Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2019

Huyền bí chuyện hiển linh lạ kỳ của danh tướng Đặng Dung

(Kiến Thức) - Đặng Dung là một danh tướng tài ba nổi tiếng thời Hậu Trần (1407 - 1414) không chỉ với những chiến công hiển hách mà còn bởi khí tiết sáng ngời và nỗi niềm cứu nước đau đáu khôn nguôi. Ít ai hay trong các giai thoại về ông, có câu chuyện hiển linh rất huyền ảo, lạ lùng.

Tháng 6 năm Đinh Hợi (1407) cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhà Hồ thất bại, một số quan lại cũ và những người còn tưởng nhớ đến nhà Trần đã tìm con cháu dòng dõi nhà Trần để mưu việc đánh giặc, phục quốc. Trong số đó có Trần Triệu Cơ ở đất Mô Độ xã Yên Mô, huyện Yên Mô (nay thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) đã tôn lập Trần Ngỗi lên làm vua, hiệu là Giản Định Đế, thật là:
Dòng Trần chưa dứt một dây,
Triệu Cơ còn rắp ra tay đồ hồi.
Lại phù Giản Định lên ngôi,
Cảnh Chân, Đặng Tất vua tôi hiệp tình.
Mở cờ đánh với quân Minh,
Phá đồn Cổ Lộng, đốt thành Bô Cô.
Ví hay nhân thế tràng khu,
May ra khôi phục cơ đồ cũng nên.
Trùng hưng cơ tự chưa bền,
Bỗng không đem kẻ tướng hiền giết đi.
Cho nên hào kiệt bạn li,
Cánh vây không có, còn gì mà mong.
(Trích: Đại Nam quốc sử diễn ca)
Đặng Dung (1373-1414) người xã Tả Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, châu Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) ban đầu theo cha là Đặng Tất phò vua Giản Định Đế lập ra nhà Hậu Trần, nhưng sau Giản Định Đế nghe lời xàm tấu đã giết cha của ông cùng với tướng Nguyễn Cảnh Chân. Giận vì cha mình chết oan nên Đặng Dung cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đem quân bản bộ bỏ đi rồi tìm lập cháu của Trần Nghệ Tông là Trần Quý Khoáng lên làm vua (tức Trùng Quang Đế) để tiếp tục đánh giặc Minh. Một thời gian sau hai lực lượng của họ Trần hợp nhất, Giản Định Đế được tôn lên làm Thái thượng hoàng cùng với Trùng Quang Đế:
Cùng nhau gánh việc gian nan,
Hạ Hồng tế ngựa, Bình Than đỗ thuyền.
Dựng cờ đại nghĩa chống ngoại xâm
Huyen bi chuyen hien linh la ky cua danh tuong Dang Dung
 (Hình minh họa – Nguồn: vinabooks). 
Tháng 7 năm Kỷ Sửu (1409) trong một trận đánh lớn, quân Minh bắt được Giản Định Đế đưa về phương Bắc giết hại. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Đặng Dung cùng các tướng càng dốc lòng, dốc sức giúp vua Trùng Quang Đế, lập nhiều công lao, nổi bật nhất là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tỵ (1413) ở khu vực sông Thái Già (còn gọi là Sái Già), theo Minh Sử thì trận đánh này xảy ra tại Ái Tử (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị), chút nữa bắt được chủ tướng của giặc là Trương Phụ.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của Phụ. Dung đã nhảy lên thuyền của Phụ và định bắt sống Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết”.
Sử thần thời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên có lời bình rằng: “Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không?. Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mới chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!”.
Do giặc Minh liên tục được chi viện, chúng vừa đánh vừa dùng nhiều thủ đoạn để mua chuộc người nên đã có một bộ phận nhát gan phản bội đất nước, tiếp tay cho giặc đàn áp càng mạnh hơn lực lượng của Trùng Quang Đế. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn viết:
Quân Minh chiếm giữ Bắc Kỳ,
Vua Trần lánh ở Nam thùy một nơi.
Đặng Dung, Cảnh Dị mấy người,
Thế cùng dù có tướng tài cũng thua.
Cuối năm Qúy Tị (1413) bắt được Trùng Quang Đế và các cận thần trong đó có Đặng Dung. Đến tháng 4 năm sau, giặc áp giải vua tôi nhà Hậu Trần về phương Bắc, “đến giữa đường vua nhảy xuống nước chết” (Việt sử tiêu án). Trong sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục cũng viết tương tự: “Tháng 4, mùa hạ. Trương Phụ đưa Đế Quý Khoáng sang Yên Kinh, chưa đến nơi thì Quý Khoáng mất, bình chương Đặng Dung, thái phó Nguyễn Súy đều chết theo”.
Huyen bi chuyen hien linh la ky cua danh tuong Dang Dung-Hinh-2
Mài kiếm dưới ánh trăng. (Hình minh họa – Nguồn: wordPress.com).  
Đặng Dung đã tuẫn tiết theo vua để giữ tròn khí tiết. Ông có để lại một bài thơ tên là Thuật hoài (có sách chép là Cảm hoài) bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú để tỏ rõ lòng yêu nước và khí phách của mình, được người đời sau truyền tụng, ca ngợi:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Nghĩa là:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
(Bản dịch của Phan Kế Bính)
Văn thần thời Hậu Lê là Lý Tử Tấn có nhận xét về tác giả bài thơ trên như sau: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (Nghĩa là: Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm được bài thơ này).
Sau khi Đặng Dung mất, nhớ đến vị dũng tướng tài ba, tiết liệt một số nơi đã lập đền thờ ông, trong đó có làng thuộc xã Yên Trị, phủ Kim Tông (có tên khác là Kim Trung) thuộc lộ Sơn Nam; sau này thuộc tổng Ngọc Chấn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam (nay là xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Vì bấy giờ đất nước đang trong ách đô hộ của ngoại bang, để che mắt giặc Minh nên người dân lập đền và thờ phụng Đặng Dung trên danh thờ một vị thủy thần với duệ hiệu Tam đầu cửu vĩ Bát hải Long vương. Sau này các triều đại có sắc phong, đặt thêm duệ hiệu khác nhưng duệ hiệu ban đầu vẫn được giữ nên nhiều người lầm tưởng vị thần được thờ là thủy thần.
Huyen bi chuyen hien linh la ky cua danh tuong Dang Dung-Hinh-3
Hình tượng Tam đầu cửu vĩ trong tín ngưỡng dân gian. (Hình minh họa – Nguồn: vanhienviet). 
Tại xã Ngọc Chấn thuộc tổng Ngọc Chấn, huyện Đại An có ngôi đền thờ Đặng Dung tương truyền rất linh ứng và cũng từ đây xuất hiện một câu chuyện lạ kỳ về ông. Trong sách Nam Định tỉnh địa dư chí của Nguyễn On Ngọc có viết về chuyện “Gió thần Ngọc Chấn” như sau:
“Xã này thờ tôn thần Giác Hải Long Vương thuỷ tề. Cúng gió cầu mưa thường linh ứng. Các triều trước liệt vào ngạch quốc tế. Thần làm gió làm mưa đều nổi gió bắc lên làm hiệu. Trong đền có câu đối: "Tằng kí hà niên thần kiếm hoá/Do truyền kĩ độ bắc phong lai". Vua Lê Thánh Tông đi dẹp Chiêm Thành qua địa phận thôn Uý Uy, nằm mơ thấy thần cho một cây gươm. Hôm sau sai người đào ở trong đền, qủa nhiên được cây gươm. Xa giá chỉ huy, hễ đi đến đâu là dẹp yên đến đó.
Đến bản triều [tức triều Nguyễn] ngày tháng bảy năm Canh Dần Thành Thái thứ 2 [1890], nước sông lên to. Bấy giờ có một chiếc hoả thuyền của quân Pháp đâm vào bến sông ở địa phận xã Thôi Ngôi, không ra được. Quan phủ sở tại bắt nhân dân các xã trong huyện hết sức lôi kéo, hơn một tháng trời phu dịch rất là vất vả, khó nhọc mà cũng không sao kéo ra được. Quan mới mật đảo với thần đền xã ấy, thì đến nửa đêm bỗng gió bắc nổi lên rất mạnh, hoả thuyền tự nhiên đi ra, nhân dân cả huyện mới tránh khỏi nạn lôi kéo.
Lại tục truyền rằng trước đền có một dải sông chảy ngang, hàng năm có những con cá lớn nhảy vọt trước đền, có khi hai, ba ngày mới dời đi nơi khác nhưng không làm hại gì cả”.
Cũng về câu chuyện hiển linh lạ kỳ này, trong sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược của Khiếu Năng Tĩnh, ở tiểu mục về “Thủy thần dị truyện” có viết rõ hơn:
“Thần vốn tên là Đặng Dung, thờ tại bờ sông Mờm thuộc xã Ngọc Chấn, tổng Ngọc Chấn, thần là tướng thời Hậu Trần, từng đóng quân chặn quân Minh và cứu thổ dân bị lụt lớn vỡ đê. Thần thác danh thủy thần, được vua Hồng Đức phong là Bát Hải Long vương bảo quốc hộ dân Đặng tướng quân thượng đẳng phúc thần, có lệ quốc tế, phàm cầu nắng cầu mưa cầu phúc giải tai đều linh ứng rõ rệt.
Thời Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ nhất [1470], vua tụ tướng đánh Chiêm Thành, qua đền mơ thấy thần dâng kiếm; mùa xuân năm sau thắng giặc trở về bèn ban tiền xây to đền. Thời Tự Đức khi Bắc thành trở thóc vào Huế, ban chiếu phong cho Đông Hải đại vương và Kim Tông thủy thần bảo vệ thuyền biển, khi thuyền đến chỗ đền Tiên Thanh Hoá, thần Kim Tông nổi bão đánh chìm hết, thần Đông Hải báo mộng cho Tự Đức, Tự Đức nổi giận sai quan về cưa chân nhang án chính vị, đem kê gạch để phạt tội.
Tháng 7 năm Thành Thái thứ 2 (1890) nước to đẩy hoả thuyền của người Pháp vào bãi, quan phủ Lê Huy Phan đốc người kéo không nổi, ông vào đền cầu đảo xin thần giúp đỡ cho dân khỏi vạ, nửa đêm thần nổi gió dâng nước đẩy thuyền ra sông.
Lại nói trước đền có quãng sông ngang, năm nào cũng có cá to đến trước đền, vùng vẫy có khi một ngày, có khi hai ba ngày mới đi mà không phá hại gì cả. Việc này hay vào ngày đại lễ hoặc khánh hạ, mấy năm gần đây thì không thấy nữa. Tới quãng năm Duy Tân có đôi lần tả đạo phỉ báng, vào ngày lễ rước thần, thần cho xoay kiệu chạy xéo tan hết lạc ngô để trừng phạt, do đó tả đạo cũng có phần nào nhụt bớt càn rỡ”.
Huyen bi chuyen hien linh la ky cua danh tuong Dang Dung-Hinh-4
 Đền thờ Đặng Dung ở xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. (Hình minh họa – Nguồn: namdinh.org.vn). 
Ngôi đền thờ danh tướng Đặng Dung ở Ngọc Chấn còn gọi là đền Cả, theo thần phả lưu giữ tại đền thì ông là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, lại có công chỉ huy nghĩa quân đắp đê ngăn lũ giúp nhân dân Kim Tông trong tai họa vỡ đê năm Tân Mão (1411) cứu vớt tài sản, ổn định đời sống.
Theo sách Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược thì trong thời gian ở Ngọc Chấn, danh tướng Đặng Dung có làm bài thơ nhan đề là: “Kim Tông quân thứ trung cảm tác” (Trong thuyền tại nơi đóng quân cảm tác):
Tinh kỳ nghiêm lập thủy lưu trường,
Thân ỷ thuyền lan vọng cố hương.
Dân tán quốc nguy thùy nhiệm trọng,
Binh cơ lợi độn vị năng lường!
Nghĩa là:
Cờ tinh nghiêm chỉnh nước trôi dài,
Quê cũ bên thuyền ngóng chờ hoài.
Dân tán nước nguy, ai gánh vác?
Việc quân thắng bại biết chưa rồi.
(Người dịch: Dương Văn Vượng)
Hàng lễ hội đền Cả ở Ngọc Chấn (xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) được tổ chức long trọng, đặc biệt là các nghi thức cầu đảo, cầu mùa màng tươi tốt, cầu cuộc sống yên bình và tiến hành rước kiệu. Ngoài ra dân làng còn tổ chức các hoạt động vui chơi như cướp cầu, leo cầu phao,… nhưng thu hút đông đảo người dân nhất chính là hội đua thuyền (bơi chải) vào tháng 3 âm lịch hằng năm nhằm diễn lại tích thủy chiến của danh tướng Đặng Dung trên sông Đáy tại chính nơi mà ông đã cùng binh sĩ trên đường đi đánh giặc đã dùng thuyền cứu vớt người, của cải và đắp đê quai chắn nước, cấp lương thực, dựng nhà cửa, cứu dân trong thảm họa vỡ đê, tái lập xóm làng.
Lê Thái Dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét