Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Ngắm tuyệt tác cầu đá cổ của chùa Bút Tháp

(Kiến Thức) - Sau nhiều thăng trầm lịch sử, những đường nét tinh xảo của cây cầu đá cổ trong chùa Bút Tháp vẫn được gìn giữ nguyên vẹn.
Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap
Bên cạnh tòa Tháp Báo Nghiêm nổi tiếng, chùa Bút Tháp (xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) còn sở hữu một công trình bằng đá độc đáo khác, đó là cây cầu đá cổ có tuổi đời 3 thế kỷ .Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-2
Cây cầu này bắc từ thềm Thượng điện của chùa qua một hồ sen nhỏ để xuống Tích thiện am.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-3
Cầu dài khoảng 4m, rộng 2m, gồm 3 nhịp uốn cong vồng.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-4
Hai bên cầu có hai hàng lan can, nơi chạm 12 bức phù điêu đá tinh xảo, cũng là nét đặc sắc nhất của cầu.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-5
Chủ để các bức chạm là hình ảnh chim muông, hoa lá, sự tích Phật giáo...Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-6
Nhìn chung, các tác phẩm này đậm nét tính chất nghệ thuật thiền, mang cùng phong cách với các bức chạm khắc đá khác trong chùaNgam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-7
Mỗi bên lan can của cầu đá chùa Bút Tháp có bốn trụ, đầu mỗi trụ tạc hình trái đầo tiên.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-8
Riêng hai đầu trụ ở đầu cầu bên Thượng điện tạc hình sư tử đá rất sống động.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-9
Từ Tích thiện am lên cầu phải bước qua hai bậc cấp bằng đá.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-10
Mặt cầu được lát bằng những phiến đá xanh lớn.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-11
Gần gầm cầu được ghép bằng 7 phiến đá theo dạng vòm cuốn.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-12
Sau nhiều thăng trầm lịch sử, những đường nét tinh xảo của cây cầu đá cổ vẫn được gìn giữ nguyên vẹn.Ngam tuyet tac cau da co cua chua But Thap-Hinh-13
Đây thực sự là một công trình đặc sắc hiếm có trong các chùa cổ Việt Nam.
Quốc Lê

Bút Tháp cổ tự
Nằm bên bờ đê Nam sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), chùa Bút Tháp trải qua hơn 8 thế kỷ với bao thăng trầm của lịch sử vẫn giữ được nét đẹp nguyên sơ, độc đáo về cảnh quan, kiến trúc, thu hút hàng trăm lượt du khách thăm quan mỗi ngày.
Trong cuốn Địa chí Hà Bắc xuất bản năm 1982 và cuốn sách Nghệ thuật Việt Nam (L’art vietnamien) của nhà nghiên cứu người Pháp L. Bezacier, xuất bản năm 1944 có nói về lịch sử hình thành ngôi chùa Bút Tháp. Theo các cuốn sách trên, chùa Bút Tháp có từ thời Trần, tức khoảng thế kỷ XIII. Cả hai cuốn sách đều đề cập việc Trạng nguyên Lý Đạo Tái (1254-1334) sau khi từ quan đã có thời gian về chùa Bút Tháp tu hành, lấy pháp danh là Huyền Quang.
 
Đến thế kỷ XVII, hoàng tộc triều Lê đóng góp tiền của tu sửa lại chùa Bút Tháp với quy mô rất lớn. Ở các giai đoạn sau, chùa tiếp tục được tu sửa nhỏ nhiều lần, nhưng về cơ bản, kiến trúc hiện nay chủ yếu của thế kỷ thứ XVII, gồm các hạng mục: tam quan, gác chuông, tiền đường, thiêu hương, tòa Thượng điện, tòa Tích thiện am, nhà trung, phủ thờ, hậu đường và hai dãy hành lang ở hai bên.
 


Chùa Bút Tháp còn có tên là Ninh Phúc Tự, nằm ở phía Tây thôn Bút Tháp xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh),
cách trung tâm Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông.


Chùa Bút Tháp là ngôi chùa nổi tiếng vùng Kinh Bắc, có lịch sử gần 800 năm,
là điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.


Chùa Bút Tháp được tu sửa nhiều lần, nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc đã có từ thời Hậu Lê, khoảng thế kỷ XV-XVIII.


Tòa Tích thiện am là một trong những công trình có lối kiến trúc độc đáo của chùa Bút Tháp.



Tòa Thượng điện có phần móng làm bằng đá xanh. Hành lang bao quanh Thượng điện
là các khối đá được chạm khắc tinh xảo.


Du khách say sưa ghi lại những hình ảnh kiến trúc độc đáo của chùa Bút Tháp.

Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, chùa Bút Tháp còn lưu giữ hàng trăm hiện vật, với nhiều loại chất liệu, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Trong đó, nổi bật nhất là pho tượng “Phật bà nghìn tay nghìn mắt” được đặt trong tòa Thượng điện. Pho tượng này được đánh giá là tác phẩm kiệt xuất của nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ XVII còn bảo lưu nguyên vẹn đến ngày nay, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2011.
 
Một điểm độc đáo khác của chùa Bút Tháp là nghệ thuật chạm khắc đá tinh xảo của các nghệ nhân dân gian. Tiêu biểu là hai công trình: hành lang tòa Thượng điện và tháp Báo nghiêm. Bao quanh Thượng điện cả 4 mặt là hành lang với một hàng lan can bằng đá xanh được chạm khắc rất điêu luyện các điển tích cổ như: “phượng vũ kỳ lân”, “song ngư hý nguyệt”, “cô lộ sơn lộc”, “tam dương triều nguyệt”, “tứ linh, tứ quý”, “lý ngư hoá long”, “tùng trúc đông thiên”.
 
Men theo lối hành lang Thượng điện, qua cây cầu đá du khách sẽ bắt gặp tòa Tích thiện am. Đây là kiến trúc đặc biệt nhất của chùa Bút Tháp. Toà này được kết cấu theo kiểu chồng diêm: tầng 1 gồm 5 gian, tầng 2 thu lại còn 3 gian, tầng ba thu lại còn 1 gian.

Toà Tích thiện am được dựng vào thế kỷ XVIII và đã được tu sửa nhiều lần. Trong Tích thiện am đặt Cửu phẩm liên hoa hay còn gọi là “Cối kinh”, đây là kiểu kiến trúc tiêu biểu của phái Mật Tông (bắt nguồn từ Tây Tạng, Trung Quốc).  Cửu phẩm liên hoa là tháp gỗ 8 mặt, cao 7,8m, xếp 9 tầng theo kiểu tòa sen, thể hiện 9 kiếp tu của đức Thích Ca Mâu Ni. Chín tầng Cối kinh tạc tượng Phật, hoa lá, chim muông, tập trung chủ đề khuyến thiện trừ ác, giới thiệu hành trang các vị tổ Thiền tông, các đại sư, các cấp độ thăng hoa trên đường lên cõi Niết bàn. Du khách có thể vừa tụng niệm một lời cầu ước và tự mình quay Cối kinh.

Người xưa tin rằng, mỗi một vòng xoay của Cối kinh tương đương với 3.542.400 lần tụng niệm và phật pháp sẽ mau chóng được chứng quả (lời cầu nguyện sẽ thành hiện thực). Hiện nay, ở Việt Nam chỉ còn ba cây Cửu phẩm liên hoa ở ba ngôi chùa thuộc dòng Trúc Lâm: Bút Tháp (Bắc Ninh) chùa Phẩm và chùa Giám (Hải Dương).



Tượng “Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay” là bảo vật nổi tiếng nhất của chùa Bút Tháp.
Pho tượng được tạc bằng gỗ quý, cao 3,7 mét, ngang 2,1 mét.
Bức tượng được nghệ nhân Trương Thọ Nam hoàn thành vào năm Bính Thân (1656). 


Phía sau tượng Phật Bà Quan Âm có 952 bàn tay, trên mỗi lòng bàn tay có khắc một con mắt đen dài.
Các bàn tay này được gắn thành 14 lớp từ trong ra ngoài, tạo thành vầng hào quang bao quanh tượng Phật Bà Quan Âm.


Các bức chạm khắc tượng gỗ ở chùa Bút Tháp được coi là hình mẫu tiêu biểu của nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ ở Việt Nam.


Bên trong tòa Tích thiện am đặt Cửu phẩm liên hoa làm bằng gỗ hình bát giác, gồm chín tầng, có thể xoay được.


Cầu đá nối liền Thượng điện với tòa Tích thiện am, gồm ba nhịp, hai bên lan can cầu có 6 bức tranh chạm khắc đá.


Tháp Báo nghiêm được ghép bằng đá xanh, không dùng vữa trát mạch. Trên tháp có 23 bức chạm khắc đá:
8 bức ở chân lan can, 8 bức ở tầng 1, 7 bức ở tầng 2, hai cột cửa tháp được trạm nổi hình rồng.


Tháp Báo nghiêm là công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa Bút Tháp.
Tháp được dựng vào thế kỷ XVII, gồm 5 tầng, có hình dáng như cây bút khổng lồ.


Các tác phẩm chạm khắc đá trên hành lang Thượng điện.


Bức tranh chạm khắc đá “hoa cúc”.


Những bức tranh chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp rất độc đáo, các nét chạm nhìn bề ngoài thì ngẫu nhiên, tự do,
nhưng hết sức chắt lọc, khái quát, làm nổi bật chủ thể.


Bức tranh chạm khắc đá “hoa sen”.
 
Ngày nay, Bút Tháp không chỉ là niềm tự hào của nền kiến trúc, điêu khắc cổ của Việt Nam, mà còn là nơi cửa Phật linh thiêng luôn chào đón phật tử và du khách khắp mọi miền đất nước tìm về chiêm bái Phật. Mỗi người hành hương về đây đều tâm niệm cho cuộc sống thanh cao, nhân hậu, bác ái từ bi. Chùa Bút Tháp còn là điểm đến lý tưởng cho du khách nước ngoài khi đến thăm Việt Nam và khám phá miền đất Kinh Bắc cổ kính. Mỗi ngày, chùa Bút Tháp đón hàng trăm du khách nước ngoài, trong đó đông đảo nhất là du khách Pháp./.
 

Thực hiện: Trần Hiếu

Tháp Tôn Đức ở chùa Bút Tháp

   
Chùa Bút Tháp tên chữ là Ninh Phúc tự một công trình kiến trúc mang dấu ấn văn hóa nổi bật dưới thời Lê - Nguyễn. Toàn bộ kiến trúc của công trình hoàn chỉnh theo lối nội công ngoại quốc với sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu gỗ các mảng chạm đá tạo nên nét cổ kính, uy nghiêm của di tích. Nghiên cứu chùa Bút Tháp không thể không nghiên cứu tháp Tôn Đức một di sản đặc sắc của quê hương Bắc Ninh.
Căn cứ vào các nguồn sử liệu và văn bia tại chùa cho biết, năm 1630, thiền sư Chuyết Chuyết một vị cao tăng tổ sư thứ 34 của thiền phái Tế Lâm cùng đệ tử là Minh Hành tới kinh thành Thăng Long truyền giáo. Sau thời gian ở kinh thành, thiền sư Chuyết Chuyết chọn Xứ Kinh Bắc làm địa bàn chính để giảng đạo. Khi tới chùa Bút Tháp một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, địa thế đẹp và cũng là nơi thiền sư Huyền Quang vị tổ sư thứ ba của thiền phái Trúc Lâm từng tu hành nhưng đang trong cảnh hoang tàn, ông đã có nguyện vong tu sửa ngôi chùa. Năm 1642, được sự hỗ trợ kinh phí của thành viên hoàng tộc chính quyền vua Lê - chúa Trịnh, thiên sư Chuyết Chuyết đứng ra xây dựng chùa Bút Tháp. Tuy nhiên, hai năm sau thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch việc trùng tu xây dựng được giao lại cho thiến sư Minh Hành. Hầu hết các công trình đồ sộ, các mảng điêu khắc gỗ đá cầu kỳ, những bức tượng quý của chùa Bút Tháp đều do thiền sư Minh Hành chỉ đạo thực hiện. Năm 1659, thiền sư Minh Hành viên tịch khi việc trùng tu tôn tạo chùa Bút Tháp cơ bản được hoàn thành.


Năm 1660, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc cho xây dựng tháp Tôn Đức để đặt xá lợi và tôn thờ đức cao tăng Minh Hành. Toàn bộ ngôi tháp được dựng bằng đá xanh gồm 5 tầng tháp và phần chóp mái với chiều cao hơn 11m. Tháp cấu trúc hình vuông thuôn nhỏ dần phía trên, đặt trên nền lát đá hình vuông có kích thước 3,56m x 3,56m. Phần chân đế tháp có hai bệ sen được chạm khắc theo kiểu nhìn nghiêng, cách điệu. Hai tầng bệ, cánh sen này được đặt ngược chiều nhau, ở giữa là một khối vuông đứng thành bốn góc, đế tháp chạm bốn gióng trúc. Nhìn toàn bộ phần đế ta thấy như một đài sen vuông nâng đỡ các tầng tháp.
 Tại tầng một của tháp có một khám thờ, trong có đặt tượng Thiền sư Minh Hành bằng đá ngồi trên đài sen vuông. Trần khám có một phiến đá chạm trổ cầu kỳ, họa tiết hình mặt trời ở chính giữa, xung quanh là các đao lửa và vân xoắn giao nhau như biểu tượng của bầu trời đầy mây.
Phân cách các tầng là những diềm mái được tạo bởi các thanh được đẽo vát hai đầu rất khéo giống như những đầu đao. Từ tầng ba trở lên, ở góc mũi đao có lỗ để treo chuông khánh. Mặt chính diện ở tầng 2 có chạm tên tháp và niên đại dựng tháp theo lối viết từ trên xuống. Ở tầng ba, có bốn mặt đều có biển chữ Phật khắc bằng chữ Hán khổ lớn, nét chữ đẹp, cân đối. Ba tầng trên tiếp theo không có trang trí. Đỉnh tháp là một bầu nước cam lồ đặt trên một khối trụ hình chóp nón cụt. Trên thân tháp, ở mặt sau khắc bài văn bia “Sắc dựng tháp Tôn Đức”. Nội dung bài văn khắc cho biết được tháp dựng để thờ Chính Giác Đại đức thiền sư hóa thân bồ tát, pháp danh Minh Hành. Ngoài ra, văn bia ghi chép về những người có công góp ruộng, tiền cúng vào chùa xây tháp.
Năm 2009, tháp Tôn Đức bị xuống cấp đã địa phương tiến hành tu bổ. Trong quá trình thực hiện đã phát lộ trong lòng tháp 2 cuốn kinh bằng đồng.  Kích thước sách rộng 14cm x 24,5cm. Quyển thứ Nhất 23 trang bia ghi dòng chữ Hán tên là “Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh Hoa Nghiêm Hải Hội Phạt Bồ tát”. Quyển thứ Hai với 33 trang ghi rõ “Kim Cương Bát nhã ba la mật kinh”. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng hai quyển sách đồng có niên đại năm 1660 là vật tuy táng cho thiền sư Minh Hành. Nội dung với nhiều thần chú ngữ trong nhiều bản kinh dùng trong các thời khóa tụng trong hành trì của chư tăng nhằm cầu vãng siêu trong tương quan Thiền - Tịnh - Mật của Phật giáo Lâm Tế. Đây là những sách đồng rất hiếm và có niên đại cổ nhất được phát hiện ở Việt Nam.
Trải qua hơn ba thế kỷ tồn tại, tháp Tôn Đức vẫn hiên ngang trước tác động của thiên nhiên, sự biến động của lịch sử trên mảnh đất này. Thông qua việc nghiên cứu công trình kiến trúc độc đáo tháp Tôn Đức giúp cho chúng ta có những cứ liệu xác đáng về kỹ thuật xây dựng đá, những hoa văn chạm khắc phản ánh nghệ thuật thời Lê - Trịnh một giai đoạn văn hóa của người Việt phát triển đến đỉnh cao. Đúng như nhận định của nhà điêu khắc Lê Đình Quý đánh giá “Tháp Tôn Đức tuy không cao, đẹp, tỷ mỷ như tháp Báo Nghiêm, nhưng ý nghĩa lịch sử và mỹ thuật đặc sắc cũng đáng để nghiên cứu nhằm soi tỏ những bí mật thuở xưa”.
Nguyễn Văn Luyện, Ban Quản lý di tích tỉnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét