Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2018

Hồ Quý Ly chờ bên Trung Quốc nội chiến mới cướp ngôi nhà Trần


Tại sao Quý Ly lại chọn đúng 1400 mới chính thức soán ngôi mà không làm sớm hơn hay muộn hơn? Đó là vì Quý Ly nhân lúc Trung Quốc đại loạn khi quân đội triều đình của Minh Huệ Tông đang đánh nhau tưng bừng với quân Yên của Chu Đệ
Trong bài trước, chúng tôi đã có phân tích việc Hồ Quý Ly không có đủ thời gian để ổn định cục diện, vỗ về dân chúng trước khi có cuộc chiến với nhà Minh. Từ lúc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần cho đến khi bị quân Minh bắt sống tại Kỳ La chỉ vỏn vẹn 6 năm, khoảng thời gian quá ngắn để xây dựng quân đội, thu phục nhân tâm.
Không ít người cho rằng Hồ Quý Ly thực hiện việc cướp ngôi nóng vội, không quan sát kỹ cục diện để cuối cùng chuốc tai vạ cho dòng họ, đẩy đất nước vào cảnh bị phương Bắc giày xéo. Nhưng trên thực tế thì Hồ Quý Ly đã toan tính rất kỹ và lựa chọn thời điểm chớp thời cơ khá thông minh. Chỉ tiếc là tính khéo đến mấy cũng không thể lường hết dòng chảy lịch sử.
Sau khi thượng hoàng Trần Nghệ Tông năm 1394 qua đời thì quyền hành rơi hết vào tay cha con Hồ Quý Ly. Ngay tháng 2.1395, Quý Ly sai giết tôn thất là Nguyên Uyên, Nguyên Dận và sĩ nhân là Nguyễn Phù. Cùng năm, ép vua Trần Thuận Tông Bổ dụng Quý Ly giữ chức Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên Trung Vệ quốc đại vương. Rồi lại ép phải cho Quý Ly đeo phù hiệu kim lân, lại được ở tại phía hữu sảnh và đài, đặt tên chỗ ở là "Hoạch Lư". Nhân đấy, Quý Ly biên dịch thiên "Vô dật" ra quốc ngữ để dạy quan gia. Mệnh lệnh ban ra thì xưng là phụ chính cai giáo hoàng đế (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
Đầu 1397, Quý Ly sai Lại bộ thượng thư Đỗ Tỉnh đi Thanh Hoá dựng kinh đô mới. Tháng 4, Quý Ly muốn dời kinh đô vào Thanh Hóa, mới đổi Thanh Hóa làm Thanh Đô trấn, lại đổi Quốc Oai lộ làm Quảng Oai trấn, Đà Giang lộ làm Thiên Hưng trấn, Nghệ An lộ làm Lâm An trấn, Trường Yên lộ làm Thiên Quan trấn, Diễn Châu lộ làm Vọng Giang trấn, Lạng Sơn phủ làm Lạng Sơn trấn, Tân Bình phủ làm Tân Bình trấn. Tháng 10, mùa đông. Quý Ly bắt em nhà vua rời kinh đô vào Thanh Hóa và giết hai người cung nữ.
Khâm Định Việt sử cương mục thông giám chép: Nhà vua đi An Sinh để bái yết lăng tẩm, Quý Ly bắt ép xa giá cùng đi đến sông Đại Lại; lúc ấy cung nhân là Trần Ngọc Kỵ và Trần Ngọc Kiểm nói kín với nhà vua là nếu thiên đô, tất nhiên có việc cướp ngôi. Quý Ly nghe biết chuyện cho rằng viên miếu lệnh là Lê Hợp và viên phụ đạo ở Cổ Lũng là Lương Ông đều đồng mưu, nên giết cả mấy người này. Rồi sai Hành khiển Lương Nguyên Bưu dỡ các điện Thụy Chương và Thiên An bắt dân các châu Từ Liêm và Nam Sách chở gạch ngói và gỗ đến kinh đô mới: khi đi đường thủy, gặp gió bão, bị chìm đắm mất quá nửa.
Các biểu hiện như giết tôn thất, đeo phù hiệu kim lân, đặt chỗ ở và đặc biệt là dời đô đã cho thấy dã tâm cướp ngôi của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên, Quý Ly có thể chưa dám vì sợ việc thí ngôi của mình tạo cớ cho Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phát động chiến tranh.
Năm 1398, khi Minh Thái Tổ ốm rồi mất và cháu là Minh Huệ Tông lên ngôi thì trong năm đó, Hồ Quý Ly đã thực hiện việc ép con rể mình là Trần Thuận Tông phải nhường ngôi cho cháu ngoại của mình là Trần Thiếu Đế để đi tu đạo. Sử chép: “Lúc ấy Thái tử mới 3 tuổi, khi nhận tờ chiếu truyền ngôi, không biết lạy. Quý Ly sai Thái hậu (tức con gái của Hồ Quý Ly) lạy đằng trước để Thái tử theo sau. Quý Ly tự xưng là Khâm đức Hưng liệt đại vương”.
Hồ Quý Ly cho cháu ngoại ngồi ngai vàng được gần 2 năm nữa mới ép nhường ngôi. Sử chép: Tháng 2, mùa xuân (1400). Quý Ly truất nhà vua làm Bảo Ninh đại vương, Quý Ly tự xưng hoàng đế. Tại sao Quý Ly lại chọn đúng 1400 mới chính thức soán ngôi mà không làm sớm hơn hay muộn hơn? Đó là vì Quý Ly nhân lúc Trung Quốc đại loạn khi quân đội triều đình của Minh Huệ Tông đang đánh nhau tưng bừng với quân Yên của Chu Đệ (từ giữa tháng 7.1399). Hồ Quý Ly muốn tranh thủ lúc đó cướp ngôi thì người Minh đang bận đánh nhau sẽ không có tâm trí nhòm ngó nước ta.
Nhưng tiếc là Quý Ly dù tính toán giỏi nhưng không ngờ được rằng cuộc nội chiến ở Trung Quốc lại kết thúc chóng vánh. Các cuộc nội chiến ở Trung Quốc thời Tam Quốc, Nam Bắc triều hay Ngũ Hồ thập lục quốc, Ngũ đại thập quốc phải mất cả trăm năm hay ít nhất vài chục năm mới kết thúc. Ngay cả Chu Nguyên Chương cũng phải mất hơn 10 năm mới đánh bại được quân Nguyên và các thế lực cát cứ khác để tạo lập nhà Minh. Còn Chu Đệ từ lúc phát động đảo chính tại Bắc Bình cho đến khi tiến quân vào Nam Kinh, lật đổ Kiến Văn hoàng đế, tức Minh Huệ Tông thì chỉ mất có 3 năm.
Cuối 1401, có vẻ như Hồ Quý Ly đã đoán định được cuộc chiến chóng vánh từ Trung Quốc nên đi nước cờ nhường ngôi cho Hồ Hán Thương. Sở dĩ Hồ Quý Ly không truyền ngôi cho con cả Hồ Nguyên Trừng mà truyền ngôi cho con thứ Hán Thương là vì mẹ Hán Thương vốn là con gái vua Trần Minh Tông. Như thế thì việc để Hán Thương nối dòng họ Trần sẽ dễ ăn nói hơn với cả dư luận trong nước cũng như đối phó khủng hoảng ngoại giao, tránh tạo cớ cho nhà Minh bắt bẻ. Thế nên ngay khi Hán Thương lên ngôi thì việc đầu tiên là: Hán Thương sai sứ sang nhà Minh nói dối là dòng dõi họ Trần đã tuyệt tự, xin lấy danh nghĩa là cháu ngoại tạm quản lý công việc trong nước.
Nhưng Chu Đệ cũng cáo già và nuôi dã tâm bành trướng lớn. Sau khi lên ngôi vào 1402 thì Chu Đệ bắt đầu sinh sự với lý do Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Cuối cùng là cuộc chiến không tránh khỏi theo đúng quy luật bang giao giữa ta và các triều đại Trung Quốc phong kiến: Mỗi khi nước ta có việc thay đổi triều đại thì triều đình phương Bắc kiếm cớ can thiệp thô bạo vào nước ta với mục đích cuối cùng là áp đặt nền đô hộ.
Anh Tú

Phân tích việc Hồ Quý Ly ép cháu nhường ngôi dù 'chưa có điềm lành'

Điềm lành khi Lý Thái Tổ rời đô ra Thăng Long - Ảnh: Internet
Chỉ có một điều lạ là khi chuyển ngôi Trần sang Hồ thì sử chẳng chép lấy một dòng nào về điềm lành xuất hiện cả. Với một ngày rành điển tích và "thích làm màu mè" như Hồ Quý Ly mà thời điểm nhận long bào không sáng tác ra được điềm lành gì thì cũng lạ.
Trong số trước, chúng tôi đã nhắc đến chuyện năm 1400, Hồ Quý Ly tranh thủ khi Trung Quốc chìm trong nội chiến để tiến hành cuộc đổi ngôi. Cuộc đổi ngôi này là vở kịch hay nhưng sử nhìn chung ít đề cập. Trong cuộc đổi ngôi này, Hồ Quý Ly đã ép Trần Thiếu Đế, cũng là cháu ngoại của mình phải nhường ngôi. Sử chép: "Tháng 2, mùa xuân (1400). Quý Ly truất nhà vua làm Bảo Ninh đại vương, Quý Ly tự xưng hoàng đế".
Trước thời Hồ Quý Ly thì nước ta trải qua 3 lần đổi ngôi. Cuộc đổi ngôi đầu tiên là Dương Vân Nga với tư cách Thái hậu đã trao long bào cho Lê Hoàn. Cũng có rất nhiều điều tiếng trong cuộc đổi ngôi từ Đinh sang Lê nhưng chúng tôi chưa bàn ở đây. Cuộc đổi ngôi thứ 2 là vua Lê Long Đĩnh băng hà trong khi con trưởng Lê Cao Sạ vẫn còn ít tuổi, Đào Cam Mộc dẫn đầu các quan đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Cuộc đổi ngôi Lê - Lý cũng xin bàn trong dịp khác. Cuộc đổi ngôi Lý - Trần thì hình thức có vẻ dễ dàng hơn khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Nhưng cuộc đổi ngôi Lý - Trần cũng có nhiều chi tiết đáng bàn bạc, suy ngẫm.
Trong 3 cuộc đổi ngôi trên, người nhận ngôi đều rơi vào thế bị "ép nhận long bào". Và cứ khi có long bào thì cũng có xuất hiện các thông tin dọn đường dư luận, để dân chúng tin tưởng họ có chân mệnh thiên tử mới. Với Lê Hoàn là "Trước kia, mẹ ngài là Đặng thị đang có thai, chiêm bao thấy bụng nở ra hoa sen, rồi kết thành nhân sen ngay. Đặng thị đem chia cho mọi người, riêng mình lại không ăn. Lúc tỉnh dậy, lấy làm lạ lắm.Kịp khi sinh con, thấy con mặt mũi hình dáng khác thường, Đặng thị nói với người ta rằng: "Thằng cháu này mai sau chắc sẽ làm nên sang cả, chỉ hiềm tôi không kịp hưởng lộc thôi!"
Với Lý Công Uẩn là: "Khi còn nhỏ, thường học nhà sư Vạn Hạnh. Sư Vạn Hạnh lấy làm lạ, nói rằng: "Người này không phải tầm thường, mai sau tất làm chúa cả nước". Với Trần Cảnh thì có tích được Lý Chiêu Hoàng té nước ướt áo rồi được diễn giải là "cho nước". Ngay cả vua Đinh Tiên Hoàng khi lên ngôi thì cũng có truyện mang đậm tính truyền thuyết: "Trong nhà nuôi được con lợn, thừa lúc mẹ đi vắng, Vua mổ lợn khao bọn trẻ rồi di cư đến Đào Úc Sách. Bà mẹ sợ, mang chuyện ấy nói với chú Đinh Dự, Dự cầm dao đi tìm, đuổi đến bờ sông, Vua chạy sa vào bùn lầy, thấy có con rồng vàng, đỡ hai bên Vua sang qua sông. Ông chú sợ bỏ về, Vua bèn theo bọn ngư hộ làm nghề đánh cá, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ có tia sáng tròn, hỏi cớ sao, và nói rằng: "Anh này ngày sau cao quý không thể nói được".
Quay lại việc Hồ Quý Ly cướp ngôi. Hồ Quý Ly cũng muốn cuộc đổi ngôi của mình diễn ra theo hình thức bị thiên hạ ép nhận nhưng ông vẫn sợ mang tiếng là cướp ngôi của cháu ngoại nên còn làm màu mè hơn rất nhiều. Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép: "Quý Ly nói thác ra rằng nhà vua truyền ngôi cho. Bầy tôi khuyên mời lên ngôi vua. Quý Ly giả vờ thoái thác nói: "Ta sắp đến ngày xuống lỗ rồi, nếu làm như thế, thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất được?". Bầy tôi ba lần dâng tờ biểu, mới nhận lời, xưng là hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu và đổi họ mình là họ Hồ, truất Thiếu Đế làm Bảo Ninh đại vương, vì Thiếu Đế là cháu ngoại, nên không giết chết".
Hồ Quý Ly khi đó cũng ngoài 60 nên nói sắp đến ngày xuống lỗ cũng không sai. Việc Hồ Quý Ly nói nếu cướp ngôi không còn mặt mũi nào nhìn tiên đế (tức Trần Nghệ Tông) cũng đúng. Năm 1394, Nghệ Tông đã có ý nghi Quý Ly cướp ngôi nên dùng chiêu tâm lý chiến bằng việc lôi một loạt điển tích ra đánh động vào tâm khảm Hồ Quý Ly vì Nghệ Tông biết Quý Ly rất rành sử, điển tích, thông hiểu Nho giáo.
Sử chép: Thượng hoàng triệu Quý Ly vào cung bảo rằng: "Bình chương là họ thân thích nhà vua, hết thảy công việc nhà nước đều ủy thác cho khanh cả, nay thế nước suy yếu, mà trẫm đã đến tuổi già lẫn, sau khi trẫm qua đời, nếu quan gia có thể giúp được thì giúp, nếu là người hèn kém ngu tối, thì khanh tự nhận lấy ngôi vua". Quý Ly tháo bỏ mũ, lạy sát đầu xuống đất vừa khóc vừa tạ tội, rồi chỉ lên trời thề rằng: "Nếu tôi không làm thế nào hết trung hết sức để phò tá quan gia, thì dòng dõi nhà tôi sau này sẽ bị trời chán ghét". Quý Ly lại nói: "Lúc Linh Đức vương làm điều bất đức, nếu không nhờ oai linh bệ hạ thì tôi đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được đến ngày nay nữa? Tôi dầu nát thịt nát xương cũng chưa thể báo đáp ơn bệ hạ lấy một phần trong muôn phần, còn đâu dám mưu đồ sự khác, xin bệ hạ soi xét tấm lòng ấy cho hạ thần, không nên lo nghĩ quá".
Chiêu này là Nghệ Tông học chiêu Lưu Bị gửi gắm con côi cho Khổng Minh và Hồ Quý Ly cũng diễn như Khổng Minh. Trước đó, Thượng hoàng sai vẽ tranh Chu Công giúp Thành vương, Hoắc Quang giúp Chiêu Đế, Gia Cát Lượng giúp Hậu Chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông gọi là "tứ phụ đồ", ban cho Quý Ly và dặn bảo rằng: "Khanh giúp quan gia cũng nên theo như những người ấy".
Điều Nghệ Tông không thể ngờ sau đó Hồ Quý Ly không phải trung thần kiểu Khổng Minh hay Tô Hiến Thành gì cả mà giết luôn Trần Thuận Tông (con Trần Nghệ Tông) rồi ép cháu ngoại Trần Thiếu Đế (cũng là cháu nội Trần Nghệ Tông) nhường ngôi.
Chỉ có một điều lạ là khi chuyển ngôi Trần sang Hồ thì sử chẳng chép lấy một dòng nào về điềm lành xuất hiện cả. Với một ngày rành điển tích và "thích làm màu mè" như Hồ Quý Ly mà thời điểm nhận long bào không sáng tác ra được điềm lành gì thì cũng vô cùng lạ.
Chúng tôi mạo muội đoán trước thời điểm cướp ngôi thì kiểu gì Hồ Quý Ly cũng phải "cho" xuất hiện những điềm lành kiểu như Lân vàng xuất hiện hay Mây hình rồng để mê hoặc lòng người. Nhưng có lẽ các chi tiết này không được sử gia đời sau chép để khỏi thừa nhận sự chính danh của nhà Hồ mà thôi. Ngay cả khi Hồ Quý Ly rời đô về Tây Đô thì cũng chẳng thấy sử nào chép về rồng vàng xuất hiện như khi Lý Công Uẩn rời đô về Thăng Long. Phải chăng một triều đại bị hậu thế coi là ngụy triều thì các chuyện về điềm lành không thể tồn tại?

Bàn về vở kịch Hồ Quý Ly 3 lần bị ép lên ngôi

Tranh vẽ Tào Hoán nhường ngôi cho Tư Mã Viêm
Vở kịch 3 lần nhường ngôi do mấy ông vua Trung Quốc sáng tạo ra nhưng bị mai một, tuyệt tích và chính Hồ Quý Ly là người sau này tiếp thu diễn lại rất ngọt. Nhưng kết cục cho Hồ Quý Ly lại cay đắng.
Chuyện nhà Trần chuyển giao cho nhà Hồ hay Trần Thiếu Đế truyền ngôi cho... ông ngoại Hồ Quý Ly được ghi vắn tắt trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục là: "Quý Ly nói thác ra rằng nhà vua truyền ngôi cho. Bầy tôi khuyên mời lên ngôi vua. Quý Ly giả vờ thoái thác nói: "Ta sắp đến ngày xuống lỗ rồi, nếu làm như thế, thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất được?". Bầy tôi ba lần dâng tờ biểu, mới nhận lời".
Sử chép bề tôi 3 lần dâng biểu thì Hồ Quý Ly mới nhận lời lên ngôi nhưng có lẽ là các sử quan ngày xưa ghi có điều gì không được đầy đủ lắm về chi tiết này. Đơn giản là vì các bề tôi không đủ tư cách để dâng biểu 3 lần đòi Hồ Quý Ly lên ngôi trong bối cảnh vua Trần khi đó vẫn còn ngồi đó (dù chỉ là hư vị). Hồ Quý Ly thừa hiểu rõ nếu không được chính đương kim hoàng đế ép lên ngôi mà nghe lời người khác tự ý lên ngôi thì vẫn là cướp ngôi. Là người thông thuộc chuyện sử sách, điển tích và có tài dàn kịch, diễn kịch thì Hồ Quý Ly đâu có thể làm vở kịch sơ sài là "Bầy tôi ba lần dâng tờ biểu, mới nhận lời". Theo bối cảnh khi ấy, tin rằng Hồ Quý Ly phải ép cháu ngoại Thiếu Đế 3 lần ra biểu nhường ngôi cho "hợp hiến" chứ không thể chỉ dựa vào mỗi chuyện "bề tôi dâng biểu" mà vội vàng lên ngôi được.
Và câu hỏi đặt ra là tại sao phải là 3 lần mời qua mời lại mà không mời 1 lần rồi lên ngôi luôn cho khỏi mất thời gian (đáng tiếc là sử không chép 3 lần mời lên ngôi này kéo dài trong thời gian bao lâu để đo độ công phu của vở kịch)?. Đúng là trong tiền lệ sử nước ta trước thời điểm khi đó thì chưa có chuyện ai đó lại được dâng biểu mời lên ngôi đến 3 lần cả nhưng trong lịch sử thời trước đã có những tuồng diễn kịch hấp dẫn này. Con số 3 được coi là chuẩn mực để ca ngợi một cuộc đổi ngôi thuận lợi.
Khi Lưu Bang đánh bại Hạng Võ tại Cai Hạ năm 202 TCN, các tướng đòi Lưu Bang lên ngôi nhưng người sao này là Hán Cao Tổ cũng phải từ chối đủ 3 lần mới dám nói: "Các ông nhất định cho rằng làm như vậy có lợi cho xã tắc thì tôi đành nhận". Khi Hán Quang Vũ đế Lưu Tú đánh bại các thế lực vào năm 25 thì các tướng cũng đòi lên ngôi, ông còn "tỏ ra sợ hãi" từ chối 3 lần, đòi suy nghĩ trong 6 tháng mới xưng đế mở ra nhà Đông Hán. Thời điểm Lưu Bang, Lưu Tú lên ngôi là lúc các vua cũ không còn nên chỉ cần các tướng nói là đủ ngồi lên ngai vàng.
Nhưng đến thời Hán Hiến đế truyền ngôi cho Ngụy Văn đế thời Tam Quốc thì đúng là vua cũ chuyển ngôi cho vua mới nên màn kịch rất kỳ công. Trong khoảng một tuần từ 13.10.220, Hán Hiến đế 3 lần tuyên chỉ nhường ngôi kèm ấn tín nhưng Tào Phi "kháng lệnh" không nhận. Mãi đến lần thứ 4, Tào Phi mới "đành phải tuân chỉ". Các đại thần còn bày ra một nghi thức nhường ngôi long trọng để Hán Hiến Đế bưng Ngọc tỉ dâng cho Tào Phi để tỏ rằng hoàn toàn tự nguyện. Chuyện Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán 40 năm sau nhường ngôi cho Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm cũng y chang như vậy: 3 lần từ chối, lần thứ 4 mới miễn cưỡng đồng ý và bắt vua cũ phải dâng ngọc tỷ.
Sau này ở Trung Quốc, việc chuyển ngôi giữa nhà Tấn sang Lưu Tống, từ Lưu Tống sang Nam Tề, từ Nam Tề sang Lương, từ Lương sang Trần hay sau này là từ Bắc Chu sang Tùy đều thiện nhượng 1 lần chứ không diễn trò 3 lần từ chối mới lên ngôi vì mất thời gian và nặng về hình thức trong khi các vua thời ấy đều sợ để lâu sinh biến.
Trò này cũng không xuất hiện ở các triều đại sau đó ở Trung Quốc như Tống, Nguyên, Minh, Thanh và không thể ngờ nó lại diễn ra ở nước ta thời Hồ Quý Ly. Tin rằng Hồ Quý Ly cũng diễn vở kịch không hề kém hấp dẫn so với Tào Phi hay Tư Mã Viêm, chỉ có điều sử không chép tường tận (có lẽ các sử gia coi Hồ Quý Ly là nghịch tặc, coi nhà Hồ là ngụy triều nên không chép kỹ những chi tiết mà họ cho là mị dân chăng?)
Trò 3 lần từ chối rồi lên ngôi tuy mất thời gian nhưng đó là cách tốt nhất để Hồ Quý Ly đo được xem sự phản kháng từ phía tông thất nhà Trần, quan lại triều đình thế nào. Khi trò 3 lần từ chối được diễn ra thuận lợi thì Hồ Quý Ly có thể yên tâm lên ngôi hơn, dễ ăn nói với thiên hạ hơn. Chỉ tiếc rằng vở kịch đó tuy diễn ra trót lọt nhưng kết cục của Hồ Quý Ly không được như Tào Phi hay Tư Mã Viêm.

Lê Hoàn được thái hậu Dương Vân Nga truyền ngôi và cũng không cần chờ đến biểu tấu thứ 2 để lên ngôi thay Đinh đế Toàn. Sử chép: (Phạm) Cự Lạng và các tướng đều mặc quân phục, vào thẳng điện đình, bảo mọi người rằng: "Nay, thưởng người có công mà phạt kẻ không vâng mạng, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao, thì ta biết cho? Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập đạo tướng quân lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân?". Quân sĩ đều tung hô "vạn tuế". Dương hậu thấy ai cũng một lòng hả hê mến phục, liền sai lấy áo long cổn khoác lên mình Lê Hoàn rồi chính Dương hậu khuyên mời Lê Hoàn làm vua. Hoàn bấy giờ mới lên ngôi, đổi niên hiệu, giáng chức Đế Toàn xuống làm Vệ vương như cũ.
Khi Lý Công Uẩn được Đào Cam Mộc mời lên ngôi thì con của Long Đĩnh là Sạ còn chưa kịp nối ngôi. Sử chép: Cam Mộc sợ việc chậm lại, sẽ sinh biến chăng, mới đem việc đó nói với khanh sĩ và các quan, thì không ai dám có ý gì khác cả. Ngay hôm ấy, mọi người hội họp ở nhà triều đường, cùng nhau bàn rằng: Ngày nay, đối với nhà Lê, ức triệu người đều khác lòng, quan và dân đều lìa bỏ. Nếu không nhân dịp này, tôn quan thân vệ lên làm thiên tử, lỡ có biến cố gì xảy ra, thì bọn ta liệu có giữ được khỏi mất đầu không? Bấy giờ các quan mới cùng nhau phò Công Uẩn đến nhà chính điện lên ngôi hoàng đế. Trăm quan thụp lạy, đâu đấy tung hô "vạn tuế". Công Uẩn đại xá cho cả nước, lấy sang năm làm năm đầu một niên hiệu mới.
Còn việc Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh cũng chỉ ra chiếu đơn giản: "Trẫm xét thấy ngôi báu rất là trọng đại mà trẫm là vua đàn bà, phải gánh vác lịch số do trời giao cho, riêng những nơm nớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu. Nghĩ sao tìm được hiền nhân quân tử, để giúp đỡ về chính trị. Duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoàng, thực có phong độ bậc quân tử, có thể nhường cho ngôi báu để chống đỡ trong buổi gian nguy. Vậy rất mong Trần Cảnh đồng lòng hợp sức, dẹp yên loạn lạc, cứu vớt sinh dân, để cùng hưởng phúc thái bình". Thế là chuyện nhà thành chuyện nước.
Anh Tú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét