Thứ Ba, 10 tháng 4, 2018

Nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam

Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Thị Duệ giả nam đi thi và đỗ trạng nguyên. Tài năng, đức độ của nữ tiến sĩ đầu tiên được vua trọng dụng, dân kính trọng.
Giáo dục Việt Nam thời phong kiến coi trọng Nho học, phụ nữ không có quyền tham gia thi cử. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Duệ là ngoại lệ. Bà không chỉ là nữ tiến sĩ đầu tiên ở nước ta, mà còn là nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử khoa bảng.
Nguyễn Thị Duệ (hay Nguyễn Thị Du) sinh năm 1574 trong một gia đình nhà nho nghèo ở Chí Linh, Hải Dương. Theo Hải Dương phong vật chí, tên chính xác của bà là Nguyễn Thị Ngọc Toàn.
Thuở nhỏ, bà nổi tiếng xinh đẹp, tài hoa. Tương truyền, bà biết viết văn, làm thơ khi mới 4 tuổi. Danh tiếng lan xa khiến nhiều người người ngưỡng mộ tài sắc, đến xin hỏi cưới nhưng bà không đồng ý.
Dù hiếu học nhưng sống dưới thời phong kiến trọng nam khinh nữ, bà phải giả nam để có thể theo nghiệp đèn sách.
Nu trang nguyen duy nhat trong lich su khoa bang Viet Nam hinh anh 1
Lăng mộ bà Nguyễn Thị Duệ ở Hải Dương. Ảnh: VNC Garden.


Theo ghi chép của sử sách, cuộc đời bà trải qua nhiều thăng trầm. Khi chúa Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm Thăng Long, nhà Mạc thất thế, chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Duệ cùng cha theo lên đây.
Nhà Mạc mở khoa thi, bà giả nam tham dự và đỗ đầu. Khi vào cung dự yến tiệc, vua Mạc Kính Cung rất bất ngờ khi biết tân khoa trạng nguyên là nữ. Vua quý mến hiền tài, không trách tội nhưng theo phép tắc, bà không thể tiếp tục mang danh trạng nguyên. Tiếc nuối cho tài năng của người con gái trẻ, vua cho phép bà ở lại triều, theo Chuyện kể về các nhà khoa bảng.
Nguyễn Thị Duệ được vời vào cung, phụ trách việc dạy học cho các phi tần. Một thời gian sau, Mạc Kính Cung lập bà làm phi, ban hiệu Tinh Phi. Vì thế, dân gian còn gọi bà là bà chúa Sao.
Năm 1625, quân Trịnh tiến lên Cao Bằng đánh nhà Mạc. Khi bị bắt, nữ trạng nguyên vẫn rất trấn định. Bà dùng gươm kề cổ, uy hiếp quân lính phải giải bà đến trước chúa Trịnh. Nhờ tài đối đáp xuất sắc, Nguyễn Thị Duệ thoát tử tội.
> Những trạng nguyên nổi tiếng
Mến mộ tài năng, khí độ hiếm có của bà, chúa Trịnh giao trọng trách trông coi việc học của phủ chúa và rất trọng dụng. Sau này, bà được phong là Nghi ái quan.
Thời làm quan, Nguyễn Thị Duệ rất coi trọng việc học và bồi dưỡng nhân tài. Bà còn xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng cho canh tác lấy huê lợi, giúp đỡ học trò nghèo biết chăm chỉ.
Tương truyền, để thúc đẩy phong trào học tập địa phương, cách một khoảng thời gian, bà cùng các bậc túc nho đến giảng dạy tại các khu vực ấn định rồi soạn đề, tổ chức thi. Bài thi được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương.
Cách làm này đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao giáo dục tại các vùng xa kinh kỳ.
Nguyễn Thị Duệ sống dưới tư tưởng trọng nam khinh nữ nhưng tài năng của bà khiến người khác không thể không nể phục. Vì thế, trong phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội thời đó, bài thi đều qua tay bà chấm.
Không chỉ tài năng, nữ trạng nguyên còn là người đức độ. Theo dân gian truyền lại, trước đây, khi còn nghèo khó, anh trai bà bị người trong làng hãm hại. Nhưng khi vinh hiển, bà không hề nghĩ đến thù riêng.
Khi cao tuổi, bà cáo quan về quê, mở am Đào Hoa, tiếp tục đọc sách và chỉ bảo các sĩ tử trong làng. Nhờ những đóng góp quan trọng cho giáo dục, thi cử, bà được triều đình hậu đãi. Tuy nhiên, nữ tiến sĩ vẫn sống cần kiệm, dành phần lớn bổng lộc để giúp đỡ người dân, đặc biệt các nho sĩ nghèo.
Trong Công dư tiệp ký, danh sĩ Vũ Phương Đề ghi: “Văn thơ của bà rất nhiều, nhưng nay không còn bài nào. Bà có làm bài Gia ký bằng Quốc âm thuật lại các việc riêng và tự ví mình như Bạc Thị” (phi tần của Hán Cao Tổ, mẹ vua Văn Đế, một phụ nữ nổi tiếng hiền đức trong lịch sử Trung Quốc).
Kém gì một chút đảo điên
So le Bạc Thị vốn duyên Hán hoàng.
Nữ nhi dù đặng có lề
Ắt là tay thiếp kém gì trạng nguyên.
Vũ Phương Đề cũng khen ngợi bà: “Lễ sư thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương”.
Sau khi Nguyễn Thị Duệ mất, người dân làng Kiệt Đặc lập đền thờ bà chúa Sao. Bà còn được thờ tại Văn miếu Mao Điền cùng nhiều danh nhân, học sĩ danh tiếng khác.  
Nguyễn Sương tổng hợp

Nữ trạng nguyên duy nhất trong sử Việt sáng tạo cách dạy học từ xa

Giả trai đi thi, bà Nguyễn Thị Duệ đỗ đầu, được trọng dụng rồi trở thành Bà Chúa Sao Sa, có công giúp nhiều sĩ tử học hành, đỗ đạt.
Thời phong kiến, phụ nữ không được quyền thi cử, học hành. Tuy nhiên, lịch sử khoa bảng Việt Nam vẫn ghi nhận một nữ trạng nguyên. Đó là bà Nguyễn Thị Duệ (một số tài liệu khác ghi Nguyễn Thị Du hay Nguyễn Thị Ngọc Toàn), sống vào khoảng cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, quê ở làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Dương).
Nhắc đến việc này, Đại Nam dư địa chí ước biên viết "Am Đàm Hoa, Tiến sĩ gái" (ở am Đàm Hoa có một nữ tiến sĩ). Đại Nam nhất thống chí gọi thẳng tên bà.
Tranh vẽ bà Nguyễn Thị Duệ. Ảnh chụp sách Những người thầy trong sử Việt
Tranh vẽ bà Nguyễn Thị Duệ. Ảnh chụp sách "Những người thầy trong sử Việt"
Những năm cuối thế kỷ 16, cuộc chiến Nam Bắc triều giữa nhà Mạc và Lê -Trịnh đi đến hồi kết thúc. Theo cuốn Nhà Mạc và thời đại nhà Mạc - Hơn hai mươi năm nghiên cứu và nhận thứckhi triều Mạc gặp lâm nguy, vua đã sai người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và được ông đưa ra lời sấm "Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô" (nghĩa là nếu nhà Mạc chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được thêm ba đời).
Đến năm 1592, Trịnh Tùng kéo quân ồ ạt ra Bắc, quân Mạc thua tan tác. Nghe theo lời của Trạng Trình, tướng nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ tập hợp con cháu họ Mạc kéo lên Cao Bằng làm đất dung thân. Ở làng Kiệt Đặc, gia đình bà Nguyễn Thị Duệ cũng phải đi lánh nạn. Nhớ đến những năm tháng yên lành dưới triều vua Mạc, gia đình bà tìm đường lên Cao Bằng.
Vốn thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quý đến xin hỏi cưới nhưng gia đình không chấp thuận. Khi cuộc sống ở Cao Bằng ổn định, bà Duệ tiếp tục việc đèn sách. 
Thời còn thịnh trị ở Thăng Long, nhà Mạc rất chú ý đến việc học và định kỳ tổ chức các kỳ thi để phát hiện nhân tài giúp nước. Lên Cao Bằng, triều đại này vẫn giữ nề nếp ấy để tính kế lâu dài. Lúc ấy, triều đình đã suy yếu nhưng lòng dân vẫn theo đông, sĩ tử tham gia nhiều. Nguyễn Thị Duệ giả trai, lấy tên là Nguyễn Ngọc Du đi thi rồi lần lượt vượt qua kỳ thi Hương, Hội và Đình để trở thành người đỗ đầu. Khi ấy, bà chỉ khoảng 17-20 tuổi.
Sách Những người thầy trong sử Việt viết khi triều đình mở yến tiệc đãi các tân khoa, Nguyễn Ngọc Du là người đầu tiên đến làm lễ trước bệ rồng. Nhà vua và tất cả văn võ bá quan ngạc nhiên trước vẻ khôi ngô tuấn tú, dáng bước khoan thai của tân Trạng nguyên. Khi nhà vua ban ngự tửu, Nguyễn Ngọc Du đến nhận lễ. Thấy Trạng nguyên mặt hoa da phấn, thân hình mảnh mai, sóng mắt long lanh, vua mới ngờ vực rồi hỏi và được biết Du thực chất là con gái.
Cả triều đình kinh ngạc vì chuyện xưa nay chưa từng có, chưa kể đây là tội khi quân, khó thoát khỏi án chết. Tuy nhiên, vua Mạc đã không trừng phạt mà còn khen ngợi và tỏ ra rất quý trọng tài sắc của bà, cho lấy lại tên cũ, ban cho làm Lễ quan trong cung dạy chữ và lễ nghi cho các cung tần, thị nữ.
Ít lâu sau, cảm sắc đẹp và tài năng của bà, vua lấy làm phi và phong làm Tinh Phi, ngụ ý bà xinh đẹp và sáng láng như một vì sao sa. Về sau, dân gian gọi bà là "Bà Chúa Sao Sa".
Tượng thờ bà Nguyễn Thị Duệ.
Tượng thờ bà Nguyễn Thị Duệ.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Vua Mạc bị bắt đem về Thăng Long. Bà Nguyễn Thị Duệ chạy về ở ẩn tại chùa Sùng Phúc ở phía đông Cao Bằng. Bà vừa trụ trì chùa, vừa dạy học và dạy lễ nghĩa cho con em dân bản. Nhưng rồi quân Trịnh đi truy lùng tàn quân của Mạc Kính Cung đã phát hiện ra nơi bà ẩn náu. Nguyễn Thị Duệ bị bắt, giải đến trước chúa Trịnh. Nhờ tài đối đáp khiêm nhường nhưng thông minh, bà thoát tội chết, được đưa về Thăng Long và đối đãi tử tế.
Nguyễn Thị Duệ quen được hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, bà thường cùng hoàng hậu đi lễ chùa, gặp gỡ các sĩ phu có tài để hiểu rõ tình hình trong nước nhằm giúp vua. Bà được phong làm Chiêu nghi đứng trên các cung tần. Về việc này, sách Đại Nam nhất thống chí chép: "Vua Lê triệu vào dạy cung nữ, phong cho tước hiệu là Nghi Ái quan".
Nguyễn Thị Duệ khi làm quan thường dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch nên hai chúa Trịnh Tráng và Trịnh Tạc đều khen ngợi, trọng vọng. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa, vua Lê, chúa Trịnh đều nhờ bà khảo duyệt.
Sử sách ghi lại, khoa thi năm Tân Mùi (1631) có bài văn khá đặc biệt của một sĩ tử. Cả quan trường đều khen văn phong uyên bác nhưng lại tỏ ý có phần khó hiểu. Được hỏi đến, bà giải thích tường tận những điển tích và ý tứ của bài văn giúp sĩ tử đó đỗ đầu. 
Theo Những người thầy trong sử Việt, danh tiếng của Bà Chúa Sao Sa vang khắp nơi. Quan tâm đến việc học hành ở quê nhà, bà cấp tiền cho lập Văn Hội ở Chí Linh để con em trong vùng đến học tập.
Tại nhà thờ họ Nguyễn, nhiều sách cổ kim được đặt để mọi người đến đọc. Cứ vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, các sĩ tử lại tụ tập để chờ ngựa trạm đem đề bài của bà gửi về. Học trò làm bài xong, niêm phong đóng hộp để ngựa trạm chở về kinh cho bà chấm. Quê hương bà trở thành điểm sáng về học hành, đỗ đạt. "Như vậy có thể xem Nguyễn Thị Duệ đã sáng tạo ra phương pháp đào tạo từ xa thành công ngay từ thuở ấy", nhóm tác giả biên soạn nhận định.
Năm 70 tuổi, bà Nguyễn Thị Duệ xin về quê hương Chí Linh, dựng am Đàm Hoa để ở, đọc sách, tĩnh tu và bảo ban các sĩ tử trong làng. Bà được cấp thuế trong làng làm ngụ lộc nhưng chỉ lấy một ít tiền để chi tiêu, còn lại dành hết cho việc công ích, trợ giúp người nghèo.
Bà Nguyễn Thị Duệ mất vào năm 80 tuổi, an táng ở quê nhà. Ngọn tháp xây trên mộ được gọi là "Tinh Phi cổ tháp" khắc mười chữ "Lễ Phi sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương" (Lễ phi là người thông tuệ, một gương soi chiếu ba vua).
Nhớ công ơn của bà, dân làng Kiệt Đặc dựng đền thờ bà làm thần, trên bức hoành có hai chữ "Hoa Am", trong có bức tượng bà và đôi câu đối "Giá khoa tiên chiếm Cao Bình bảng/Đại bút do truyền bát cổ bi".
Tại Văn Miếu Mao Điền (Hải Dương), 637 vị tiến sĩ được thờ, trong đó có bài vị của nữ tiến sĩ duy nhất đề tên "Nghi Ái quan Nguyễn Thị Duệ". Năm 2004, tám vị đại khoa của tỉnh Hải Dương là hiền tài đất nước được đúc tượng đồng và khám thờ, trong đó có tượng Bà Chúa Sao Sa sánh bên những bậc hiền tài như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Vũ Hữu, Phạm Sư Mạnh, Tuệ Tĩnh.
Dương Tâm - Tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét