Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017

Người phụ nữ Nam kỳ ra Huế kêu oan cho chồng

VĨNH THÔNG
Dưới triều vua Tự Đức, tại Nam kỳ đã có một người phụ nữ lặn lội ra kinh thành Huế để kêu oan cho chồng. Chồng được minh oan, bản thân bà còn được vua Tự Đức ban thưởng và thái hậu Từ Dụ tặng bảng vàng "Liệt phụ khả gia". Người phụ nữ đó là bà Nguyễn Thị Tồn, vợ của thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa.
Hành trình kêu oan
Bà Nguyễn Thị Tồn còn có tên trong gia đình là Diệu, quê ở thôn Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay là phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Thân phụ của bà là ông Nguyễn Văn Lý, làm chức quan trông coi về thuế ở địa phương, gọi là "Bạch đàm hộ trưởng".
 Một Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa và mộ gió bà Nguyễn Thị Tồn, tại Khu tưởng niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, Bình Thủy, Cần Thơ.
Chồng bà Nguyễn Thị Tồn là thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807- 1872), hiệu Chi Nghi, quê ở thôn Long Tuyền, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (nay là phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ). Thuở thiếu thời, cậu học trò Bùi Hữu Nghĩa tìm đến Biên Hòa tham học với thầy đồ Hoành (Nguyễn Phạm Hàm) và xin ở trọ nhà ông Nguyễn Văn Lý. Năm 1835, Bùi Hữu Nghĩa đậu Giải nguyên tức thủ khoa kỳ thi Hương ở Gia Định và được gọi là Thủ khoa Nghĩa. Người Đồng Nai đến nay vẫn còn truyền tụng câu ca dao:
"Đồng Nai có bốn rồng vàng Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi"
Năm sau (1836), Bùi Hữu Nghĩa dự kỳ thi Hội ở kinh đô nhưng không đậu, được bổ về làm Tri huyện Phước Long (Biên Hòa). Ông Nguyễn Văn Lý mến tài của cậu học trò từng trọ học ở nhà mình, nên đã gả trưởng nữ là Nguyễn Thị Tồn cho Thủ khoa Nghĩa. Một thời gian sau, Bùi Hữu Nghĩa được lệnh đổi về làm Tri huyện Trà Vang (tức Trà Vinh, bấy giờ thuộc tỉnh Vĩnh Long).
Năm 1848, xảy ra vụ xô xát ở rạch Láng Thé- nơi khai thác thủy sản lâu đời và được triều đình miễn thuế. Vì bênh người dân trước các thế lực cường hào, ông bị một số quan chức địa phương ghép tội xúi giục nổi loạn rồi bắt giam, giải về Gia Định chờ xử trí.
Hay tin dữ đó, bà Nguyễn Thị Tồn từ quê nhà Biên Hòa tìm đến Vĩnh Long. Theo truyền khẩu của dân gian, tại đây bà cậy nhờ một vị quan có quen biết là ông Quản Kiệm. Ông Quản Kiệm tìm cách kéo dài thời gian xử tử Thủ khoa Nghĩa để bà Nguyễn Thị Tồn ra kinh đô kêu oan. Từ Vĩnh Long, bà lên Định Tường (Tiền Giang) rồi quá giang ghe bầu vượt biển ra Huế. Thân gái dặm trường, vượt qua bao khó khăn trong những tháng ngày lênh đênh trên biển, cuối cùng bà cũng đến được kinh đô.
"Liệt phụ khả gia"
Ở kinh đô Huế, bà Nguyễn Thị Tồn tìm đến Hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, lúc bấy giờ đang là Lại bộ Thượng thư, Cơ mật viện đại thần. Sau khi hiểu rõ sự việc, cụ Phan đã tận tình giúp đỡ, viết cho bà tờ cáo trạng để trình lên Vua, đồng thời hướng dẫn bà đến Tam pháp ty.
Tam pháp ty là nơi xét xử tối cao, do nhà Vua trực tiếp điều hành. Tại đây, bà Nguyễn Thị Tồn đánh ba hồi trống kêu oan. Vua Tự Đức cho truyền người đánh trồng vào chầu, sau khi xem xong cáo trạng, Vua cho hội đình thần lại để nghe bà Nguyễn Thị Tồn biện bạch. Tại đây, bà trình bày oan án của chồng và vạch trần sự lộng hành, nhũng nhiễu của quan lại tỉnh Vĩnh Long. Vua nghe xong, sai bộ Hình xem xét rõ vụ việc.
Sau thời gian thẩm án, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa được trả lại sự trong sạch, miễn tội chết, nhưng phải sung quân trấn giữ vùng biên ải để lập công chuộc tội. Cảm khái trước lòng trung trinh tiết nghĩa của bậc nữ lưu xứ Nam kỳ, vua Tự Đức ban tặng bà võng điều có bốn lọng. Đồng thời giữ bà lại kinh thành một tháng để triều thần và các cung phi được gặp mặt người phụ nữ quả cảm hầu nêu gương sáng cho nữ lưu. Thái hậu Từ Dụ cũng truyền bà Tồn vào gặp mặt, hết lời khen ngợi và tặng cho tấm biển son chạm bốn chữ thếp vàng "Liệt phụ khả gia".
Chỉ dụ của nhà vua truyền đi, Bùi Hữu Nghĩa được ra khỏi tù, đi trấn giữ đồn Vĩnh Thông thuộc huyện Hà Âm, tỉnh An Giang (nay là huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang). Đây là vùng đất biên thùy, núi non và rừng rậm hiểm trở, được Thủ khoa Nghĩa mô tả lại qua những dòng thơ như: "Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy / Ðèn trơi leo lét dặm u lâm".
Người vợ hiền, quả cảm
Chồng thoát khỏi oan án chưa được bao lâu thì bà Nguyễn Thị Tồn lâm bệnh rồi qua đời ở quê nhà Biên Hòa vào ngày 24 tháng 11 âm lịch (không rõ năm nào). Điều đó làm Bùi Hữu Nghĩa vô cùng đau đớn, khóc vợ bằng lời những lời văn tế bi thiết:
"Cây dương liễu là tên ly biệt, trời dành cho em những điều tài sắc, mà mong sửa cuộc đoàn viên
Huê phù dung là giống đoạn tràng, trời sắm cho em những miếng thanh danh, mà nỡ báo nền phước lý".
Và câu đối:
"Ngã bần, khanh năng trợ. Ngã oan, khanh năng minh. Triều dã giai xưng khanh thị phụ.
Khanh bệnh, ngã bất dược. Khanh tử, ngã bất táng. Giang sơn ưng tiếu ngã phi phu".
(Ta nghèo, mình hay giúp đỡ. Ta tội, mình biết kêu oan. Trong triều khen mình mới xứng là vợ.
Mình bệnh, ta không thuốc thang. Mình chết, ta không chôn cất. Non sông cười ta chẳng đáng là chồng")
Ông cũng nhắc lại lòng quả cảm của vợ:
"Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng.
Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ băng đăng tai nghe đà khiếp vía".
Bùi Hữu Nghĩa tự quy cái chết của vợ do chính mình gây ra:
"Ta để nàng chẳng bằng tiền, bằng của mà bằng cái tư lường;
Ta giết nàng chẳng bằng gươm, bằng đao mà bằng cái khổ lụy".
Có thể nói, cuộc đời của bà Nguyễn Thị Tồn ảnh hưởng rất lớn đến đường công danh và sự nghiệp văn thơ của Bùi Hữu Nghĩa. Trên mảnh đất Nam kỳ vốn nổi tiếng là vùng đất của những người phụ nữ dịu dàng, kiên trinh mà hào hiệp, bà Nguyễn Thị Tồn đã để lại một hình mẫu về người phụ nữ Nam bộ luôn thủy chung, sẵn sàng hy sinh, nhưng cũng đầy bản lĩnh, thoát ly những ràng buộc khắt khe của Nho giáo. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét