Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018

Huyền bí ngôi miếu hàng trăm năm tuổi thờ bà Chúa Ngọc


Nằm trên bãi bồi giữa cửa biển Nam Ô, phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng, miếu Bà Chúa Ngọc (còn được gọi miếu Bà Chúa sông Cu Đê) đã có hàng trăm năm tuổi và gắn liền với lịch sử của vùng đất nơi đây.
Đây là gò đất “nhất thiên” nằm giữa lòng sông Cu Đê nơi ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ngọc mang trên mình nhiều câu chuyện huyền bí.
Hình thành và tồn tại hơn 400 năm trên gò đất bồi giữa lòng sông Cu Đê, miếu Bà trở thành nơi được người dân không những ở làng Thủy Tú mà khắp các vùng tôn kính. Tại sao miếu Bà Chúa Ngọc lại được xây dựng trên chính gò đất giữa lòng sông Cu Đê đến nay vẫn không ai biết rõ.
1.jpg
Gò Miếu Bà
Theo như các bậc cao niên trong làng kể lại thì ngôi miếu này được xây dựng từ thời Chăm Pa có niên đại hơn 400 năm. Như lời cụ Út thì xưa kia gò đất nơi có ngôi miếu thờ bà Chúa sông Cu Đê chỉ là một hòn đá nổi lên giữa lòng sông do bão lớn. Theo thời gian, lũ từ thượng nguồn sông Cu Đê kéo theo đất đá mà hình thành nên gò đất như ngày nay.
Trước kia, làng chài Thủy Tú chủ yếu sống dọc bên bờ nam của con sông Cu Đê hung dữ bằng nghề chài lưới và chăn nuôi trâu, bò. Cuộc sống càng trở nên khó khăn, vất vả bắt buộc người dân phải tìm nơi trồng lúa và chăn nuôi gia súc mới. Gò đất nổi lên giữa sông như chiếc phao cứu sinh càng tiếp thêm sức mạnh cho những người muốn vượt sông sang bên bờ bắc để khai phá đất trồng và chăn thả gia súc. Nhưng kỳ lạ là từ khi gò đất hình thành người dân và gia súc đi qua đoạn sông này chết do đuối nước ngày càng nhiều hơn".
Bà Chúa Ngọc hay bà Thiên Y ana Ngọc diễn phi là tên gọi được người Việt tôn xưng từ một vị nữ thần của người Chăm: Thần mẹ xứ sở - mẫu đất - Po yan Ynư Nagar.
Ở những làng xã nông nghiệp miền Trung nói chung và ở Đà Nẵng nói riêng thì đa số các tỉnh đều thờ vị thần này với tên gọi là miếu Bà Chúa Ngọc. Những ngôi miếu này thường được người Việt xây trên các phế tích đền tháp Chăm, những dấu tích liên quan đến văn hóa Chăm hoặc những khu vực được coi là linh thiêng của các làng. Phần lớn những ngôi miếu được gọi tên là miếu Bà hay Chủ Ngọc miếu nhưng ở Đà Nẵng, ngoài hai tên gọi đó thì miếu Bà còn được gọi với tên khác là miếu Bà Chúa sông Cu Đê. Còn ở những nơi có phế tích đền tháp hoặc có những dấu tích văn hóa Chăm được gọi tên là lùm giàng, lòi giàng, cồn giàng...
Sự hình thành của ngôi miếu đến nay dù không ai biết rõ nhưng trong tâm tưởng người dân vùng đất sông nước nơi đây, ngôi miếu Bà hình thành ẩn chứa những câu chuyện huyền bí như: Khi được tin nhiều người cùng bầy gia súc chết do đuối nước, người dân làng Thủy Tú hết sức hoang mang và không dám vượt sông. 

Thế rồi, một người phụ nữ trong làng bỗng dưng “lên đồng” nói rằng người dân làng Thủy Tú phải xây dựng một ngôi miếu thờ Bà thì mới được bình an vô sự. Vậy là ngôi miếu được hình thành từ đó. Sau khi ngôi miếu được xây dựng thì dân làng Thủy Tú - Nam Ô không còn chết do đuối nước nữa, cuộc sống trở nên bình an, làng chài từ đó mà phát triển.
Lật tìm những trang sách chữ Hán còn lưu giữ ở làng viết về điển tích bà Chúa Ngọc thì được biết: “Bà Chúa Ngọc được gọi là Po Yan Inư Nagar (thường gọi là Po Nagar) là thần Mẹ xứ sở. Bà là người tạo dựng nên vương quốc, người đã giáng sinh giữa mây trời và bọt biển.
2.jpg
Miếu bà Chúa Ngọc
Bà có 97 chồng, sinh được 38 người con. Bà là người tạo ra muôn loài trên trái đất, bà còn là người tạo ra cây trầm hương và sản sinh nghề trồng lúa nước ngày nay. Không những vậy, bà chính là người mang mưa thuận gió hòa cho mùa màng, thuận lợi cho xứ chài Thủy Tú đánh bắt cá trên vùng hạ lưu sông Cu Đê. 

Người Chăm cho rằng Po Yan Inư Nagar chính là nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của thần Siva, còn có tên là thần Bhagavati.
Cách đây hơn 400 năm, người dân xứ Thủy Tú (làng Thủy Tú - Nam Ô ngày nay) rất nghèo khổ, cuộc sống chủ yếu bằng nghề chài lưới bên con sông Cu Đê hung dữ. Vì vậy, hàng năm có rất nhiều người chết do nước lũ làm lật thuyền. Sau khi được bà “hiện linh chỉ bảo”, người dân nơi đây đã cùng nhau quyên góp tre, nứa mà xây dựng nên ngôi miếu thờ bà trên chính gò đất giữa lòng sông này”.
Lúc đầu, ngôi miếu được xây dựng chủ yếu bằng tre nứa, lưng miếu tựa vào thượng nguồn sông Cu Đê, mặt miếu hướng ra cửa biển Nam Ô.
Đến thời vua Gia Long, ngôi miếu được dựng lại bằng gạch theo lối kiến trúc vòm cuốn. Mái miếu được tạo thành bởi 3 tầng, kiểu mái cong, các đầu đao vút lên, lợp ngói liệt, có đường cổ diêm giả. Và sắc thượng phong cho miếu bà là "Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần".
Trải qua thời gian, ngôi miếu cũ đã xuống cấp trầm trọng nên năm 1980, được sự quyên góp của dân làng Thủy Tú, ngôi miếu đã được tu sửa lại và xây dựng bằng vôi vữa nhưng vẫn giữ lối kiến trúc mang phong cách thời Lê. Đặc biệt, trên nóc miếu và các cột đá được gắn các họa tiết hoa văn với cặp rồng đá độc đáo. Trên tường của miếu được khắc chữ Hán cổ với nhiều hình thù động vật kỳ dị.
Cùng với thời gian, hình ảnh về một bà “Chúa nước” mang phép thuật vô hình với lòng thương dân sâu sắc đã ăn sâu vào tâm trí nhiều thế hệ người dân  vạn chài nơi đây.
Theo thông lệ cứ vào ngày 20/6 (âm lịch) và dịp Tết Nguyên đán hằng năm, người dân làng Thủy Tú cùng hàng trăm khách thập phương khắp nơi lại mang lễ vật về đây để tưởng nhớ, kính ơn công đức của vị thần thánh Mẫu.
 Dân Việt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét