Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

Đền Ca Công


Đền Ca Công có từ đầu thời Hậu Lê, bên trong thờ 2 vị tổ nghề hát ca trù. Xếp hạng: Di tích lịch sử văn hóa quốc gia (năm 1989). Địa chỉ: thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Toạ độ: 21°09’00"N 105°53’22"E, cách Hồ Gươm chừng 23km về hướng bắc. Điểm dừng xe bus gần nhất: trường cấp III Liên Hà trên đường Liên Hà (bus 61), cách đền khoảng 500m.

Làng Lỗ Khê

Làng Lỗ Khê nằm trong vùng "Ngũ Giỗ" của huyện Đông Ngàn, thời phong kiến là một xã, sau trở thành một thôn của xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Làng xưa có 4 giáp chia theo xóm và gọi theo tên xóm: xóm Đông, xóm Tây, xóm Chùa, xóm Trước. Mỗi giáp cử 4 người giữ lềnh ở dưới tuổi 50 để điều hành các công việc do hội đồng làng phân bổ.
Làng hình thành từ lâu đời, căn cứ vào các địa danh gắn với sự tích thánh thần như: Cầu Bài là nơi Ông Dực, Ông Minh (tướng của vua Hùng, thành hoàng 2 làng Hà Lỗ, Hà Hương ở cạnh Lỗ Khê) bày binh bố trận để phục kích giặc Ân, Cầu Lợn là nơi đặt trạm hậu cần quân sự, Ao Hiềm là nơi lấy nước uống và nấu ăn cho binh lính, làng Lỗ Giao là nơi giao quân, v.v…
Đình làng Lỗ Khê ban đầu là nơi thờ Điện Hưng, một vị tướng tài có công giúp vua Hùng đánh lại nhà Thục sau này thờ thêm 3 vị thần hoàng nữa, gồm Thủy thần Út Đầu Rền với 2 vị tướng của Lê Lợi là Dương Trực và Tô Quang. Tháng 11- 2003, tại gò Đình Chiền, nơi dựng đình cũ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện các rìu đá, đồ gốm, có niên đại cách nay trên dưới 3500 năm.
Cạnh đình là nhà Văn chỉ, còn ngay sau lưng là ngôi chùa Lỗ Khê. Ngoài ra ở phía bắc đường Liên Hà còn có một ngôi chùa khác, mới được mở rộng. Tương truyền thời xưa nơi đó có 10 "Bụt đá" mọc lên tự nhiên. Dân làng bèn dựng một ngôi điện để bảo vệ và thờ Bụt, tên chữ là Quang Linh am điện (am thờ tâm linh trong sáng), sau đổi thành Quang Linh am tự, dân quen gọi là chùa Bụt Mọc. Do chùa toạ lạc trên một gò đất cao ngoài đồng, nên còn gọi là chùa Đồng.
Lỗ Khê thuộc vùng đồng trũng xung quanh một nhánh cụt của sông Hoàng Giang. Trước kia, cạnh nghề trồng lúa, dân làng còn tận dụng lợi thế của địa hình có nhiều ao chuôm để khai thác mọi nguồn thủy sản bằng các cách đăng đáy, kéo vó, quăng chài, tát vét…. Ngoài ra, dân làng có nghề nấu rượu, làm hàng xáo và mới gần đây là nghề làm đồ gỗ để thờ cúng. Nay làng có diện tích 183 ha, trong đó khu dân cư chiếm trên 20 ha đang đô thị hóa.

Đền Ca Công

Làng Lỗ Khê là một trong những cái nôi sinh ra nghệ thuật ca trù (còn gọi là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò hay hát ca công), một hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc có từ lâu đời của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Đền thờ Ca Công tại làng Lỗ Khê là một di tích vô giá. Trong đền còn lưu bản sao ngọc phả nói về nguồn gốc của ca trù, do Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận (1466) Hộ bộ Thượng thư Đào Cử soạn thảo năm Hồng Đức thứ 7 (1476). Đào Cử cũng là người viết ngọc phả cho đền thờ tổ của giáo phường làng Phú Đô (quận Từ Liêm).
Theo ngọc phả, Đinh Dự là con tướng quân Đinh Lễ. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, năm 1426 Đinh Lễ được Lê Lợi cử ra Bắc lập đồn đóng trại tại Lỗ Khê, ông đã cưới vợ và sinh con ở đây. Đinh Dự lớn lên giỏi đàn hát và lấy vợ tên là Đường Hoa Tiên Hải. Hai vợ chồng mở giáo phường dạy hát, nổi tiếng khắp vùng. Sau hai ông bà cùng mất một ngày, được dân tôn là tổ ca trù. Như vậy, ca trù đã có ở làng Lỗ Khê từ đầu thế kỷ 15. Đầu thế kỷ 20, khi ca trù thịnh hành, nhiều người đã ra Hà Nội mở ca quán tại phố Khâm Thiên.
Hiện vẫn còn ngôi đền thờ 3 gian 2 dĩ, năm 2001 đã được Nhà nước cấp kinh phí trùng tu. Trên chính điện treo bức hoành phi đề 4 chữ Hán “Sinh Tài Tự Điển”. Trong khám thờ có đặt tượng gỗ của hai vị tổ ca trù. Ngoài ra, còn 5 đạo sắc (sao lại) của các triều vua phong cho Đinh Dự là “Thanh Xà đại vương” (do ông sinh năm Tỵ) và vợ ông là “Mãn Đường Hoa công chúa”. Theo sắc phong ngày 15 tháng 6 năm Gia Long thứ 9 (1810) thì nguyên gốc của ca trù Lỗ Khê mà hai vị tổ đã thụ nghiệp là giáo phường huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa).

Lưu ý

Ngày 21-01-1989 đền Ca Công cùng với đình Lỗ Khê đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hàng năm tại đền có tổ chức lễ sinh nhật Đinh Dự vào ngày 5 tháng Tư (âm lịch) và giỗ kỵ hai vị tổ ca trù vào ngày 15-11. Xin nói thêm: Ca trù Việt Nam được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp kể từ ngày 01-10-2009.
Mỗi năm Lỗ Khê có hai kỳ hội làng theo âm lịch. Hội tháng Giêng nếu bội thu thì vào đám từ mồng 10 đến 27, nếu được mùa thì vào đám từ mồng 10 đến 19 và nếu mất mùa (bán trà) thì vào đám từ mồng 4 đến 9, có rước văn, rước mục lục, lễ đón quan anh làng kết nghĩa để cùng hát ca trù; ngoài ra còn có thi vật, cờ tướng và một số trò chơi khác. Hội tháng Tám từ mồng 10 đến 13, diễn lại sự tích tướng Dương Trực mổ trâu khao quân và dân làng.
Làng Lỗ Khê xưa kết nghĩa với làng Hương Trầm (xã Thụy Lâm) ở bên cạnh và làng Choá (huyện Yên Phong). Theo lệ cũ, hàng năm bất luận thời tiết thế nào, hai bên đều cử đoàn đại diện đến thăm nhau vào kỳ hội. Ngày mồng 10 tháng Giêng, làng Lỗ Khê mời quan anh làng Chóa (6-8 người), lễ vật của quan anh mang theo là hương đen đặc biệt. Vào ngày 14, mời làng Hương Trầm (80 người) vừa dự tiệc, nghe hát ca trù và cùng hát xướng tại đình.

Bản đồ trực tuyến

Di tích lân cận

  • Đình Hà Hương: thôn Hà Hương, xã Liên Hà; có từ trước năm 1629, bên trong thờ 2 vị tướng có công giúp nước dưới thời Hùng Vương thứ 6.
  • Đình Hà Lỗ: thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà; có từ trước năm 1629, thờ 2 vị có công với dân dưới đời Hùng Vương thứ 6.
  • Đình Hà Vỹ: thôn Đại Vỹ, xã Liên Hà; tương truyền có từ năm 1426, bên trong thờ 5 vị tướng có công giúp nước.
  • Đình Lỗ Khê: thôn Lỗ Khê, xã Liên Hà; có từ giữa thế kỷ 15, thờ 2 vị tướng thời Hùng Vương và 2 vị tướng khác theo Lê Lợi khởi nghĩa.

Bài và ảnh: Đông Tỉnh NCCong

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét