời chửi rủa thậm tệ. Trương Phụ tức giận không đợi giải về Nguyễn Cảnh Dị về nước Minh, mà giết ông ngay tại chỗ, lại moi gan ăn. Nguyễn Cảnh Dị là một trong những danh tướng hàng đầu của nhà Hậu Trần, đến lúc sa cơ, ông buông lời thoái mạ là cố ý muốn cho giặc giết mình ngay, không muốn sống trong sự giam cầm của giặc.
Về phần Nguyễn Súy sau khi từ mặt trận Sái Già rút quân về núi, lại rút về phía nam chạy sang hướng các nước Chiêm Thành, Chân Lạp. Ông cũng không thoát khỏi sự truy lùng của quân Minh. Tại châu Minh Linh bấy giờ thuộc quyền của nước Chiêm Thành, Nguyễn Súy sa lưới giặc. Vua Trùng Quang đế cùng đoàn tùy tùng chạy sang đất Ai Lao, giặc đuổi theo ráo riết, cuối cùng bắt được Trùng Quang tại sách Cập Môn (Khăm Muội, Lào ngày nay). Trương Phụ sai giải Trùng Quang đế, Nguyễn Súy, Đặng Dung cùng các tướng Hậu Trần khác về nước Minh xử trí. Trên thuyền sang Yên Kinh nước Minh, vua Trùng Quang đế nhảy xuống biển tự vẫn. Đặng Dung cũng nhảy theo vua cùng chết. Nguyễn Súy thì không chết theo vua ngay, mà tìm cách gạ gẫm viên quan áp giải chơi cờ với mình. Trong lúc đánh cờ, Súy lấy bàn cờ đập viên quan áp giải nước Minh một phát chết tươi, rồi mới nhảy xuống biển tự vẫn.
Nhà Hậu Trần bắt đầu từ vua Giản Định đế dựng cờ khởi nghĩa năm 1407 đến khi vua Trùng Quang bị giặc bắt đầu năm 1414, tổng cộng được 7 năm. Đây cũng là quãng thời gian mà người Việt từ vua đến dân chinh chiến không ngừng để mong đánh đuổi giặc Minh. Các bộ sử xưa coi nhà Hậu Trần là một triều đại nối tiếp sau nhà Hồ, cũng là vẫn công nhận sự tồn tại của nước Đại Việt sau khi giặc Minh đánh bại họ Hồ. Chỉ sau khi Trùng Quang đế thất bại mới tính vào kỷ thuộc Minh. Riêng các sách sử hiện đại lại chỉ coi nhà Hậu Trần là một phong trào khởi nghĩa lớn, còn kỳ thuộc Minh tính từ khi nhà Hồ kháng chiến thất bại.
Cả hai trường phái nhìn nhận này điều đó lý lẽ riêng của mình. Công nhận nhà Hậu Trần là một triều đại phong kiến chính thức trong lịch sử Việt Nam là vì vua Hậu Trần thực sự là vua danh chính ngôn thuận được hầu hết nhân dân cả nước thời đó tin theo, và thực tế đã duy trì chủ quyền thường xuyên trên một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào, nhiều lúc kiểm soát cả những vùng lớn thuộc đồng bằng sông Hồng. Không công nhận nhà Hậu Trần là vì quân Hậu Trần chưa bao giờ chiếm được thành Đông Quan – thủ phủ của nước Đại Việt, cũng như chưa hề đánh đổ được ách đô hộ mà quân Minh đã thiết lập từ sau cuộc chiến Minh – Đại Ngu (1406 – 1407).
Mặc dù quan điểm của giới sử các đời có khác biệt, nhưng hầu hết đều bày tỏ sự thương tiếc, nể phục ý chí của Trùng Quang đế và các tướng sĩ Hậu Trần. Vua tôi Trùng Quang nhà Hậu Trần không chấp nhận sự dày vò trong tay giặc mà chọn cho mình một cái chết trong danh dự. Điều này hoàn toàn khác với cha con nhà Hồ Quý Ly đã chấp nhận trông chờ vào sự xót thương của giặc. Tuy thất bại, nhưng thanh danh của Trùng Quang đế và các danh tướng Hậu Trần luôn mãi rực sáng với sử xanh, được nhiều thế hệ người Việt tôn thờ. Đặc biệt ngoài sự tôn kính và biết ơn, sử sách còn dành cho vua tôi Trùng Quang đế lòng thương cảm sâu sắc vì ý chí vượt qua nghịch cảnh của họ, vì một sự nghiệp khôi phục sơn hà.
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên đã có những dòng đầy thương tiếc khi bắt đầu chép đến thời kỳ vua Trùng Quang: “Vua gặp thời loạn lạc, gắng chí mưu việc khôi phục. Nhưng vì trời không giúp nhà Trần nữa, nuốt hận mà chết. Thương thay!”
Khi Ngô Sĩ Liên chép xong những dòng cuối cùng về nhà Hậu Trần, sử gia lại tiếp tục có những nhận xét đầy tiếc nối và cảm thông: “Trùng Quang Đế lấy quân một lữ để mưu khôi phục đất nước trong lúc loạn lạc lưu ly, ví như dùng một cây gỗ để chống giữ ngôi nhà lớn đã đổ, chả lẽ không biết rằng thế không thể cứu vãn được nữa hay sao? Nhưng hãy làm hết bổn phận nên làm, ngõ hầu có thể vãn hồi được thiên mệnh !Còn như khi bị giặc bắt đem về, giữ nghĩa không chịu nhục, cam lòng nhảy xuống biển mà chết để cùng mất với nước, thực đúng là "quốc quân chết vì xã tắc". Các bề tôi của ngài như Cảnh Dị chửi giặc mong cho chúng giết ngay mình, Nguyễn Biểu kể tội ác của giặc rồi chết, đều là những người đáng ca ngợi cả.”
Khen ngợi chí khí của các bậc anh hùng nhà Hậu Trần rồi, Ngô Sĩ Liên cũng không quên chê trách những kẻ phản thần: “ … Chỉ có Hồ Ngạn Thần đi sứ làm nhục mệnh vua, đã bị giết rồi. Phan Liêu đem tình hình mạnh yếu trong nước đi báo cho giặc, tuy được thoát chết trong một thời, nhưng sau lại bị Thái Tổ Cao Hoàng Đế ta (tức vua Lê Thái Tổ Lê Lợi) giết chết. Than ôi, người làm tôi trung với nước tuy chết vì nghĩa không có tội gì, mà để lại tiếng thơm mãi mãi, còn bọn bất trung phản quốc, không khỏi tránh khỏi chết, lại còn để tiếng xấu ngàn năm, thực đúng như thế.”
Các sử gia thời kỳ phong kiến chịu ảnh hưởng nặng tư tưởng Thiên Thời, Thiên Mệnh nên khá nhất quán về nhận định cho rằng nhà Hậu Trần thất bại là do trời không giúp, hay nói cách khác là không gặp thời. Như sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn có nhận xét ngắn gọn về trận Sái Già: “Trời nuông Trương Phụ”. Nói rằng nhà Hậu Trần thất bại do không gặp thời, không gặp may thì không hẳn sai, nhưng chưa đủ. Đó chỉ là nguyên nhân khách quan. Còn nguyên nhân chủ quan chúng ta cũng cần phải nhìn nhận. Cần biết rằng nền tảng sức mạnh của nhà Hậu Trần không đến từ các vua Giản Định hay Trùng Quang, mà đến từ những thế lực quân phiệt như Trần Triệu Cơ, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân… Chính vì vua không có lực lượng ban đầu mà hoàn toàn phải dựa vào các tướng lĩnh của mình nên chưa bao giờ quyền lực vua Hậu Trần được trọn vẹn, và cũng chính vì thế mà giữa vua tôi luôn có sự nghi kỵ lẫn nhau.
Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết oan khuất của Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân khi mà vua Giản Định muốn dùng thủ đoạn đen tối để tập trung quyền lực về mình, gạt bỏ mối lo từ hai vị tướng nhiều công lao nhưng đồng thời cũng là đối tượng mà nhà vua phải san sẻ quyền lực. Sang đến thời vua Trùng Quang, nhà vua đã chập nhận việc trao nhiều quyền lực cho các tướng còn tự mình đóng vai trò thủ lĩnh tinh thần, để giúp cho nội bộ được đoàn kết. Thế nhưng tình thế lúc này đã chuyển xấu, hoàn cảnh khách quan đã quá bất lợi cho việc đánh đuổi quân Minh.
Nhà Hậu Trần nổi lên chống Minh không chỉ có ý nghĩa về mặt cổ vũ tinh thần độc lập, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm mà thực sự còn đóng vai trò thiết thực hơn thế rất nhiều. Với khoảng 7 năm ròng chiến đấu của tướng sĩ Hậu Trần, quân Minh đã không thể áp đặt được nền đô hộ lên đất nước ta. Vùng đất từ Thanh Hóa trở vào nam bấy giờ, một nước Đại Việt (dù không trọn vẹn) vẫn tồn tại. Ở đó, những giá trị văn minh người Việt đã được bảo tồn. Việc vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân dân ta dưới lá cờ đầu là nhà Hậu Trần khiến cho quân Minh bị hao tổn rất nhiều quân lực, tạo thuận lợi cho các phong trào khởi nghĩa về sau.
Ngoài ra, cuộc chiến đấu của nhà Hậu Trần đã làm chậm tiến trình đồng hóa của quân Minh, và đôi lúc buộc chúng phải có một số chính sách nhượng bộ nhất định trong cai trị. Không thể chỉ trông chờ vào quân viễn chinh và không thể diệt chủng người Việt, giặc Minh phải buộc lòng phải xây dựng một bộ máy ngụy quyền đồ sộ để cai trị, chấp nhận nới lỏng một số quyền tự trị đối với các thổ hào địa phương để làm dịu bớt sự chống đối.
Chính trong số các thổ hào này, một nhân vật kiệt xuất mới đã xuất hiện, chính là Lê Lợi – lãnh tụ của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại. Trương Phụ và quân tướng nước Minh những tưởng rằng đánh dẹp được nhà Hậu Trần là xong việc, nhưng kỳ thực đó chỉ là thắng lợi tạm thời đối với chúng mà thôi. Kẻ gieo gió rồi sẽ gặp bão. Chẳng bao lâu sau, những phong trào khởi nghĩa mới của người Việt lại bùng lên mà không cần phải nhân danh một dòng họ nào nữa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét