Trận chiến không thể quên
TTO - 158 năm trước, sáng sớm 24-2-1861, tướng Charner, chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha tại Sài Gòn, đã phát lệnh tấn công đại đồn Chí Hòa. Thế nhưng sử ta viết rất ít về trận chiến này và Chí Hòa nằm ở đâu nhiều người Sài Gòn cũng không biết.
Sau ba giờ tấn công, đồn Tiền thất thủ. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nã đại bác vào đại đồn và tấn công vào mặt chánh của đồn
Trận chiến diễn ra trong hai ngày 24 và 25-2-1861. Quân ta bại trận, gần 10.000 người chết và bị thương, chưa kể khí tài, tiền của và mất mát vô cùng lớn lao: gần 100 năm làm thuộc địa. Thế nhưng sử ta viết rất ít về trận chiến này.
Điều kỳ lạ hơn là Chí Hòa nằm trong lòng hay ven Sài Gòn, người Sài Gòn hôm nay hoàn toàn không biết chính xác! Nhiều tài liệu, bài viết về vị trí của địa danh này đều chưa chính xác!
Cứ điểm quân sự 10.000 quân
Tháng 10-1860, tướng Nguyễn Tri Phương được triều đình Huế cử vào Gia Định nắm quyền chỉ huy ở Nam Kỳ với quyết tâm đuổi kẻ thù ra khỏi đất nước.
Để chống lại liên quân Pháp - Tây Ban Nha đang chiếm cứ Sài Gòn từ đầu năm 1859, Nguyễn Tri Phương mở rộng đồn Chí Hòa thành một cứ điểm quân sự lớn với 10.000 quân chánh quy và hơn 20.000 quân nghĩa dõng, lính đồn điền gọi "đại đồn Chí Hòa".
Từ giữa năm 1860, liên quân Pháp - Tây Ban Nha cũng hình thành một phòng tuyến đối diện với quân ta chạy dài từ Sài Gòn vô Chợ Lớn; gọi là "phòng tuyến các chùa".
Bắt đầu là chùa Khải Tường (Pháp gọi là chùa Barbet, nay là khu vực Trường Lê Quý Đôn, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh), rồi chùa Ao (nay là khu vực Bộ Công an phía Nam), chùa Chuông (chùa Clochetons, khu vực plaza Hùng Vương và Trường Hùng Vương, quận 5) và cuối cùng là chùa Cây Mai (sau gọi là đồn Cây Mai).
Phòng tuyến này nhằm ngăn chặn quân ta từ phía ngoài xâm nhập hoặc tấn công ồ ạt vào nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn; đồng thời bảo vệ con đường xuất khẩu gạo của họ qua cảng Sài Gòn để lấy tiền nuôi chiến tranh.
Người trực tiếp tham gia cuộc chiến và chứng kiến đã ghi "Bảy mươi tàu và 100 ghe thuyền chuyên chở trong vòng bốn tháng 60.000 tấn gạo cho Hong Kong và Singapore, đem đến một số lời khổng lồ cho ta" (Léopold Pallu, Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, NXB Phương Đông 2008, trang 45, Hoang Phong dịch).
Trên phòng tuyến các chùa, Pháp cũng bố trí "3 ổ súng cối 80 li và hai dàn hỏa tiễn tấn công 125 li" (chùa Barbet), "4 khẩu đại bác của hải quân 30 li nòng có khía" (chùa Clochetons, tức chùa Chuông hay chùa Kiểng Phước), "một khẩu 30 nòng có khía và một ổ súng cối 80" (chùa Cây Mai - Pallu, sđd, trang 65).
Thám thính và tấn công
Đầu tháng 2-1861, từ Trung Quốc tới Sài Gòn, tướng Charner, người được Pháp giao toàn quyền giải quyết việc ở châu Á, đã lập tức đi thám thính, dò xét địa thế của đại đồn Chí Hòa. Charner sử dụng nhiều quân thám báo người Việt, Hoa.
Đồng thời sử dụng một phương tiện "hiện đại" thời bấy giờ là khinh khí cầu để nắm được bao quát hình thể đại đồn cũng như những vùng xung quanh đồn mà quân ta không hề hay biết.
"Sau khi quan sát và thấy rằng với phương tiện hết sức dồi dào của đạo quân viễn chinh hiện nay, Charner có thể đánh bọc hậu bất ngờ quân An Nam trong khi họ đang bận lo phòng thủ trước mặt và hai bên cánh" (L.Pallu, sđd, trang 53).
Sáng sớm 24-2, Charner ra lệnh tấn công. Sau nhiều loạt đại bác từ đồn Cây Mai, chùa Barbet, chùa Kiểng Phước là những nơi đặt đại bác hạng nặng, Charner xua quân tấn công đồn Tiền (Redoute hay đồn Mồ Côi) nằm án ngữ trước mặt đồn Cây Mai.
Sau ba giờ tấn công, đồn Tiền thất thủ. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nã đại bác vào đại đồn và tấn công mặt chánh của đồn.
Tối hôm đó, do đã nắm được các vùng đất xung quanh đồn, Charner cho một đạo binh kéo theo đại bác từ đồn Cây Mai đi vòng qua các làng Tân Thới, Bình Hưng lên Tân Sơn Nhì và đóng quân tại một vùng đất nay gọi là Gò Cát thuộc huyện Bình Tân.
Sáng hôm sau, từ Gò Cát (khu vực nhà hỏa táng Bình Hưng Hòa) quân Pháp kéo xuống Bà Quẹo và tấn công vào hậu đồn, trong khi đại bác vẫn cứ nã vào mặt tiền đồn.
L.Pallu mô tả đồn Hậu: "Mặt hậu tuyến của thành Chí Hòa có xây ụ phòng thủ nhô ra ở hai góc. Mặt hậu tuyến là một thành hẳn hoi, xây kín gọi là thành Giữa, dùng làm cổng sau cho cả doanh trại Chí Hòa; thành Giữa nằm trên đường ranh hậu tuyến.
Hai ụ phòng thủ hai bên và thành Giữa bảo vệ lẫn nhau. Tầm súng của địch trong thành có thể quét quân tấn công khi đến gần vùng ven biên, nơi mà quân ta phải xông vào, vùng ven biên được bảo vệ bằng hầm chông, hào và bàn chông trong khoảng rộng một trăm thước kể từ chân tường thành" (sđd, trang 90).
Thất trận
Liên quân dùng chiến thuật tiền pháo hậu xung, dù ít người nhưng vũ khí hiện đại hơn, khi đánh cận chiến thì súng dài lại có gắn lê trên đầu súng. Pháo thì phá vách thành và làm cho lính Việt hết hồn; thang dùng lướt qua các hầm chông; trái nổ (lựu đạn) vẹt các đám tre gai trồng bên ngoài đồn...
Dù "Quân An Nam có lợi thế hơn vì mặt trời chiếu thẳng vào mắt quân Pháp nhưng liên quân đã chiến thắng. Tất nhiên thiệt hại của liên quân không nhỏ với "300 người bị loại khỏi vòng chiến, 12 bị giết tại trận, nhiều người bị thương không cứu được" (sđd, trang 95).
Riêng trung úy hải quân Jouhaneau Laregnère (còn được biết với tên Etienne Laregnière) tử trận.
Người ta đã chôn binh lính trong một cái hố nằm giữa đồn Tả Hậu và tường thành của đồn Hữu, và chôn ông Laregnère ở nơi ông đã ngã xuống" (Hội Nghiên cứu Đông Dương, Chuyên khảo về tỉnh Gia Định, NXB Trẻ 2017).
Về phía quân ta thì tán lý Nguyễn Duy chết trận, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nơi tay và quân lính thì bị thương và chết vô số. Cho tới nay, chưa có tổng kết nào về thương vong của ta trong trận đại đồn Chí Hòa.
1.000 hay 10.000?
Ta nói mất khoảng 1.000 người, còn Pháp thì nói ta mất 10.000 người! Song phải thừa nhận rằng thương vong của trận chiến này không nhỏ và chúng ta đã thua không phải vì ý chí mà chính vì chúng ta chưa (hay không biết) thế giới đã tiến rất xa trong việc phát triển vũ khí.
Chính điều đó đã khiến đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Còn quân Pháp tràn vào đồn thì "quân An Nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch; trận chiến chấm dứt bằng một cảnh thảm sát cuối cùng" (sđd, trang 95)
Làng Chí Hòa ở đâu?
TTO - Sẽ có nhiều người buồn cười trước câu hỏi này. Bởi cái tên Chí Hòa, Kỳ Hòa vẫn hiện diện ở quận 10, giữa trung tâm thành phố. Thế nhưng, vẫn chưa có ai trả lời chính xác "làng Chí Hòa ở đâu?".
Nhiều trang mạng khẳng định rằng "vùng đất có đình, có nhà giam, có hồ Kỳ Hòa hiện nay chính là nơi Nguyễn Tri Phương xây dựng đại đồn Chí Hòa xưa". Nói vậy, thấy vậy nhưng chưa chắc vậy!
Các địa danh Chí Hòa
Ở TP.HCM hiện nay, có một số địa điểm mang tên Chí Hòa. Đó là đình Chí Hòa, nhà giam Chí Hòa, hồ Kỳ Hòa (phiên âm từ chữ người Pháp viết Kihoa, do họ không đọc được chữ Chí Hòa) thuộc quận 10, nhà thờ Chí Hòa ở quận Tân Bình...
Trước năm 1975 còn có nghĩa địa Chí Hòa (nay là công viên Lê Thị Riêng, quận 10), đoạn đầu máy Chí Hòa ở quận 3...
Chúng tôi đã cất công tìm kiếm trên thực địa lẫn trong tàng thư vẫn không tìm thấy cái tên "làng Chí Hòa" ở thế kỷ 19. Có nhiều địa danh đã chết, hoặc không nằm trong địa bạ song vẫn có đời sống riêng trong lòng dân chúng.
Có lẽ với suy nghĩ "đình ở đâu, làng ở đó", một vài nhà nghiên cứu vội vã "phán" "Đại đồn Chí Hòa nằm lân cận đình Chí Hòa thuộc quận 10 hiện tại".
Nếu chịu khó, các nhà nghiên cứu ấy sẽ dễ dàng biết rằng "đình Chí Hòa nguyên là đình làng Hòa Hưng" và "chỉ đổi tên thành đình Chí Hòa những năm 1930 của thế kỷ 20" khi làng Hòa Hưng đổi tên thành làng Chí Hòa vào khoảng năm 1939.
Đình Hòa Hưng (Chí Hòa) là một trong những ngôi đình cổ nhất ở TP.HCM và vùng đất Chí Hòa đã trở thành địa danh đầu tiên kháng Pháp ở Nam Kỳ lục tỉnh, gắn với tên tuổi anh hùng Nguyễn Tri Phương.
Khu vực có đình Chí Hòa nguyên là làng Hòa Hưng của tổng Dương Hòa Thượng và là một nghĩa địa "tự do" (ai chôn cũng được) của Sài Gòn.
Các tài liệu viết trong thập kỷ 1860 của Pháp đều cho biết "Chẳng có ai đến Sài Gòn chỉ trong một ngày mà lại không nghe nói đến ít nhứt về cái nghĩa địa bao la này được gọi dưới cái tên là Đồng Mả Mồ".
Đồng này trải dài bên phải của con đường chiến lược từ Sài Gòn (đường Nguyễn Thị Minh Khai) đến Chợ Lớn và bị cắt ngang đoạn giữa bởi đường Thuận Kiều (CMTT hiện nay).
Đây là vùng đất cao, khô, thiếu nước dù nằm sát rạch Nhiêu Lộc, từ xưa được dân cư Bến Nghé dùng làm nơi chôn cất, sau trở thành làng Hòa Hưng".
Còn nhà thờ Chí Hòa nguyên tên là nhà thờ làng Thạnh Hòa, sau mới đổi tên thành nhà thờ Chí Hòa!
Soát lại các địa bạ có từ năm 1820 cho tới đầu thế kỷ 20, Sài Gòn "không hề có làng nào tên Chí Hòa".
Tổng Dương Hòa Thượng cho đến năm 1897 có 14 làng gồm: Bình Hưng Đông, Bình Hưng Thôn, Bình Thới, Phú Nhuận, Phú Thọ, Tân Hòa, Tân Hòa Tây, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Nhứt, Tân Thới, Tân Trụ, Thạnh Hòa, Hòa Hưng và Phú Thạnh.
Đến năm 1939, tổng này còn chín làng thuộc quận Gò Vấp là Bình Hưng Đông, Bình Hưng Thôn, Chí Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Nhứt, Tân Thới Hòa và Tân Trụ (Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng nói miền Nam, NXB Trẻ 1998, trang 174 và 177).
Thời điểm này làng Chí Hòa được hình thành từ làng Hòa Hưng và làng Phú Thạnh nhập lại, ranh giới của làng này từ đường Bắc Hải đến Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay.
Làng Tân Thới Hòa hình thành từ các làng Bình Thới, Tân Hòa, Tân Hòa Tây và Tân Thới nhập lại. Và làng Thạnh Hòa sáp nhập vào làng Tân Sơn Nhì.
Như vậy làng Chí Hòa thay thế cho làng Hòa Hưng chỉ xuất hiện từ năm 1939 hoặc trước đó ít lâu.
Đình Chí Hòa nguyên là đình làng Hòa Hưng và chỉ đổi tên thành đình Chí Hòa những năm 1930 của thế kỷ 20.
Tên Chí Hòa có từ giữa thế kỷ 18
Trên đường tìm kiếm, chúng tôi thấy một ghi chép trong loạt bài "Kể lại gốc tích mỗi họ trong các sở địa phận Nam Kỳ" của giới Công giáo đăng trên tuần báo Nam Kỳ Địa Phận: "Độ chừng năm Chúa Giáng sinh 1760, một ít người có đạo ngoài Huế vào Gia Định mà kiếm nghề làm ăn.
Mấy người ấy làm nghề rẫy bái, đã gặp chỗ trong Chí Hòa, làng Tân Sơn Nhứt...
Lúc ấy đức thầy Vêrô ở Gia Định - Sài Gòn với vua Gia Long đang lo sắm sửa binh khí thảo trừ binh Tây Sơn. Bữa kia đức thầy dạo chơi tới Chí Hòa, gặp được một ít nhà có đạo ở đó thì mầng (mừng) lắm...
Đến sau đức cha thấy nơi ấy vắng vẻ, khí thanh mát thì năng vào ở đó với bổn đạo, lại ý người muốn gửi thân mình lại đó cho nên đã xin chủ đất để lại cho mình một ít cao (1 cao = 100m2) đặng sau mà mai táng xác mình...".
Khi đức cha Vêrô tạ thế tại Quy Nhơn, vua Gia Long cứ theo lời đức cha trối lại nên đem xác ông về Sài Gòn, chôn cất trọng thể, mai táng tại Chí Hòa, xây một cái lăng cao lớn... Từ đó không còn kêu họ Chí Hòa nữa mà kêu là họ Lăng Cha Cả" (Nam Kỳ Địa Phận số 515 ngày 26 decembre 1918).
Vêrô là tên thánh của giám mục Pigneau de Behaine, hiệu tòa giám mục là Adran và có tên Việt là Bá Đa Lộc, người có công giúp Nguyễn Ánh trong việc đối đầu với Tây Sơn.
Ngôi mộ của ông được dân chúng quen gọi là "Lăng Cha Cả", nay là vòng xoay Hoàng Văn Thụ - Cộng Hòa thuộc quận Tân Bình.
Trong ghi chép trên chỉ có hai chi tiết "cần điều chỉnh" là 1790 thay vì 1760 (thời điểm này Nguyễn Ánh chưa vào Gia Định và chưa gặp Bá Đa Lộc) và Nguyễn Ánh thay vì Gia Long (vì đến năm 1802 Nguyễn Ánh mới lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long).
Từ ghi chép trên, chúng ta so lại bản đồ đại đồn Chí Hòa do người Pháp vẽ được in trong tác phẩm của L.Pallu thì thấy trước mặt khoảng giữa đại đồn có một con đường nhỏ dẫn thẳng đến khu lăng mộ d’Adran (tombeaux d’Adran) chính là lăng Cha Cả.
Đây cũng là một chỉ dấu không thể thay đổi khiến ngày nay chúng ta dễ dàng định vị vị trí của đại đồn.
Hầu hết các tài liệu xưa nay đều nói rằng "Đại đồn có chiều dài ước khoảng 3 cây số, ngang 1.000m". Như vậy đại đồn không thể nào năm trên đất Hòa Hưng hiện nay được!
Thôn Chí Hòa thuộc làng Tân Sơn Nhứt
Có thể nói rằng địa danh Chí Hòa ở thế kỷ 19 là một thôn, ấp nhỏ thuộc làng Tân Sơn Nhứt nằm giáp ranh làng Tân Sơn Nhì của tổng Dương Hòa Thượng, nay thuộc quận Tân Bình và không liên quan gì đến quận 10 ngày nay cả.
Và có thể nói rằng đất của đại đồn Chí Hòa xưa nằm trọn trong khu vực quận Tân Bình ngày nay, không liên quan gì đến những địa điểm hiện mang tên Chí Hòa.
Hệ thống đồn trại Chí Hòa
TTO - Đại đồn Chí Hòa trên cơ sở mở rộng đồn Chí Hòa không phải là một đồn và cũng không phải là "một dãy đồn" như các tài liệu xưa đã nói. Đại đồn Chí Hòa là một hệ thống đồn trại với rất nhiều đồn kéo dài từ Phú Thọ đến Tân Bình
Đại đồn Chí Hòa do Nguyễn Tri Phương mở rộng thuộc quận Tân Bình và hoàn toàn không liên quan gì đến quận 10 cả
Các đồn bót thời Nguyễn Tri Phương
Sau khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha hạ thành Gia Định đầu năm 1859, quân ta rút ra khỏi trung tâm Bến Nghé và Chợ Lớn và hình thành những đồn bót ở vùng ven Sài Gòn.
Những đồn bót riêng lẻ này đã liên kết lại thành một hệ thống đồn trại sau khi Nguyễn Tri Phương mở rộng đồn Chí Hòa thành đại đồn vào cuối năm 1860, đầu năm 1861.
Hệ thống đồn này kéo dài từ Cầu Kiệu (người Pháp gọi là cầu số 3) chạy đến Phú Thọ. Đối diện với phía Pháp là hệ thống chiến lũy các chùa kéo dài từ chùa Khải Tường đến chùa Cây Mai.
Đồn tiền của đại đồn Chí Hòa là hai đồn gồm tả và hữu nằm đối diện chùa Cây Mai chừng 400m, nay có thể là khu vực của Trường tiểu học Phú Thọ trên đường 3 Tháng 2 và khu vực trường đua Phú Thọ.
Người Pháp gọi đồn Tiền là "đồn Mồ Côi - Redoute". Đây cũng là nơi đầu tiên Pháp tấn công ngày 24-2-1861.
Sau lưng đồn Tiền nằm dọc theo đường Thiên Lý phía tây là hệ thống năm đồn vừa mở rộng nằm trên đất của làng Phú Thọ và làng Thạnh Hòa. Đồn kéo dài đến gần chợ Võ Thành Trang thuộc Bà Quẹo hiện nay.
Về hậu đồn cũng có hai đồn tả và hữu cách nhau vài chục thước, nằm trên đất làng Tân Sơn Nhì. Phía đông của đồn có thể cận con đường Bắc Hải hiện nay giáp giới giữa Tân Bình và quận 10.
Toàn bộ đại đồn đều nằm dọc ở phía nam đường Thiên Lý phía tây, đối diện là con rạch Nhiêu Lộc.
Mả thằng Tây
Người ở Bà Quẹo trước năm 1975 đều biết một chỗ gọi là "mả thằng Tây". Đây là một đài kỷ niệm nằm trên lề quốc lộ 1 thuộc phường 13, quận Tân Bình cũ, nay là cạnh trái của hàng rào cơ quan BCH quân sự quận Tân Bình trên đường Trường Chinh.
Đáng tiếc khi mở rộng đường Trường Chinh thì đài này đã bị dẹp bỏ nên không còn dấu vết gì cả. Theo Vương Hồng Sển thì "đài trận chiến Pháp - Nam ở Chí Hòa; đài Lareynière tại Tân Sơn Nhứt, dựa đường Sài Gòn đi Nam Vang.
Đài chiến trận này nay không rõ nằm đâu, riêng đài Lareynière tôi may mắn được biết". Chỉ có một chi tiết ông Vương Hồng Sển ghi không chính xác là đài nằm trên đất của làng Tân Sơn Nhì chớ không phải làng Tân Sơn Nhứt ở phía đối diện.
Đài kỷ niệm này ghi rõ tên và ngày tháng mất của người chôn dưới đó.
Trong địa chí tỉnh Gia Định được Hội Nghiên cứu Đông Dương thực hiện vào năm 1902 có ghi rõ: "Đến 8 giờ, quân Pháp làm chủ Chí Hòa. Trận đánh kéo dài hai ngày này làm nhiều lính Pháp bị thương và 30 người bị chết, trong đó một sĩ quan, trung úy hải quân Lareynière.
Người ta đã chôn binh lính trong một cái hố nằm giữa đồn Tả Hậu và tường thành của đồn hữu, và chôn ông Lareynière ở nơi ông đã ngã xuống".
Cứ theo ghi chép của quyển địa chí này, đồn Hậu gồm hai đồn gần nhau của đại đồn Chí Hòa nằm trên đất của làng Tân Sơn Nhì; và dấu vết của "mả thằng Tây" có thể suy đoán đại đồn Chí Hòa xưa, điểm cuối cùng nằm giáp Bà Quẹo.
Ở Tân Bình cũng có một con đường lạ. Đó là đường Trương Công Định! Xưa đó là một con đường đất đỏ, lớn và chạy thẳng từ đường cái ra... ruộng!
Mọi con đường dù ở nông thôn hay thành thị xưa nay đều dẫn tới một thôn xóm, làng mạc nào đó. Song đường Trương Công Định hiện nay, xưa lại chạy đến nơi không có nhà cửa chi cả!
Với những tài liệu có được, chúng tôi có thể đoan chắc rằng con đường này vốn là thành lũy của đồn Hậu thuộc đại đồn Chí Hòa xưa.
Nếu ước tính đại đồn dài khoảng 3km (3.000m), thì từ đường Trương Công Định đến khoảng qua ngã ba Ông Tạ độ vài trăm thước thì vừa ba cây số. Có thể khu vực các trạm phát tuyến của đài phát thanh Sài Gòn cũ cũng chính là mặt phía đông của đại đồn Chí Hòa.
Mặt bắc của đại đồn là rạch Nhiêu Lộc. Còn trung tâm đại đồn, mà người Pháp gọi là đồn Trung, nay nằm trong khu vực Bệnh viện Thống Nhất và khu dệt Bảy Hiền.
Phía trước (xem bản đồ đại đồn Chí Hòa do Pháp vẽ) là con đường đi về khu lăng mộ của Bá Đa Lộc, nay là vòng xoay Cộng Hòa - Hoàng Văn Thụ hay là vòng xoay Lăng Cha Cả.
Như vậy, đại đồn Chí Hòa do Nguyễn Tri Phương mở rộng từ đồn Chí Hòa, nằm ở phía nam đường Thiên Lý phía tây (Cách Mạng Tháng Tám - Trường Chinh) từ ngã ba Ông Tạ đến giáp Bà Quẹo, đều thuộc quận Tân Bình và hoàn toàn không liên quan gì đến quận 10 cả.
Thất bại vì thiếu hiểu biết
Đại đồn chứa đến hơn 30.000 người, gồm cả binh lính chuyên nghiệp và dân quân tự nguyện đánh giặc, song đã bị hơn 3.000 người đánh bại, 1 chọi 10, một cách thê thảm. Nhiều người chết hơn bất cứ trận đánh nào xưa nay.
Có một điều mà sử ta không ghi nhận là thất bại thảm hại này phần lớn là do sự thiếu hiểu biết của người cầm quân về vũ khí và chiến thuật của đối phương.
Sau thất bại của thành Gia Định đầu năm 1859, các tướng lãnh của nhà Nguyễn vẫn không thay đổi chiến thuật đánh với quân Pháp mà cứ dựa vào thành lũy. Do thụ động trong chiến đấu nên bị thất bại thê thảm.
Năm 1860, một nhóm dân quân dùng chiến thuật "du kích" đã giết được tên quan Ba Barbet ở gần chùa Khải Tường. Tại sao các tướng lại không dùng chiến thuật này để tấn công chúng mà cứ nằm trong thành lũy đợi chúng tấn công?
Mặt khác, trong khi vũ khí chiến tranh từ thời Gia Long đến Tự Đức, các nước đã tiến rất xa, rất nhanh, còn ta thì vẫn như xưa. Trận Chí Hòa cho thấy liên quân Pháp - Tây Ban Nha thắng ta cũng nhờ có vũ khí tốt, hiện đại hơn.
Thua vũ khí
Người lính Việt Nam cầm cây súng hỏa mai, đổ thuốc đạn vào dùng cây nhấn cho dẻ, bỏ viên đạn tròn vào rồi bấm cò chờ mồi thuốc cháy súng mới nổ.
Trong khi đó, người Pháp dùng súng đá lửa, chỉ cần bóp cò là đạn nổ ngay. Tốc độ bắn nhanh, súng lại dài hơn nên độ chính xác cao, nên khi đối mặt với kẻ thù ta chỉ có chờ chết!
Mặt khác, súng đại bác của Pháp hiện đại hơn đại bác của ta. Pháp có cả "trái nổ" tức lựu đạn... Những vũ khí này đã "hớp hồn" những người lính Việt, và tiêu diệt sức lực của quân ta dù núp sau những thành lũy tưởng là vững chắc.
Dù yêu nước đến mấy cũng không thể lấy thịt da ra chống chọi với thuốc nổ và đạn pháo của kẻ thù!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét