TTO - Hai bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh năm 1925 so sánh quân chủ với dân chủ như hai quả bom nổ tung giữa thành phố Sài Gòn lúc đó để tỉnh thức bao tấm lòng yêu nước thời bấy giờ...
Chân dung cụ Phan Châu Trinh - Ảnh tư liệu |
Phan Châu Trinh, hiệu là Phan Tây Hồ, sinh ngày 9-9-1872 tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình võ quan triều Nguyễn. Năm 1900, Phan Châu Trinh đỗ cử nhân, năm sau đỗ phó bảng. Năm 1902, Phan Châu Trinh vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông từ quan, dấn thân vào các hoạt động yêu nước.
Năm 1905 và năm 1911, Phan Châu Trinh sang Nhật Bản rồi sang Pháp để học hỏi, tìm con đường thoát khỏi ách cai trị của người Pháp. Sau đó, các năm 1906, 1919 và 1920, Phan Châu Trinh ba lần gửi một bức thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải chính sách cai trị ở Việt Nam và Đông Dương.
Năm 1907, Phan Châu Trinh từng vào Nam Trung bộ, rồi ra Hà Nội giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục và diễn thuyết nhiều lần về con đường cứu nước. Năm 1917, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành thành lập Hội người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt tại Hà Nội và bị đày đi Côn Đảo. Năm 1910, Phan Châu Trinh được ân xá, bị quản thúc ở Mỹ Tho. Năm 1914, tại Pháp, Phan Châu Trinh lại bị bắt giam vào ngục Santé.
Phan Châu Trinh cùng con trai Phan Châu Dật năm 1917 - Ảnh tư liệu |
Phan Châu Trinh diễn thuyết ở Sài Gòn
Năm 1925, Phan Châu Trinh từ Pháp về Sài Gòn, ngụ tại khách sạn Chiêu Nam Lầu (nay là số 49 đường Nguyễn Huệ, Q.1, TP.HCM), đã hai lần diễn thuyết cho dân Sài Gòn về “Đạo đức và luân lý đông tây” (dài 10.878 từ, diễn thuyết ngày 19-11-1925) và “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa” (dài 8.432 từ).
Qua hai bài diễn thuyết, Phan Châu Trinh muốn giải thích cho mọi người hiểu rõ thế nào là chủ nghĩa quân chủ và chủ nghĩa dân chủ, cũng như lợi hại của mỗi chủ nghĩa, phân tích những sự hủ bại của hệ thống quan lại và đưa ra những yêu cầu cải cách hệ thống quan lại và những quan hệ chính trị của chế độ quân chủ vẫn còn tồn tại lúc đương thời tại Việt Nam.
Phan Châu Trinh đã nói cho người dân Sài Gòn thấy rằng “Ai nắm việc thương mại thì nắm được thế giới” (Qui tient le commerce tient le monde).
Do đó, ông chủ trương phát triển kinh doanh, lập các hiệu buôn, mở mang thương nghiệp, dạy cho dân có nghề nghiệp sinh nhai, lập các hội khai hoang, mở mang đồn điền cho hết địa lợi... Phan Châu Trinh quan niệm dân có giàu, nước mới mạnh, từ đó mới mong giành lại độc lập.
Xã hội Việt Nam những năm 1925 vẫn còn chìm trong lý tưởng cũ của Á Đông là “dân chi phụ mẫu”, nghĩa là vua được muôn dân kính trọng như cha như mẹ, trách nhiệm lớn lao là phải mưu sự hạnh phúc cho dân, như cha mẹ đối với con vậy. Chính vì thế mà muôn dân luôn phải giữ đạo trung quân, dù cho đất nước đã bị đảo điên.
Vì thế, hai bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh so sánh quân chủ với dân chủ như hai quả bom nổ tung giữa thành phố Sài Gòn lúc đó để tỉnh thức bao tấm lòng yêu nước thời bấy giờ...
Nhà trưng bày Phan Châu Trinh ở số 9 Phan Thúc Duyện, P.4, Tân Bình, TP.HCM |
Tấm lòng người Sài Gòn với nhà yêu nước Phan Châu Trinh
Đầu năm 1926, Phan Châu Trinh bệnh nặng và mất lúc 21g30 ngày 24-3-1926 tại khách sạn Chiêu Nam Lầu ở Sài Gòn.
Linh cữu được quàn tại Bá Huê Lầu của nhà yêu nước Huỳnh Đình Điển, ở số 54 đường Pellerin (nay là đường Pasteur, P.Nguyễn Thái Bình, Q.1, TP.HCM).
Tang lễ được đại diện thân hào nhân sĩ Sài Gòn tổ chức cử hành như nghi thức quốc tang. Hai người con gái đã có mặt bên linh cữu của cha.
Ngày 4-4-1926, linh cửu của Phan Châu Trinh được đưa đến nghĩa trang. Từ tờ mờ sáng, người người từ khắp thành phố và vùng phụ cận đổ về đường Pellerin để đưa tang.
Đám tang cụ Phan Châu Trinh năm 1926 - Ảnh tư liệu |
Đám tang đi theo lộ trình: 54 Pallerin (nay là đường Pasteur), qua đại lộ Norodom (nay là đường Lê Duẩn), đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng). Đám tang đã đi đến cuối đường Hai Bà Trưng ngày nay mà các đoàn quần chúng còn đứng lại ở khu vực nay là đường Lê Duẩn.
Từ đường Paul Blanchy, đoàn đi thẳng xuống Phú Nhuận (nay là đường Phan Đình Phùng) đến nghĩa trang Gò Công tương tế ở Tân Sơn Nhất, nay thuộc Q.Tân Bình, TP.HCM.
Lễ tang Phan Châu Trinh cho đến lúc ấy được ghi nhận là lớn chưa từng có ở Sài Gòn, toàn dân Sài gòn, với hơn 6 vạn người, không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu cụ Phan Chu Trinh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Khu lưu niệm Phan Châu Trinh ở TP.HCM
Năm 1930, Hội Trung ký ái hữu và gia đình đã xây dựng đền thờ Phan Châu Trinh đã được xây dựng năm 1930 tại đường Gallimard (nay là số 23 đường Nguyễn Huy Tự, thuộc P.Đa Kao, Q.1).
Năm 1993, đền này được dở bỏ, xây lại đền mới, nằm cạnh mộ phần của cụ Phan Châu Trinh nằm ở số 9 đường Phan Thúc Duyện, P.4, Q.Tân Bình, gần sân bay Tân Sơn Nhất.
Toàn khu vực “Nhà lưu niệm mộ Phan Châu Trinh”, gồm đền thờ, mộ phần và nhà lưu niệm về Phan Châu Trinh. Khuôn viên của cụm di tích rộng 2.500m2, có tường rào bao bọc. Từ ngoài vào, thấy tượng bán thân lớn của Phan Châu Trinh màu trắng, đặt trong hồ nước hình tròn, xung quanh là những luống hoa đủ loại, những tán cây xum xuê tỏa mát.
Phía sau bức tượng là đền thờ Phan Châu Trinh. Đền thờ xây dựng mô phỏng theo kiến trúc đền cũ ở Đa Kao, với nền hình bát giác, mái ba tầng kiểu cổ điển. Nội thất của đền thờ trên cao là bức hoành phi ghi bốn đại tự “Phan Tiên Sinh Từ”, nghĩa là đền thờ Phan tiên sinh.
Chính giữa nhà là bàn thờ Phan Châu Trinh, phía sau có bức đại tự ghi “Cách Mạng Tiên Khu”, nghĩa là người làm cách mạng gian nan đầu tiên. Bên trái bàn thờ là nơi thờ phu nhân và các con của Phan Châu Trinh, bên phải là bia ghi công đức của Phan Châu Trinh và tủ trưng bày các tác phẩm nghiên cứu về cụ Phan.
Từ ngôi đền và bức tượng có trải một con đường nhỏ dẫn đến phần mộ, nằm bên tay phải đền thờ.
Mộ phần cụ Phan có ở đây từ năm 1926, sau khi cụ mất. Ban đầu là ngôi mộ nhỏ, nay đã được tu bổ theo kiểu một ngôi nhà mồ, rộng rãi, có mái ngói che nắng, có kê ghế đá để nghỉ ngơi, thuận tiện cho khách thăm viếng.
Mộ phần của cụ Phan nằm giữa, hình chữ nhật, trên có tấm bia khắc chữ Hán, dịch ra là “Mộ của nhà chính trị cách mạng Việt Nam Phan Châu Trinh, quốc dân cùng kính tặng”. Sau mộ là tấm bia đá bằng cẩm thạch cao 3,6m, rộng 3m, có bài nói về thân thế sự nghiệp của cụ Phan do Huỳnh Thúc Kháng soạn ngày 2-8-1926. Phía trước mộ có một đỉnh hương bằng ximăng màu trắng.
Nhà lưu niệm nằm ở bên trái đền thờ, là nơi bày những di vật, di bút, trước tác của cụ và những tư liệu, hiện vật về hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh, cạnh đó cũng có những tư liệu về các phong trào yêu nước vào thời của cụ.
Khu lưu niệm cụ Phan Châu Trinh Khu lưu niệm Phan Châu Trinh đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử ngày 12-12-1994.
Hằng năm, vào ngày 24-3, kỷ niệm ngày mất của cụ Phan, gia đình luôn tổ chức lễ giỗ nhà yêu nước Phan Châu Trinh, với sự tham gia của thân bằng quyến thuộc và những người Việt Nam kính trọng một người cả đời đấu tranh cho công cuộc đổi mới dân tộc, đổi mới đất nước...
Phan Châu Trinh hay Phan Chu Trinh?
Bên cạnh việc đặt tên cho ba người con là: Phan Châu Dật, Phan Thị Châu Liên và Phan Thị Châu Lan, Phan Châu Trinh đã khẳng định tên của mình là Phan CHÂU Trinh, chứ không phải là Phan Chu Trinh, khi ký đầy đủ tên họ và chữ lót của mình dưới bài thơ Đập đá Côn Lôn hiện có bản thảo trưng bày tại khu lưu niệm của ông.
|
Tượng và đền thờ Phan Châu Trinh ở số 9 Phan Thúc Duyện (P.4, Q.Tân Bình, TP.HCM) - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Mộ phần Phan Châu Trinh ở số 9 Phan Thúc Duyện (P.4, Q.Tân Bình, TP.HCM) - Ảnh: HỒ TƯỜNG |
Bàn thờ Phan Châu Trinh bên trong đến thờ Ở số 9 Phan Thúc Duyện (P.4, Q.Tân Bình, TP.HCM) - Ảnh: HỒ TƯỜNG HỒ TƯỜNG PHAN CHÂU TRINH VÀ MỘT CUỘC DUY TÂN Truy điệu Tây Hồ nhật
TT - Đúng 90 năm trước, ngày 24-3-1926, một quốc tang với tất cả nghi lễ bên ngoài, kính ngưỡng bên trong đã được hàng vạn người dân đồng lòng tổ chức xuyên suốt Nam - Trung - Bắc.
Ấy là tang lễ chí sĩ Phan Châu Trinh... Ngày 24-3-1926, nhà yêu nước Phan Châu Trinh tạ thế. Ngày 4-4-1926, Sài Gòn chấn động khi hàng vạn người từ trong nhà đổ ra đường, từ các tỉnh đổ về thành phố, đeo băng tang, xếp hàng tề chỉnh, cờ phướn nghiêm trang, đi theo linh cữu Phan Châu Trinh về nơi an nghỉ.
90 năm dài bằng cả đời người, dài hơn hai cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Thế nhưng dư âm thức tỉnh của tang lễ Phan Châu Trinh thì vẫn còn đó...
Toàn quốc thọ tang
Trong khu vườn xanh mát trên đường Phan Thúc Duyện (Tân Bình, TP.HCM), ngôi mộ Phan Châu Trinh nằm yên ả, bức tượng với hàm râu và đôi mắt kiên định dõi nhìn lịch sử biến động thăng trầm.
Tấm bia vẫn nguyên vẹn hàng Hán tự: “Việt Nam chính trị cách mạng gia Phan Châu Trinh tiên sinh chi mộ - Quốc dân đồng kính tặng” và những dòng tiểu sử đầy tự hào lẫn nuối tiếc ai oán của người bạn tri kỷ Huỳnh Thúc Kháng.
1926, Việt Nam đã mấy mươi năm rơi vào vòng bảo hộ thuộc địa. Nước mất. Dân nô lệ. Trong những trang cuối cùng của Việt Nam sử lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Người Việt Nam vì hoàn cảnh, vì tình thế bắt buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng lòng ái quốc mỗi ngày mỗi nồng nàn, sự uất ức đau khổ mỗi ngày mỗi tăng thêm. Cho nên cứ cách năm, bảy năm lại có một cuộc phiến động...”.
Song, các cuộc kháng Pháp hưởng ứng phong trào Cần vương đều thất bại, tan rã, những đường hướng tìm lại độc lập, tự do đều như đi vào ngõ cụt, cuộc sống người dân ngày một lầm than.
Trong hoàn cảnh ấy, tư tưởng “Nam quốc dân quyền tiên tổ chức” (“Người gây dựng nhân quyền đầu tiên ở nước Nam” - trích lời điếu của ông Nguyễn Sinh Huy, tức thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - PV) của Phan Châu Trinh tất nhiên sáng chói và có sức hút không thể cưỡng lại.
Ban tổ chức tang lễ Phan Châu Trinh nhận định trong Lời đạt: “Cụ Phan Châu Trinh là người đã bước bước thứ nhất lên con đường cải cách chính trị của quốc dân ta.
Trong 20 năm cụ đã bỏ nhà cửa, vợ con, bị đày, bị tù để cho dân ta được tấn hóa. Công nghiệp ấy lớn biết là dường nào”.
Và kêu gọi: “Thưởng công phạt tội, quyền ở quốc dân ta, lại có cái nghĩa phải thi hành quyền ấy. Những kẻ bán nước cầu vinh thì chúng ta phạt bằng bút bằng lưỡi. Đối với kẻ có tội đã vậy, đối với người có công chúng ta há chẳng nên biểu dương và sùng bái hay sao.
Nếu cụ Phan Châu Trinh mà không được hưởng cái lễ long trọng này, những người như cụ sống đây ai còn thiết gì đến chúng ta nữa. Dân tộc nào không biết tôn kính người ái quốc là dân tộc ấy không có lòng ái quốc...”.
Với tinh thần ấy, khi đoán bệnh cụ Phan không qua khỏi, Huỳnh Đình Điển, Võ Công Tồn, Trần Huy Liệu, Nguyễn An Ninh, Khánh Ký, Phan Văn Trường, Nguyễn Phan Long... những bạn bè, đồng chí đã tổ chức quyên góp, chuẩn bị sẵn hầm mộ bêtông cốt sắt ở nghĩa trang Hội Gò Công tương tế, mua quan tài kẽm, xin phép lưu giữ thi hài 10 ngày, cắt sẵn hàng vạn băng tang... chuẩn bị đến từng chi tiết cho một tang lễ vĩ đại mang tính chất quy tụ lòng dân.
Ngày 23-3-1926 chính quyền thực dân tại Sài Gòn ra quyết định cấm ngặt các cuộc biểu tình trong thành phố. Hôm sau, sở cảnh sát bắt Nguyễn An Ninh và hai người đồng sự. Chỉ vài giờ đồng hồ sau đó, Phan Châu Trinh trút hơi thở cuối.
Dù người trẻ tuổi và hoạt động hăng hái nhất trong ban tổ chức là Nguyễn An Ninh bị bắt, tang lễ vẫn bắt đầu với quy mô quốc tang.
Trời Nam mây ám
Trong phòng lưu niệm ở nhà thờ Phan Châu Trinh, những bức ảnh được đích thân ông Khánh Ký chụp đã ố vàng, mờ nhòe nhưng vẫn có thể thấy được những hàng người đủ cả già trẻ lớn bé, quần áo tề chỉnh, băng tang đeo tay, xếp hàng dằng dặc, gương mặt cương nghị, đầy thương tiếc, liễn phướn dựng rợp một góc trời.
Vẫn có thể đọc được những dòng tường thuật được cắt giữ, lưu lại từ nhữngĐông Pháp Thời Báo, Thực Nghiệp Dân Báo, Thần Chung... Sách Phan Châu Trinh của Thế Nguyên, in tại Sài Gòn năm 1950, kể lại: “Linh cữu của cụ Phan Châu Trinh quàn tại ngôi nhà số 54 đường Pellerin (nay là đường Pasteur - PV) ngày đêm tấp nập những người túc trực lo liệu việc đám.
Đồng bào ở Trung - Bắc Việt vào, ở lục tỉnh lên, thành phố Sài Gòn hiện ra một vẻ náo nhiệt lạ thường. 6g sáng 4-4-1926, đám tang cụ Phan khởi hành, hàng muôn người sắp hàng tư đi đưa đám, đông nghẹt các ngả đường...”.
Trên một tờ báo tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn số ra ngày 6-4-1926 tường thuật: “Dòng người kéo dài như một dòng sông trên chiều dài mấy cây số.
Các thành phần, ngành nghề đều có mặt, đều được đại diện: đoàn phụ nữ Sài Gòn và Chợ Lớn, thanh niên của Đảng Thanh niên cao vọng, An Nam trẻ, nam sinh, nữ sinh các trường, công chức và công nhân, thợ Ba Son, thợ may, thợ đóng giày Trung và Bắc, thợ cắt tóc, thợ mộc, thợ nề, đoàn Hoa kiều ở Chợ Lớn...
Cả các phu kéo xe cũng đến và góp mỗi người 30 xu để xây dựng lăng mộ. Hàng ngàn bài phúng, trướng, liễn nối tiếp nhau, đung đưa trên tay người và phất phới trước gió”...
4-4-1926, tờ Thư Tín Quốc Tế (một tạp chí của Quốc tế cộng sản) đăng bài viết của Nguyễn Ái Quốc: “Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, một người thuộc phái quốc gia, vừa qua đời. 30.000 người An Nam ở khắp xứ Nam kỳ đã làm lễ truy điệu.
Tất cả học sinh, sinh viên đều để tang cụ. Trước phong trào yêu nước của toàn dân, thực dân Pháp sợ hãi, bắt đầu phản công lại: cấm học sinh để tang và tổ chức các cuộc lạc quyên, cấm tổ chức các lễ truy điệu... Để phản đối, học sinh đã bãi khóa”.
Nguyễn Ái Quốc khi ấy đang hoạt động tại Trung Quốc, Người đã nắm rất rõ tình hình thời sự về tang lễ của cụ Phan nhưng chưa toàn vẹn.
Hương án, lễ viếng, lễ truy điệu cụ không chỉ được đặt để, tổ chức ở Sài Gòn, không chỉ tại các tỉnh Nam kỳ mà cả Trung kỳ, Bắc kỳ, cả ở Phnom Penh và Paris...
Tác phẩm Quốc gia huyết lệ của tác giả Nguyễn Đức Riệu, Thịnh Quang Thư quán xuất bản ngày 15-5-1926 đã dành chương “Trời Nam mây ám” tường thuật, ghi chép lại hàng chục lễ truy điệu tại Nam kỳ, Trung kỳ.
Nhà thờ Phan Châu Trinh tại Đà Nẵng hiện nay còn lưu giữ nội dung hàng chục bài điếu, hàng trăm câu đối, trong đó có câu đối nổi tiếng được treo trong lễ truy điệu tổ chức tại Nam Định: “Truy điệu Tây Hồ nhật/ Hoán cải quốc dân hồn”.
Đặc biệt hơn, các con cháu Phan Châu Trinh còn sưu tầm được hàng trăm văn bản của Sở mật thám Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao Miên, Paris báo cáo rất chi tiết về hoạt động tang lễ, tổ chức truy điệu, xuất bản sách về Phan Châu Trinh trước và sau khi ông mất với những nhận định khá xác đáng: “Công chúng An Nam đã nắm lấy dịp Phan Châu Trinh qua đời và tang lễ ông ta để thỏa mãn nhu cầu biểu thị ra ngoài trạng thái tư tưởng mới của họ” (báo cáo của Sở mật thám Sài Gòn ngày 28-3-1926).
Dù với những mục đích rất khác nhau, người Pháp đã gặp người Việt Nam ở ý thức rất rõ về giá trị thức tỉnh sâu rộng và lâu dài của tang lễ cụ Phan.
Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh
TTO - Câu nói của Phan Châu Trinh lý giải vì sao tuổi đời không cao nhưng các sĩ phu thời bấy giờ đã gọi ông là “cụ Phan” một cách kính trọng.
“Tôi xin nói thực với các anh, tôi đã bỏ hai phần ba đời tôi để tìm lấy thuốc mà chữa trị cho nước nhà. Thông minh tôi tuy kém, tài trí tôi tuy hèn, nhưng trong buổi giao thời này tôi có thể dám nói rằng: cái trách nhiệm của nòi giống dân tộc Việt Nam tôi quyết không nhường cho ai cả”.
Câu nói đậm “chất Quảng Nam” của Phan Châu Trinh lý giải vì sao tuổi đời không cao nhưng các sĩ phu thời bấy giờ đã gọi ông là “cụ Phan” một cách kính trọng.
Không nhường cho ai
“Không nhường cho ai” nên tuy đã đỗ phó bảng, đã có một chức quan trong bộ lễ của triều đình Huế nhưng Phan Châu Trinh không cam phận làm quan. Cùng với những nhà Nho yêu nước, ông ngày đêm suy nghĩ, học hỏi hòng tìm một con đường đưa dân tộc thoát vòng nô lệ.
Học đủ cổ thư, ông dành ra nhiều thời gian đọc tân thư và những chuyển biến tư tưởng đã đến từ đây. Ông hướng đến con đường giải phóng bằng tự lực, tự cường, bằng khai mở văn hóa, khai sáng con người, mà trước hết là tự nhìn nhận những yếu kém, thua sút.
Ông viết: “Than ôi! Nước Nam bây giờ dân khí yếu hèn, dân trí thì mờ tối, ví với các nước châu Âu, châu Á cách xa không biết bao nhiêu dặm đường...”.
Có đặt vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, dân trí thật sự mờ tối của năm 1903 mới thấy được giá trị vượt thời đại của lời tự thán minh triết này. Học giả Hoàng Xuân Hãn phân tích: “Sau khi phong trào Cần vương bị đàn áp tan rã hoàn toàn, Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhược điểm cơ bản về văn hóa, xã hội Việt Nam. Cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa đã đưa đến mất nước là sự thua kém của xã hội ta so với phương Tây. Phan Châu Trinh đã đưa ra một đường lối mới để tìm lối thoát cứu nước...”.
Đường lối mà Phan Châu Trinh tìm ra: “Chỉ nên trông cậy ở chính mình, chớ vọng ngoại vì vọng ngoại ắt là chết. Hãy coi trọng nền hòa bình của đất nước nếu chúng ta không muốn mua lấy cái chết. Sự giải thoát của chúng ta nằm chủ yếu trong sự học hành, mở mang trí tuệ”.
Tự nhận về mình trách nhiệm lớn lao, “không nhường cho ai”, Phan Châu Trinh từ quan. Mọi hoạt động của ông từ đây chỉ tập trung cho một mục đích: duy tân - con đường mới tươi sáng cho dân tộc, đất nước.
Ông viết Tỉnh quốc hồn ca gửi nhân dân; viết Điều trần gửi Toàn quyền Pháp; viết Chí thành thông thánh, Đông Dương chính trị luận gửi các nhân sĩ trí thức; viết Thư thất điều gửi vua Khải Định; viết Quân trị chủ nghĩa, Dân trị chủ nghĩa nói chuyện với đồng bào; viết báo, làm thơ...
Ông tham gia sáng lập Trường Đông Kinh nghĩa thục, Trường Dục Thanh và nhiều trường khác của các nhà Nho yêu nước, vận động mở tòa báo, vận động bỏ hủ tục, mê tín dị đoan, phổ biến chữ quốc ngữ, lập hội học, hội buôn, hội diễn thuyết... hòng mở mang tri thức, củng cố kinh tế.
Ông động viên từng người dân: “Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan, biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì ngày càng bước tới con đường vui vẻ. Còn dân ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mong đợi trông cậy ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người hay một chính phủ muốn làm sao thì làm mà mình không hành động, không kiểm xét thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường”.
“Gian nan chi kể việc con con”
Khi những tư tưởng tự lập, tự đấu tranh cho quyền lợi của mình đã thấm vào người dân, cuộc Trung kỳ dân biến chống sưu thuế nổ ra như một quả bom.
Dù không phải người tổ chức trực tiếp, thực dân Pháp vẫn đày Phan Châu Trinh ra Côn Lôn (tức Côn Đảo - PV) vì nhận thức rõ tầm ảnh hưởng của ông. Phan Châu Trinh điềm tĩnh đón nhận thử thách cùng các đồng chí mình, những ngón tay quen dùng bút lông điềm tĩnh cầm búa đập đá, điềm tĩnh ngâm ngợi: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước/ Gian nan chi kể việc con con”.
Sau khi được thả trước thời hạn nhờ can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, bị quản thúc ở Mỹ Tho, Phan Châu Trinh vận động để được đưa sang Pháp, mục đích không ngoài việc tiếp tục học hỏi cái hay, cái mới để tiếp tục công cuộc “Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh”. Sau 14 năm ở xứ người, ông lại trở về say mê tiếp tục cuộc duy tân.
Hơn 80 năm sau, bà Phan Thị Minh (tức Lê Thị Kinh), cháu ngoại của ông, đã hai lần sang Pháp, ăn ngủ ở thư khố, Cục Lưu trữ quốc gia để sao lục, dịch thuật hàng ngàn trang tư liệu gồm thư trao đổi giữa nhà cầm quyền Pháp và Đông Dương về Phan Châu Trinh, những báo cáo của mật thám Pháp được giao theo sát từng hoạt động của ông và bạn bè, đồng chí từng ngày, từng giờ, những bản thảo mà mật thám đã lấy được...
Tại nhà lưu niệm Phan Châu Trinh ở Đà Nẵng đầy những báu vật bằng giấy ấy, bà Minh run run xúc động kể: “Khi tôi 1 tuổi, được mẹ bồng vào Sài Gòn thăm ông ngoại (bà Minh là con bà Phan Thị Châu Liên, con gái lớn của cụ Phan - PV).
Ấy là những ngày cuối cùng của cụ Phan, cũng là những ngày ít ỏi mẹ tôi được gần cha mình. Cả đời cụ bôn ba hoạt động khiến các con gái gần như lớn lên trong cảnh không cha...
Tôi được cha mẹ giao lại những bản thảo mà cụ Phan đã mang theo bên người khi ông ra Bắc, vào Nam, sang Pháp, và đến lượt cha mẹ tôi khổ công gìn giữ: nào rang gạo chống ẩm, rang hồ tiêu chống mối, bỏ vào chum sành chôn giấu mỗi khi chạy bom đạn... Bắt tay vào nghiên cứu cụ ở tuổi 70, nhiều thông tin khiến tôi phải rớt nước mắt”.
Quả là muốn rớt nước mắt khi đọc những báo cáo của mật thám: việc chấm sửa ảnh kiếm không đủ chi phí, Phan Châu Trinh dọn sang chỗ khác để tiết kiệm tiền thuê nhà; Phan Châu Trinh ốm nặng không đủ sức đi làm sau khi nghe tin con trai mất...
Và những kết luận khách quan đượm phần kính nể của Sở mật vụ Pháp: “Phải công bằng mà thừa nhận cuộc sống của Phan Châu Trinh là đáng kính trọng. Y mang tinh thần dân tộc rất cao mà y không hề giấu giếm với các đồng bào y ở đây và cả với những người Pháp...”.
14 năm ở Pháp, vật lộn với cuộc mưu sinh, với những mùa đông lạnh giá không đủ thức ăn, sưởi ấm, với ngôn ngữ và văn hóa xa lạ, với quan điểm chính trị khác nhau của những người cùng yêu nước, với những mất mát, đau khổ riêng tư...
Đấu tranh để được về nước, ông chỉ còn kịp tổ chức hai cuộc diễn thuyết giữa Sài Gòn. Tài liệu của Sở mật thám Nam kỳ còn ghi rõ: “Tối 27-11-1925, mặc dù bị sốt rất cao, Phan Châu Trinh vẫn quyết thực hiện buổi diễn thuyết thứ hai nhằm tăng thêm uy tín của ông ở Nam kỳ...”.
Hôm ấy ông đã chỉ ra: cần phải thay chế độ quân trị bằng dân trị. “Dân trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người làm việc nhà nước hay người thường đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do bước tới bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả”.
Các nhân sĩ ở miền Trung, Hà Nội nức lòng chờ Phan Châu Trinh ra diễn thuyết, nhưng rồi ông đã không vượt qua được số phận...
PHẠM VŨ |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét