Thứ Hai, 10 tháng 6, 2019

Hoàng Diệu và thanh gươm để lại

Hoàng Diệu (1829 - 1882) xuất thân trong một gia đình khoa bảng hàng đầu của Quảng Nam. Ông đã hy sinh khi chiến đấu bảo vệ thành Hà Nội, để lại cho đời sau khí phách và lòng yêu nước tuyệt vời cùng với thanh gươm mà ông mang theo khi tuẫn tiết ở Võ miếu. Về sau, người chắt nội của ông đã mang thanh gươm báu này đi giành chính quyền ở Hội An trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Gia đình khoa bảng hàng đầu
Chân dung Hoàng Diệu.
Chân dung Hoàng Diệu.
Tộc Hoàng ở làng Xuân Đài, Điện Bàn (nay là làng Xuân Đài, xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn) là một trong những gia tộc khoa bảng hàng đầu của “đất học” Quảng Nam, với một phó bảng và 5 cử nhân. Cụ Hoàng Văn Cự và bà Phạm Thị Khuê tuy xuất thân là một hương chức, làm ruộng nhưng các con cụ có nhiều người đỗ đạt. Trong số 7 người con trai thì một người mất sớm, sáu người còn lại đều đỗ đạt gồm một phó bảng, ba cử nhân và hai tú tài.
Hai người con lớn của cụ là Hoàng Kim Giám và Hoàng Kim Tích (sau đổi thành Hoàng Diệu) đều đỗ cử nhân trong khoa thi năm 1848. Hoàng Kim Giám không ra làm quan mà ở nhà dạy học, phụng dưỡng mẹ già và nuôi các em ăn học. Hoàng Diệu (Hoàng Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai) sau đó đỗ phó bảng (khoa thi năm Quý Sửu, 1853) và trở thành một danh sĩ hàng đầu của đất Quảng.
Hai người em đỗ cử nhân sau đó là Hoàng Kim Bảng và Hoàng Vỹ (Hoàng Chấn). Hoàng Kim Bảng đỗ cử nhân năm 1861 từng giữ chức Đốc học Quảng Ngãi, Án sát Quảng Bình, Hà Tĩnh; còn Hoàng Vỹ đỗ cử nhân năm 1870 làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Năm 1882, khi Hoàng Diệu tuẫn tiết ở Hà Nội, Hoàng Vỹ đưa linh cữu anh về quê an táng, sau đó xin ở nhà phụng dưỡng mẹ già. Một thời gian sau ông được cử giữ chức Đốc học Quảng Nam. Ông bị bức tử năm 1916 sau cuộc khởi nghĩa bất thành của vua Duy Tân.
Đến đời thứ hai, hai người con của Hoàng Kim Bảng đều đỗ cử nhân: Hoàng Đống, đỗ khoa Đinh Dậu, 1897 và Hoàng Dương, đỗ cử nhân khoa Bính Ngọ, 1906. Đó là chưa kể một người con rể của Hoàng Diệu là Phan Trân (cha Phan Khôi) cũng đỗ phó bảng, khoa Ất Mùi, 1895. 
Sang thời Tây học, tộc Hoàng cũng có nhiều người đỗ đạt và thành danh. Nhiều người cháu nội Hoàng Kim Bảng (gọi Hoàng Diệu là “ông nội bác”) đều là những giáo sư đầu ngành rất nổi tiếng, như: Hoàng Phê (Ngôn ngữ học), Hoàng Quý (Vật lý học), Hoàng Kiệt (Mỹ thuật), Hoàng Tụy, Hoàng Chúng (Toán học).
Huynh đệ đồng khoa
Khoa thi Hương năm 1848 tại trường thi Thừa Thiên, Tham tri Bộ Binh là Hoàng Tế Mỹ làm Chánh chủ khảo, Biện lý Bộ Lễ là Phan Huy Thực làm Phó chủ khảo. Khoa này có hai học trò người Quảng Nam dự thi và cùng đỗ cử nhân. Khi xem lại bài thi của các thí sinh thi đỗ, hai vị chánh, phó chủ khảo vô cùng bối rối vì hai bài thi có nhiều luận điểm giống nhau, lại là bài thi của hai anh em ruột. Sợ quá, hai vị bèn tâu lên Bộ Lễ và vua Tự Đức. Thấy vậy, nhà vua cho tổ chức phúc khảo và sát hạch riêng từng người, mỗi người ngồi một phòng riêng ở Tả vu và Hữu vu trong điện Cần Chánh (Đại nội Huế). Sau khi xét duyệt bài phúc khảo, nhà vua phê: “Văn hành công khí, quý đắc chân tài; huynh đệ đồng khoa, thành vi mỹ sự”, nghĩa là “sự hành văn là việc chung, cốt để chọn chân tài; hai anh em cùng đỗ một khoa đó là điều tốt đẹp”. Hội đồng giám khảo vui mừng, thở phào nhẹ nhõm. Thời đó, thi cử rất nghiêm ngặt, không khéo bị vạ oan.
Hai anh em ruột người Quảng Nam cùng đỗ cử nhân khoa thi đó một người tên là Hoàng Kim Giám, 22 tuổi; một người tên là Hoàng Kim Tích, tức Hoàng Diệu, 19 tuổi. May cho anh em Hoàng Diệu, gặp được một hội đồng giám khảo tài năng, dũng cảm và ông vua hay chữ lại rất công tâm trong việc thi cử.
Thanh gươm để lại
Con đường khoa cử của Hoàng Diệu khá suôn sẻ nhưng hoạn lộ thì lại nhiều gập ghềnh, mặc dù làm đến Thượng thư, Tổng đốc nhưng cũng bị giáng chức ba lần vì vạ lây. Từ nhỏ anh em ông đã được hưởng nền giáo dục gia đình rất tốt. Chuyện kể, khi làm quan ông có gửi về tặng mẹ một tấm áo lụa. Mẹ ông đã gửi trả lại kèm theo một chiếc roi dâu, hàm ý khuyên con phải thanh liêm, coi việc nước trên việc nhà. Đại Nam chính biên liệt truyện viết về ông: “là người tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ của bậc đại thần” (Nxb Thuận Hóa, 1995).
Mộ Hoàng Diệu ở làng Xuân Đài, Điện Bàn.
Mộ Hoàng Diệu ở làng Xuân Đài, Điện Bàn.
Năm 1880, Hoàng Diệu nhậm chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình) giữa lúc thực dân Pháp dã tâm muốn chiếm Bắc kỳ, còn triều đình Huế thì nhu nhược tiến thoái lưỡng nan. Trước khi đi nhậm chức ông về quê thăm mẹ, có ghé làng Đông Bàn thăm Phạm Phú Thứ, lúc này đang về nghỉ dưỡng ở quê. Hai ông đã đàm đạo về thời thế suốt một buổi sáng. Trước khi chia tay hai vị quan đầu triều đã vái lạy tạ từ nhau. Là hai người hiểu rõ thời thế hơn ai hết, cử chỉ ấy sau này được xem như lời chào vĩnh biệt!
Đến Hà Nội, ông vỗ an dân chúng, tập trung bố phòng chống giặc. Việc làm này được thân sĩ Hà Nội ủng hộ nhưng lại bị triều đình quở trách. Ngày mùng 8 tháng 3 (25.4.1882), Henri Rivière gửi tối hậu thư buộc phải giao thành. Trước thái độ ngang ngược của giặc, ông cho người đi thương lượng nhưng lại chuẩn bị để quyết chiến. Không đợi trả lời, H. Rivière ra lệnh công phá thành. Ông chỉ huy quân sĩ chống trả đến phút cuối cùng. Tướng sĩ dưới trướng lớp bị thương vong, lớp bỏ trốn theo giặc, ông chạy vào Võ miếu cùng với mười lính hầu, trong tay chỉ còn một thanh gươm. Ông viết biểu dâng về triều rồi lấy khăn buộc lên một cây táo thắt cổ tự vẫn để khỏi rơi vào tay giặc.
Nghe tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, sĩ dân Hà Nội rất thương tiếc và ngày hôm sau đã đưa thi hài ông về mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học Hà Nội. Gần nửa tháng sau, khi đang làm cỏ lúa gieo trên cánh đồng làng, bà Hoàng Diệu mới nhận được tin chồng tuẫn tiết ở Hà Nội. Bà đã ngất xỉu trên bờ ruộng. Chồng làm quan đến Thượng thư, Tổng đốc đại thần, vợ lại không xênh xang lên xe xuống ngựa mà chỉ là một nông dân bình thường, thật là một điều hiếm thấy xưa nay.
Về sau, hài cốt của ông được đưa về an táng giữa cánh đồng lúa xanh ngát của quê mẹ. Hiện nay lăng mộ của ông đã qua nhiều lần trùng tu, được công nhận di tích văn hóa lịch sử quốc gia. Ông chẳng để lại tài sản gì cho con cháu, ngoài phẩm chất, khí phách tuyệt vời của một nho sĩ và một thanh gươm báu. Tất cả đã được con cháu tộc Hoàng lưu giữ như một thứ gia bảo “truyền tử lưu tôn”. Năm 1945, người chắt nội của ông đã mang thanh gươm ấy đi giành chính quyền ở Hội An trong Cách mạng Tháng Tám.
LÊ THÍ

Hậu duệ Tổng đốc Hoàng Diệu 

Ký ức về vị anh hùng
Hơn 100 năm đã qua kể từ ngày Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, không rõ hậu duệ của người anh hùng dân tộc giờ ra sao… Băn khoăn đó khiến chúng tôi cất công đi tìm câu trả lời.
Thật may mắn, trong một lần tình cờ đi cùng nhà thơ Nguyễn Tam Phù Sa, tôi đã gặp được người cháu 4 đời của tướng quân Hoàng Diệu. 
Dáng người cao thanh mảnh, ông Hoàng Văn Hoa gợi nhớ đến hình ảnh những nho sinh ngày xưa. Trong căn nhà nhỏ của gia đình ông tại chung cư trên đường Bạch Vân (quận 5, TP.Hồ Chí Minh), nơi bàn thờ gia đình, phía trên cùng treo di ảnh Hoàng Diệu. Nhìn bức ảnh chụp chân dung cụ Hoàng Diệu rồi nhìn sang ông Hoa, điều dễ nhận ra là đôi mắt sáng tinh anh và chiếc mũi cao, dài của ông rất giống cụ cố Hoàng Diệu. Ông Hoa là con út trong gia đình có 8 người con. Bố ông tên là Hoàng Văn Kiểm, cháu đích tôn của cụ Hoàng Diệu. Cụ Kiểm là con cụ Hoàng Tuấn, con trưởng của tướng công Hoàng Diệu. 
alt
Ông Hoàng Văn Hoa bên bàn thờ gia đình, phía trên cùng treo di ảnh cụ cố Hoàng Diệu.Ảnh: V.THỊNH
Những hồi tưởng được ông Hoa lần giở như một cuốn sử “sống” về vị tướng anh tài… 
Giai thoại 
Tổng đốc Hoàng Diệu người làng Xuân Đài, Điện Bàn, sinh ngày 10-2-1829 (năm Kỷ Sửu) trong một gia đình nho học. Thân sinh ông là Hoàng Văn Cầm (1799-1856), thường gọi là ông Hương Huệ, thân mẫu là bà Phạm Thị Khuê (1803-1892). Hai ông bà tần tảo làm ruộng, nuôi tằm lo cho các con ăn học. Các anh em ông Hoàng Diệu đều đỗ đạt trong các kỳ khoa cử đầu Tự Đức: 1 phó bảng, 3 cử nhân, 2 tú tài. 
Năm 16 tuổi, Hoàng Diệu đã nổi tiếng văn tài. Năm 20 tuổi, ông đỗ cử nhân cùng với anh ruột là Hoàng Kim Giám. Bài vở hai ông hơi giống nhau khiến viên chủ khảo nghi ngờ trình lên vua Tự Đức. Vua Tự Đức hạ chiếu cho các quan giám khảo cho hai anh em ông Hoàng Diệu phúc hạch trong 3 ngày tại điện Cần Chánh. Sau khi xem quyển (bài thi), vua Tự Đức khen rằng: “Văn hành công khí, quý đắc nhân tài, huynh đệ đồng khoa, thành vi mỹ sự”. Nghĩa là: "Văn chương là việc chung, cốt để chọn chân tài; anh em đồng khoa thật là việc tốt" . 
Năm 25 tuổi, trong khoa thi Hội 1851, Hoàng Diệu đỗ phó bảng và được bổ làm Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định). Trải qua nhiều lần thăng giáng, ông được bổ nhiệm một số chức vụ quan trọng, như Tham tri Bộ Hình, Tham tri Bộ Lại kiêm Đô sát viện, Tổng đốc An Tĩnh, Phó toàn quyền đại thần đàm phán với sứ thần Y Pha Nho (Tây Ban Nha), Thượng thư Bộ Binh… Suốt đời làm quan ông nổi tiếng là người thanh liêm thẳng thắn, hết lòng vì dân vì nước. Dân thời ấy thường truyền tụng rằng đời riêng ông hết sức thanh bạch, trong nhà không có tiền bạc.
Sống chết cùng Hà thành
Tình hình Bắc kỳ căng thẳng, vua Tự Đức trao cho ông chức Tổng đốc Hà Ninh, coi giữ vùng trọng yếu Hà Nội - Ninh Bình - Hà Nam. Với trọng trách lớn, ông ý thức được những khó khăn vô bờ bến. Năm 1882, thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc, ông nghi ngờ lắm. Một mặt ông phái Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp, mặt khác ông lo chỉnh đốn lại thành trì và quân ngũ để đề phòng. Sau đó, viện nhiều cớ khác nhau, Henri Rivière cho tàu chiến cùng 4.000 quân ra đóng tại Đồn Thủy (trên bờ sông Hồng Hà phía đông nằm sát Hà Nội) và cho quân lính quấy rối… 
Trước cái chết khí tiết của Hoàng Diệu, các giới sĩ phu, văn thân và nhân dân Bắc Hà và cả nước khâm phục thương tiếc. Tôn Thất Thuyết có đôi câu đối ca ngợi Hoàng Diệu: "Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện/Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm". (Tạm dịch: Một cái chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước;
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm). Câu đối này hiện khắc trên mộ cụ Hoàng Diệu tại làng Xuân Đài (Điện Bàn).
Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc táng. Sĩ phu Hà thành lập đền thờ ông ở phố Văn Tân, sau thờ chung với Nguyễn Tri Phương trong đền Trung Liệt trên gò Đống Đa.
Trước đó, Hoàng Diệu đã dâng sớ lên vua Tự Đức đề nghị việc phòng chống giặc. Theo ông, Hà Nội là yết hầu của Bắc kỳ và cũng là nơi then chốt của nước ta. Nếu Hà Nội mất thì các tỉnh khác sẽ mất theo, nhưng vua Tự Đức làm thinh. Khi Hà Nội bị uy hiếp, Hoàng Diệu xin triều đình Huế viện binh và ra lệnh giới nghiêm, thông báo các tỉnh đề phòng. Tuy nhiên, vua Tự Đức nghe theo phái chủ hòa ra lệnh triệt binh và mở cửa thành cho quân Pháp ra vào tự do, lại hạ chiếu quở trách… Tuy vậy, Hoàng Diệu vẫn quyết tâm sống chết với thành. Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực… cũng đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với thành. 
Câu chuyện Henri Rivière sau đó tấn công thành và Hoàng Diệu chỉ huy quân kháng cự rồi tuẫn tiết đã được chép rõ trong sử sách. Ở đây xin nhắc lại chi tiết làm sáng rõ bản lĩnh và nhân cách một vị tướng. Khi tình thế bất lợi, kho thuốc bốc cháy, nhiều tướng sĩ bỏ trốn, tướng quân Hoàng Diệu vẫn không nao núng.
Sau một hồi chiến đấu nhưng vô vọng, quân ta dần tan rã, cụ về dinh, nai nịt gọn gàng, mặc chiếc áo the thâm, tấm khăn nhiễu xanh chít lên đầu và dải dây lưng nhiễu hồng thắt ra áo ngoài, tay cầm thanh kiếm rồi lên mình voi xông trong mưa đạn tiến vào thành cung. Tại đây ông truyền lệnh: "Ai muốn về kinh thì về, còn ai muốn chiến đấu nữa thì lên Sơn Tây tập hợp với đại binh của Hoàng Kế Viêm chờ ngày báo phục". Khi mọi người giải tán, ông vào dinh viết bài di biểu tạ tội, rồi quay ra đi thẳng đến cửa Võ Miếu lật chiếc khăn đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây trước Võ Miếu, tuẫn tiết đúng vào giờ Ngọ, tức ngày 25-4-1882, thọ 54 tuổi.
Sáng mãi tấm gương trung nghĩa
Không chỉ có tướng quân Hoàng Diệu, nhiều con cháu trong gia tộc của cụ cũng là người trung liệt, anh tài và có nhiều đóng góp cho đất nước.

Dòng dõi anh tài
Qua lời kể của ông Hoàng Văn Hoa, chúng tôi biết thêm về dòng dõi, con cháu của cụ Hoàng Diệu. Theo ông Hoa, tướng công Hoàng Diệu còn có một người anh trai là Hoàng Kim Giám, chết năm 34 tuổi và không có con trai. Cụ Hoàng Diệu có ba người em trai là Hoàng Kim Bảng, Hoàng Bính, Hoàng Vỹ (sau đổi là Hoàng Chấn). Hoàng Kim Bảng đỗ cử nhân năm 1861, làm đốc học Quảng Ngãi, sau thăng làm Án sát Quảng Bình, Hà Tĩnh. Qua hai lần bị giáng chức vì liên lụy, nhưng vì có tiếng thanh liêm, giỏi giang nên cụ được phục chức. 
alt
Sau khi Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Hoàng Kim Bảng xin về quê nuôi dưỡng mẹ già và dạy học. Cụ Bảng mất năm 50 tuổi. Hoàng Vỹ, tức Hoàng Chấn, đỗ cử nhân năm 1870, làm Tri huyện Trực Ninh, Tri phủ Xuân Trường, Nam Định. Năm 1882, ông xin đưa linh cữu cụ Hoàng Diệu về quê an táng rồi lưu lại quê nhà phụng dưỡng mẹ. Năm 1885, khởi nghĩa Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng nhưng sau đó bị thất bại. Hưởng ứng lời kêu gọi khởi nghĩa, nhiều phong trào khởi nghĩa yêu nước đã nổi lên sau đó. Cụ Hoàng Vỹ tham gia phong trào Nghĩa hội, bị quân của Nguyễn Thân bắt và đốt cháy. Riêng người em Hoàng Bính cũng đỗ tú tài… 
Trong dòng họ Hoàng này, ngoài những tấm gương nhân tài, trung liệt kể trên, theo lời của ông Hoàng Văn Hoa, đời sau của tướng công Hoàng Diệu còn có nhiều bậc trung liệt khác. Đó là cụ Hoàng Tuấn, con trai trưởng tướng công Hoàng Diệu, ông nội của ông Hoàng Văn Hoa. Hoàng Tuấn nối nghiệp cha, thông minh học giỏi, có tài văn chương. Năm 25 tuổi thi đỗ tú tài, ra làm quan. Đến năm Thành Thái thứ hai, ông xin về quê nuôi dưỡng mẹ già. Ông Hoàng Tuấn là con rể của cụ Phạm Phú Thứ, một đại thần triều Nguyễn, nhà canh tân lớn thời bấy giờ. 
Em trai ông Hoàng Tuấn là Hoàng Hiệp, tinh thông văn học, am tường lý số. Tuy không theo đường quan lộ, nhưng ông cũng là người yêu nước, giao du với nhiều chí sĩ, lo kinh tài cho phong trào Nghĩa hội. Cụ thân sinh ông Hoa, ông Hoàng Văn Kiểm, cũng là một người yêu nước, tham gia trong Hội Liên thành. Ông Kiểm còn là nhà canh tân kinh tế trong vùng, giúp phát triển thủy lợi, canh nông cho dân làng.
Em ông Kiểm là ông Hoàng Phò làm nghề y, cũng là một người có lòng trung nghĩa hiếm thấy. Tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương, ông Phò được bố trí làm việc ở bệnh viện Huế, sau đó được điều vào làm Giám đốc Y tế tỉnh Quảng Ngãi. Ở đây, ông đã dùng súng bắn chết cọp, trừ hại cho dân quanh vùng.
Bên nhánh ông Hoàng Kim Bảng (em ruột của Hoàng Diệu) cũng có nhiều người xuất chúng. Ông Hoàng Ky là con ông Bảng, gọi Hoàng Diệu bằng bác ruột. Ông Ky từng làm quan nhà Nguyễn thời vua Duy Tân, Khải Định, được thăng chức Thị giảng học sĩ. Con của ông Ky là những người rất nổi tiếng trong giới học thuật, như Hoàng Phê, Hoàng Tụy, Hoàng Quý, Hoàng Chúng…
Gương sáng soi chung
Theo lời ông Hoàng Văn Hoa, hiện ở TP. Hồ Chí Minh có nhiều hậu duệ của cụ Hoàng Diệu sinh sống. Đó là gia đình hai người chị gái của ông. Ngoài ra còn có con trai của anh ruột ông là tiến sĩ Hoàng Lan (con ông Hoàng Tầm),  nguyên Trưởng khoa Vật lý trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, nay là trường Đại học Khoa học tự nhiên. Ông Hoàng Lan đã nghỉ hưu và chuyển ra Đồng Nai sinh sống. 
Ý chí “sát thân thành nhân”
Tại khu lăng mộ cụ Hoàng Diệu hiện nay (ở làng Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn), văn bia có đoạn viết: “… Sĩ phu Hà thành làm nhiều thơ văn ca ngợi chí khí hiên ngang, anh hùng bất khuất của ngài, mạt sát những đồng liêu của ngài đã hèn nhát đào nhiệm. Với ý chí “sát thân thành nhân” cùng tinh thần “thung dung tựu nghĩa”, ngài là nhà chí sĩ chân chính nhất, nêu gương chói lọi nhất trong giai đoạn đen tối nhất của thời cuộc bấy giờ”.             
                                                                                                    P.V
Trong gia tộc của cụ Hoàng Diệu, noi gương và tiếp bước truyền thống hiếu học, trung nghĩa của tổ tiên, có rất nhiều người học giỏi, thành danh. Họ đã có nhiều đóng góp cho đất nước ở các lĩnh vực, từ khoa học đến quân sự… Bản thân ông Hoàng Văn Hoa cũng từng là một người lính quân y, rồi chuyển ngành qua làm Đài Phát thanh giải phóng ở Hà Nội. 60 tuổi Đảng, ông Hoa từng được phong tặng nhiều huy hiệu cao quý. Bản tính khiêm nhường, ông luôn từ chối khi có người muốn viết về mình… Trả lời câu hỏi của chúng tôi về phẩm chất nổi bật trong gia tộc, ông nói:  “Gia tộc tôi nhiều thế hệ đều sống thanh bạch, liêm khiết và cương trực. 
Tôi nghiệm thấy, trong dòng họ sau cụ Hoàng Diệu, nhiều người đều đi dạy hoặc làm nghề y để phụng sự xã hội”. Dòng máu văn thơ của gia tộc vẫn truyền lưu trong ông nên khi về hưu, ông tham gia CLB thơ Hàm Tử của quận 5, TP. Hồ Chí Minh. Thơ ông giản dị mà sâu lắng, ý nghĩa dồi dào. Trong tập thơ “Mười lăm năm” của Câu lạc bộ thơ Hàm Tử, vẫn là một tấm lòng trung trinh với đất nước ẩn hiện trong thơ ông: “Thời nô lệ đau lòng dân mất nước/ Ngót trăm năm tủi nhục với căm hờn / Sông núi cắt chia, đau thương tang tóc…” (Mốc son chói lọi). 
Giống cha mình, con trai ông là anh Hoàng Xuân Ninh - Trung tá, trưởng Công an phường 7, quận 10, TP. Hồ Chí Minh - cũng rất khiêm tốn. Anh sinh ra ở Hà Nội, tuổi ấu thơ gắn bó nhiều với phố phường của thủ đô văn hiến. Thuở nhỏ đi học qua con đường Hoàng Diệu, anh vẫn không biết đó là ông cố của mình! Sau này lớn lên mới được nghe cha kể lại. Khi vào ngành công an, anh vẫn tâm niệm noi gương tổ tiên, sống liêm khiết, trung thực. “Tấm gương của cụ Hoàng Diệu để lại cho tôi nhiều bài học quý báu, đó là sự trung thực, thẳng thắn, lo cho dân, bảo vệ dân, chống lại cái xấu” - anh Ninh tâm sự.
NGUYỄN VĂN THỊNH

Gặp hậu duệ Tổng đốc Hoàng Diệu


Chúng tôi vừa gặp được hậu duệ của cụ Hoàng Diệu - vị tổng đốc trung liệt xứ Quảng - ở tận Biên Hòa (Đồng Nai) với những kỷ niệm khó quên của thời chiến…
Xếp bút nghiên…
Ông Hoàng Lan (sinh năm 1943) là hậu duệ đời thứ 4. Cha ông là Hoàng Tầm (cháu nội cụ Hoàng Diệu), mẹ ông là con gái bác sĩ Lê Đình Thám - Chủ tịch Liên khu 5 thời chống Pháp. Ông từng giữ chức Trưởng khoa Vật lý, trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh. Hồi nhỏ, ông theo cha mẹ đi nhiều nơi, nhưng chủ yếu sống ở Hà Nội. Sau 3 năm học ngành vật lý ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hoàng Lan (lúc đó có tên khai sinh là Hoàng Dũng) được giữ lại học thêm  một năm. Ông là một trong số 8 sinh viên được cố giáo sư Nguyễn Đình Tứ từ Dupna (Liên Xô cũ) về hướng dẫn luận văn tốt nghiệp.
Ông Lan bên bàn thờ cụ Hoàng Diệu ở nhà mình. Ảnh: N.V.THỊNH
Ông Lan bên bàn thờ cụ Hoàng Diệu ở nhà mình. Ảnh: N.V.THỊNH
Theo lời ông Lan, nếu không có chuyện ông xung phong vào chiến trường miền Nam thì có lẽ ông đã là một nhà khoa học, vì sau đó giáo sư Tứ xin ông về làm việc tại Ủy ban Khoa học kỹ thuật hạt nhân ở 39 Trần Hưng Đạo (Hà Nội). Một năm sau ngày 30.4.1975, trong  một chuyến công tác vào Sài Gòn, giáo sư Tứ cũng tiếp tục đi tìm ông. Nhưng lúc ấy, không ai biết Hoàng Dũng - người mà giáo sư tìm, vì khi tập trung huấn luyện đi B ai cũng phải đổi tên, và Hoàng Dũng đã đổi thành Hoàng Lan. “Dù sao thì cái tình thầy trò của thầy Tứ thật hiếm có, và đó là cơ hội cuối cùng để tôi có thể làm đúng sở nguyện của mình nhưng đành bỏ lỡ” - ông Lan tâm sự.
Trở lại những ngày đầu xung phong vào chiến trường miền Nam. Vào đến miền Nam, do tình hình chiến trường thay đổi, ông được biệt phái sang quân đội về một đơn vị ở ATK (an toàn khu), ở đó hầu hết bộ đội là thanh niên nông thôn Nam Bộ. Với vai trò trợ lý văn hóa, hằng đêm ông thức soạn bài chính tả từ những trang báo Quân giải phóng và tự soạn bài dạy toán từ dễ đến khó để hướng dẫn. Và cũng từ chiến trường, ông kết nối tình bạn đặc biệt với một đồng đội...
Tình hình chiến trường thay đổi theo từng mùa khô, ông cũng phải chuyển địa bàn và đơn vị liên tục. Thời gian công tác tại Phòng Chính trị Trung đoàn E70, ông ở chung với Phạm Xuân Phương. “Anh ấy học sư phạm Toán, đi B mang theo quyển  “Hình học xạ ảnh” của Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn. Còn tôi thì nhờ mua được  một quyển Từ điển Anh Việt bỏ túi của Lê Bá Kông, một quyển Truyện Kiều mang theo dọc Trường Sơn vừa đi vừa học thuộc từng đoạn. Hai đứa tôi tranh thủ mọi thời gian rảnh cùng học và giải bài tập. Phương quyết đi theo nghiệp Toán với thầy Toàn. Thấy tôi ham nhiều thứ, Phương khuyên: Chọn một thứ thôi, mày “theo” lung tung như vậy sẽ không đi đến đâu!” - ông Lan hồi tưởng.
Nhiều kỷ niệm khó quên ở chiến trường, nhưng có một chuyện khiến ông nhớ và ân hận mãi. Ông kể: “Đầu mùa khô 1966, giặc càn lên cứ, đó là trận càn Johnson City. Tôi đang trên đường đi công tác với chiến sĩ tên Thành quê Quảng Ngãi. Chúng tôi tới cơ quan Quân bưu nhận công văn thư tín về cho Phòng Chính trị trung đoàn, trong đó có bức thư của gia đình gửi cho Thành. Trưa hôm đó, hai đứa tấp vào một cứ cũ nấu ăn. Do xích mích, tôi chưa đưa thư cho Thành, cứ nghĩ khi về cơ quan đưa cũng chưa muộn. Ai ngờ trên đường về, khi đi qua suối cạn, Thành bị pháo chụp và chết trên tay tôi. Tôi ân hận suốt đời! Một lá thư từ Quảng Ngãi, có khi hàng năm mới đến nếu như không thất lạc...”.
Những năm 1967-1968, ông công tác tại Cục Tham mưu Miền, lo tiếp đón bộ đội chi viện từ Bắc vào, tổ chức giao cho các đơn vị quân giải phóng theo lệnh ở trên. Từ những con số, ông hình dung ngày càng rõ những đau thương, mất mát từ chiến tranh: “Sổ sách trong xắc-cốt tôi chi chít con số. Mỗi con số là một con người, một số phận… Một D chi viện vào đến chỗ tôi thường xé lẻ đi nhiều đơn vị ở nhiều chiến trường, có thể hầu hết họ không còn gặp lại nhau nữa, mà phần lớn họ là học sinh, sinh viên, giáo viên từ miền Bắc”.
Với con trai nhà văn Ngô Tất Tố
Trong số những chiến sĩ miền Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam, có con trai nhà văn Ngô Tất Tố. Ông Lan kể: “Hồi đó, tôi làm việc với một trợ lý quân lực D, tên Ngô Hải Cao. Anh vóc người nhỏ nhắn, có chiếc mũi khoằm trông ngồ ngộ. Hỏi chuyện, mới biết anh là con nhà văn Ngô Tất Tố. Anh mới ở trường Viết văn Nguyễn Du ra, xung phong đi B để có vốn sống. Tôi nảy ra ý định giữ Cao lại phụ tôi, mong anh không phải xông pha nơi hòn tên mũi đạn bởi chiến trường quá khốc liệt. Được chưa đầy 2 tháng, anh đoán được ý tôi, một mực đòi được ra trận trực tiếp cầm súng. Tôi không thể giữ anh ở lại thêm nữa... Sau giải phóng đến giờ, tôi không biết tin gì về anh, vẫn hy vọng anh còn sống và rất mong gặp lại”.
Giữa năm  1968, Hoàng Lan được điều về Dân chánh. Cuộc chia tay ở đơn vị thật lưu luyến. Ở Dân chánh, ông lại tiếp tục công tác bổ túc văn hóa cho nhân viên Ban Tuyên huấn R. Tình hình chiến tranh mở rộng ra toàn Đông Dương, ông sang công tác tổ chức  kiêm cả công tác bố phòng, chống biệt kích thám báo càn cho cơ quan với chức danh xã đội trưởng. Mùa khô 1970, cơ quan ông phối hợp với một C quân chủ lực đánh đuổi được bọn biệt kích vào sát căn cứ. Trận đánh đó, đơn vị ông bị tổn thương vài đồng chí... Giữa năm 1972, ông đi xuống Kiến Phong làm tuyên huấn, nắm tình hình, tập trung dân võ trang tuyên truyền, thậm chí binh vận với tay đồn trưởng bảo an Hồng Ngự... Sau 30.4.1975, ông trở về tham gia tiếp quản ngành giáo dục, sau đó đi học khóa cao học đầu tiên tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hai năm sau, ông được phân công về dạy học tại trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh cho đến khi nghỉ hưu...
Những năm công tác ở Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Hoàng Lan tham gia khóa nghiên cứu sinh trong nước đầu tiên của trường. “Sau 5 năm làm đề tài về Lý thuyết trường thống nhất, tôi thấy vượt quá sức, vì tinh lực hao mòn, đầu óc xơ cứng qua chiến tranh mà mình không hình dung hết. Tôi xin dừng nghiên cứu, dù thầy hướng dẫn động viên và cho gia hạn. Thực lòng, tôi quyết chí học là vì lời hứa với Phương, rằng đứa nào còn sống đến hòa bình phải học thay phần cho đứa nằm xuống dọc đường. Tôi tự thấy có cố gắng đấy, nhưng lỗi hẹn với bạn rồi. Nghiệm ra, tôi còn lỗi hẹn với bao người khác nữa” - ông Lan tâm sự. Nhưng ông bảo mình cũng có “chút tự hào nho nhỏ” do đã theo nghề vật lý suốt đời, và là người duy nhất trong đoàn đi Nam năm xưa “dám” quay lại với chuyên môn đúng nghĩa...
NGUYỄN VĂN THỊNH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét