Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2018

Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông

TP - Buôn cổ M’Liêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch xét chọn là buôn cổ độc nhất trên cao nguyên Đắk Lắk.
Buôn cổ M’Liêng, xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch xét chọn là buôn cổ độc nhất trên cao nguyên Đắk Lắk để triển khai dự án bảo tồn văn hóa truyền thống M’Liêng với mục tiêu xây dựng bảo tồn buôn M’Liêng đầy đủ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của người M’Nông R’Lăm. Nơi đây như một Tây Nguyên thu nhỏ hoang sơ cổ kính của hàng trăm năm trước chứa đựng những giá trị văn hóa cổ truyền của người M’Nông R’Lăm.
Kỳ 1: Thâm u buôn cổ
Với người M’Nông rừng là nhà, là đất mẹ, bảo vệ, che chở cho buôn làng. Người già trong làng thường cất giữ trong ký ức của mình những câu chuyện huyền thoại về các vị thần rừng, các hình phạt khủng khiếp với những kẻ dám giễu cợt thần linh, như khu rừng ma, nơi ít người dám tới. Người ta sợ linh hồn người chết, nên khu rừng được bao bọc bởi bao tính thiêng, ẩn chứa bao điều bí ẩn nên không ai dám vào chặt phá, đốt rừng làm rẫy.
Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông - ảnh 1Toàn cảnh khu rừng ma.
Ác mộng rừng già
Buôn cổ M’Liêng nằm ven hồ Lắk, hồ nước ngọt lớn nhất Tây Nguyên, cuộc sống bà con ấm êm trù phú với 2 mùa gieo gặt. Trước đây phải chờ đợi những chuyến đò mới vào được, bây giờ đường nhựa êm ru từ quốc lộ vào tận buôn. Ngay đầu buôn ngôi nhà cộng đồng bề thế, phía sau là cây đa khổng lồ vươn tán che mát cả một khoảng đất, những ngôi mộ ẩn hiện giữa rừng cây, bụi cỏ lớn bé. Đó chính là rừng mộ ché được nhắc đến trong câu chuyện huyền bí của đồng bào bản địa buôn cổ M’Liêng.
Theo ông Y Thon Ênuôl, trưởng buôn M’Liêng, cánh rừng này không có vực sâu, không có thú dữ, không có bẫy chông nhưng đã từng là chốn bất khả xâm phạm của người làng. Bà con gọi đây là rừng ma (hay rừng mộ ché) vì trong rừng này là mộ và những chiếc ché được chôn theo mộ. Đối với người M’Nông, dòng họ “người giữ rừng” khi chết được an táng dưới tán rừng và họ gọi đó là rừng ma. Họ bảo vệ rừng ma để bảo vệ đời sống tâm linh, bảo vệ phần hồn của mình. Luật tục đã quy định như thế nên không ai được xâm phạm.
Để được vào khu rừng ma chúng tôi phải ghé thăm dòng họ “giữ rừng” am hiểu tường tận về khu rừng. Già Y Vé Nhơm sống ở đây hơn 70 mùa rẫy tiếp chuyện: Nghe bố mình kể lại rằng thuở xa xưa, nơi đây còn hoang sơ, bao quanh buôn làng là những cánh rừng bất tận. Hầu hết vùng đất được hồ Lắk bao bọc là của dòng họ Nhơm. Là khu cấm địa mà người bản xứ không dám mạo phạm, không dám đặt chân vào khi không có việc.
Khu rừng này là nơi ở của những người đã khuất, đối với đồng bào đó là chốn linh thiêng. Chết không phải là dấu chấm hết của một đời người mà được sống trong một thế giới khác. Ở đây sẽ bắt đầu cuộc sống trái ngược với cuộc sống hiện tại, nơi đó đêm là ngày, những con suối tuôn dòng chảy không phải từ trên núi cao mà theo hướng ngược lại. Người M’Nông tin một người chết như thế, sẽ được những phù thủy ở rừng ma ăn xác và linh hồn họ đi về phía âm phủ gặp hồn cha, mẹ, anh em, người thân đã chết trước đó. Nên, người chết đã về rừng ma, không ai dám tới quấy nhiễu, nếu không sẽ mở đường dẫn lối cho các phù thủy, ác ma theo dấu chân, theo mùi người về gây hại làng. Điều này khiến người M’Nông bị tác động rất lớn, họ sợ tất cả những gì vượt qua họ, đặc biệt là thần linh, ngay cả thần thiện. Người M’Nông tin rằng thần linh trú ngụ khắp nơi.
Đối với họ rừng là nơi ở của các vị thần linh mà có thể khẩn cầu sự giúp đỡ khi gặp khó khăn trong cuộc sống, họ thuộc từng ngõ ngách, vách núi như lòng bàn tay. Nhưng khu rừng này họ không dám đặt chân đến vì người chết tồn tại trong tâm linh, linh hồn họ ở chốn địa ngục được hóa kiếp vào một lốt mới. Trong đó những bụi tre to lớn mọc lên từ những ngôi mộ đó là linh hồn người chết hóa thân vào. Họ không dám mạo phạm nếu không sẽ gặp những điều xui rủi, xảy ra những cái chết xấu. Khu rừng này luôn được bà con bảo vệ nghiêm ngặt.
Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông - ảnh 2Những chiếc ché cổ trên 100 tuổi của gia đình ông Y Vế Liêng.
Những chiếc ché ở khu rừng ma
Trong ngôi nhà nhuốm màu thời gian, rít một hơi thuốc, phả ra làn khói trắng trông rất mờ ảo, già Y Vé Nhơm ngồi đó tôi cứ ngỡ một bức tượng nhà mồ chứa đựng một tâm trạng đầy bí ẩn được các nghệ nhân khắc họa. Già chậm rãi: Trong khu rừng ấy sẽ có rất nhiều ché to, hoa văn rực rỡ có màu men tinh tế, bóng loáng, đó là những chiếc ché quý nhiều năm tuổi có tên là Yang- Dâm hay ché Djiring. Ngày trước để có được chúng, chủ nhân phải đổi bằng rất nhiều của cải, bây giờ được chôn cạnh mộ vì đó là tài sản của người chết, nên gia đình mang trả cho người về với Yang (thần linh) theo tục chia của. Ở những “rừng ma” của các dân tộc khác như  Gia Lai, Kon Tum hầu như sẽ không nhìn thấy ché, nếu có thì chỉ là những chiếc ché nhỏ không có giá trị là bao.
Người M’Nông rất coi trọng những chiếc ché chứa thứ nước thiêng mà họ tin có thần linh trú ngụ trong đó. Nên khi một người qua đời, gia đình sẽ dành chiếc ché quý nhất mang ra rừng ma để người chết sử dụng. 
Người M’Nông quan niệm và xem ché đựng rượu là vật thiêng gắn với đời người từ lúc sinh ra cho đến khi hồn lìa khỏi xác. Mừng sự chào đời của một đứa trẻ không thể thiếu ché rượu.
Khi buôn làng cúng thần lễ ăn đầu lúa, ché rượu quý nhất, thơm nhất được dùng mời thần linh để cùng chia sẻ niềm vui cũng như lắng nghe lời cầu nguyện của dân làng.
Đối với làng có người chết xấu, hay người phạm tội loạn luân, bên cạnh con vật hiến sinh, phải có các ché rượu để gột rửa, tẩy uế…
Trong câu chuyện của vị phó chủ tịch xã Nguyễn Thế Anh, chúng tôi được biết, trước đây cách thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk đi ngược về thành phố Buôn Ma Thuột chừng 2 km có một khu rừng le, đây là nghĩa địa của người M’Nông. Trong đó huyệt mộ được đào sâu và rộng. Dưới huyệt chiêng, ché và các vật dụng sinh hoạt xếp ngay ngắn, sau đó đặt quan tài người đã mất lên phía trên và vùi đất lấp lại. Năm 2006, xã chỉ đạo khai quật khu rừng le, lấy lên được rất nhiều chiêng, ché. Qua thời gian chiêng bị hỏng hết, nhưng ché vẫn còn nguyên vẹn.
Trong quá trình khai quật anh em làm vỡ mất phân nửa số ché, chỉ còn khoảng hơn 50 cái được công ty du lịch huyện Lắk đến xin về. Hiện tại những chiếc ché trưng bày trong khu du lịch bây giờ đều lấy từ khu rừng le này. Đối với người M’Nông tất cả những gì thuộc về người đã khuất họ không bao giờ lấy lại. Còn về số tuổi những chiếc ché chưa xác định được, chỉ biết rằng nó được chôn từ năm 1975 tại khu rừng le. Bây giờ nơi đây là cây xăng dầu Tây Nguyên.
Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông - ảnh 3Chiếc ché màu men tinh tế được chôn cạnh ngôi mộ trong khu rừng.
Đi dọc con đường nhựa buôn M’Liêng, những ngôi nhà sàn cao giống kiến trúc người Ê Đê im ắng trong ánh nắng chiều. Anh Y Siu Buôn Krông (SN 1990, buôn M’Liêng) chỉ những chiếc ché được để ngả nghiêng dưới sân đất cạnh ngôi nhà cho biết: Bất cứ gia đình nào sau khi làm lễ cúng, tất cả những chiếc ché đựng đồ trong buổi lễ phải được rửa dưới nước thật sạch, mang ra sân cho nằm nghiêng dưới ánh nắng mặt trời đến khi khô mới được đưa vào nhà. Còn những chiếc ché thiêng (cả trăm tuổi) muốn sử dụng phải làm lễ cúng cho ché.
Theo quan niệm của đồng bào Tây Nguyên, ché thiêng là ché có vị thần đang trú ngụ, khi mang ché về nhà họ thường làm lễ cúng rước thần linh nhập hồn cho ché mới, trong nghi lễ, máu con vật hiến tế được bôi lên miệng ché. Nghi thức này xem như chiếc ché đã có sự hiện diện của thần linh. Khi đó ché được mang vào nhà và đặt cẩn thận nơi trang trọng nhất. Chỉ những dịp lễ quan trọng mới đưa ra sử dụng. Nhà nào có hồn chiêng ché ở cùng thì nhà đó mua được nhiều chiêng ché.
Những chiếc ché ở buôn M’Liêng mà chúng tôi gặp chỉ đơn giản là như vậy nhưng hàm chứa bao nét văn hóa rất riêng của người M’Nông…

Thám hiểm rừng thiêng

TP - Bước chân vào thế giới của người M’Nông sống ven hồ Lắk luôn là điều mới lạ, huyền bí đối với người miền xuôi bởi nó luôn phảng phất nhiều dấu ấn của thuở hồng hoang. Với một tấm màn đầy màu sắc tâm linh, trong đó ranh giới thật giả rất mong manh.
Ông Y Vế Liêng nói rằng những bụi tre này được mọc lên từ những ngôi mộ cổ.
Ông Y Vế Liêng nói rằng những bụi tre này được mọc lên từ những ngôi mộ cổ.
Chết xấu và con ngải ma
Buổi chiều ở vùng núi thẳm trời nắng như đổ lửa, giọng già Y Vé Nhơm vẫn đều đều vang lên: Khu rừng ấy (rừng mộ ché) có từ rất lâu rồi, già cũng không xác định được tuổi của nó, chỉ biết rằng từ trước thời cố nội đã có khu rừng, đến giờ hơn 300 năm. Những câu chuyện liên quan đến khu rừng đang dần phai mờ trong tâm thức của người dân ở buôn làng này, vì người già đã về với Yang (thần linh). Bây giờ khu rừng không còn riêng của dòng họ già mà thuộc sự quản lý của nhà nước.
Theo già Y Vé Nhơm và bà con trong buôn đó là chuyện của nhiều năm về trước, bây giờ có thể vào rừng bình thường. Nhưng không được chặt cây làm điều xấu trong rừng.
Khi chúng tôi ngỏ ý muốn được vào khu rừng thiêng thì các già làng lưỡng lự, họ phân trần: Trong đó chỉ có bụi tre và những ngôi mộ, có gì đâu mà vào. Sau hồi thuyết phục, các cụ già trao đổi bằng tiếng bản địa, quyết định để ông Y Vế Liêng (SN 1967), nguyên Bí thư chi bộ buôn dẫn đi. 
Lần đầu vào chốn được cho là nơi của những hồn ma bóng quế, chúng tôi nghĩ ngay đến những ngôi nhà ma rệu rã vì thời gian và nắng gió, tượng nhà mồ bạc phếch theo năm tháng, tài sản người sống chia cho người chết giữa lau lách cỏ cây… Nhưng không như chúng tôi nghĩ, rừng ma ở buôn M’Liêng không hoang sơ, thâm u. Ngay rìa bìa rừng, bên con đường mòn nhỏ, một số ngôi mộ tráng men mới tinh, cạnh bên là chiếc ché chôn xuống đất một nửa. Đây là những ngôi mộ của dòng họ Nhơm được chôn cách đây mấy năm đang còn rất mới. Ông Y Vế Liêng nhấc từng bước cẩn trọng trên con đường mòn, giọng trầm đều đủ để chúng tôi nghe thấy: Nơi đây có những ngôi mộ khoảng 300 tuổi gắn liền với khu rừng, huyệt mộ không đào sâu, những ngôi mộ chỉ đắp đất nhô cao hơn gang tay. Đi sâu hơn nữa chúng tôi nhận thấy nhiều con đường nhỏ được tõe ra từ đường mòn chính. Chỉ có một số ít cây cổ thụ cao chót vót đứng hiên ngang giữa đất trời. Phủ hết khu rừng là những bụi tre lớn um tùm choáng hết lối đi. Vài ba ngôi mộ bên trên có tấm xi măng dựng đứng, dòng chữ khắc trên đó bị xóa nhòa theo năm tháng, chỉ có những chiếc ché chôn bên cạnh vẫn còn mới. Có những ngôi mộ là một ụ đất trồi lên cao được bao bọc bởi những cây lớn xung quanh. Tiến đến sát gần ngôi mộ, như có dòng điện chạy dọc sống lưng khi thấy trong chiếc ché đôi rắn hổ mang chúa trên đỉnh đầu có hình vầng trăng khuyết nằm khoanh tròn. Trong đầu tôi hiện lên những suy nghĩ về bùa ngải của người M’Nông. Có lẽ ché là vật thiêng người M’Nông dùng để trấn yểm hay gắn với nghi thức thiêng liêng kỳ bí nào đó.
Tôi lẽo đẽo theo già tiếp tục vào cấm địa rừng già. Mang thắc mắc hỏi già về điều nhìn thấy, già ái ngại nhìn tôi không nói, tiếp tục bước đi. Ra đến ven bờ hồ Lắk, gặp cụ bà đang phơi phân bò, những nếp nhăn hằn trên khuôn mặt đen sạm vì nắng, cụ H’Gông (70 tuổi) nói dè dặt: Chuyện liên quan đến bùa ngải vẫn có. Những người “có ngải ma” có thể làm cho người mà họ bực tức đang khỏe mạnh, đau bệnh không rõ lý do. Cũng theo cụ H’Gông, người đàn ông nào được cô gái miền sơn cước đem lòng yêu thương sẽ bị thư ếm quên hết mọi chuyện của mình, cam tâm tình nguyện sống suốt đời suốt kiếp cùng sơn nữ. Các cụ nói rằng, nếu kẻ nào làm phật lòng người vùng cao sẽ bị trù ếm đau bệnh triền miên không thầy thuốc nào chữa được và sau cùng thì chết trong đau đớn. Vì thế người M’Nông rất sợ những cái chết xấu, họ sẽ mang lại nhiều điều kinh khủng như dịch bệnh, cái chết cho người thân và dân làng. Một làng có người chết xấu, kiêng uống nguồn nước, cấm người lạ vào làng trong suốt 7 ngày và ngược lại. Không được giã gạo bởi âm thanh sẽ dẫn ác ma về làng hại người. Người chết xấu khi an táng, phải làm các nghi lễ hiến sinh, phải giết dê, gà, heo, chó, mèo để cúng tế cho các ác ma và thần linh.
Thám hiểm rừng thiêng - ảnh 1Cận cảnh những chiếc ché quý trong rừng ma.
Kẻ sử dụng bùa ngải yếm hại người mắc tội nặng không kém gì tội ma lai. Hình phạt rất nghiêm khắc có khi phải đền mạng. Trong luật tục M’Nông đoạn trị tội yểm bằng bùa ngải nói rõ điều này: “Người nuôi ma ngải chính là ma lai, dân làng bị chết đổ thừa cho nó, bắt vợ con nó đền mạng người”. “Người nuôi ngải chữa bệnh cũng có tội, chính nó làm lại bảo nó chữa, phải phạt nặng bằng ché, bằng trâu, buôn làng bị chết, nó phải chịu tội”.
Anh Y Đel (sinh 1987, buôn M’Liêng) trấn an tôi bằng minh chứng: Nghe những người già kể chuyện thư ếm bằng bùa ngải, người miền xuôi nói đồng bào dân tộc Tây Nguyên, đặc biệt người M’Nông ở Đắk Lắk nắm trong tay những thuật bùa ngải khủng khiếp. Anh quyết tìm hiểu và phát hiện đó là màn diễn của thầy cúng, thầy bùa. Cuộc sống nơi rừng sâu nước độc khiến người M’Nông trước đây thường mắc các bệnh: Sốt rét, tiêu chảy, ghẻ lở, đậu mùa… Khi mắc những bệnh này người ta nghĩ mình bị yểm bùa ngải nên người bệnh hay thân nhân chỉ biết cậy nhờ thầy cúng làm lễ trục xuất bệnh tật bằng phép thuật ma mị hút các chất độc ra khỏi cơ thể. Kết thúc màn chữa trị thầy cho người bệnh uống nước phép, đang đau đớn tự nhiên hết bệnh nhờ thầy, lòng tin của họ càng cao hơn.
Và cũng vì sống nơi rừng thiêng nước độc, các vị thầy cúng có nhiều công thức tạo chất độc, các loại chất độc được lấy từ một số mủ cây độc trên rừng như nấm độc…, mủ trên da đầu rắn độc, con cóc, tất cả những thứ này hòa lẫn với nhau. Khi bực tức hay muốn hãm hại một ai chỉ cần sử dụng thuốc này, người bị thuốc này rơi vào sẽ bị bệnh tật hành hạ vô phương cứu chữa, chẳng ai biết hóa giải độc tố trừ người tạo ra nó.
Thám hiểm rừng thiêng - ảnh 2Khu rừng được hồ Lắk bao bọc.
Thần nước bao bọc
Bây giờ khu rừng không còn rộng lớn như ngày xưa, chỉ còn khoảng mười mấy hecta, bên rìa khu rừng bà con đã khai hoang để trồng lúa và hoa màu, nhưng họ chỉ dám làm phía rìa không dám mạo phạm vào trong rừng. Phía bên kia rừng được bao bọc bởi hồ Lắk trong veo, những ruộng lúa xanh mát. Tạo nên bức tranh phong cảnh hữu tình, nếu không có những câu chuyện xoay quanh nó thì không ai nghĩ đây là khu rừng một thuở không ai dám đặt chân vào.
Người dân ở đây lưu truyền những câu chuyện truyền thuyết về hồ Lắk: Từ thuở xa xưa ở bản làng nọ, có 2 bà cháu nghèo khổ, họ bị các tù trưởng nhà giàu coi khinh, hằng ngày phải đi mò cua, bắt cá để nuôi sống nhau qua ngày. Một ngày nọ, hai bà cháu bắt được một con lươn. Đứa cháu mừng quýnh toan làm thịt, bà ngăn lại đưa lươn bỏ vào chiếc ché để nuôi. Lươn lớn nhanh như thổi, nó vùng vẫy làm vỡ ché. Hai bà cháu ra phía sau đào một cái hố rất to, ngày ngày đi xách nước đổ vào cho lươn. Cứ thế mỗi lần lươn vùng vẫy cái hố  được nới rộng ra, lâu dần đã thành một cái hồ lớn (là hồ Lắk) bây giờ. Khi biết việc này, các vị thần khác đến thử sức và đánh vật con lươn chết. Hai bà cháu thương tiếc khóc cạn nước mắt. Đêm đó bà mơ thấy lươn hiện về báo mộng: Lấy bộ xương của lươn đốt thành tro và bỏ vào 4 ống để ở 4 chân giường. Bà lão liền dậy thực hiện ngay. Sau đêm đó tỉnh dậy thấy khung cảnh khác lạ. Nơi đây như một bản làng mới, có đàn bà dệt vải, đàn ông đan gùi, các chàng trai trẻ đánh chiêng, những cô gái đệm lời bằng những câu hát của núi rừng. Và từ đó hai bà cháu cai quản buôn làng một cách yên bình.
Cũng có một truyền thuyết khác kể rằng: Từ thuở lâu lắm rồi, cuộc chiến quyết liệt giữa thần lửa và thần nước kéo dài nhiều mùa rẫy. Sau khi thần lửa chiến thắng buôn làng người M’Nông chìm trong đại hạn. Một chàng trai M’Nông được sinh ra trong rừng này (rừng ma) từ cuộc tình vụng trộm của một sơn nữ M’Nông và thần lửa. Để chuộc tội cho mẹ, chàng ra đi tìm nguồn nước cứu dân làng. Sau khi vượt nhiều núi non hiểm trở chàng trai ngồi nghỉ chợt thấy một chú lươn nhỏ nằm kẹt trong khe đá. Chàng cứu lươn thoát nạn, lươn dẫn chàng trai đi đến một hồ nước mênh mông đó là hồ Lắk ngày nay.

Còn đó bao điều bí ẩn

TP - Văn hóa truyền thống dân tộc bản địa Tây Nguyên mãi là dòng chảy bất tận, những người già đang tìm cách níu giữ không gian, khoảnh khắc huyền thoại để không đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc mình, không đánh mất những gì cha ông để lại… Họ bền bỉ lưu giữ những di sản vô giá trước vòng quay của thời gian.
Già Y Vế Liêng bên cây đa cổ thụ.
Già Y Vế Liêng bên cây đa cổ thụ.

Linh hồn buôn làng
Ánh hoàng hôn đổ dài trên con đường bê tông dọc theo buôn cổ, già Y Vé Nhơm dẫn chúng tôi ra địa phận phần đất của dòng họ già trước đây. Ngôi nhà bề thế xây mô phỏng theo kiến trúc nhà rông được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đầu tư xây dựng có tên gọi là nhà “Bảo tồn Văn hóa”, nơi lưu giữ văn hóa người M’Nông. Đây là nhà văn hóa lớn nhất tỉnh, nằm trong Dự án bảo tồn buôn văn hóa truyền thống M’Liêng, với mục tiêu xây dựng, bảo tồn buôn M’Liêng đầy đủ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của người M’Nông R’Lăm, được triển khai từ năm 2009 đến 2015. Tất cả các lễ hội lớn nhỏ trong buôn và xã được tổ chức tại đây. Trong đó để chiêng ché, ghế Kpan, các loại nhạc cụ dân tộc M’Nông.
Khi buôn M’Liêng được nhà nước chọn làm điểm đầu tư, bảo tồn buôn cổ cho cả tỉnh Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung, buôn làng trở nên khang trang hơn. Hai trục đường nội bộ trong buôn được bê tông hóa, dọc theo đó là nếp nhà dài truyền thống được bà con giữ gìn hoặc làm mới theo quy hoạch của dự án bảo tồn buôn cổ. Hai bến nước đầu và cuối buôn được sửa sang sạch đẹp. Sau đó khu rừng thiêng được phòng Văn hóa Thông tin huyện Lắk cắm biển đặt tên là “Nghĩa địa thần”, có bản chỉ dẫn phân chia ranh giới nhưng… đã bị gió quật gãy.
Cây đa cổ thụ án ngữ ngay trước khu “Nghĩa địa thần” được bà con xem là cây thiêng, già Y Vé Nhơm kể: Cây đa này được cố nội dòng họ Nhơm trồng và chăm sóc. Ngày ấy, cây đa đang lên tươi tốt vươn tán lá xanh, một hôm cố nội ra thăm phát hiện một bên cây bị kẻ gian chặt những cành nhỏ. Sau đó cây tõe ra làm đôi. Cây cũ vẫn còn cây mới mọc lên vươn cành xanh tốt và tồn tại đến bây giờ.
Thời thơ ấu ông cùng các bạn cùng trang lứa thường ra gốc đa chơi. Mỗi dịp lễ, hội trong buôn hay gia đình nào có việc quan trọng lại thấy già làng, trưởng thôn, chủ hộ đem các lễ vật ra cây cúng, cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống buôn làng ấm no hạnh phúc. Đến tháng 7/2017, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường tỉnh Đắk Lắk đã công bố quyết định và gắn biển “Bảo tồn cây cổ thụ” cây đa trên 200 tuổi.
Anh Y Siu Buôn Krông (sinh 1990, buôn M’Liêng) chia sẻ: Việc gắn biển bảo tồn cây cổ thụ không chỉ có ý nghĩa trong việc giữ gìn những cây cổ thụ quý, bảo vệ nguồn gen đa dạng sinh học mà góp phần nâng cao ý thức của mọi người về bảo vệ cây xanh. Đối với đồng bào ở đây họ quan niệm những cây to lớn là cây thiêng, trong tâm thức của người M’Nông cây đa là cây cổ thụ rất thiêng giống như hàng rào vững chắc bảo vệ cả buôn làng. Những năm gần đây có nhiều đoàn du lịch tới buôn để tham quan buôn cổ và chiêm ngưỡng cây đa thiêng này.
Còn khu “Nghĩa địa thần” chưa thấy một nhà nghiên cứu nào tới tìm hiểu nghiên cứu, chỉ nghe các cụ già kể rằng, khu rừng này có trước cây đa rất lâu, bà con thời đó bảo vệ rất nghiêm ngặt. Nếu phát hiện ai chặt cây không kể cây lớn, nhỏ bắt được phạt phải trồng lại và cúng một con trâu khỏe. Các cụ luôn răn đe, nếu ai vào rừng phá cây sẽ bị thần phạt. Ngày trước không ai dám vào, qua thời gian mọi người không còn kiêng dè nữa, họ thường băng qua khu rừng để ra hồ Lắk. Nhưng không ai dám chặt phá cây dù là cây nhỏ…
Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông - Kỳ cuối: Còn đó bao điều bí ẩn - ảnh 1Nhà bảo tồn văn hóa buôn M’Liêng.
Níu giữ hồn thiêng
Nói về văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, ông Y Kô Niê, phó trưởng phòng Quản lý Văn hóa, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch tỉnh Đắk Lắk, người tâm huyết với văn hóa Tây Nguyên chia sẻ: Trong tâm khảm đồng bào Tây Nguyên, rừng là cội nguồn, đời sống tâm linh. Văn hóa Tây Nguyên là văn hóa về rừng, nơi con người chung sống hòa thuận từ bao đời nay.
Khi lập một làng mới, già làng, người có uy tín nhất đi tìm mảnh đất có khu rừng đầu nguồn nước, hay trên đỉnh núi để lập làng. Xung quanh nó sẽ có những câu chuyện về nữ thần nước xinh đẹp bằng giọng hát mê hồn khiến con người lạc lối trong rừng, hoặc nơi có khu rừng mang tính thiêng, nơi chẳng ai dám tới để chặt phá hay đốt rừng làm rẫy, nơi này thường là rừng nguyên sinh hay rừng già khó đoán tuổi.
Với khu rừng ở buôn M’Liêng có tên “Nghĩa địa thần”, đây là cách họ gọi tên cho một khu rừng thiêng. Theo quan niệm của người M’Nông đó là nơi trú ngụ của thần linh. Xung quanh khu rừng sẽ có một truyền thuyết nào đó. Chỉ có dòng họ giữ rừng và bà con sống thời đó mới biết tường tận. Bây giờ các già làng có thể không còn nhớ nhiều về truyền thuyết hoặc họ biết nhưng không muốn kể cho người khác biết. Nếu tìm hiểu và biết được câu chuyên quanh khu rừng thiêng sẽ rất có giá trị, để sau này thế hệ trẻ biết về cội nguồn dân tộc mình.
Một khu rừng được xem là rừng thiêng, nó phải mang tính thiêng của buôn. Không phải buôn nào cũng có rừng thiêng, hy hữu lắm mới có buôn may mắn sở hữu. Rừng mang tính thiêng thường có 2 mặt, thần thiện và thần ác. Dù tốt hay xấu đều liên quan đến thần linh. Đối với rừng thiêng không chôn người chết, họ chỉ chôn của cải, nếu có mộ thì là mộ giả của người bị mất tích trong khu rừng, hoặc chỉ được chôn người của dòng họ giữ rừng và chôn ở mép ngoài rừng.
Còn những chiếc ché được chôn cạnh mộ đó là theo phong tục tín ngưỡng của đồng bào. Việc xác định tuổi cho ché trong một khu rừng cần phải có thời gian tìm hiểu nghiên cứu. Tuổi của ché có thể lớn hơn tuổi của gia chủ khi họ về với Yang (thần linh).
Huyền bí rừng mộ ché của người M’Nông - Kỳ cuối: Còn đó bao điều bí ẩn - ảnh 2Nhiều đoàn du lịch tham quan buôn cổ và một số cây cổ thụ trong khu rừng.
Đối với dòng họ có nhiệm vụ giữ rừng thiêng, đó là “gánh” của dòng họ đó. Họ sẽ phải làm các nghi lễ cúng thần rừng, nếu có di dời đi bất cứ đâu, đến ngày lễ phải về khu rừng thiêng để cúng. Trong mỗi buôn những cây cổ thụ lâu năm buôn làng xem đó là cây thiêng và hằng năm phải làm lễ cúng, lấy máu của vật hiến tế rải quanh gốc cây.
Theo thời gian thế hệ trẻ không còn tin vào những điều huyền bí từ rừng, bởi họ từng chứng kiến những người nơi khác đến vào rừng chặt cây, khai thác lâm sản quý… nhưng không bị thần linh trừng phạt. Điều này khiến ý thức bảo vệ rừng không còn, những nét văn hóa truyền thống dần bị mai một. Như nỗi lo của một số già làng nơi đây, rồi một ngày khi nó (buôn M’Liêng) không còn là chính nó, thời gian sẽ xóa nhòa đi bảo tàng quý giá này. Làm sao để giữ hồn tộc người M’Nông qua từng họa tiết văn hóa? Văn hóa M’Nông có còn giữ được nét riêng không bị pha tạp?
Ông Nguyễn Thế Anh, phó Chủ tịch UBND xã Đắk Liêng cho biết: Xã có 12 thôn buôn và hơn 10 nghìn nhân khẩu, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 55 %. Khu rừng ở buôn M’Liêng thuộc địa giới của xã, nhưng bây giờ vấn đề quản lý khai thác thuộc về Ban quản lý Văn hóa, lịch sử, môi trường huyện Lắk.
Năm 2017, huyện Lắk có 2 buôn là buôn M’Liêng và buôn Triết nằm trong Đề án xây dựng 10 buôn làng truyền thống của các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh nhằm phát triển du lịch cộng đồng được UBND tỉnh đã phê duyệt.
Trên mảnh đất Tây Nguyên còn hàm chứa bao điều bí ẩn. Cho đến tận bây giờ người ta vẫn chưa giải thích được vì sao có một tháp chăm Yang Prông lạc lõng giữa rừng già ở huyện biên giới Ea Súp hay sự dịch chuyển kỳ lạ của đôi đá voi cha mẹ ở Yang Tao (huyện Lắk, Đắk Lắk). Dịp thích hợp, chúng tôi sẽ bàn tiếp câu chuyện này…
Theo thời gian thế hệ trẻ không còn tin vào những điều huyền bí từ rừng, bởi họ từng chứng kiến những người nơi khác đến vào rừng chặt cây, khai thác lâm sản quý… nhưng không bị thần linh trừng phạt. Điều này khiến ý thức bảo vệ rừng không còn, những nét văn hóa truyền thống dần bị mai một.
Người M’Nông trước đây thường mắc các bệnh: Sốt rét, tiêu chảy, ghẻ lở, đậu mùa… Khi mắc những bệnh này người ta nghĩ mình bị yểm bùa ngải nên người bệnh hay thân nhân chỉ biết cậy nhờ thầy cúng làm lễ trục xuất bệnh tật bằng phép thuật ma mị hút các chất độc ra khỏi cơ thể.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét