Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018

Được Đại Việt cổ vũ, Chiêm Thành cứng rắn với Nguyên Mông


Vua tôi Chiêm quốc khi theo dõi tình hình chiến sự Tống - Nguyên đã đưa ra quyết định cùng Đại Việt đoàn kết chống Nguyên Mông. Năm 1278, vua Indravarman V phái sứ giả là Bồ Tinh, Bồ Đột sang Đại Việt thỏa thuận kết liên minh.

Giữa thế kỷ 13, khắp lục địa Á Âu chấn động bởi thế lực người Mông Cổ đến từ thảo nguyên Trung Á. Thoạt nhiên nhìn vào bản đồ địa lý thời bấy giờ, địa bàn Đông Nam Á ở cách xa người Mông Cổ vạn dặm. Nhưng rất nhanh chóng, lần lượt những quốc gia hùng mạnh là Tây Hạ và Kim bị tiêu diệt. Kế đó, quân Mông Cổ tấn công chiếm nhiều vùng rộng lớn của nước Tống, kiểm soát các vùng đất thuộc Tây Tạng và tiến chiếm nước Đại Lý. Sau khi Đại Lý diệt vong, nước Đại Việt tiếp giáp trực tiếp với đế quốc Mông Cổ. Trên đà bành trướng thuận lợi, gần như ngay sau khi chiếm xong Đại Lý thì quân Mông Cổ đã tính đến chuyện thôn tính nước Đại Việt, rồi dùng lãnh thổ Đại Việt làm một trong những bàn đạp tấn công nước Tống. Trước thử thách mới cam go, hai nền văn minh Đại Việt và Chiêm Thành thời bấy giờ đứng trước lựa chọn cùng nhau gạt bỏ bất đồng, đoàn kết lại để đối đầu với những kẻ địch bên ngoài hoặc thỏa hiệp và trông chờ vào ân huệ của kẻ mạnh.
Cuộc chiến Việt - Chiêm từ năm 1252-1254 đã khiến thái độ của Chiêm Thành đối với Đại Việt thay đổi. Vị vua mới lên ngôi sau cuộc chiến là Jaya Indravarman VI đã nhận thấy được sức mạnh đáng gớm của nước Đại Việt. Nhưng hơn thế nữa, triều đình Chiêm Thành cũng nhận thấy thiện chí của kẻ chiến thắng. Nhà Trần tuy muốn kìm chế Chiêm Thành, những vẫn duy trì chủ quyền của nước này. Đối với người Chiêm, thái độ của Đại Việt thân thiện hơn hẳn những gì mà người Chân Lạp đã thể hiện trong những năm trước đó, dù cho Chiêm Thành là bên gây chuyện trước dẫn đến chiến tranh. Sự cân bằng trong việc thể hiện binh uy và đức độ của vua Trần Thái Tông là nền tảng hòa bình cho hai nước. Vua tôi Chiêm Thành lúc bấy giờ vừa nể vừa sợ Đại Việt. Đến khi quân Mông Cổ sang đánh, nước Chiêm Thành đã không thừa cơ gây hấn ở phía nam.
Đầu năm 1258, 5 vạn liên quân Mông Cổ - Đại Lý (thuộc Mông Cổ) dưới trướng của tướng Ngột Lương Hợp Thai tấn công nước Đại Việt. Vốn tự tin vào sức mạnh quân sự của mình, vua Trần Thái Tông quyết định thân chinh dẫn quân bày trận ở Bình Lệ Nguyên để đợi giặc. Một cuộc chiến quy ước đã diễn ra ác liệt. Trong trận này, kỵ cung Mông Cổ đã được dịp thể hiện những phẩm chất vượt trội của mình. Quân Đại Việt với tượng binh hùng mạnh cũng không thể địch nổi những kẻ chinh phục phương bắc. Vua Trần Thái Tông suýt bị tổn thương trong trận chiến. May nhờ có sự liều chết của tướng sĩ, quyết định rút lui kịp thời và khả năng cơ động cao của thủy quân, vua Trần Thái Tông mới thoát chết, cả nước có cơ hội chuyển sang trạng thái chiến tranh, thiết lập thế trận toàn dân đánh giặc.
Với kế sách vườn không nhà trống của người Việt, quân Mông Cổ dù chiếm đóng được kinh thành Thăng Long nhưng chỉ là một tòa thành trống rỗng không có dân chúng, không có lương thực. Hạn chế của một đạo quân viễn chinh du mục lúc bấy giờ lập tức thể hiện rõ nét. Việc đem theo quá ít ỏi lương thực dự trữ nhằm đảm bảo tốc độ hành quân khiến quân Mông Cổ nhanh chóng rơi vào cảnh đói khát. Cuối tháng 1.1258, quân dân Đại Việt tổ chức phản công toàn tuyến. Quân Mông Cổ đại bại ở Đông Bộ Đầu, phải chạy dài. Đến trại Quy Hóa, đoàn quân của Ngột Lương Hợp Thai lại trúng mai phục của tù trưởng Hà Bổng nên tổn thất nặng. Khi đến hội quân ở Ngạc Châu (thuộc nước Tống) với cánh quân của Hốt Tất Liệt, Ngột Lương Hợp Thai chỉ còn chừng 5.000 kỵ binh.
Chiến thắng oanh liệt trong lần đầu tiên đọ sức với Mông Cổ đã giúp Đại Việt có được một quãng thời gian hòa bình để củng cố thêm sức mạnh trước mối đe dọa vẫn còn thường trực. Trong lúc Đại Việt chiến đấu với quân Mông Cổ thì tại Chiêm Thành lại có biến loạn. Vì cớ Jaya Indravarman VI là người đã thỏa hiệp với quân Đại Việt chiếm đóng Chiêm Thành nên trong nước vẫn có những thế lực ngầm chống đối. Năm 1257, sau khi quân Đại Việt rút khỏi Chiêm Thành không lâu thì hoàng thân Chay Nuk, con trai của vua Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận trong cuộc chiến với Đại Việt trước đó đã tổ chức ám sát vua Jaya Indravarman VI, đưa hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con trai của người chị vua Jaya Indravarman VI lên nối ngôi, lấy hiệu là Jaya Sinhavarman VI. Đến năm 1266, hoàng thân Chay Nuk lên kế vị lấy hiệu là Indravarman V. Các vua Chiêm Thành vẫn theo đường lối hòa hảo với Đại Việt, và đề phòng với thế lực người Mông Cổ. V
Vua tôi Chiêm quốc khi theo dõi tình hình chiến sự Tống - Nguyên đã đưa ra quyết định cùng Đại Việt đoàn kết chống Nguyên Mông. Năm 1278, vua Indravarman V phái sứ giả là Bồ Tinh, Bồ Đột sang Đại Việt thỏa thuận kết liên minh. Trong trường hợp Chiêm Thành bị tấn công, Đại Việt cam kết sẽ cử quân giúp đỡ. Đổi lại, Chiêm Thành cam kết chiến đấu với Nguyên Mông, không ngã theo Nguyên Mông chống Đại Việt. Thỏa thuận này đóng vai trò khá quan trọng trong chiến lược giữ nước của cả hai phía, giúp cả Đại Việt và Chiêm Thành có thể yên tâm và chủ động hơn trước những yêu sách và đe dọa của Nguyên Mông sau đó.
Năm 1279, quân Nguyên thảm sát vua tôi nước Tống ở trận Nhai Môn, chính thức diệt Tống. Hốt Tất Liệt liên tục cho đòi vua Đại Việt phải đích thân sang chầu, đồng thời phải cho thân thích sang làm con tin. Bấy giờ ở Đại Việt, cuộc chiến ngoại giao giữa Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông với các sứ đoàn nước Nguyên diễn ra khá căng thẳng. Thực ra, song song với những chiêu bài ngoại giao, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt cũng đã sớm chuẩn bị cho những cuộc nam chinh. Ngay từ khi lập nên triều Nguyên, Hốt Tất Liệt đã có mong muốn chiếm trọn Đông Nam Á, từ cả vùng lục địa ra các nước hải đảo. Tham vọng bành trướng của Nguyên Mông, thực sự là không hề có điểm dừng.
Tuy đánh giá vị trí của Đại Việt là cửa ngõ tiến xuống nam nhưng Nguyên triều vẫn còn chần chừng vì sức mạnh của Đại Việt khá đáng gờm. Nhìn sang nước Chiêm Thành, vua tôi nước Nguyên nhận thấy vị trí của Chiêm quốc nằm ở giữa vùng, khi chiếm được có thể dùng làm bàn đạp mà tấn công Đại Việt từ cả hai mặt bắc nam. Và điều quan trọng là Chiêm Thành yếu hơn Đại Việt nhiều. Vì thế, sau khi cân nhắc thì Nguyên Mông đã thiên về quyết định đánh Chiêm Thành trước.
Năm 1280, sứ giả Nguyên Mông sang Chiêm Thành phong cho vua Indravarman V làm “Chiêm Thành quận vương” và yêu cầu vua Chiêm phải sang chầu nước Nguyên. Vua Indravarman V cũng theo chính sách của Đại Việt, niềm nở tiếp đón sứ Nguyên nhưng nhất quyết không chấp nhận việc đích thân sang chầu Nguyên triều. Thái độ của cả hai nước đối với Nguyên Mông khá nhất quán, vừa mềm mỏng tránh đối đầu, nhưng cũng kiên quyết bảo vệ những giá trị cốt lõi của đất nước.
Năm 1281, lấy cớ Chiêm Thành chống lệnh, Hốt Tất Liệt ra lệnh lập Chiêm Thành hành trung thư tỉnh, phong Toa Đô (Sagatou) làm Hữu thừa, Lưu Thâm làm Tả thừa, Diệp Hắc Mê Thất (Yigmis) làm Tham tri chính sự lo việc chuẩn bị nam chinh. Đến cuối năm 1282, 10 vạn quân Nguyên Mông với 1.000 chiến thuyền giương buồm xuôi nam tiến đánh Chiêm Thành. Đây là một trong những đạo quân lớn nhất trong suốt chiều dài lịch sử nước Chiêm Thành. Cuộc chiến này không chỉ là việc của hai nước Nguyên - Chiêm Thành mà nó còn can hệ đến vận mệnh của một loạt các nước trong khu vực. Nhất là đối với Đại Việt thì việc thành bại của quân dân Chiêm Thành ảnh hưởng cực lớn đến thế trận chống Nguyên Mông.

Vua Trần phái 2 vạn quân viện Chiêm kháng Mông

Nhà Trần cử 2 vạn quân sang giúp Chiêm Thành - Ảnh: Internet
Sau khi sứ giả Chiêm Thành xin quân tiếp viện, vua Trần Nhân Tông đã phái 2 vạn quân, 500 chiến thuyền xuống cứu Chiêm Thành. Tổng cộng, liên quân Việt - Chiêm đã có 4 vạn người. Số quân này đủ để đảm bảo cho người Chiêm giữ vững được những phần đồi núi phía tây và chiến đấu lâu dài với quân Nguyên.

Những cuộc xâm lược của đế chế Nguyên Mông vào nửa cuối thế kỷ 13 là thử thách ngặt nghèo đối với cả hai nền văn minh Đại Việt và Chiêm Thành. Sau khi tiến hành những bước gây hấn thì năm 1282, tại nước Nguyên việc chuẩn bị cho chuyến hải trình xâm lược Chiêm Thành diễn ra khẩn trương. Cùng với đó, quân Nguyên cũng tiến hành tập trung binh lực ở gần biên giới nước Đại Việt, nói phao là muốn mượn đường Đại Việt để đánh Chiêm Thành, kỳ thực là muốn đánh úp Đại Việt. Triều đình nhà Trần biết mưu của giặc, đêm ngày củng cố binh lực. Không thể thực hiện mưu giả cách mượn đường, vua tôi nước Nguyên chỉ còn có thể dùng đường biển để đánh Chiêm.
Cơn bão ngoại xâm đã được dự báo trước và người Chiêm Thành đã có nhiều bước chuẩn bị để đối đầu. Vua Indravarman V cùng hoàng thái tử Harijit đã chỉ huy quân dân dựng hành cung, xây thành gỗ, đặt Hồi Hồi pháo để phòng giữ. Nhưng khí thế và sức mạnh của quân Nguyên Mông vẫn quá vượt trội so với đất nước duyên hải này. Một ngày đầu năm 1283, 10 vạn quân với 1.000 chiến thuyền Nguyên Mông dày đặc tiến vào vịnh Cri-Banoi (vịnh Quy Nhơn ngày nay). Với lực lượng hùng mạnh áp đảo, Toa Đô hy vọng vua tôi Chiêm Thành thấy sợ mà chịu đầu hàng. Vì thế, tướng Nguyên không vội đánh gấp, mà trước tiên cho quân đổ bộ rồi sai sứ đến chỗ vua Chiêm để dụ hàng. Thế nhưng sau tám lần sai sứ đến hành cung vua Indravarman V, Toa Đô vẫn không thể thuyết phục vua Chiêm đầu hàng. Trái lại, vua Indravarman V còn gởi thư khiêu chiến.
Toa Đô quyết định tấn công khi mà kế hoạch dụ hàng thất bại. Trong lúc quân Nguyên đang sửa soạn thì một trận bão đã làm quá nửa thuyền bè của chúng bị hư hại. Nhưng vì quân Nguyên đóng trại trên bờ nên không bị hao hụt quân số cũng như trang bị. Trung tuần tháng 2.1283, quân Chiêm Thành cùng quân Nguyên Mông quyết chiến một trận tại thành gỗ. Thái tử Harijit cùng đội quân của mình dù cố gắng nhưng không thể cản nổi bước tiến của địch. Quân Chiêm Thành phải rút lui về giữ kinh thành Vijaya. Quân Nguyên thừa thắng đuổi dài, chẳng mấy chốt đã tiến gần đến thành Vijaya. Vua tôi Chiêm quốc theo cách của Đại Việt lúc trước, cho quân dân sơ tán khỏi kinh thành để làm kế Vườn không nhà trống. Chủ lực còn lại của Chiêm Thành theo vua rút lên vùng cao nguyên phía tây, xây dựng tuyến phòng thủ mới.
Đồng thời vua Indravarman V cử sứ giả đến điều đình với Toa Đô, giả bộ thuần phục để kéo dài thời gian. Kế hoãn binh của vua Chiêm đã diễn ra suôn sẻ, khiến Toa Đô tạm dừng quân trong khoảng 1 tháng trời. Tranh thủ thời gian này, quân Chiêm với sự hỗ trợ đắc lực của các sắc dân người Thượng đã dựng xong một thành gỗ mới ở núi Nha Hầu cùng hệ thống hào lũy dọc đường vào, cố thủ chờ đón đánh quân Nguyên. Đồng thời, sứ giả Chiêm Thành tức tốc sang Đại Việt báo tin và xin quân tiếp viện. Vua Trần Nhân Tông đã phái 2 vạn quân, 500 chiến thuyền xuống cứu Chiêm Thành. Các xứ Amaravati, Indrapura cũng dẫn quân đến hỗ trợ vua Indravarman V. Thái tử Harijit hội quân người Thượng với binh lực các lãnh chúa gom lại được hơn 2 vạn quân. Tổng cộng, liên quân Việt - Chiêm đã có 4 vạn người. Số quân này đủ để đảm bảo cho người Chiêm giữ vững được những phần đồi núi phía tây và chiến đấu lâu dài với quân Nguyên.
Tuy nhiên, vì bại trận ở vùng duyên hải và phải chịu lép vế trước tướng giặc nên uy quyền của vua Indravarman V cũng bị suy giảm. Ở vùng đồng bằng xứ Vijaya, hàng loạt quý tộc Chiêm Thành thuộc các xứ đem quân dân hàng Nguyên Mông. Toa Đô trọng dụng đám quý tộc đầu hàng và bắt ngụy quân người Chiêm sung vào đội ngũ quân Nguyên Mông để bù vào số quân đã tổn thất. Tháng 3.1283, Toa Đô dẫn quân chia đường thủy bộ tiến đánh căn cứ của quân Chiêm Thành. Vạn hộ Trương Ngung dẫn quân bộ đi đường núi, còn Toa Đô đem hàng trăm chiến thuyền ngược sông tiến lên cao nguyên. Dựa vào địa hình hiểm trở, quân Chiêm Thành đã giáng những đòn mạnh mẽ vào kẻ địch. Cả hai cánh quân Nguyên đều phải rút chạy. Riêng cánh quân của Trương Ngung bị tổn thất nặng vì trúng mai phục. Sau khi thua trận, Toa Đô phải rút quân về ven biển, dựng lại thành gỗ để cố thủ chờ viện binh từ nước Nguyên sang.
Vua Indravarman V thừa thắng tiến quân xuống đồng bằng, tổ chức đánh lớn với quân Nguyên. Thái tử Harijit dẫn quân tiến đánh thành gỗ, hòng giành thắng lợi hoàn toàn. Nhưng khi xuống vùng đồng bằng ven biển, quân Chiêm Thành lại mất đi ưu thế trước quân Nguyên. Trận chiến diễn ra ác liệt với tổn thất nặng cho cả hai phía. Rốt cuộc, Harijit phải lui binh về cao nguyên khi không địch nổi quân quân Nguyên vốn giỏi chiến đấu nơi bằng phẳng. Triều đình nước Chiêm chuyển sang chiến lược đánh lâu dài, lợi dụng việc ở xa hậu cần của quân Nguyên mà phát động chiến tranh tiêu hao. Ngày qua ngày, quân Nguyên dần thiếu thốn lương thực, tinh thần suy giảm khi phải đối phó với sự đánh phá liên tục của quân dân nước Chiêm. Toa Đô vẫn cố vơ vét, cướp bóc nuôi quân và gởi thư về nước xin tiếp viện. Nhưng ở trong nước Nguyên bấy giờ nhân dân chịu lao dịch, thuế khóa nặng nề để phục vụ chiến tranh trở nên cùng quẫn, nhiều nơi nổ ra khởi nghĩa buộc Nguyên triều phải cất quân đánh dẹp. Việc tiếp viện cho Chiêm Thành do đó bị gián đoạn. Vua Nguyên Hốt Tất Liệt không có kế gì hay, lại sai sứ giả sang Đại Việt yêu cầu mượn đường đánh Chiêm Thành. Hiển nhiên, triều đình nhà Trần tìm cớ thoái thác việc này.
Đến mùa xuân năm 1284, quân Nguyên ở Chiêm Thành gần như cùng quẫn, số chết và đào ngũ ngày một tăng. Toa Đô phải hạ lệnh bỏ thành lên thuyền tiến lên phía bắc Chiêm Thành. Quân Nguyên đóng tại hồ Đại Lãng, xứ Indrapura dựng thành gỗ mới, lập đồn điền tự túc. Khi đạo quân tiếp viện của A Tháp Hải với 3 vạn quân, hàng trăm thuyền đến vịnh Cri Banoi vào tháng 4.1284 thì Toa Đô đã đi khỏi đó rồi. A Tháp Hải dò la tin tức, dong thuyền ra bắc tìm Toa Đô thì gặp bão biển đánh tan tác. Đám tàn quân còn lại dong thuyền về nước, lại bị triều đình nước Nguyên bắt phải quay trở lại Chiêm Thành. Quá chán ngán với sóng gió phương nam, đám quân tướng Nguyên bị bắt đi đánh Chiêm bất tuân lệnh, rủ nhau làm thổ phỉ.
Không thể trông chờ vào tiếp viện từ trong nước, Toa Đô vẫn chưa chịu chấp nhận thất bại. Khi sứ giả nước Chiêm đến doanh điều đình xin Toa Đô rút quân về, hắn đã từ chối và gởi thư về cho vua Nguyên khuyên rằng: "Giao Chỉ liền đất với các nước Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, có thể lập tỉnh ngay trên đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý [tức Quảng Trị ngày nay], Trì Châu [Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay], Tỳ Lan [đảo Hải Nam, Trung Quốc ngày nay], lấy lương hướng ở đấy cấp cho quân lính, tránh được việc khó nhọc chuyển vận bằng đường biển".
Thực sự Hốt Tất Liệt đã có ý đánh Đại Việt từ lâu. Chỉ là ban đầu hắn cho rằng có thể thuận lợi thôn tính được Chiêm Thành trước rồi dùng làm bàn đạp tiến đánh Đại Việt. Đến nay khi tình hình ở Chiêm Thành bất lợi và xem qua lời tâu của Toa Đô, vua Nguyên củng cố lại quyết tâm đánh Đại Việt. Cánh quân của Toa Đô từ bắc Chiêm Thành tạm từ bỏ nhiệm vụ thôn tính Chiêm Thành mà đóng quân chờ phối hợp với cánh quân Nguyên từ bắc tiến đánh Đại Việt. Tháng 8.1284, vua Nguyên phong cho hoàng tử thứ 9 là Thoát Hoan là Nguyên soái, cùng A Lý Hải Nha làm phó soái, sửa soạn 50 vạn quân để tiến đánh Đại Việt.
Đến lượt mình, quân dân Đại Việt phải trực tiếp đương đầu với quân Nguyên Mông để bảo vệ nền độc lập, qua đó cũng góp phần bảo vệ đồng minh Chiêm Thành và những nước Đông Nam Á khác.

Nhờ Đại Việt đánh bại quân Nguyên, Chiêm Thành hưởng lợi

Sau hàng trăm năm chiến tranh, đây là quãng thời gian hiếm hoi mà nước Chiêm Thành không thù địch và chịu sự thù địch với các nước láng giềng. Nhờ đó, vua Jaya Shinhavarman III được rảnh tay mở rộng lãnh thổ về hướng tây, chinh phục các bộ lạc trên cao nguyên bằng cả ngoại giao và răn đe vũ lực.

Sự chống trả ngoan cường của quân dân Chiêm Thành đã khiến kế hoạch bành trướng xuống phương nam của vua tôi nước Nguyên không thể như dự kiến. Chiêm quốc đã không dễ bị khuất phục, trở thành công cụ cho đế quốc Nguyên Mông như toan tính ban đầu của Hốt Tất Liệt mà đã đáp trả quân xâm lược những đòn mạnh mẽ, khiến kẻ địch nhiều phen điêu đứng. Tuy vậy, cho đến năm 1284 việc quân Nguyên vẫn trụ được ở phía bắc Chiêm Thành và duy trì được quân số ngót gần 10 vạn (tính quân Nguyên và ngụy binh người Chiêm Thành) dưới trướng Toa Đô vẫn là một mối hiểm họa cho cả hai nước Đại Việt và Chiêm Thành.
Bị sa lầy tại Chiêm Thành, Toa Đô đã khuyên vua Nguyên Hốt Tất Liệt thay đổi kế hoạch, chuyển hướng tấn công Đại Việt trước, mở thông con đường bộ tiến xuống phương nam. Trong suốt năm 1284, khắp các vùng phương nam nước Nguyên sôi sục việc chuẩn bị tiến đánh Đại Việt để thực hiện kế hoạch xâm lược mới. Đến năm 1285, 50 vạn quân Nguyên dưới trướng Thoát Hoan, A Lý Hải Nha đánh xuống, 10 vạn quân Toa Đô đánh lên. Nước Đại Việt bấy giờ dưới sự cai trị của vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông vốn đã nhiều năm quen cảnh thái bình, nay lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch trong một cuộc chiến tưởng chừng như không cân sức. Nhưng với sức mạnh và ý chí chiến đấu tuyệt vời của các tầng lớp quân dân cùng với tài năng xuất chúng của các tướng lĩnh, sự đoàn kết trên dưới một lòng, dần dần những đòn vũ bão của quân Nguyên bị hóa giải.
Thoạt đầu, kế Vườn không nhà trống khiến cho khả năng tìm kiếm lương thực tại chỗ của quân Nguyên bị hạn chế tối đa, làm chúng sớm lâm vào cảnh thiếu thốn lương thực. Quân Đại Việt không giữ lấy cao nguyên như quân Chiêm, mà dùng thủy quân dựa vào sông nước, biển cả tiến hành chiến tranh. Quân Nguyên tuy đông nhưng dần bị kéo giãn ra, vừa phải chia quân giữ đường tiếp tế, vừa phải phân tán đi lùng sục cướp bóc lương ăn, chia quân đóng giữ những điểm xung yếu… Lực lượng cơ động còn lại của giặc thì sa vào những cuộc rượt đuổi với thủy quân nhà Trần mà phần thua thường thuộc về chúng bởi khả năng hành quân và nghi binh điêu luyện của quân nhà Trần. Đến khi quân giặc đã mỏi mệt, quân dân Đại Việt tiến hành phản công mạnh mẽ. Những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết gắn liền với hàng loạt những tên tuổi Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật … đã nhấn chìm quân xâm lược cuồng bạo. Thoát Hoan phải chui ống đồng mà trốn chạy qua ải, Toa Đô thì bị bêu đầu. Trong khoảng thời gian trên dưới nửa năm, quân dân Đại Việt đã khiến cho hơn nửa triệu quân Nguyên Mông hùng mạnh tan tác. Đây quả thực là một trong những võ công lừng lẫy nhất thời đại bấy giờ.
Chiến thắng của Đại Việt đã tạo thời cơ vô cùng thuận lợi cho quân Chiêm Thành giải phóng toàn bộ đất nước. Trước đó khi Toa Đô đem quân bắc tiến phối hợp với Thoát Hoan thì đã chia quân cho Diệp Hắc Mê Thất (Yigmis) đóng giữ tại bắc Chiêm Thành. Số quân ít ỏi này vốn chỉ đủ cầm chừng chờ quân Nguyên thôn tính Đại Việt. Khi Thoát Hoan cùng Toa Đô thua tan nát ở chiến trường Đại Việt, Diệc Hắc Mê Thất cũng đành phải lên thuyền rút quân về nước, tránh nguy cơ bị tiêu diệt trong sớm chiều. Nước Chiêm Thành do đó thoát được họa Nguyên Mông. Những người Chiêm trước đó trót theo quân Nguyên đa phần cũng trốn theo đoàn quân của Diệp Hắc Mê Thất. Số ngụy binh người Chiêm theo Toa Đô vào Đại Việt bị quân nhà Trần bắt sống được trả về của triều đình Chiêm Thành trị tội.
Năm 1288, vua Indravarman V mất, thái tử Harijit lên nối ngôi, lấy hiệu là Jaya Sinhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân). Chiêm Thành lúc này đã có được hòa bình để tái thiết đất nước. Trong khi đó, quân dân Đại Việt vẫn phải chịu thêm một cuộc xâm lược quy mô lớn nữa từ nước Nguyên. Cuối năm 1287, Nguyên triều huy động hơn 30 vạn quân, 600 chiến thuyền, 17 vạn thạch lương (có sách chép 70 vạn thạch) sang đánh Đại Việt, dưới quyền tổng chỉ huy của Thoát Hoan. Rút kinh nghiệm lần trước, lần ra quân này quân Nguyên đã xây dựng một hạm đội hùng mạnh hơn và có riêng một hạm đội tải lương. Chỉ huy đạo thủy quân là tướng Ô Mã Nhi, một tướng giỏi, có nhiều kinh nghiệm ở chiến trường Đại Việt và rất tàn bạo. Dù chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy nhưng kết cuộc của kẻ xâm lược còn tệ hại hơn lần trước. Thoát Hoan mặc dù vẫn tiến quân như vũ bão nhưng không giành được lợi thế chiến lược nào đáng kể trước sự bố phòng tinh tế của quân Đại Việt. Quân Nguyên tiến chiếm được Thăng Long nhưng rồi lại phải rút về giữ Vạn Kiếp chứ không dám đóng quân trong kinh thành nước Đại Việt.
Tháng 2.1288, hạm đội tải lương của chúng lại bị Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư tiêu diệt ở trận Vân Đồn. Chẳng còn lương thực, Thoát Hoan không còn cách nào khác là chia quân làm hai đường thủy bộ mà rút về nước. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã tổ chức đón lõng địch trên cả hai hướng rút quân để giáng cho chúng thiệt hại nặng nề nhất có thể, không cho đạo quân xâm lược có cơ hội bảo toàn lực lượng. Cánh quân bộ của Thoát Hoan bị trúng kế nghi binh nên đi vào đường hẹp mà quân ta mai phục đợi sẵn, khiến quân tướng giặc phải bỏ xác trên đường và phải chạy dài. Cánh thủy quân dưới quyền Ô Mã Nhi là lực lượng được triều đình Đại Việt đánh giá là đặc biệt nguy hiểm nên đặt trọng tâm tiêu diệt. Ngày 9.4.1288, quân Đại Việt đã đánh một trận lớn ở cửa sông Bạch Đằng, diệt gọn và bắt sống toàn bộ đạo thủy quân của giặc với trên dưới 6 vạn quân, 600 chiến thuyền, khép lại cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3.
Ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông đã khiến uy danh của nước Đại Việt lừng lẫy khắp các nước lân bang. Chiêm Thành sau khi chứng kiến sức mạnh của Đại Việt trong cuộc chiến càng thêm vị nể và tin tưởng vào liên minh hai nước. Bên cạnh đó, vua Jaya Sinhavarman III cũng kết thân với các nước Majapahit và Java (thuộc Indonesia ngày nay), Yavadvipa (thuộc Malaysia ngày nay) trong bối cảnh vua Nguyên là Hốt Tất Liệt vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm tiến chiếm vùng Đông Nam Á. Năm 1293, quân Nguyên đi đánh nước Java, Madjapahit. Tướng Nguyên đã trơ trẽn đề nghị vua Chiêm cho chúng vào bờ mua vật phẩm dự trữ. Tất nhiên, vua Jaya Sinhavarman III đã thẳng thừng từ chối. Rốt cuộc quân Nguyên lại thất bại trở về. Hốt Tất Liệt một lần nữa nhận ra rằng quân đội của hắn sẽ chẳng thể nào làm nên trò trống gì nếu cứ phải hành quân bằng đường biển xuống nam. Vua Nguyên khởi động trở lại kế hoạch xâm lược Đại Việt một lần nữa. Việc chuẩn bị xâm lược đang dang dở thì Hốt Tất Liệt bệnh chết, vua kế nhiệm là Nguyên Thành Tông nhận thấy rằng việc nam chinh quá hao người tốn của mà khả năng chiến thắng lại mong manh nên đã hạ lệnh bãi binh. Các nước phương nam từ đó mới được yên ổn.
Sau khi thoát được nạn Nguyên Mông, Đại Việt và Chiêm Thành cùng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng. Đặc biệt là Chiêm Thành, vua Jaya Sinhavarman III là một vị vua anh minh và thương dân. Dưới sự cai trị của ông, cả việc đối nội và đối ngoại của Chiêm Thành đều được hòa mục, thuận lợi. Với nền tảng thương mại truyền thống và sự ổn định về chính trị, Chiêm Thành nhanh chóng trở nên hùng cường. Vua Jaya Sinhavarman III vẫn duy trì triều cống đối với Đại Việt, nhưng vị thế của Chiêm Thành đã không còn lép vế như trước. Sứ giả Đại Việt cũng thường sang Chiêm Thành.
Sau hàng trăm năm chiến tranh, đây là quãng thời gian hiếm hoi mà nước Chiêm Thành không thù địch và chịu sự thù địch với các nước láng giềng. Nhờ đó, vua Jaya Shinhavarman III được rảnh tay mở rộng lãnh thổ về hướng tây, chinh phục các bộ lạc trên cao nguyên bằng cả ngoại giao và răn đe vũ lực. Các vùng cao nguyên DakLak (tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông ngày nay), Langbiang (tỉnh Lâm Đồng ngày nay) từ chỗ là vùng ảnh hưởng không thường xuyên đã trở thành lãnh thổ chính thức của Chiêm Thành. Vùng cao nguyên rộng lớn này là một vùng đất quan trọng đối với nước Chiêm Thành, là vùng các vua chúa nước Chiêm có thể rút về thủ hiểm khi có chiến tranh lớn và cũng là nơi khai thác lâm sản, thổ sản.
Năm 1301, Thượng hoàng Trần Nhân Tông (1) sang thăm nước Chiêm Thành theo lời mời của vua Chiêm và đã ở lại cung điện Chiêm Thành đến 9 tháng. Triều đình Chiêm quốc đã tiếp đãi Thượng hoàng nước Đại Việt rất nồng hậu. Trong chuyến thăm này, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Jaya Sinhavarman III. Đổi lại, vua Chiêm Thành xin dâng hai châu Ô (thuộc nam Quảng Trị ngày nay), châu Lý (tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay) để làm sính lễ cưới Huyền Trân. Hôn ước này càng khiến quan hệ hai nước thêm thắm thiết.
(1): năm 1293 thượng hoàng Trần Thánh Tông mất, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Thuyên, tức vua Trần Anh Tông và xưng là Thái thượng hoàng

Vì bờ cõi, công chúa Huyền Trân phải kết hôn với vua Chiêm đã gần 50

Tái hiện cảnh công chúa Huyền Trân xuất giá - Ảnh: Đình Duy/THCL
Lúc bấy giờ vua Jaya Sinhavarman III đã ở trạc tuổi gần 50, lại đã có ba người vợ chính thức. Còn công chúa Huyền Trân thì đang độ xuân sắc, là giai nhân nổi tiếng đất Việt. Hạnh phúc lứa đôi đối với vị công chúa trẻ trong cuộc hôn nhân này rất xa vời.
Có thể nói đức Phật hoàng Trần Nhân Tông và vua Jaya Sinhavarman III (Chế Mân) là hai nhân vật đã dày công vung đắp cho tình hữu nghị Việt-Chiêm vào đầu thế kỷ 14. Cả hai đều là anh hùng chống Nguyên Mông và đều là những nhà cai trị yêu chuộng hòa bình. Chuyến viếng thăm của Thượng hoàng Trần Nhân Tông đến đất nước Chiêm Thành vào năm 1301 đã dẫn đến một sự kiện lớn. Để đáp lại sự đón tiếp nồng hậu của vua Jaya Sinhavarman III và kết chặt liên minh hai nước, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành.
Thoạt đầu, đây là một hôn ước mang tính chính trị hòng giải quyết những mâu thuẫn tiềm ẩn có nguy cơ phá vỡ liên minh Đại Việt - Chiêm Thành. Thời bấy giờ, Việt - Chiêm đang ở thế tựa lưng vào nhau. Nước Chiêm Thành đang trên đà hùng mạnh trở lại và là đối tượng mà đế chế Nguyên Mông muốn tranh thủ thuyết phục để thực hiện mưu đồ bành trướng xuống Đông Nam Á sau khi dùng vũ lực bất thành. Một mặt, triều đình Đại Việt vẫn muốn giữ vị thế nước lớn đối với Chiêm Thành, coi nước này là chư hầu của mình. Mặt khác, liên minh chặt chẽ với Chiêm Thành là vấn đề sống còn đối với Đại Việt, trong bối cảnh Nguyên Mông vẫn lăm le tổ chức những cuộc xâm lược mới.
Bên cạnh vấn đề vị thế cao thấp trong liên minh là vấn đề di dân người Việt. Kể từ thời vua Trần Thái Tông đánh Chiêm Thành, người Việt dựa vào ưu thế quân sự vượt trội của mình đã có nhiều đợt di dân xuống phía nam. Cho đến đầu thế kỷ 14, những vùng châu Ô, châu Lý của Chiêm Thành đã có đông người Việt đến cư trú, lập thành nhiều làng xã. Triều đình nhà Trần thời kỳ này cần có một giải pháp để giữ vừa đảm bảo chỗ đứng chân cho di dân người Việt, vừa không mất lòng triều đình Chiêm quốc. Một khi gả công chúa cho vua Jaya Sinhavarman III, vua Chiêm sẽ trở thành em vợ của vua Trần Anh Tông nước Đại Việt, nhiều vấn đề khúc mắc sẽ được giải quyết dễ dàng nhờ vào mối quan hệ thông gia. Còn đối với Chiêm Thành, Đại Việt xưa nay vừa là nước có thể bảo trợ, cũng vừa là thế lực nguy hiểm có thể đe dọa đến tồn vong của nước mình. Việc kết thân với Đại Việt gần như đảm bảo cho Chiêm Thành một láng giềng thân thiện phía bắc, gạt bỏ nguy cơ ngoại xâm để yên ổn xây dựng đất nước.
Mặc dù cả hai nước đều có động cơ chính trị rõ ràng, cuộc hôn nhân giữa công chúa nước Đại Việt và vị vua nước Chiêm Thành vẫn vấp phải trở ngại lớn. Cuối năm 1301, vua Jaya Sinhavarman III sai sứ mang sính lễ đến cầu hôn công chúa Huyền Trân theo như hôn ước trước đó. Trong triều đình Đại Việt đã diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt. Hầu hết quần thần đều cho rằng không nên gả công chúa cho Chiêm Thành, vì khinh người Chiêm là man di. Duy chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái khuyên nên gả đi, và Trần Khắc Chung tán thành. Vua Trần Anh Tông vẫn chần chừ chưa quyết vì một đằng là hôn ước đã định trước và tầm quan trọng của liên minh, một đằng là hạnh phúc của em gái mình và cả thể diện của hoàng tộc.
Cần biết rằng, lúc bấy giờ vua Jaya Sinhavarman III đã ở trạc tuổi gần 50, lại đã có ba người vợ chính thức. Còn công chúa Huyền Trân thì đang độ xuân sắc, là giai nhân nổi tiếng đất Việt. Hạnh phúc lứa đôi đối với vị công chúa trẻ trong cuộc hôn nhân này rất xa vời. Sau vua Jaya Sinhavarman III xin cắt đất châu Ô (nam Quảng Trị ngày nay), châu Lý (tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay) làm sính lễ. Vua Trần Anh Tông muốn có được đất hai châu, mới chấp thuận gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm.
Mùa hạ năm 1306, một phái đoàn lớn đưa công chúa Huyền Trân sang Chiêm quốc để cử hành hôn lễ. Quan quân Đại Việt theo chân đoàn đưa dâu vào tiếp quản hai châu Ô, Lý. Kể từ đây, lãnh thổ Đại Việt lại được mở rộng về phía nam thêm một phần đáng kể. Nhà vua Jaya Sinhavarman III đã ra tận vùng biên thùy để đón rước người vợ mới của mình. Hôn lễ được cử hành long trọng tận ba ngày đêm, công chúa Huyền Trân được phong làm Hoàng hậu Paramecvari.
Việc cưới gả này đã đem về cho Đại Việt những điều lợi rất lớn là vừa có được vị thế chủ động trong liên minh, vừa có được những vùng đất mới. Thế nhưng việc một công chúa phải gả cho vua xứ “man di” theo thế giới quan Nho giáo vốn thịnh hành ở Đại Việt thời bấy giờ là một điều đáng chê trách. Do đó trong nước Đại Việt đã có nhiều người mượn điển tích Chiêu Quân Cống Hồ đời Hán để làm văn thơ châm biếm, chỉ trích.
Xét trong suốt chiều dài lịch sử, thời điểm vua Jaya Sinhavarman III cưới công chúa Huyền Trân có thể coi là cao trào của mối quan hệ Việt-Chiêm. Nhưng sau đó không lâu, những biến cố đã xảy ra liên tiếp khiến hai bên dần xa cách. Công chúa Huyền Trân về làm dâu nước Chiêm Thành chẳng bao lâu thì vua Jaya Sinhavarman III mất vào tháng 5.1307. Lúc này công chúa đã mang thai hoàng tử Chế Đa Da. Chẳng lâu sau, công chúa hạ sinh hoàng tử. Tháng 9.1307, sứ giả từ nước Chiêm Thành sang Đại Việt dưới danh nghĩa của hoàng tử Chế Đa Da để báo tang và dâng voi trắng. Vua Trần Anh Tông hay tin, sai Hành khiển Trần Khắc Chung dẫn đầu sứ bộ sang Chiêm Thành để đón công chúa và hoàng tử Chế Đa Da về Đại Việt vào mùa đông năm 1307. Vì rằng vua Jaya Sinhavarman III đã mất mà hoàng tử Chế Đa Da lại còn quá nhỏ nên cũng theo mẹ về Đại Việt, để tránh việc xung đột quyền lực về sau. Một hoàng hậu khác của vua Jaya Sinhavarman III là Tapasi người Java cũng trở về nước sau đó ít lâu. Có thể thấy rằng, việc những người vợ ngoại quốc của vua Chiêm Thành quay trở về nước sau khi chồng mình qua đời là một chuyện thường tình của Chiêm quốc.
Tuy nhiên, trong chính sử Việt lại có những ghi chép về việc công chúa Huyền Trân trở về khá ly kỳ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: "Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu". Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô.”
Nhiều sách sử đời sau cũng chép theo sách Toàn thư, và theo đó hết lời miệt thị Trần Khắc Chung theo quan niệm Nho giáo. Một số luồng tư tưởng dân gian thì lấy việc của công chúa Huyền Trân và Hành khiển Trần Khắc Chung để làm chất liệu sáng tác nên một chuyện tình theo môtip tướng quân - công chúa. Ngày nay, khác nhiều nghiên cứu đã không đồng tình với sử liệu trong Toàn thư, bởi những manh mối mới đã được tìm ra.
Trước tiên, tục lệ tuẫn táng theo vua trong phong tục Chiêm Thành theo nghiên cứu của những học giả người Chăm hiện đại thực ra là hoàn toàn tự nguyện. Công chúa Huyền Trân không phải chết theo vua nếu nàng không muốn. Manh mối tiếp theo là việc hoàng hậu Tapasi cũng đã được yên ổn mà trở về nước nên chẳng việc gì công chúa Huyền Trân phải cần đến một cuộc giải cứu với nhiều trá thuật như chính sử Việt thời phong kiến ghi chép. Đây là những sử liệu mà có lẽ các sử gia thời phong kiến chưa có điều kiện tiếp cận. Khi viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên đã phải dùng đến nguồn thông tin duy nhất mà ông có lúc đó là những ký ức dân gian.
Thời kỳ vua Jaya Sinhavarman III là thời thịnh trị của nước Chiêm Thành và cũng là giai đoạn mà Đại Việt và Chiêm Thành có được ngoại giao nồng ấm nhất. Sau khi vua Jaya Sinhavarman III mất, con trai ông với chính hậu Bhaskaradevi là Chế Chí kế vị, lấy hiệu là Jaya Sinhavarman IV. Nhà vua mới không cùng chí hướng với cha mình, nuôi ý định lấy lại hai châu Ô, Lý. Trước đó, khi hai châu này trở thành đất của Đại Việt thì đã có nhiều người dân, điển hình là các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không tuân phục.
Vua Trần Anh Tông phái Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến tuyên dụ, chọn người trao cho quan tước, cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về. Bấy giờ dân tình mới chịu phục tùng. Sau khi lên ngôi một thời gian, vua Jaya Sinhavarman IV bắt đầu cho người trà trộn và nhân dân hai châu Ô, Lý để xúi giục họ nổi lên chống lại triều đình Đại Việt, làm tiền đề cho sự can thiệp của Chiêm Thành về sau. Tình hữu nghị đã phải tốn nhiều công sức vun đắp, phải cùng trải qua thử thách của hai dân tộc Việt-Chiêm lại nhanh chóng bị rạn nứt bởi những việc làm này.

Trần Anh Tông chinh phạt phương nam, vua Chiêm Thành đầu hàng

Quân Trần điểm binh
Dưới sự bảo trợ của vua Chiêm, các toán quân nhỏ người Chiêm Thành bắt đầu thực hiện các vụ cướp bóc, bắt cóc người vùng biên giới. Những sự việc này bị triều đình Đại Việt phát giác, khiến vua Jaya Sinhavarman IV bị xem như kẻ phản trắc trong mắt vua tôi nhà Trần.
Thời trị vì của vua Jaya Sinhavarman III (Chế Mân) là giai đoạn vàng son trong lịch sử Chiêm Thành và cũng là quãng thời gian mà Đại Việt và Chiêm Thành có quan hệ rất thân thiết. Từ đó trở về sau, Việt-Chiêm hiếm có giai đoạn nào thân thiện với nhau được như thế. Năm 1307, vua Jaya Sinhavarman III khi mới kết hôn với công chúa Huyền Trân chừng một năm. Đến năm 1308, Thượng hoàng Trần Nhân Tông nước Đại Việt mất ở Yên Tử. Thời kỳ của những nhà cai trị Việt-Chiêm cùng nhau sát cánh chống Nguyên Mông, những người dày công gây dựng hòa bình đã khép lại.
Khi Thượng hoàng Trần Nhân Tông còn tại thế, đường lối đối ngoại hòa bình của ngài đã góp phần áp chế những tư tưởng hiếu chiến trong triều đình Đại Việt. Tuy vậy, trong hàng ngũ quan lại Đại Việt và kể cả nhà vua Trần Anh Tông vẫn luôn mong muốn Đại Việt có được vị thế bề trên và tìm cách áp đặt tư tưởng lên nước Chiêm Thành. Đại biểu cho phái “diều hâu” trong triều đình Đại Việt trước tiên phải kể đến là Tri khu mật viện sự Đoàn Nhữ Hài. Ông là người chủ trương có thái độ cứng rắn với Chiêm Thành. Năm 1303, Đoàn Nhữ Hài được giao nhiệm vụ đi sứ nước Chiêm. Trong chuyến đi này, ông đã cố gắng khẳng định vị thế nước bảo hộ của Đại Việt trên phương diện ngoại giao. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép lại về chuyến đi sứ này như sau :
“Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với chúa Chiêm: “Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau”.
Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý là thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất. Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ Ni (bến cảng của Chiêm Thành, nơi tụ tập các thuyền buôn), tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi viên coi cảng đến bảo: “Chỗ này người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ gìn. Sứ thần về rồi, cất ngay bảng đi, đừng để mất”.
Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ, bảng cấm rốt cục cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để tự họ làm như thế. Sau này, đi sứ Chiêm Thành, không lạy chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài.”
Sau chuyến đi sứ này, vua Trần Anh Tông càng thêm tin dùng Đoàn Nhữ Hài, phong cho ông chức Tham tri chính sự. Điều này cho thấy rằng vị vua Đại Việt cũng muốn theo đuổi chính sách dùng uy nước lớn để áp chế Chiêm Thành. Hơn nữa, sự kể cả của Đại Việt cũng bắt nguồn từ việc trước đó nhà Trần đã từng cử quân giúp Chiêm Thành chống Nguyên Mông, cũng như từ chối cho Nguyên Mông mượn đường đánh Chiêm. Bấy giờ vua Jaya Sinhavarman III vẫn còn tại thế, dù Chiêm Thành chịu nhún nhường về ngoại giao, nhưng về nội trị họ vẫn giữ được độc lập. Là một nước có dân số ít hơn nhiều lần và phần nào chịu ơn Đại Việt, triều đình Chiêm quốc lúc này chấp nhận vị thế nước nhỏ để duy trì môi trường hòa bình, làm tiền đề cho thương mại phát triển.
Sau khi vua Jaya Sinhavarman III mất, vua kế nhiệm là Jaya Sinhavarman IV tuy vẫn duy trì triều cống nhưng trong lòng lại không phục. Ông nuôi chí đòi lại phần đất hai châu Ô, Lý mà cha mình đã cắt nhượng cho Đại Việt. Vua Chiêm cho người trà trộn vào nhân dân hai châu này để kích động nổi loạn. Dưới sự bảo trợ của vua Chiêm, các toán quân nhỏ người Chiêm Thành bắt đầu thực hiện các vụ cướp bóc, bắt cóc người vùng biên giới. Những sự việc này bị triều đình Đại Việt phát giác, khiến vua Jaya Sinhavarman IV bị xem như kẻ phản trắc trong mắt vua tôi nhà Trần. Nhận thấy rằng khả năng bùng phát xung đột sắp xảy ra, Đoàn Nhữ Hài đã ngầm bày mưu trước để giành sẵn lợi thế. Khi trại chủ Câu Chiêm nước Chiêm Thành đi sứ sang Đại Việt, Đoàn Nhữ Hài bấy giờ giữ chức Tri khu mật viện sự đã tranh thủ bắt liên lạc và mua chuộc người này làm nội ứng cho Đại Việt.
Rốt cuộc đến đầu năm 1312, vua Trần Anh Tông ngự giá thân chinh đi đánh Chiêm Thành sau nhiều toan tính và chuẩn bị. Hoàng thái tử Trần Mạnh được giao chức Giám quốc, cùng với Chiêu Văn đại vương Trần Nhật Duật chỉ huy quân tả hữu Thánh Dực ở lại trấn giữ kinh thành, trông coi việc nước. Khi quân đoàn quân viễn chinh đến châu Lâm Bình, vua chia quân làm ba đạo. Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn dẫn quân theo đường núi. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư chỉ huy thủy quân đi đường biển. Vua Trần Anh Tông dẫn trung quân theo đường ven biển hành quân bộ vào đất Chiêm Thành, có Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đi cùng với vua. Đoàn Nhữ Hài được giao chức Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước để lo việc địch vận. Cánh quân của vua Trần Anh Tông tiến nhanh, đến trại Câu Chiêm thì dừng quân lập ngự doanh. Ở trong quân, Minh Hiến vương Trần Uất khi trò chuyện với binh sĩ thì bày trò biện bác, làm ảnh hưởng đến lòng quân. Vua Trần Anh Tông biết chuyện, sai đuổi khỏi doanh trại và lệnh các quân không được thu nhận. Minh Hiến vương phải ngủ ngoài đồng cùng vài gia nô. Phạm Ngũ Lão biết được, bèn mời vào doanh của mình và nói với mọi người: “Thánh thượng vừa quở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt được, thì chúng nói là bắt được hoàng tử, chứ biết đâu là bị vua quở trách ! Ngũ Lão thà chịu tội trái lệnh, chứ không nỡ làm lợi cho giặc”.
Do đã có giao ước từ trước, trại chủ Câu Chiêm đã không chống trả. Đoàn Nhữ Hài cho người đến truyền tin, yêu cầu người trại chủ ấy dụ hàng vua Chiêm. Người trại chủ vào kinh thành Vijaya báo lại với vua Jaya Sinhavarman IV về việc đó. Lúc này thế lực quân Đại Việt quá vượt trội. Vua Jaya Sinhavarman IV biết khó chống nổi, bèn thuận theo lời dụ và đem gia thuộc đi đường biển đến doanh của vua Trần Anh Tông để đầu hàng. Bấy giờ thủy quân của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư tiến nhanh nên đã gần đến trung châu nước Chiêm Thành. Khi hay tin vua Chiêm đi thuyền ngược lên phía bắc đầu hàng, Khánh Dư bán tín bán nghi nên dẫn quân đuổi theo phía sau. Đoàn Nhữ Hài biết tin liền tức tốc chạy trạm báo tin cho vua Trần Anh Tông rằng: “Khánh Dư có ý chực cướp thiên công [tức cướp công vua] ”. Vua Trần Anh Tông cho rằng Trần Khánh Dư cố tình đuổi đánh kẻ đã đầu hàng nên rất tức giận, sai sứ bắt giám quân của Khánh Dư là Nguyễn Ngỗi đem chặt chân. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư rất sợ hãi, tự mình đến ngự doanh tâu với vua: “Tôi sợ ở biển, chúa Chiêm lại có ý nghĩ gì thay đổi chăng, nên phải theo sát đằng sau.” Vua nghe lời tâu mới nguôi giận.
Trong cuộc hành binh đánh Chiêm Thành lần này, hai cánh quân đi đường ven biển và đường biển luôn tiến nhanh hơn cánh quân đi đường núi do địa hình thuận lợi. Khi vua Chiêm Thành đầu hàng rồi, Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn vẫn đang dẫn quân tìm đến ngự doanh. Vua Trần Anh Tông muốn nhanh chóng xong việc, nên đã không chờ đợi Trần Quốc Chẩn đến hội quân mà sai chia quân đi tuần các xứ để chiêu dụ người Chiêm. Lực lượng quân Đại Việt do đó mà dàn mỏng ra. Lúc ấy mặc dù vua Jaya Sinhavarman IV đã ra hàng, những một bộ phận quân dân Chiêm Thành vẫn muốn tiếp tục chiến đấu. Họ đã tập họp lại, lập kế hoạch đánh úp cánh quân của vua Trần Anh Tông. Một hôm, quân Chiêm Thành với sự yểm hộ của tượng binh tiến đánh thẳng vào ngự doanh của vua Đại Việt. Khi nghe tiếng voi đến gần, quân của nhà vua có phần lo sợ, nao núng. Lúc ấy thì quân của Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn kịp kéo đến hộ giá. Đoàn quân này có nòng cốt là gia binh từ Vạn Kiếp, kế thừa danh tiếng lừng lẫy và binh pháp của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn khi xưa. Quân Chiêm nhác thấy cờ hiệu của Huệ Vũ vương đã rất khiếp sợ, bỏ chạy tan tác cả.
Sau trận này, quân Đại Việt coi như đã toàn thắng. Nhưng với tiềm lực đương thời, Đại Việt vẫn chưa đủ sức áp đặt nền đô hộ trực trị lên Chiêm Thành mà không chịu nhiều rủi ro lớn. Vả lại, danh nghĩa xuất quân ban đầu là trừng phạt vua Jaya Sinhavarman IV đã “phản trắc” (chỉ việc nuôi chí đòi đất và cho quân đánh phá biên giới). Vua Đại Việt không thể bất chấp uy tín mà chiếm đóng Chiêm Thành, trong bối cảnh hai nước vừa mới kết thông gia ít lâu. Rốt cuộc, vua Trần Anh Tông quyết định phong cho Chế Đà A Bà Niêm, người em cùng cha khác mẹ của Jaya Sinhavarman IV chức Á hầu. Việc phong tước này mang ý nghĩa khẳng định lại muốn quan hệ nước lớn - chư hầu giữa Đại Việt với Chiêm Thành, trong đó Chiêm quốc đã phải chịu lùi thêm một bước khi mà giờ đây vua của họ chỉ còn mang tước hầu. Nhưng điều tốt lành là vua Việt vẫn để cho vẫn cho Chế Đà A Bà Niêm tự cai quản lấy đất nước. Vị “Á hầu” này dù phải nhận tước của Đại Việt, nhưng thực tế vẫn duy trì được quyền tự chủ về đối nội cho Chiêm Thành. Còn vua Jaya Sinhavarman IV thì bị bắt phải sang sống lưu vong ở Đại Việt. Sau khi về nước, vua Trần Anh Tông phong cho ông là Hiệu Trung vương, rồi đổi thành Hiệu Thuận vương, bị giam lỏng ở cung Gia Lâm đến cuối đời.
Cuộc viễn chinh kết thúc với phần thắng giành cho quân Đại Việt. Nhưng khi đoàn quân chiến thắng của vua Trần Anh Tông trở về bằng đường thủy đã gặp việc không ngờ. Tháng 6.1312 (Âm lịch), khi đoàn chiến thuyền về đến sông Thâm Thị (đoạn sông Hồng gần Hà Nội ngày nay) thì thình lình gặp phải gió lốc mù trời. Thuyền ngự của vua Trần Anh Tông bị đứt quai chèo, dây buộc và chìm giữa dòng nước. Nhà vua cố trèo lên phía mũi thuyền, đưa chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy rồi tất cả cùng trèo lên mui thuyền. Nhờ vậy mà vua Trần Anh Tông thoát nạn và còn cứu được các nữ nhân kề cận. Những thuyền khác thì đều dạt sang bãi cát. Sau khi gió lốc qua đi, vua truyền sửa sang lại nghi trượng mà về. Đến kinh thành, giáp trụ và khí giới của nhà vua đều ướt sũng.
Lần thân chinh đánh Chiêm Thành này của vua Trần Anh Tông tính từ lúc xuất quân đến khi xa giá về kinh mất chừng nửa năm. Tính ra quân Đại Việt chỉ hành quân, chiêu dụ và thị uy mà khiến quân Chiêm Thành tan tác, từ đầu chí cuối không mất một mũi tên. Công đầu thuộc về Đoàn Nhữ Hài, với những kế sách ly gián, mua chuộc nội bộ đối thủ quá cao tay. Kể từ cuộc chiến này trở đi, nước Đại Việt tiến thêm một bước trong việc giữ vững những phần đất mới sáp nhập và có thêm tiền đề cho những đợt “tàm thực” (tằm ăn dâu) tiếp theo để mở mang bờ cõi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét