B.T sưu tầm, SGK lớp 7
Thay nhà Lý cai trị đất nước, nhà Trần bắt tay vào phục hồi và phát triển kinh tế. Trên lĩnh vực quân sự thì đạt được nhiều thành tựu, góp phần củng cố quyền lực triều đình.
Nhà Trần xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng
Nhà Trần thay nhà Lý cai quản đất nước: một mặt, nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới; mặt khác, tổ chức lại quân đội, củng cố quốc phòng.
Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua.
Cấm quân được tuyến chọn từ những trai tráng khoẻ mạnh ở quê hương nhà Trần (Tức Mặc, Nam Định). Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh.
Ở các làng xã, có hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hầu.
Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nông" và theo chủ trương: "Quân lính cốt tính nhuệ, không cốt đông", xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội.
"Khi trong nước không có việc thì cho quân lính về làm ruộng; khi có việc chinh chiến, thì hết thảy mọi người dân đều là quân lính. Thế quân cường thịnh... ", theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Quân đội nhà Trần được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên.
Nhà Trần còn cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị trí hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc phòng bị ở các nơi này.
Phục hồi và phát triển kinh tế
Để ổn định chính trị, xã hội, củng cố quốc phòng, nhà Trần đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phục hồi và phát triển kinh tế.
Nhà vua hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến cửa biển để đề phòng nước sông lên to, gọi là đê Đỉnh nhĩ; đặt chức Hà đê sứ để trông coi, đốc thúc việc đắp đê; chỗ nào đắp vào ruộng đất của dân sẽ tính trả tiền lại.Về nông nghiệp, nhà Trần đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, mở rộng diện tích sản xuất, đắp đê phòng lụt, đào sông, nạo vét kênh.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi:
"Năm 1266, nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những người phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì đề khai khẩn ruộng hoang, lập điền trang. Vương hầu có điền trang từ đây".
Nông đân được nhà nước quan tâm, cố gắng tích cực cày cấy, nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và phát triển.
Về thủ công nghiệp, các xưởng thủ công nhà nước chuyên sản xuất đồ gốm, dệt và chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp trong nhân dân có nhiều ngành, nghề như đúc đồng, làm giấy, khắc ván in...
Ở các làng xã, chợ mọc lên ngày càng nhiều. Ở kinh thành Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành, đã có 61 phường.
Các cửa biển Hội Thống (Hà Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hoá), Vân Đồn (Quảng Ninh)... là nơi buôn bán tấp nập với thương nhân nước ngoài.
An Nam tức sự có đoạn: "Thuyền bè nước ngoài đến tụ hội ở đây (Hội Thống, Vân Đồn), mở chợ ngay trên thuyền. Cảnh buôn bán thật là thịnh vượng"
Đánh Mông Cổ: Cam kết của vị khai quốc công thần giúp vua yên lòng, đại cục thay đổi
Với lực lượng hùng hậu, quân Mông Cổ âm mưu xâm lược Đại Việt với nhiều dã tâm khó lường. Tuy nhiên quân và dân ta đã chiến đấu vô cùng quả cảm.
Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông Cổ
Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ được thành lập. Với một lực lượng quân đội mạnh và hiếu chiến, vua Mông Cổ liên tiếp xâm lược và thống trị nhiều nước ở châu Á, châu Âu. Quân Mâng Cổ đi đến đâu cũng làm nhà cửa đổ nat, thành trì tan hoang, nhân dân bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ.
Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định mở cuộc tiến công lớn vào nước Nam Tống (ở phía nam Trung Quốc), nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để đạt được tham vọng đó, vua Mông Cổ sai tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy hơn 3 vạn quân xâm lược Đại Việt, rồi từ Đại Việt đánh thẳng lân phía năm Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân từ phía bắc xuống.
Đó là việc thực hiện kế hoạch "gọng kìm" để tiêu diệt Nam Tống và xâm lược Đại Việt v..v..
Trước khi kéo quân vào xâm lược, tướng Mông Cổ cho sứ giả đưa thư đe dọa và dụ hàng vua Trần, ba lần sứ giả Mông Cổ đến Thăng Long đều bị vua Trần ra lệnh bắt giam vào ngục.
Nhà Trần chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống Mông Cổ
Cuối năm 1257, khi được tin quân Mông Cổ chuẩn bị xâm lượcc, nhà Trần đã ban lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, các đạo dân binh được thành lập, ngày đêm luyện tập vỗ nghệ, sẵn sàng đánh giặc.
Tháng 1 - 1258, 3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm lược nước ta. Quân giặc theo đường sông Thao tiến xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ), rồi tiến đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy. Tại đây, một trận đánh quyết liệt diễn ra.
Do thế giặc mạnh, vua Trần cho lui quân để bảo toàn lực lượng. Triều đình tạm rời kinh thành Thăng Long, xuôi về vùng Thiên Mạc ( Duy Tiên, Hà Nam)
Nhân dân Thăng Long, theo lệnh triều đình, nhanh chóng thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống" để đánh giặc, tạm rút khỏi kinh thành. Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long trống vắng, không một bóng người và lương thực.
Quân Mông Cổ điên cuồng tàn phá kinh thành, lùng bắt, giết hại những người còn sót lại.
Đóng giữ kinh thành Thăng Long chưa đầy một tháng, quân Mông Cổ lâm vào tình thế khó khăn vì thiếu lương thực trầm trọng, phải cho quân lính đi cướp thóc gạo, hoa màu của dân, nhưng nhân dân các làng, xã đã chống trả quyết liệt nên lực lượng của chúng bị tiêu hao dần.Trước thế giặc mạnh, tàn bạo, vua Trần lo lắng hỏi ý kiến của Thái sư Trần Thủ Độ. Ông trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo." (Đại Việt sử kí toàn thư).
Nắm được thời cơ, quân đội nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bên sông Hồng, ở phố Hàng Than - Hà Nội ngày nay).
Ngày 29-1-1258, quân Mông Cổ thua trận, phải rời khỏi Thăng Long. Trên đường rút chạy, chúng bị quân đội nhà Trần truy kích. Đến vùng Quy Hóa (Yên Bai, Lào Cai), lại bị quân của Hà Bổng chặn đánh, quân giặc hốt hoảng tháo chạy về nước. Cuộc kháng chiến chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy một tháng đã kết thúc thắng lợi.
Nhà Trần đánh tan hơn 50 vạn quân Nguyên, Thoát Hoan phải chui ống đồng chạy trốn
Năm 1285, quân Nguyên Mông lại một lần nữa động binh, âm mưu đánh chiếm Đại Việt. Tuy nhiên, dưới chiến thuật cẩn trọng, chu toàn, chúng ta đã đánh tan 50 vạn quân địch.
Âm mưu xâm lược Chăm-pa và Đại Việt của nhà Nguyên
Năm 1279, nước Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ thống trị. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Chăm-pa và Đại Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước ở phía nam Trung Quốc.
Hốt Tất Liệt cho quân đánh Chăm-pa (Chiêm Thanh) trước để làm bàn đạp tấn công vào phía nam Đại Việt, phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan từ Trung Quốc đánh vào phía bắc.
Năm 1283, hơn một vạn quân Nguyên cùng hơn 300 chiến thuyền do tướng Toa Đô chỉ huy xâm lược Chăm-pa, chiếm được kinh thành. Quân dân Chăm-pa đã chiến đấu hết sức anh dũng ; cuối cùng quân Nguyên phải rút một bộ phận về cố thủ ở phía bắc để chờ phối hợp đánh Đại Việt.
Kế họach của nhà Nguyên định dùng Chăm-pa làm bàn đạp tấn công nước ta bước đầu tan vỡ.
Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến
Sau khi biết tin quân Nguyên mượn đường đánh Cham-pa nhung chỉ là tìm cớ xâm lược Đại Việt, vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) để bàn kế đánh giặc.
Đến Bình Than có Trần Quốc Toản, vì tuổi còn nhỏ nên không được dự hội nghị. Trần Quốc Toản tức giận quân Nguyên xâm lược đến nỗi tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Khi về nhà, đã huy động gia nhân và thân thuộc hơn 1000 người, làm binh khí, đóng chiến thuyền và may cờ đề 6 chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) được vua Trần giao trọng trách Quốc công tiết chế – chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sĩ động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.
Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả nước và Thăng Long họp để bàn cách đánh giặc.
Trong Hội nghị Diên Hồng, khi vua Trần hỏi kế đánh giặc, "các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Nhà Trần tổ chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc. Quân sĩ đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Cổ).
Diễn biến và kết quả của cuộc kháng chiến
Cuối tháng 1 - 1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy tràn vào xâm lược Đại Việt. Sau một số trận chiến đấu chặn giặc ở vùng biên giới, Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).
Nghe tin quân của Trần Quốc Tuấn không chặn được giặc, phải lui quân, vua Trần lo lắng, bỏ cả ăn cơm, vội vã đi thuyền đến gặp và hỏi Quốc Tuấn: thế giặc mạnh, giết hại nhân dân tàn bạo, có nên hàng giặc không. Trần Quốc Tuấn trả lời: "Nếu bệ hạ (vua) muốn hàng giặc thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Quân Thoát Hoan tập trung một lực lượng lớn tấn công vào Vạn Kiếp. Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Trường (Nam Định). Nhân dân ở Thăng Long thực hiện lệnh "vườn không nhà trống" của triều đình.
Quân Thoát Hoan kéo vào chiếm Thăng Long trống vắng. Không dám đóng quân trong thành, chúng phải dựng doanh trại ở phía bắc sông Nhị (sông Hồng).
Toa Đô được lệnh từ Chăm-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóaa. Thấy thế giặc mạnh, một số quý tộc nhà Trần đầu hàng giặc. Cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
Cùng lúc đó, Thoát Hoan tự mình chỉ huy một lực lượng mạnh, mở cuộc tiến công lớn đánh xuống phía nam nhằm tạo thành thế "gọng kìm", hòng tiêu diệt quân chủ lực của ta và bắt sống toàn bộ đầu não của cuộc kháng chiến. Trước tình thế nguy cấp, Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lựợng, chuẩn bị cho cuộc phản công tiêu diệt quân địch.
Tháng 5-1285, Lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Nội) và tiến vào giải phóng Thăng Long.Bị thất bại trong âm mưu bắt sống vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị động lại thiếu lương thực trầm trọng.
Quân giặc hốt hoảng tháo chạy, bị quân Trần phục kích chặn đánh, nhiều tên bị giết. Thoát Hoan vất vả lắm mới chạy thoát về nước (tướng giặc là Lý Hằng hoảng sợ phải giấu Thoát Hoan vào ống đồng, bắt quân lính khiêng chạy).
Vua Trần còn đem quân chặn đánh đạo quân của Toa Đô ở Tây Kết, hàng vạn quân giặc bị tiêu diệt. Tướng Toa Đô bị chém đầu.
Sau gần hai tháng phản công (tháng 5 và 6), quân dân nhà Trần đã đánh tan tành 50 vạn quân Nguyên, một đạo quân hùng mạnh bậc nhất thế giới thời đó. Đất nước sạch bóng quân xâm lược, cả dân tộc ca khúc khải hoàn.
"Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức.
Non nước ấy ngàn thu".
Trần Quang Khải - Tụng giá hoàn kinh sư
(Phò giá về kinh - Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim)
Thoát Hoan dẫn 30 vạn quân đánh Đại Việt, 2 năm sau thất bại thảm hại, buộc phải rút lui
Sai hai thất bại cay đắng, nhà Nguyên tiếp tục tiến đánh Đại Việt, quyết tâm cướp nước ta bằng được.
Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt
Hai lần xâm lược Đại Việt đều bị thất bại, vua Nguyên càng tức giận nên quyết tâm đánh Đại Việt lần thứ ba để trả thù. Hốt Tất Liệt đình chỉ cuộc xâm lược Nhật Bản, tập trung lực lượng tiến công Đại Việt.
Trong lần xâm lược này, nhà Nguyên huy động hơn 30 vạn quân và nhiều danh tướng do Thoát Hoan làm Tổng chi huy. Ngoài ra còn có hàng trăm chiến thuyền, một đoàn thuyền lương chở hàng chục vạn thạch lương do tướng Trương Văn Hổ chỉ huy. Hốt Tất Liệt cũng căn dặn Thoát Hoan : "Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường".
Đứng trước nguy cơ bị xâm lược, vua Trần khẩn trương chuẩn bị đánh giặc.
Cuối tháng 12 - 1287, quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chi huy vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn, Bắc Giang.
Sau nhiều trận đánh chặn giặc ở các cửa ải và vùmg hiểm yếu, Trần Quốc Tuấn chủ trương rút quân khỏi Vạn Kiếp và một số nơi về vùng sông Đuống, chặn giặc kéo vào Thăng Long.
Ngay đầu năm, cánh quân do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy kéo đến chiếm đóng Vạn Kiếp và ra sức xây dựng nơi đây thành căn cứ vững chắc để định đánh lâu dài với quân ta.
Cùng lúc đó, đoàn thuyền chiến do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào nước ta, rồi ngược lên sông Bạch Đằng kéo đến Vạn Kiếp hội quân với quân Thoát Hoan.
Trận Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Vân Hồ
Ô Mã Nhi được giao nhiệm vụ bảo vệ đoạn thuyền lương của Trương Vân Hồ, nhưng cho rằng quân ta không thể ngăn cản được đoàn thuyền lương này nên đã tiến về hội quân ở Vạn Kiếp.
Trần Khánh Dư dự đoán khi đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi đi qua, có thể đánh được đoàn thuyền luơng nên đã bố trí một trận mai phục.
Đúng như dự đoán, mấy ngày sau, khi đoàn thuyền lương của Trương Vân Hồ nặng nề, chậm chạp tiến qua Vân Đồn, liền bị quân của Trần Khánh Dư từ nhiều phía đổ ra đánh dữ dội. Phần lớn thuyền lương của địch bị đắm, số còn lại bị quân Trần chiếm.
"Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới, nay đã bị ta bắt được..."..." nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều"....
(Đại Việt sử ký toàn thư)
Chiến thắng Bạch Đằng
Cuối tháng 1 - 1288, Thoát Hoan chia quân làm ba đạo tiến vào chiếm đóng Thăng Long trống vắng vì nhân dân kinh thành đã thực hiện kế hoạch "vườn không nhà trống" của triều đình.
Chiếm được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân tiến đánh các căn cứ của quân Trần và sai Ô Mã Nhi đem quân đuổi bắt hai vua Trần, nhưng thất bại. Hắn điên cuồng cho quân lính tàn sát dân chúng, đốt phá, cướp bóc và quật lăng mộ vua Trần Thái Tông ở phủ Long Hưng (Thái Bình).
Quân Nguyên không tiêu diệt được lực lượng kháng chiến của nhà Trần, trong khi đó nhiều nơi xung yếu bị quân dân ta tấn công chiếm lại. Quân giặc ra sức càn quét, cướp lương thực nhưng đều bị nhân dân ta đuổi đánh, đẩy chúng vào thế bị động, cạn kiệt lương thực.
Thoát Hoan đóng quân ở Thăng Long có nguy cơ bị cô lập, tinh thần quân lính hoang mang, tuyệt vọng. Trước tình thế nguy khốn, Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp và từ đấy rút quân về nước theo hai đường thủy, bộ.
Nhận thấy thời cơ tiêu diệt quân Nguyên, giải phóng đất nước đã tới, vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định mở cuộc phản công và tiến hành việc bố trí trận mai phục ở sông Bạch Đằng.
Đầu tháng 4 - 1288, đoàn thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy có kị binh hộ tống rút về theo đường thủy trên sông Bạch Đằng. Khi thuyền chiến của Ô Mã Nhi tiến gần đến trận địa bãi cọc, một số thuyền nhỏ của quân Trần ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy, quân giặc ra sức đuổi theo, lọt vào trận địa mai phục, đúng lúc nước triều xuống nhanh. Bạch Đằng là một sông lớn do sông Đá Bạc, sông Giá và nhiều sông khác đổ vào. Dòng sông rộng khoảng 1 km (khi thủy triều lên), chạy qua địa phận huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), rồi đổ ra biển. Trần Quốc Tuấn cho tìm hiểu con nước triều lên xuống hàng ngày và cắm cọc trên sông, bố trí các đạo quân mai phục.
Từ hai bờ, hàng nghìn chiến thuyền nhỏ của quân Trần đổ ra đánh, phá vỡ đội hình quân giặc. Bị đánh bất ngờ và quyết liệt, quân giặc hoảng hốt, tranh nhau tháo chạy ra biển, thuyền giặc xô vào bãi cọc đang nhô lên, bị ùn tắc, vỡ, đắm.
Giữa lúc đó, hàng loạt bè lửa xuôi nhanh theo nước triều đang xuống, lao vào thuyền giặc. Những tên sống sót nhảy lên bờ liền bị quân bộ nhà Trần chờ sẵn tiêu diệt. Toàn bộ cánh thủy binh giặc bị tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
Cánh quân bộ, do Thoát Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp theo huớng Lạng Sơn rút chạy về Quảng Tây (Trung Quốc). Trên đường tháo lui, chúng bị quân dân ta tập kích liên tiếp. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên đã kết thúc thắng lợi vẻ vang
Sau chiến tranh, nhà Trần tích cực bắt tay vào tái thiết kinh tế, xã hội
Chiến tranh kết thúc, nhà Trần bắt tay vào tái thiết nền kinh tế và ổn định tình hình xã hội. Đại Việt tạm thời có một giai đoạn an ổn phát triển.
Tình hình kinh tế sau chiến tranh
Sau chiến tranh, nhà Trần thực hiện nhiều chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng diện tích trồng trọt. Nhờ vậy, mặc dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền nông nghiệp vẫn được phục hồi và nhanh chóng phát triển.
Công cuộc khai khẩn đất hoang, thành lập làng, xã trong nhân dân được mở rộng, đê điều được củng cố. Các vương hầu, quý tộc nhà Trần vẫn tiếp tục chiêu tập dân nghèo khai hoang, lập điền trang.
Thời Trần, ruộng đất công làng xã chiếm phần lớn diện tích ruộng đất trong nước và là nguồn thu nhập chính của nhà nước. Các làng, xã chia ruộng cho nông dân cày cấy và thu thuế, Ngoài ra, còn có ruộng đất của quý tộc, vương, hầu (gọi là điền trang). Nhà Trần còn ban thái ấp cho quý tộc, vương hầu.
Ruộng đất tư hữu của địa chủ thời Trần ngày càng nhiều.
Thủ công nghiệp rất phát triển. Thủ công nghiệp do nhà nước trực tiếp quản lí được mở rộng, gồm có nhiều ngành nghề khác nhau như nghề làm đồ gốm tráng men, nghề dệt vải, lụa, chế tạo vũ khí, đóng thuyền đi biển...
Thủ công nghiệp trong nhân dân rất phổ biến và phát triển, nổi bật là nghề làm đồ gốm, rèn sắt, nghề đúc đồng, làm giấy và khắc bản in, nghề mộc và xây dựng, khai khoáng v.v...
Một số thợ thủ công cùng nghề như làm đồ gốm, dệt vải lụa, nhuộm, làm giấy... tụ họp lại, lập thành làng nghề. Một số người tới Thăng Long lập ra các phường nghề. Các mặt hàng thủ công ngày càng tốt, đẹp hơn do trình độ kĩ thuật được nâng cao.
Buôn bán tấp nập, chợ búa mọc lên ở nhiều nơi, làm xuất hiện một số thương nhân, thường tập trung ở các đô thị, thương cảng.
Thăng Long là trung tâm kinh tế khá sầm uất của cả nước, có nhiều phường thủ công, nhiều chợ lớn thu hút người buôn bán các nơi. Việc trao đổi, buôn bán với thương nhân nước ngoài được đẩy mạnh qua cảng Vân Đồn.
Tình hình xã hội sau chiến tranh
Từ sau chiến tranh chống Mông - Nguyên, xã hội ngày càng phân hoá. Tầng lớp vương hầu, quý tộc Trần ngày càng có nhiều ruộng đất (điền trang, thái ấp). Đó là tầng lớp có nhiều đặc quyền, đặc lợi, nắm giữ các chức vụ chủ yếu trong bộ máy chính quyền ở triều đình và các địa phương.
Nông dân cày ruộng công của nhà nước ở các làng xã là tầng lớp bị trị, đông đảo nhất trong xã hội. Từ thế kỉ XIV, do nhiều năm bị mất mùa, đói kém, nông dân phải bán ruộng đất, bởi vậy tầng lớp nông dân tá điền lĩnh canh ruộng đất và nộp tô cho địa chủ đông hơn trước.Tầng lớp thứ hai là địa chủ, là những người giàu có trong xã hội, có nhiều ruộng đất tư cho nông đân cày cấy để thu tô nhưng không thuộc tầng lớp quý tộc.
Tầng lớp thợ thủ công, thương nhân chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cư dân, nhưng cũng ngày một đông hơn do sự phát triển của các nghề thủ công và việc buôn bán được đẩy mạnh.
Tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội là nông nô, nô tì. Họ bị lệ thuộc và bị quý tộc bóc lột nặng nề hơn nông dân tá điền. Nhiều quý tộc có tới hàng trăm nông nô, nô tì. Con cái của nô tì cũng là nô tì của chủ. Nô tì được đưa vào sản xuất thì chuyển thành nông nô.
Sau chiến tranh, nhà Trần phát triển mạnh mẽ mọi mặt
Thời nhà Trần, đời sống tín ngưỡng và văn hóa của nhân dân ta có nhiều biến chuyển. Một số thành tựu xây dựng, kỹ thuật vẫn còn lưu giữ được đến ngày nay
Đời sống văn hóa
Ở thời Trần, những tín ngường cổ truyền vẫn phổ biến trong nhân dân và có phần phát triển hơn như tục thờ tổ tiên, thờ các anh hùng dân tộc, những người có công với làng, nước v.v...
Đạo Phật phát triển, tuy nhiên không bằng thời Lý. Trong nước có nhiều người đi tu, kể cả những người thuộc giai cấp thống trị. Chùa chiền mọc lên ở khắp nơi.
Trần Nhân Tông về cuối đời đã tu ở núi Yên Tử (thành phố Uông Bí, Quảng Ninh) và trở thành vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm ở Đại Việt. Đầu thế kỉ XIV, nhà nho Lê Văn Hưu đã nhận xét: "Nhân dân quá nửa làm sư, trong nước chỗ nào cùng có chùa".
Thời Trần, Nho giáo ngày càng phát triển do nhu cầu xây dựng bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị. Các nhà nho được bổ nhiệm giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Địa vị của Nho giáo ngày càng được nâng cao.
Nhiều nhà nho được triều đình trọng dụng như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hải, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, đặc biệt là thầy giáo Chu Văn An.
Nhân dân ta ở thời Trần rất ưa thích các hình thức sinh hoạt văn hoá như ca hát, nhảy múa, chèo tuồng, múa rối, đấu vật, cướp cầu, đua thuyền... Bởi vậy các hoạt động văn hoá nói trên rất phổ biến và phát triển.
Tập quán sống giản dị như đi chân đất, áo quần đơn giản rất phổ biến. Nhưng bên trong sự giản dị đó là một dân tộc giàu tinh thần thượng võ, yêu quê hương, đất nước thiết tha và trọng nhân nghĩa.
Văn học
Nền văn học chữ Hán chứa đựng sâu sắc lòng yêu nước, tự hào dân tộc, được phát triển mạnh ở thời Trần. Nền văn học chữ Nôm bước dầu phát triển, xuất hiện một số nhà thơ Nôm nổi tiếng như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Ly v.v...
Bấy giờ có nhiều tác gia nổi tiếng với những tác phẩm đặc sắc mà tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn với Hịch tướng sĩ, Trần Quang Khải với bài thơ Phò giá về kinh, Trương Hán Siêu với Phú sông Bạch Đằng v.v.
Giáo dục và khoa học - kĩ thuật
Thời Trần, Quốc tử giám mở rộng việc đào tạo con em quý tộc, quan lại. Các lộ, phủ quanh kinh thành đều có trường công. Trong nhân dân, ở các làng xã có trường tư. Các kì thi được tổ chức ngày càng nhiều. Chu Văn An là một thầy giáo tiêu biểu thời Trần.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Khoa mục chí ghi:
Năm 1246, nhà Trần định lệ thi thái học sinh (tiến sĩ) 7 năm một lần thi. Năm 1247, quy định chọn tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) trong kì thi Đình.
"Phép thi thời Trần 7 năm một khoa, đặt ra tam khôi, điều lệ mỗi ngày một nghiêm ngặt, ân điển mỗi ngày một long trọng, công danh do đó mà ra, nhân tài đầy rẫy, so với triều Lý thì thịnh hơn nhiều".
Cơ quan chuyên viết sử ra đời (Quốc sử viện) do Lê Văn Hưu đứng đầu. Năm 1272, ông biên soạn xong bộ Đại Việt sử kí gồm 30 quyển. Đây là bộ chính sử đầu tiên có giá trị của nước ta.
Về quân sự, tác phẩm nổi tiếng Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo đánh dấu bước phát triển về lý luận của quân sự của Đại Việt.
Trên lĩnh vực y học, người thầy thuốc nổi tiếng Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu cây thuốc nam, tổng kết việc chữa bệnh bằng thuốc nam trong nhân dân. Một số nhà thiên văn học như Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán cũng có những đóng góp đáng kể. Cuối thế kỉ XIV, Hồ Nguyên Trừng và các thợ thủ công giỏi đã chế tạo được súng thần cơ và đóng các loại thuyền lớn, có hiệu quả cao trong chiến đấu.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
Nhiều công trình kiến trúc mới, có giá trị ra đời như tháp Phổ Minh (Nam Định), thành Tây Đô (Thanh Hoá)... Một số công trình được tu sửa lại có quy mô hơn như cung điện và Hoàng thành ở Thăng Long, cung Thái thượng hoàng ở Tức Mặc (Nam Định), tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc).
Chùa Phổ Minh (Nam Định) có nhà thủy tạ để lễ hội, có đỉnh đồng nặng hơn 1000 cân, ngoài chùa dựng toà tháp 14 tầng, cao hơn 20m.
Thành Tây Đô có tường cao gần 6m, được xây bằng những khối đá lớn. Thành có ba cổng chính, được xây theo kiểu vòm cuốn; xung quanh có hào sâu, cống ngầm thông trong ngoài. Phía trong thành là cung điện và dinh thự các quan.
Ở các lăng mộ vua và quý tộc Trần có nhiều tượng hổ, sư tử, trâu, chó và các quan hầu bằng đá. Hình rồng khắc trên đá trau chuốt, có sừng uy nghiêm.
Nhà Trần đi dần đến hồi kết, khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra khắp nơi
Nửa sau thế kỷ XIV, nhà Trần ngày càng suy yếu, tình hình kinh tế, xã hội, đặc biệt là chính trị bất ổn, khởi nghĩa diễn ra khắp nơi.
Tình hình kinh tế
Từ nửa sau thế kỉ XIV, nhà nước không còn quan târn đến sản xuất nông nghiệp, không chăm lo tu sửaa, bảo vệ đê điều, các công trình thủy lợi... nên nhiều năm bị mất mùa, đói kém. Nhiều nông dân phải bán ruộng đất, vợ, con cho các quý tộc, địa chủ giàu có và biến thành nô tì, bị bóc lột nặng nề.
Vào nửa sau thế kỉ XIV, có 9 lần vỡ đê, lụt lớn. Nhiều năm vừa bị hạn vừaa bị lụt, có hơn 10 nạn đói lớn. Nguyễn Phi Khanh đỗ Thái học sinh thời Trần, đã mô tả tình cảnh dân chúng bấy giờ như sau:
Ruộng lúa ngàn dặm như cỏ cháy
Đồng quê than vãn trông vào đâu ?
Lưới chài quan lại còn vơ vét
Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi...
Vương hầu, quý tộc, nhà chùa, địa chủ nắm trong tay rất nhiều ruộng đất. Ruộng đất công ở các làng xã bị xâm lấn, khẩu phần ruộng đất của nông dân bị thu hẹp, đời sống ngày càng bấp bênh, cực khổ. Thế nhưng triều đình vẫn bắt dân nghèo mỗi năm phải nộp ba quan tiền thuế đinh.
Tình hình xã hội
Mặc cho đời sống của nhân dân sa sút nghiêm trọng, vua, quan, quý tộc nhà Trần vẫn lao vào cuộc sống ăn chơi sa đọa.
"Vua buông tuồng ăn chơi vô độ... nghiện rượu, mê đàn hát, xa xỉ làm cung điện nguy nga..., lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời ; món gì Dụ Tông cũng mắc ! Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được ?".
(Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
Quan lại, vương hầu quý tộc nhân đó thả sức ăn chơi xa hoa, bắt quân, dân xây dinh thự, chùa chiền liên miên. Trong triều, nhiều kẻ tham lam, nịnh thần làm rối loạn kỉ cương phép nước, triều chính bị lũng loạn.
Tư nghiệp Quốc tử giám là Chu Văn An đã dâng sớ lên vua đòi chém 7 tên nịnh thần, nhưng Dụ Tông không nghe. Ông đã xin "treo mũ" từ quan.
Nhà Trần càng suy sụp hơn từ sau khi Trần Dụ Tông chết (1369) và Dương Nhật Lễ lên nắm quyền (1369 - 1370).
Trần Dụ Tông không có con trai, Nhật Lễ là con nuôi của một đại vương nhà Trần đươc Hoàng thái hậu đưaa lên ngôi.
Từ giữa thế kỉ XIV, nông dân, nô tì đã nổi dậy khởi nghĩa.Nhà Trần còn bất lực trong việc đối phó với các cuộc tấn công của Chăm-pa và yêu sách ngang ngược của nhà Minh, đời sống nhân dân càng khổ cực. Bị áp bức bóc lột tàn tệ, nông dân, nô tì mẫu thuẫn ngày càng sâu sắc với giai cấp thống trị. Bởi vậy, họ đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ.
Cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Hải Dương
Đầu năm 1344, Ngô Bệ hô hào nông dân ở Yên Phụ (Hải Dương) đứng lên khởi nghĩa. Bị quân đội triều đình đàn áp, khởi nghĩa thất bại. Đến năm 1358, Ngô Bệ lại nổi dậy ở Hải Dương, đến đầu năm 1360 thì bị giết.
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh, Nguyễn Kỵ ở Thanh Hóa
Năm 1379, Nguyễn Thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa, tự xưng là Linh đức vương, hoạt động ở vùng sông Chu (Thanh Hóa). Nguyễn Kỵ cũng xưng vương, hoạt động ở Nông Cống. Cùng năm 1379, Nguyễn Bổ nổi dậy ở Bắc Giang.
Cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai - Hà Nội
Đến năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn hô hào nông dân nổi dậy ở Quốc Oai. Nghĩa quân hoạt động ở vùng Sơn Tây, lực lượng hùng hậu, đã kéo quân về đánh chiếm kinh thành Thăng Long trong ba ngày. Vua Trần phải bỏ thành chạy lên Bắc Giang. Sau đó, cuộc khởi nghĩa bị triều đình đàn áp.
Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái ở Sơn Tây
Năm 1399, Nguyễ Nhữ Cái nổi dậy khởi nghĩa, hoạt động ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. Đến năm 1400, cuộc khởi nghĩa mới bị đàn áp.
theo Helino
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét