Khuất lấp trong cây cối xung quanh đảo có những lô cốt do quân đội Mỹ xây dựng rất kiên cố trong chiến tranh Việt Nam. Chúng chứng tỏ rằng hòn đảo này có vị trí chiến lược quan trọng trong số 14 đảo thuộc quần đảo Tiên Hải. Khi đi quanh đảo, bạn có thể thấy rất rõ những hòn đảo của Campuchia chỉ cách hòn Đốc chừng 5km, phía Tây là đảo Phú Quốc hiện ra mờ mờ như tảng mây xám khổng lồ và phía Đông là thị xã Hà Tiên làm tôi nhớ tới lời của những nhà kinh tế đánh giá rằng với vị trí ấy đảo Hải Tặc có tiềm năng du lịch lớn.
Hòn đảo này có vị trí chiến lược quan trọng trong số 14 đảo thuộc quần đảo Tiên Hải
Hành trình khám phá quần đảo Hải Tặc - Hà Tiên
Quần đảo Hà Tiên còn có tên là quần đảo Hải Tặc bởi cách đây khoảng 300 năm rất nổi tiếng với nhiều vụ cướp biển có tổ chức ở qui mô lớn. Các tàu buôn của Trung Quốc và phương Tây đã từng là nạn nhân của những vụ rượt đuổi táo tợn trên biển. Bọn cướp đã vơ vét được nhiều vàng bạc và châu báu đem chôn giấu vào những địa điểm bí mật trên đảo Hải Tặc.
Cướp biển đã vơ vét được nhiều vàng bạc và châu báu đem chôn giấu vào những địa điểm bí mật trên đảo
Năm 1981, người dân ở quần đảo Hà Tiên đã bắt giữ hai người nước ngoài khi họ đang lén lút trong hẻm núi với la bàn, bản đồ và dụng cụ đào vàng. Họ khai rằng vì có được tấm bản đồ kho báu của bọn hải tặc được vẽ cách đây 300 năm nên đã tìm mọi cách để đổ bộ lên... quần đảo này.
Sức hút của lịch sử kì bí
Mặc dù những thông tin lịch sử ấy đề cập đến những vụ cướp đã xảy ra đã 3 thế kỉ rồi những đã khiến tôi suy nghĩ nhiều, trong đó thắc mắc lớn nhất là: Vào thời điểm ấy, nguyên nhân nào đã khiến vùng biển đảo nằm trong vịnh Thái Lan thành ổ tội phạm? Những dòng tin trên mạng và câu hỏi ấy đã thôi thúc tôi đến quần đảo Hải Tặc. Vì biết tin nơi muốn đến nằm giữa xa khơi chưa có dấu chân du khách nên tôi không muốn quá mạo hiểm đi một mình, bèn phỉnh phờ ông bạn thế này: "Mày muốn đến hang ổ của cướp biển hay không?" Nghe lời "tiếp thị" như vậy, ông bạn tôi không một chút suy nghĩ đã nhận lời ngay. Thế là hai gã đàn ông liền xách giỏ đến bến xe miền Tây (TP.HCM) mua vé xe đi Hà Tiên, giá 120.000 đồng/chiếc, rồi ngồi bó gối trên ghế xe hơi đến 7 giờ sáng mới đến thị xã Hà Tiên, cách Sài Gòn khoảng 400km về phía Tây.
Hòn đảo mang sức hút của lịch sử kì bí
Hà Tiên nhỏ như lòng bàn tay nên chỉ cần nửa ngày chúng tôi đã đi bộ khắp đường ngang ngõ dọc của thị xã nằm sát biên giới Campuchia này. Nhưng chúng tôi đã mất thêm nửa ngày và một đêm để quanh quẩn ở bến cảng Hà Tiên. Sở dĩ phí phạm nhiều thời gian vào việc la cà là do chúng tôi tình cờ gặp cụ ông Trương Minh Đạt, 76 tuổi, chuyên nghiên cứu về lịch sử văn hóa Hà Tiên. Ông Đạt khuyên rằng, mấy chàng trai muốn tìm hiểu quần đảo Hải Tặc phải biết chút ít về thị xã Hà Tiên sẽ thấy thú vị hơn. Bởi thời xưa Hà Tiên là thương cảng buôn bán sầm uất, đã thu hút tàu buôn từ các nước Đông Nam Á, Trung Quốc và cả phương Tây, nhờ đó bọn hải tặc có đất "dụng võ".
Ngày nay, thương cảng Hà Tiên vẫn sầm uất bởi tàu ghe đánh cá ra vào thường xuyên và nhiều thương vụ mua bán hải sản diễn ra nhộn nhịp, chỉ có điều không có tàu buôn nước ngoài. Điều thú vị là, tại bến cảng đã từng một thời ngẫu nhiên trở thành miếng mồi nhử tàu buôn để bọn cướp biển hành sự, chúng tôi tìm được con tàu chở khách chạy tuyến Hà Tiên - quần đảo Hải Tặc, giá vé 30.000 đồng/người. Thú vị hơn khi nghĩ rằng con tàu sẽ chở chúng tôi đi theo "dấu vết" của nhiều tàu buôn và cả tàu của bọn hải tặc.
Khi con tàu vừa rời khỏi bến, tôi nhìn ra xa khơi đã thấy quần đảo Hải Tặc hiện lên mờ mờ trong nắng. Nhưng phải mất 1 giờ 20 phút, quần đảo có 14 hòn đảo quây quần trong diện tích chừng 9km² mới hiện rõ trước mắt chúng tôi. Khi tàu vào vùng biển trung tâm quần đảo, tôi thấy đảo nào cũng có đặc điểm giống nhau là có cây rừng che phủ đến 80%, nơi giáp với nước mặn là ghềnh đá trơ trọi và hoang sơ. Và khi nhìn vài trăm chiếc tàu đánh cá đang dập dềnh quanh những hòn đảo, tôi dễ dàng kết luận rằng: người dân Tiên Hải sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản.
Một cán bộ UBND xã Tiên Hải, quản lý quần đảo Hải Tặc đi cùng tàu với chúng tôi cho biết thêm, người dân trên đảo còn làm nhiều nghề khác như đóng tàu, chế biến hải sản, buôn bán...Chỉ có 6 hòn đảo có người sinh sống gồm hòn Đốc, hòn Tre Nhỏ, hòn Giang, hòn Đước, hòn U và hòn Đồi Mồi, với tổng cộng khoảng 400 nóc nhà và 2.000 người, còn lại là đảo hoang. Trong số này, hòn Đốc có vị thế quan trọng nhất bởi trụ sở chính quyền xã Tiên Hải, trường học, bưu điện, trạm xá, chợ...đều tập trung trên hòn đảo này. Với tầm quan trọng như vậy, dĩ nhiên, điểm đến cuối cùng của tàu là cập bến cảng hòn Đốc, kết thúc hành trình 9,5 hải lý. Khi bước lên cầu cảng, chúng tôi hỏi thăm nhà trọ, một người đàn ông nói: "Ở đây chỉ có một nhà trọ của ông Ba Minh chính là chủ chiếc tàu mấy anh vừa đi". Không ngờ việc tìm nhà trọ chỗ hẻo lánh lại dễ dàng như vậy. Từ cầu cảng chúng tôi chỉ cần theo chân ông Ba Minh đi chừng 500m là đến ngôi nhà trọn có 3 phòng nhỏ giá 80.000 đồng/phòng.
Hành trình quanh những gành đá hoang
Sau khi nhận phòng, việc đầu tiên chúng tôi là đến vài quán cà phê, bắt chuyện với chủ quán và những người khách để có nhiều tin liên quan đến xứ sở xa lạ này. Càng nhiều càng tốt. Chúng tôi nghe được nhiều tin thú vị nhưng lời nói của một cụ ông khoảng 70 đã làm tôi chăm chú nhất: "Tui nghe ông già tui nói, trước kia, ở phía Bắc hòn đảo này có một đầm nước nhỏ ăn thông với biển, bọn hải tặc thường trú ngụ và giấu tàu thuyền ở đó. Bây giờ chỗ đó người ta xây hồ để chứa nước mưa cung cấp cho người dân trên đảo".
Lời của cụ già chúng tôi háo hức muốn khám phá hòn đảo nên vội đeo máy ảnh, leo lên xe đi luôn. Từ nhà trọ theo con đường bê tông vừa đủ cho 2 chiếc honda tránh nhau, chúng tôi đi về phía Đông Bắc của hòn đảo chừng 1km. Trước mắt chúng tôi là một hồ nước được xây vuông vức khoảng 1.500m². Mặc dù dấu tích của bọn hải tặc đã bị con người san phẳng, nhưng chúng tôi vẫn thấy thú vị bởi khung cảnh đã kích thích chúng tôi tưởng tượng về cảnh sinh hoạt của bọn cướp. Từ đây, chúng tôi tiếp tục "thám hiểm" quanh đảo. Mặc dù quanh hòn đảo có một con đường đang thi công gần xong (có thể đi được) nhưng chúng tôi chọn cách men theo gành đá. Con đường gồ ghề, lởm chởm, quanh co cho chúng tôi cảm giác thám hiểm thực sự. Đảo có chu vi chừng 7km, phía Nam là nơi người dân sinh sống dọc theo đoạn đường chừng 3km, trong khi phía Bắc chỉ có một vài ngôi nhà, còn lại là ghềnh đá quanh co, ngoằn nghoèo, hoang sơ. Đến chỗ gềnh đá vắng nhất chúng tôi đã gặp hai người câu cá và một số người lom khom lật những chú ốc trú bên dưới. Nhìn những giỏ đựng đầy cá của hai người câu và cách bắt ốc một cách dễ dàng như thế, hẳn bạn sẽ tưởng tượng ra sản vật của đảo Hải Tặc trù phú đến mức nào.
Người dân trên đảo phải nói là quá hiếu khách, nên chúng tôi dễ dàng làm quen với hai chàng thanh niên câu cá để rồi có đầy ắp những điều xúc động và đáng nhớ. Hai chàng thanh niên đã dẫn chúng tôi đi câu rất nhiều cá, mực, ốc rồi nướng cá, luộc ốc, hấp mực và ngồi vừa ăn vừa uống rượu ngay trên gành đá. Trong lúc rôm rả ăn nhậu, chúng tôi được nghe những ngư phủ trải lòng tâm sự rất chân tình.
Mặc sức khám phá
Tối hôm đó, chúng tôi tiếp tục khám phá nét sinh hoạt về đêm của dân hòn Đốc. Cho đến 23 giờ đêm, bỗng dưng, cả đảo tối om. Một lát sau tôi mới hiểu chiếc máy phát điện duy nhất cung cấp điện cho toàn đảo đến giờ...ngưng hoạt động. Vậy nên, nếu bạn ra đến quần đảo Hải Tặc hãy nhớ khi máy phát điện hoạt động vào lúc 17 giờ là phải sạc ngay pin điện thoại, máy ảnh, hoặc máy quay phim, kẻo rồi bỏ uổng, không ghi lại được những hình ảnh huyền ảo, thú vị của hòn đảo này khi màn đêm buông xuống.
Sáng hôm sau, chúng tôi thuê tàu để qua hòn Đước và hòn Giang với giá 150.000 đồng. Người chủ đò nói, nếu muốn tham quan cả đảo thì "bao đò" giá khoảng 1.000.000 - 1.200.000 đồng/ngày. Vừa bước chân lên hòn Đước chúng tôi thấy một làng chài có chừng 10 nhà xây, còn lại đều dựng tạm bợ bằng tra và che chắn lá hoặc bạt. Nhìn những tấm bạt của một số ngôi nhà rách te tua bay phần phật trong gió, khiến tôi thấy cuộc sống của người dân nơi đây qúa nghèo. Dường như tất cả người dân trên đảo đều mỉm cười và dõi mắt nhìn chúng tôi.
Vì diện tích không nhỏ hơn hòn Đốc là bao nhưng số lương người sinh sống ít hơn nhiều nên gành đá của hòn Đước rất hoang sơ, đa dạng và gập ghềnh hơn nhiều. Bên mé Tây của hòn Đước chỉ có một gia đình sống đơn lẻ. Nhìn ngôi nhà cô quạnh bên mép biển hoang, chúng tôi cảm thấy chạnh lòng.
Từ hòn Đước qua hòn Giang chỉ mất 5 phút đi đò. Hòn Giang có diện tích cũng tương đồng với hòn Đước, có khoảng 20 ngôi nhà cũng xập xệ, một nhà thờ có sức chứa khoảng 100 người cũng đổ nát đang được xây dựng.
Khi đi trên gành đá phía trước làng chài, hai cô bé 7 tuổi, tên Mận và tên Trinh, cứ theo chúng tôi hỏi đủ việc. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn của nhau. Hai cô bé dắt chúng tôi đi khắp làng chài và líu lo hỏi đủ chuyện. Chúng tôi rất thích thú bởi sự hồn nhiên của hai hướng dẫn viên nhí. Trên gành đá phía trước làng chài, chúng tôi gặp một phụ nữ chừng 60 tuổi đang bắt ốc. Sau vài câu hỏi thăm, chúng tôi hỏi mua, bà đồng ý bán 3.000 đồng/kg rồi bê rổ ốc chừng 5kg vào nhà luộc cho chúng tôi ăn. Trên ghềnh còn có một số người già, trẻ em mò ốc, bắt cá. Chỉ cần bước ra khỏi nhà 10m là người dân có thể săn bắt cá, tôm ốc đem bán nhưng cuộc sống của họ vẫn nghèo.
Chúng tôi đi quanh đảo, khi trở về làng chài thì người đàn ông tên Lũy đã mời chúng tôi ở lại đêm. Tối đó, vợ anh Lũy đã hấp ghẹ, nướng cá để khách và chủ ngồi cũng nhau vừa uống rượu vừa trò chuyện cho đến tận tới khuya rồi lăn ra ngủ. Gió biển lồng lộng thốc vào thân thể chúng tôi nóng hầm bởi rượu. Giờ thì tôi mới hiểu, người dân ở đây nghèo vì họ sống qúa...hào phóng. Cũng phải thôi, giữa trời này, nước này, cuộc sống là an nhiên, là tự tại, nào ai có để tâm chi chuyện làm giàu, chuyện nghèo...
Eva.vn (Theo Tiêu Dùng)
Khám phá đảo Hải Tặc ở Việt Nam
Lại thêm một đêm trên đảo khó ngủ, bởi cảm giác nôn nao dễ chịu, mong cho trời mau sáng.
Thử một chuyến theo tàu ngư phủ, nhưng không phải để đánh bắt cá, tôm; mà là đi vòng quanh các hòn, chiêm ngưỡng trọn vẹn diện mạo của quần đảo Hải Tặc ra sao?
Vẻ đẹp hoang sơ
Hòn Bánh Lái không có dân sinh sống.
|
Đúng hẹn với anh Chín Đĩ, từ sáng sớm chúng tôi đã có mặt tại cầu tàu, với đầy đủ thức ăn, nước uống, và không quên xách tay mấy lít rượu đế. Trên tàu của anh Chín thì lúc nào cũng sẵn sàng gạo, nước, mắm muối, bếp gas. Cùng đi với chúng tôi có thêm hai người “đi bạn” ghe anh Chín là thợ lặn Út Thanh và anh Hai, người canh dây lặn.
Chị Bảy ở xóm chuyên nuôi cá bốp, đang rảnh thấy vui vui cũng nhảy theo. Mấy chị tiễn chúng tôi ra tận cầu tàu, theo như thói quen khi có người thân ra khơi. Tàu chạy ra xa, vẫn còn thấy bóng người nhỏ dần đứng nhìn theo hun hút.
Mấy hôm nay biển “thổi” (biển động), nhưng không có gió to, chỉ vừa đủ để con tàu 25 mã lực cắt sóng nhảy chồm chồm như ngựa phi nước đại. Cảm giác sảng khoái, đến nỗi ai cũng dang tay ra như muốn ôm vào lòng gió biển và hét lên thật to. Những người “đất liền” chưa quen cứ nghiêng bên này, ngã bên kia lắc lư như sắp lên đồng, còn mấy anh thợ lặn thì cứ đứng trên tàu vững trân như tượng.
Hòn Đốc nhanh chóng lùi lại phía sau, nhìn từ xa hàng dừa xếp hàng đều tăm tắp chạy dài, dịu dàng phủ ngọn lên những ngôi nhà lúp xúp dọc bãi Nam. Nhìn tứ bề lộng gió, nước mênh mông xanh ôm lấy những dãy xanh lô nhô liền kề nhau của vô số hòn; chỉ có thể nói một câu: “Biển, đảo ơi, sao mà đẹp thế!” Vẻ đẹp của hoang sơ, hồn nhiên nó rất hợp cảnh, hợp tình một cách “vừa khít” với những nụ cười rộng mở chân chất, nồng ấm của những người dân đảo.
Từ sau lái, anh Chín hét lên trong gió: “Phía trước là hòn Ụ đó, kế bên là hòn Giang, hòn Đước. Phía sau là hòn Bánh Ít, bên tay trái là hòn Bánh Lái, hòn Bánh Tổ…”. Đó là do dân gian nhìn theo hình dáng mà đặt tên gọi vậy. Mọi người quay máy chụp hình không ngớt. Hòn Bánh Ít bé xíu, tròn ụm thật dễ thương, vậy mà cũng phủ đầy cây xanh, như chiếc dù xinh xắn trồi lên từ biển.
Tàu hướng mũi lao nhanh về phía đuôi hòn Ụ. Thấp thoáng có một ngôi nhà, nép mình giữa bát ngát vườn xoài chen chút với dừa xanh, nên thấy nó lọt thõm, và thật cô độc. Đó chính là giang sơn của “Robinson” Ba Nhàn, điểm đến đầu tiên của chúng tôi trong chuyến ra khơi này.
Diện kiến “Robinson” hòn Ụ
Lạ, không ai quen biết ai, mà cứ ôm nhau thắm thiết, chúng tôi như đàn con cháu lâu lâu về thăm “ông ngoại”. 81 tuổi, râu tóc bạc trắng như sóng biển, mà giọng nói vẫn còn sang sảng, tai mắt tinh tường. Chưa kịp hỏi han gì đã thấy “ông ngoại” xách ra chai rượu thuốc, mọi người ngồi bệt ngoài sân, vừa nướng khô, vừa hóng gió biển tâm tình.
“Robinson” Ba Nhàn
|
Ông tên thật là Ngô Thanh Nhàn, quê gốc ở tận miệt U Minh. Nhà không có đất đai, khổ quá, trôi dạt lên Kiên Lương rồi một bữa “bậm môi”, dứt bỏ đất liền, nhắm hướng đảo hoang mà chèo tới. Lúc đó, vợ chồng ông đã có 7 đứa con nheo nhóc. Trốn khổ đất liền, ra đảo hoang thêm trăm lần khốn khó, nhưng được cái còn có đất để mà khai hoang và hy vọng.
Mấy năm đầu chỉ biết lấy củi chở vô Hà Tiên bán cho lò bánh mì, đổi gạo. Lần hồi cũng sắm được chiếc ghe kha khá, thức ăn “binh thiên” dưới biển nuôi sống con người, những đứa trẻ cùi cụi lớn lên như cây mắm, cây đước. Lần hồi, vườn cây đã cho huê lợi; sau đó thì chở dừa, mãng cầu vào trong kia để bán. “Ra ngoài này, quay qua, quay lại, thì bả cũng xổ ra thêm 7 đứa nữa, trước sau là một chục… đủ đầu” - Ông cười sảng khoái.
Giờ con cháu chít chắt của ông có tới cả trăm, sống ở khắp nơi trong đất liền, ở tận bên Mỹ, Úc, Canada. “Bà xã nằm đây, đời qua dứt khoát cũng phải vùi xương ở đây”- ông Ba Nhàn rơm rớm nước mắt khi nhắc đến vợ mình. Ông dẫn chúng tôi ra mộ vợ thắp nhang, uống cạn ly rượu, ông ca cho chúng tôi nghe bài hát do mình sáng tác để thương tặng vợ hiền.
Ông Ba Nhàn cho biết, hiện ở đầu hòn Ụ cách đây khoảng gần cây số, có 15 hộ đang sinh sống; tất cả họ đều là con cháu, dòng họ ông. Ông bảo, đã “chia miệng” cho tụi nó đứa một khúc đất để sinh sống, trồng trọt chút đỉnh.
Quay qua hỏi chuyện cướp biển, ông Ba Nhàn cười ha hả: “Cướp biển hả, nó hiền khô hà, vì qua có cái quần xà lỏn không, có gì đâu mà nó cướp”. Ông già cứ nấn níu mời chúng tôi cứ uống thoải mái, vì “rượu nhà qua ngâm mấy chục lít lận”. Nhưng nếu kiểu này, e rằng không đi giáp đảo. Chia tay hòn Ụ, ông già ra đứng sát mé nước, tay cầm chai rượu trông theo, làm chúng tôi nghe lòng buồn rười rượi.
Chúng tôi tiếp tục đến thăm tất cả những đảo còn lại có dân sinh sống: hòn Giang, hòn Đước, hòn Tre Vinh, hòn Gùi. Góp nhặt những câu chuyện của từng phận người riêng lẻ, đã phần nào giúp chúng tôi ghép lại thành bức tranh khá khái quát, về đời sống kinh tế của người dân trên quần đảo Hải Tặc này.
Theo NLĐ
Cha bà là một người thao lược võ nghệ, từng tham gia băng cướp biển trên khắp các hòn đảo thuộc Vịnh Thái Lan nên thông thuộc vùng biển này như con rái cá. Những ký ức về người cha, bà không còn nhiều lắm, vì đó là những chuyện cũ của một thời hỗn mang, qua những lời kể của mẹ mình mà thôi.
Rồi một thời từng là tên gọi chính thức cho 18 hòn lớn nhỏ ở vùng biển Tây Nam. Hiện nay tấm bia chủ quyền mang tên Quần đảo Hải Tặc vẫn nằm phía Tây đảo hòn Đốc là minh chứng cho một thời hỗn tạp đó.
Con gái cướp biển lập chùa cầu phúc trên đảo Hải Tặc
Nghe dân đảo kể rằng ở mạn Tây của hòn Đốc vẫn còn một hậu duệ của thành viên băng cướp Cánh Buồm Đen đang sinh sống.
Nghe dân đảo kể rằng ở mạn Tây của hòn Đốc (quần đảo Hải Tặc, xã Tiên Hải, Thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) vẫn còn một hậu duệ của thành viên băng cướp Cánh Buồm Đen đang sinh sống.
Nhân chuyến công tác ra đảo, tôi tò mò tìm gặp cho kỳ được. Trái với ý nghĩ dữ dội trước đó, con ruột của thành viên hải tặc là một người hiền lành, mở lòng và đặc biệt hiếu khách.
Chúng tôi không khỏi cảm động khi biết thêm rằng, chính hậu duệ của cướp biển lại là người dựng nên ngôi chùa duy nhất trên quần đảo mà trước kia là thủ phủ của cướp biển.
Diện kiến hậu duệ cướp biển
Theo chỉ dẫn của người dân, chúng tôi tìm đến nhà bà ở mạn Tây hòn Đốc (hòn lớn nhất trong quần đảo Hải Tặc). Nghe tiếng gọi, một người già từ trong nhà mau mắn bước ra. Trước mắt chúng tôi là bà cụ dáng thấp, tóc bạc cước, khuôn mặt thánh thiện và phúc hậu đến lạ.
Bên bàn ghế đá yên vị trông ra mặt Tây hòn Đốc, từng tràng gió nhẹ xô sóng rì rào, câu chuyện về cuộc đời, và thuở khai hoang lập nên ngôi chùa duy nhất trên đảo được bà chia sẻ.
Bà Mười tên thật là Nguyễn Thị Gái, nhưng người dân trên đảo vẫn thân thiện gọi bằng cái tên Nam bộ là bà Mười Bầu. Nhưng từ khi bà tự xây nên ngôi chùa duy nhất ở hòn Đốc, bà được gán thêm một cái tên bà Mười “chùa”.
Bà Mười sinh năm 1929, quê gốc mãi tận trong hòn Chông, tỉnh An Hà xưa (nay thuộc hòn Chông, Kiên Lương, Kiên Giang). Thuở biết khôn bà đã thấy mình cùng cha mẹ và các anh em sống trên Bãi Bổn (nay là ấp Bãi Bổn, đảo Phú Quốc).
Dù đã 86 tuổi, bà Mười vẫn vui sống ở hòn Đốc, thuộc Quần đảo Hải Tặc |
Bà Mười mang 2 dòng máu, cha người Việt Nam, mẹ người Thái Lan. Cha bà tên là Nguyễn Thanh Vân, người phốp pháp, tinh thông võ nghệ, dù ngang tàng nhưng sống rất nghĩa hiệp. Ông Vân phiêu bạt khắp nơi trong vùng biển này, không hòn đảo nào mà ông chưa đặt chân tới.
Những tháng ngày ngang dọc đó đây trên biển, mà ông dần giao du với đám phỉ tứ phương, rồi chặn tàu bè để cướp bóc. Ông được mệnh danh là tên cướp biển trứ danh, lặn biển như rái cá, nhảy tàu bè như trên bộ.
Một lần, bước chân giang hồ của ông phiêu bạt đến đất Thái Lan thì gặp mẹ bà, một người con gái tuyệt sắc. Rồi cả hai dắt nhau về Việt Nam, họ quyết định đến đảo Phú Quốc xây dựng tổ ấm và bà Mười chính là kết quả của mối tình không biên giới đó.
Thời chính quyền Ngụy cuộc sống hết sức khó khăn, bọn lính hay lùng sục bắt bớ. Năm 1956 gia đình bà lại dong thuyền theo hướng Đông vào quần đảo Hải Tặc. Bà Mười nhớ lại:
“Tui cũng không nhớ nhiều lắm về những câu chuyện của ông ấy (cha bà), vì ổng đi hoài. Tui chỉ nghe mẹ tôi kể lại rằng, hồi đó cùng làm nghề như ổng còn có các ông Sáu Minh, chú Năm Lộc, bác Năm Bùn (đều là những người sống trên những hòn đảo hoang thuộc Vịnh Thái Lan).
Nhưng cũng thật lạ, ngang tàng là vậy, nhưng gần nửa cuối cuộc đời cha bà “gác kiếm” từ nghề, sống cuộc đời lương thiện và đi tu theo đạo Cao Đài và yên nghỉ ở chính quần đảo là “đại bản doanh” một thời của mình.
Ngoài bà Mười ra, hiện trên quần đảo Hải Tặc không còn ai là nhân chứng của một thời hỗn tạp ấy nữa. Trong nhiều ngày bách bộ đi tìm hiểu câu chuyện cướp biển, mong lý giải vì sao lại xuất hiện cái tên quần đảo Hải Tặc chúng tôi đã đến nhiều đảo, gặp những người cố cựu nhất ở nơi đây nhưng tất cả đều lắc đầu.
Và cùng chung câu trả lời rằng, nghe ông cha kể lại trước kia vùng biển này từng có cướp biển hoành hành mà thôi. Hiện cũng chẳng có sử sách nào ghi lại cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà người ta lại gán cho những hòn đảo này danh đầy ám ảnh “quần đảo Hải Tặc”.
Chùa Sơn Hòa Tự trên hòn Đốc, Quần đảo Hải Tặc |
Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (Hà Tiên) thì sự thực, trong lịch sử đã tồn tại nạn cướp biển ở vùng biển Tây Nam. Đỉnh cao là băng cướp “Cánh Buồm Đen” với biệt hiệu là cái chổi hòng quét sạch tàu thuyền qua lại vùng biển này.
Tuy nhiên cho đến đầu thế kỷ 20 thì chỉ còn là những dư âm mà thôi, không còn mạnh như trước nữa. Sơ lược lịch sử giai đoạn này chúng ta thấy, từ khoảng năm 1700 - đầu thế kỷ XVIII, thời kỳ Mạc Thiên Tích (con của Mạc Cửu, người khai phá xứ Hà Tiên) làm Tổng binh trấn Hà Tiên, ông đã biến vùng đất Tây Nam nước ta phát triển cực thịnh.
Hà Tiên trở thành một thương cảng sầm uất, nơi cập bến của những đội tàu buôn Đông - Tây (sử còn ghi). Những con tàu của thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha chở gốm sứ, rượu sang đổi sản vật, tơ lụa ở Châu Á đều phải đi qua vùng biển này.
Trên vùng biển kín của Vịnh Thái Lan nhiều hòn lắm đảo, lại nằm trên đường trung chuyển, vô tình trở thành điều kiện lý tưởng để các băng cướp biển tìm đến trú ngụ. Rồi cái tên băng cướp Cánh Buồm Đen - nỗi khiếp đảm xuyên thế kỷ cho các đội tàu bè cũng xuất hiện từ đó.
Theo sử liệu thời Mạc Thiên Tích thì băng cướp này án ngữ vùng biển Nam từ hồi cuối thế kỷ XVIII, nhưng “dư âm” thì mãi đến đầu thế kỷ XX mới tan rã. Và “góp phần” làm nên cái danh hải tặc cho một vùng hải đảo như ngày nay, trong đó có người sinh ra bà Mười “bầu”.
Cha cướp biển, con gánh đá lập chùa
Trở lại câu chuyện với hậu duệ của hải tặc. Khi đến quần đảo Hải Tặc, gia đình bà Mười chọn hòn Giang để ở. Tuy nhiên vì hòn này quanh năm gió chướng, cha mẹ mới đưa cả gia đình chuyển đến hòn Đốc cố cư cho đến nay.
Rồi cha bà mất, anh em lập gia đình mỗi người một phương. Là thế hệ đầu ra khai phá đảo, cuộc sống khó khăn đủ bề, chưa nói phải chống chọi với thiên tai, bão biển. Hồi đó cả đảo lóp ngóp dăm ba cái nhà lá dừa chứ không phải trên một nghìn dân như bây giờ.
Bà Mười cũng có chồng nhưng ông chẳng may mất sớm, bà ở vậy, tự túc phát rừng dựng nhà, xẻ núi làm đường, xuống biển chăng lưới mưu sinh. Khi cuộc sống tạm ổn, dân ra đảo nhiều hơn thì cũng là lúc chế độ Ngụy do Ngô Đình Diệm bành trướng.
Chúng đưa máy bay, tàu chiến ra dựng lô cốt trên đảo hòn Đốc làm căn cứ quân sự. Bà Mười nhớ lại: “Chúng tôi đã chạy từ Phú Quốc ra đây mong tránh tai ương, địch họa, nhưng chỉ vài ba năm sau bọn chúng lại theo tới”.
Xứ đảo yên bình lại ầm ì tiếng nổ của tàu sắt, súng ống lĩa chĩa biển xanh, trực thăng ngày ngày dội vạt ngọn dừa trên đảo, dân tình ai nấy đều chắc mẩm lo lắng rồi chiến tranh sẽ ra đến đây mất. Những lúc đó bà con trên đảo chỉ còn cách cầu nguyện, mong cho an bình đến. Từ sâu thẳm trong tâm bà, ý định lập chùa nảy sinh.
Câu chuyện lập chùa lúc đó của bà cũng trăm bề nhọc nhằn, thiện ý của bà bị cản trở rất nhiều, vì chế độ cũ do Ngô Đình Diệm lúc đó chủ trương bài Phật giáo gắt gao. Việc lập chùa đã khó, huống hồ ý tưởng đó lại là của một người phụ nữ nhỏ thó, thấp bé hạt tiêu như bà Mười.
Với hai bàn tay trắng, ban đầu bà cũng ái ngại. Nhưng rồi thương bà con không nơi hương khói, cầu nguyện, bà lại quyết tâm xây chùa. Đầu tiên bà tìm đến nơi cao nhất trên hòn Đốc quyết định nơi dựng chùa, đó là một nơi trông ra biển Tây, bốn bề gió lộng.
Không quản khó nhọc, đích thân ngày xuống bãi vục cát, đêm cạy đá núi rồi gùi lên lưng chừng đồi. Để có vữa xây bà đi hái cây rau, bắt con cá đổi cho bọn lính Ngụy ở đồn bốt. Thời gian qua đi, chẳng mấy chốc ngôi chùa khang trang hoàn thành, cái tên Sơn Hòa Tự ra đời.
Đoạn bà Mười nói như giải thích: “Tôi đặt tên chùa với ý nghĩa “Sơn” là núi, “Hòa” là yên hòa, hòa bình, “Tự” vừa là chùa nhưng cũng là do tự mình dựng nên. Ngôi chùa lập ra là mong muốn bà con trên đảo có cuộc sống yên bình, hòa hợp.
Sẽ không còn chiến tranh, không còn cướp biển gây chết chóc đau thương nữa”. Rồi chừng như thấy được thiện ý của bà, từ đó bọn Ngụy không hoạnh họe gì nữa, mà càng thêm kính trọng bà Mười. Từ khi có chùa, người dân ở các hòn lân cận có mong muốn khấn Phật đều tìm đến Sơn Hòa Tự của bà để hương khói.
Những người đi biển trước khi ra khơi cũng đến chùa cầu an, những người muốn tĩnh tâm thì đến Sơn Hòa Tự để gõ mõ. Bà nhấn mạnh: “Tui lập chùa duy chỉ cầu cho yên bình mà thôi, mong rằng sau này người trên đảo sống hòa thuận, không còn nạn cướp bóc, loạn lạc”.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, trên hòn đảo nằm sâu trong Vịnh Thái Lan, ngôi chùa bà Mười vẫn tồn tại như sự chế ngự lại cái ác. Nếu trên đảo từng có những con người làm phỉ, cướp biển thì cũng có con người lập chùa nhắc nhở nhân tâm hướng thiện.
Nghe chúng tôi “quở” bà đã lớn tuổi mà còn minh mẫn và tinh anh quá, bà lại cười: “Tui sống chỉ có chữ Đức thôi, thấy người dân có nơi lui tới cầu an là tôi vui rồi”. Đến cái tuổi xưa nay hiếm, tâm của bà vẫn sáng như thuở gian nan lập chùa, 86 năm vui sống thanh thản cùng ngôi chùa Sơn Hòa Tự trên đảo Hòn Đốc.
Và giờ đây người ta biết đến bà Mười “chùa” làm phước, gieo đức, sống hòa thuận chứ ít ai quan tâm bà là hậu duệ của một thành viên cướp biển, từng gây bao tai ương một thời ở vùng biển Tây tươi đẹp của Tổ Quốc.
Theo Hoàng San
Phunutoday
Phunutoday
Vẻ đẹp quyến rũ của quần đảo Hải Tặc
Quần đảo Hải Tặc (Kiên Giang) hoang sơ gắn liền với những câu chuyện đầy ly kỳ về bọn cướp biển đang là điểm đến đầy sức hấp dẫn.
Vào những ngày biển lặng, du khách sẽ được ngắm cảnh hoàng hôn tuyệt
đẹp như tranh vẽ trên đảo trước khi lên tàu trở về đất liền.
Buổi sáng yên bình trên dòng sông Đông Hồ, phía xa xa là rặng núi Tô
Châu. Sau khi uống cà phê, dùng điểm tâm sáng, du khách sẽ lên tàu đi ra
quần đảo Hải Tặc.
Quần đảo Hải Tặc nằm ở vùng biển phía tây của Tổ quốc, bao gồm 16 hòn
đảo lớn nhỏ. Từ bến tàu Hà Tiên, du khách mất khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ
để đến xã đảo Tiên Hải, đây là hòn đảo có nhiều người sinh sống nhất
với hơng 1000 nhân khẩu. Đây cũng là hòn đảo duy nhất có trường học và
trạm y tế.
Tuy hoang sơ nhưng quần đảo Hải Tặc với vẻ đẹp của trời, mây nước lại
có một sức hút rất riêng đối với du khách. Đến đây, bạn sẽ được người
dân trên đảo kể cho nghe nhiều câu chuyện truyền thuyết về hải tặc đã
gắn liền với lịch sử hình thành vùng đất này.
Nếu lần đầu đặt chân lên đảo, bạn sẽ ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của đảo Hải
Tặc. Biển xanh, cát trắng nắng vàng hòa vào nhau tạo nên một bức tranh
thiên nhiên tuyệt đẹp có thể hớp hồn bất kỳ ai.
Những chiếc thuyền nhỏ trong ảnh là phương tiện di chuyển và kiếm sống
của người dân trên đảo. Họ dùng để thả lưới đánh bắt hải sản gần bờ hoặc
di chuyển giữa các hòn đảo gần nhau.
Ngoài một số người dân vào đất liền làm việc, còn lại thu nhập chính
của người dân trên đảo là đánh bắt hải sản. Những em nhỏ trên đảo sau
một buổi đến trường thì phụ giúp kinh tế gia đình bằng cách lặn bắt các
loại ốc gần bờ rồi bán cho thương lái tại bến tàu.
Với vẻ đẹp hoang sơ, yên bình, quần đảo Hải Tặc ngày càng thu hút nhiều
du khách đến tham quan và tổ chức các hoạt động vui chơi trên đảo.
Ngoài ra, du khách có thể chuẩn bị lều trại để cắm trại trên đảo vào
buổi tối.
Cột mốc khẳng định chủ quyền lãnh thổ của đất nước được xây dựng từ cuối những năm 50 của thế kỷ trước nằm trên hòn Tre Lớn.
Tiêu Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét