Ông là nghệ sĩ lớn, đa tài ở nhiều lĩnh vực văn, thơ, nhạc, kịch, có vị trí đặc biệt trong nền văn nghệ cách mạng.
![]() |
Tác giả bài hát được chọn làm nhạc hiệu của Đài Tiếng nói Việt Nam
|
Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là nhà văn, nhà thơ lớn trong nền văn học cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại: truyện, thơ, kịch, nhạc và ở lĩnh vực nào, ông cũng để lại những dấu ấn đậm nét.
![]() |
Nhà văn Nguyễn Đình Thi.
|
Trong một bài phỏng vấn của Đài Tiếng nói Việt Nam, Nguyễn Đình Thi kể vào đầu năm 1945, đời sống của Hà Nội rất thê thảm, cả nội, ngoại thành người chết đói la liệt. Hồi đó, ông và một số anh em hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc nhận được chỉ thị của Trung ương "Nhật Pháp bắn nhau, hành động của chúng ta". Chỉ thị đó như lời kêu gọi, thúc giục.
Diệt phát xít ra đời trong không khí như vậy. Hai chữ phát xít hầu như ai cũng nghĩ đến, cũng nói đến. Nguyễn Đình Thi bàn với một số nghệ sĩ khác sáng tác các bài hát cách mạng để đáp ứng yêu cầu của phong trào. Ít hôm sau, nhạc sĩ Văn Cao đã có bài Tiến quân ca; nhạc sĩ Đỗ Nhuận có Du kích ca. Ở trong Nam, Lưu Hữu Phước viết xong Lên đàng.
Nguyễn Đình Thi hơi vất vả mới hoàn thành Diệt phát xít, không in trên báo mà chỉ chép tay mấy bản đưa cho các bạn trẻ cùng tập. Trong một chiều tháng tám, giữa không khí sôi sục của quần chúng tiến đến tổng khởi nghĩa, trong cuộc diễn thuyết ở Nhà hát Lớn, một lá cờ đỏ sao vàng rất to được buông từ trên nóc xuống.
Sau bài hát tập thể Tiến quân ca, một thanh niên bước ra trước máy phóng thanh hát bài Diệt phát xít. Bài này cũng được biểu diễn mở đầu cho tuần lễ vàng ở Hà Nội rồi từ đó được chọn làm nhạc hiệu cho Đài Tiếng nói Việt Nam.
Giai điệu hùng tráng của bài hát trở nên quen thuộc với hàng triệu người suốt mấy chục năm qua khi được làm nhạc hiệu giới thiệu: "Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
Người Hà Nội được Nguyễn Đình Thi sáng tác nhằm ca ngợi Hà Nội và những dấu ấn lịch sử từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài hát ra đời năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ mới nổ ra được ít ngày, cả Hà Nội đã lên đường sơ tán theo lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời
Hà Nội hồng ầm ầm rung
Hà Nội vùng đứng lên! Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà Nội vùng đứng lên!
Hà Nội đẹp sao!
Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng
Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng.
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời
Hà Nội hồng ầm ầm rung
Hà Nội vùng đứng lên! Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà Nội vùng đứng lên!
Hà Nội đẹp sao!
Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng
Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng.
Ban đầu, bài hát mang tên Bài hát của một người Hà Nội. Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ ông không được học cao về âm nhạc, song bài Người Hà Nội được giới phê bình xem như một kiệt tác âm nhạc.
Với nhạc, Nguyễn Đình Thi chỉ có ba bản: Diệt phát xít, Người Hà Nội và Con voi, song ông vẫn xứng đáng với danh hiệu nhạc sĩ.
Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác vào cuối năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc khi ông đang là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam.
Đất nước ra đời sau bài hát Người Hà Nội chưa đầy một năm, vì vậy không khí trường ca vẫn còn thấm đẫm. Bài thơ gồm hai phần: phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa(1948) và Đêm mít tinh (1949); phần sau được viết năm 1955.
Đất nước được in trong tập Người chiến sĩ (1958). Tuy được viết trong thời gian khác nhau nhưng cảm hứng thơ vẫn liền mạch và bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Ngoài Người chiến sĩ, Nguyễn Đình Thi còn có các tập thơ Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1985).
Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Đình Thi đã cho ra đời bốn tác phẩm tiểu thuyết gồm: Xung kích (1951), Vỡ bờ - tập I (1962), Vào lửa (1966), Mặt trận trên cao (1967), Vỡ bờ - tập II (1970).
Tiểu thuyết Vỡ bờ với hai tập có hơn nghìn trang, mang tính sử thi, đã tái hiện bức tranh đa chiều của xã hội Việt Nam giai đoạn 1939-1945.
![]() |
Hai tập của tiểu thuyết "Vỡ bờ".
|
Tác phẩm có khoảng 50 nhân vật đại biểu cho nhiều tầng lớp người trong xã hội, mỗi nhân vật đều có tâm tư riêng trước những diễn biến lớn của thời đại và những vấn đề nóng hổi của cuộc sống.
Họ đại diện cho nông dân, công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị giữa những ngày tăm tối của đất nước và trong cơn sục sôi chuyển mình của cả dân tộc. Trong bức tranh xã hội rộng lớn ấy còn có địa chủ, tư sản, tư sản mại bản và tay sai Nhật - Pháp như Nghị Khanh, Huyện Môn, Ích Phong.
Từ số phận, cuộc đời của tập thể nhân vật ấy, tác phẩm đã nêu lên hàng loạt vấn đề: chiến tranh, cách mạng, vận mệnh dân tộc, số phận của tình yêu và sự sáng tạo nghệ thuật trong xã hội cũ, vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình.
Vỡ bờ được xem là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Đình Thi trong lĩnh vực văn xuôi.
Nguyễn Đình Thi sinh năm 1924 ở Luang Prabang (Lào) bởi cha ông từng là viên chức Sở bưu điện Đông Dương làm việc ở nước này. Nguyên quán của ông ở làng Vũ Thạch, hiện là phố Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Năm 1940, ông tham gia tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945, ông tham dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào, sau đó được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I.
Sau Cách mạng tháng tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Ông thuộc thế hệ nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
Sau năm 1954, ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật với các cương vị Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.
Ông mất ngày 18/4/2003 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một con đường đẹp bên hồ Tây (Hà Nội).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét