Thứ Ba, 16 tháng 1, 2018

Chùa Đào Xuyên (Thánh Ân Tự)

Đông Tỉnh 
Chùa Đào Xuyên tên chữ Thánh Ân Tự, được xây từ thời Lê-Mạc (cuối thế kỷ 16) và vốn là tổ đình lớn thuộc một nhánh dòng thiền Lâm Tế. Xếp hạng: Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (năm 1990). Địa chỉ: thôn Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Toạ độ: 20°59’35"N 105°55’55"E, cách Hồ Gươm khoảng 15km về hướng đông-nam. Điểm dừng xe bus gần nhất: Trạm xăng Đa Tốn (bus 47A, 47B) hoặc Học viện Nông nghiệp Việt Nam (11, 59).

Du khách từ trung tâm Hà Nội có thể đi xe đến thăm chùa bằng cách vượt cầu Chương Dương rồi rẽ phải theo đường tỉnh lộ TL195 xuôi dọc đê sông Hồng, tới trạm xăng Đa Tốn nhớ rẽ sang trái. Hoặc nếu vượt cầu Thanh Trì rồi rẽ phải theo đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (còn gọi là quốc lộ 5B) thì đến Đa Tốn lại rẽ phải nữa.
Lược sử
Mở đầu bài minh khắc trên tấm bia đá dựng tại đây năm Ất Hợi niên hiệu Đức Long thứ 7 triều Lê Thần Tông (1635), nhân dịp chùa Đào Xuyên được tu tạo với công đức nhiều quý tộc họ Trịnh, sư trụ trì Huệ Trung viết: "Đất Bắc nước Việt / có chùa Thánh Ân / nhân bồi nền cũ / xưa có hình Kim"... Suy ra chùa được xây khá lâu trước đó dưới triều Mạc với quy mô hình “chữ Kim”, tức không lớn. Lúc đầu chùa chỉ thờ pho tượng Quan Âm Nam Hải, cũng mang phong cách nghệ thuật điêu khắc của thời Mạc.
Sơ Tổ dòng Lâm Tế Đàng Ngoài là Chuyết Chuyết sang Đại Việt năm 1630, vào Đàng Trong trước, rồi năm 1633 ra Thăng Long lưu lại ở chùa Khán Sơn hoằng pháp. Sau đó ngài dời về chùa Phật Tích ở Tiên Du (Bắc Ninh) và cuối cùng, sau khi chúa Trịnh cho trùng tu chùa Ninh Phúc (Bút Tháp) thì về chùa đó trụ trì cho đến khi viên tịch năm 1644. Tuy nhiên hiện nay vẫn không tìm được tư liệu hoặc hiện vật nào minh chứng cho hoạt động của chùa Đào Xuyên trong thế kỷ 18.
JPEG - 314.2 kb
Tượng Quan Âm Nam Hải chùa Đào Xuyên. Photo Quý Đoàn
Đến thế kỷ 19 thiền phái Lâm Tế mới được truyền từ chùa Bà Đá về chùa Đào Xuyên. Về việc này văn bia lập năm Bảo Đại 1942 có nói đến hai vị tổ Phổ Văn và Thông Mệnh liên tục truyền pháp suốt 80 năm ở vùng Nam Bắc Ninh. Hàng năm đến ngày 24 tháng Hai âm lịch là giỗ tổ Đào Xuyên thì các chùa cùng dòng Lâm Tế trong vùng đều về chùa để cúng Phật, thỉnh tổ.
JPEG - 248.9 kb
Tam quan chùa Đào Xuyên. Photo ©2015 NCCong
Chùa đã được sửa chữa và trùng tu nhiều lần. Ngoài các tấm bia nói trên còn có một số hiện vật khác như bia hậu năm 1846 đời vua Thiệu Trị ghi công đức giúp làng của bà Đỗ Thị Y, bia năm 1863 nói về việc tô lại tượng Phật, một chuông đồng đúc kèm bài minh vào năm Tân Mùi 1871, v.v.. Năm 1910 (Duy Tân 10) chùa đã được xây lại hoàn toàn và in đậm dấu ấn nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn.
Ngày 09-01-1990 chùa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Từ năm 1998 đến nay, chùa đã được trùng tu với quy mô lớn và xây thêm các công trình phụ, làm mất đi ít nhiều dáng vẻ cũ.
Kiến trúc
Từ đoạn đường đầu thôn Đào Xuyên đi qua cây cầu nhỏ bắc ngang sông Nghĩa Trụ, du khách đã có thể nhìn thấy cổng tam quan hai tầng đồ sộ và bức tường dài. Trước cổng chùa có đôi câu đối, tạm dịch như sau:
Đất xanh cỏ biếc lan thơm ngát
Vườn mát gió đưa tâm nhẹ thanh.
Trước cổng chùa Đào Xuyên. Panorama ©2015 NCCong
Du khách đi qua cổng phụ mới xây bên cạnh tam quan theo một lối rộng lát gạch dẫn đến sân trước và sân sau. Trong sân trước nhô lên 5 ngọn tháp mộ của các vị sư trụ trì đã khuất. Tòa tam bảo quay hướng đông-nam và có mặt bằng hình chuôi vồ, bao gồm tiền đường, thiêu hương, thượng điện. Phía bên trái tam bảo là hồ nước, ở giữa có dựng một đài hoa sen (Liên Hoa Đài), sao chép theo kiểu dáng và kích thước của chùa Một Cột (Ba Đình, Hà Nội).
JPEG - 204 kb
Liên Hoa Đài chùa Đào Xuyên. Photo ©2015 NCCong
Chùa xây theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” trong một khuôn viên khá lớn và khép kín. Tiền đường rộng 7 gian 2 dĩ, có những mảng trang trí trên kết cấu gỗ bên trong được chạm khắc tinh tế. Nhà bia là một phương đình nằm ở gần lưng thượng điện. Hai bên sân sau có hai hành lang dài, tạo thế bao quanh cùng với nhà Tăng, nhà Mẫu, nhà Tổ. Những diện tích đất còn lại phần nhiều là để trồng cây.
Lưu ý
Ngoài những tượng Phật hầu hết được tạo tác vào thế kỷ 18 và 19, trong chùa còn giữ được tác phẩm điêu khắc có từ thế kỷ 16, một trong hai pho tượng Quan Âm Nam Hải cổ nhất của Việt Nam. Tượng này làm bằng gỗ mít và cao 132cm, tạc vị Bồ tát với 652 cánh tay. Trong đó, 42 cánh tay lớn thể hiện nhiều động tác và hình dáng khác nhau như cầm linh khí, hoặc bắt quyết, v.v.. Hai đôi tay chính chắp trước ngực và đặt trong lòng. Phía sau có 610 cánh tay nhỏ xếp thành 5 lớp như nan quạt ở 2 bên sườn, xòe rộng tới 155cm và tạo nên một vòng hào quang tỏa sáng quanh người.
JPEG - 227.2 kb
Tiền đường chùa Đào Xuyên. Photo ©2015 NCCong
Đầu tượng đội mũ, có trang trí bằng những hạt tròn sơn son thếp vàng. Dáng tượng đầy đặn cân đối, thể hiện một phụ nữ Việt với khuôn mặt tròn, mắt lim dim nhìn xuống, mũi thon thẳng, má bầu, miệng nhỏ, tai dài đeo hoa, cổ cao nhưng chỉ có một ngấn, tóc buông sau lưng. Đứng ở góc nào trước tượng, ta cũng đều cảm thấy Quan Âm Bồ tát dường như đang nhìn về mình. Ngài ngồi yên trong thế “tham thiền nhập định” mà các cánh tay cứu thế vẫn như ôm chúng sinh vào lòng, toát lên vẻ sinh động vừa dịu hiền vừa khỏe đẹp. Ngang bụng ngài thắt đai rủ xuống hai bên. Tấm cà sa khoác trên vai người tạo thành nhiều nếp áo mềm mại chảy dài phủ tới tận tòa sen.
Sân tiền đường chùa Đào Xuyên. Panorama ©2015 NCCong
Tòa sen được đội trên đầu một con quỷ hình rồng từ mặt sóng biển nổi lên. Tòa này cao 50cm, bao gồm 13 cánh sen chính, 13 cánh phụ và 20 cánh đệm, bố trí xen kẽ thành 2 lớp trên, dưới. Đầu và tay rồng cao 23cm, mỗi cánh tay gân guốc đều có vảy và 3 chiếc móng sắc nhọn. Mặt rồng dữ tợn, mắt lồi nhìn thao láo ra phía trước, mồm rộng, mũi to căng phồng, tượng trưng cho các thế lực đen tối phải quy phục Phật pháp. Pho tượng và phần dưới đã tạo nên sự tương phản giữa cái thiện và cái ác, góp phần làm tăng thêm vẻ nhân hậu, thiện tâm và sự huyền diệu của Quan Âm.
JPEG - 251.4 kb
Cổng bên chùa Đào Xuyên. Photo ©2015 NCCong
Bệ tượng có mặt cắt ngang rộng 88cm, dài 125cm, hình lục giác không đều nhưng cân xứng. Chiều dọc cao 50cm chia làm 3 phần, phần giữa thu hẹp. Cả ba bộ phận gồm tượng, tòa sen và bệ như vậy tổng cộng cao 255cm. Trang trí trên bệ gồm các hình hoa văn cánh sen nổi, cúc dây, sống lá cách điệu, mây lửa, sóng nước,… nhờ đó mà có thể đoán rằng pho tượng đã được dựng vào cuối thế kỷ 16, cùng thời với kiệt tác Quan Âm Nam Hải thứ hai đặt tại chùa Nga My của làng Hoàng Mai, Hà Nội.
Di tích lân cận

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét