Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019

Vì sao Trần Thái Tông đau đáu ước nguyện bỏ ngai vàng đi tu?

(Kiến Thức) - Ít người biết rằng, dù rất muốn rũ bỏ cuộc sống phàm tục để dấn thân vào con đường Phật pháp nhưng vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần là Trần Thái Tông lại không đạt được ý nguyện của mình.

Cũng như dưới triều Lý, Phật giáo thời Trần vẫn rất được coi trọng, có một số vị vua không chỉ cảm tình với Phật giáo mà thậm chí còn xuất gia tu hành như Trần Nhân Tông, trong đó phải kể đến Trần Thái Tông - vị hoàng đế sáng nghiệp triều Trần. 
Chân dung vị hoàng đế sáng nghiệp nhà Trần
Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, trước có tên là Trần Bồ (dã sử thì cho hay ông tên tục là Lành Canh theo tên một loài cá vì họ Trần vốn xuất thân làm nghề chài lưới, sau đọc chệch là Cảnh), còn tên nữa là Trần Dung. Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (10/7/1218) là con thứ 4 của Trần Thừa, thân mẫu họ Lê (dã sử cho biết bà tên là Lê Thị Phong), người thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình).
Họ Trần do có công phò giúp vua Lý Cao Tông dẹp loạn, sau lại có con gái là Trần Thị Dung làm vợ Lý Huệ Tông, trở thành chỗ dựa cho ông vua này giữ được ngai vàng đang ngả nghiêng trong cơn biến động đương thời, do đó dần dần các nhân vật họ Trần được đưa vào nắm giữ các vị trí quan trọng trong triều đình, quyền hành của vua ngày một thu hẹp.
Vi sao Tran Thai Tong dau dau uoc nguyen bo ngai vang di tu?
 Tượng thờ Trần Thái Tông. Ảnh: xuavanay.vn. 
Tháng 12 năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại chuyển sang người em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Năm Giáp Thân (1224), bệnh vua càng nặng hơn, nhân cơ hội đó, tháng 10 cùng năm, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông xuống chiếu lập con gái thứ 2 là công chúa Chiêu Thánh mới lên 7 tuổi làm Hoàng Thái tử rồi nhường ngôi cho (tức Lý Chiêu Hoàng). Lúc đó Trần Thủ Độ đang giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ tính kế đoạt vương quyền về tay dòng họ mình, dưới sự đạo diễn của ông, một người cháu họ là Trần Cảnh, 8 tuổi được đưa vào cung làm Chánh thủ, có nhiệm vụ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng.
Một hôm Trần Cảnh về nói lại với Trần Thủ Độ chuyện nữ hoàng ném khăn, té nước trêu mình. Sợ việc tiết lộ thì bị giết cả họ, Trần Thủ Độ bèn bàn gấp với em họ là Thái hậu Trần Thị Dung rồi tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Sau đó sai đóng cửa thành và các cửa cung, cử người coi giữ nghiêm ngặt, các quan xin vào chầu vua nhưng không được chấp thuận. Tiếp đó Trần Thủ Độ loan báo nữ hoàng đã có chồng. Thế là Trần Thủ Độ đã dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Từ chuyện chơi bời của trẻ con thành chuyện tình duyên, rồi vợ nhường ngôi cho chồng cũng là lẽ hợp lý; triều chính chuyển giao sang tay họ Trần. Tất cả đều nằm trong mưu kế mà Trần Thủ Độ tính toán và được sự hậu thuẫn đắc lực, cực kỳ quan trọng của Thái hậu Trần Thị Dung, mẹ đẻ của Lý Chiêu Hoàng, cô ruột của Trần Cảnh.
Sau khi khống chế được hoàng cung và loan báo chuyện hôn nhân của nữ hoàng, đến cuối năm Ất Dậu (1225) với bàn tay “đạo diễn” của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng. Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225) Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Ông làm vua đến ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258) thì nhường ngôi cho con là thái tử Trần Hoảng để lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy Trần Thái Tông làm vua tổng cộng 33 năm (1225-1258), đặt 3 niên hiệu là Kiến Trung (1225 - 1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232- 1251) và Nguyên Phong (1251 -1258).
Ông được sử sách đánh giá là “có đức nhân hậu, có tính giản dị chắc chắn, đánh giặc yên dân, mở khoa thi lấy người giỏi; Tể tướng thì chọn người tôn thất hiền năng, triều điển thì định ra lễ nghi hình luật, chế độ nhà Trần từ đấy thịnh” (Việt giám thông khảo tổng luận). Sử thần triều Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên, trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã viết như sau: “Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực to lớn vậy!”.
Bỏ ngôi lên núi Yên Tử định đi tu
Trong cuộc đời của mình, điều làm vua Trần Thái Tông day dứt nhất chính là chuyện hôn nhân, ông kết hôn với nữ hoàng triều Lý là Lý Chiêu Hoàng, sau đó được vợ nhường ngôi nhưng cuộc sống vợ chồng chỉ kéo dài 19 năm thì Thái sư Trần Thủ Độ ép vua phế bỏ ngôi Hoàng hậu. Lý do là Hoàng hậu Chiêu Thánh không sinh được con nối dõi cho vua, vì thế Trần Thủ Độ với quyền uy của mình gây ra cảnh “hoán chồng, đổi vợ”; hoàng hậu bị phế xuống làm công chúa Chiêu Thánh, chị của bà và là vợ của Trần Liễu (anh trai Trần Thái Tông) đang mang thai 3 tháng bị đưa vào cung làm vợ của em chồng với danh hiệu Hoàng hậu Thuận Thiên.
Trần Thái Tông không thể cưỡng lại được, buộc lòng phải phải lấy chị dâu, đồng thời lại là chị ruột của vợ mình, dù ông rất thương yêu Chiêu Thánh. Còn Trần Liễu uất ức mới làm loạn nhưng bị Trần Thủ Độ đánh bại, nếu không có vua xin cho thì Trần Liễu đã bị giết. Thấy trò đời đảo điên, chán ngán mọi việc nên vào một đêm năm Bính Thân (1236), Trần Thái Tông bỏ kinh thành, lên núi Yên Tử định xuất gia. Sau này, trong bài tựa viết cho sách Thiền tông chỉ nam, vua đã thuật lại chuyến đi đó của mình như sau: “Ta cải trang đem theo 7,8 người ra đi nhằm đêm mồng 3 tháng 4 năm thứ 5 niên hiệu Thiên ứng Chính Bình. Giờ Hợi đêm ấy đi ngựa qua sông, bấy giờ mới bày tỏ thật lòng mình cho tả hữu nghe, khiến ai nấy cũng đều khóc sướt mướt. Qua hai ngày trời trên đường trường vất vả. khi sang đò Phả Lại, sợ bị lộ, ta lấy khăn che mặt, khi lặn lội suối sâu núi hiểm. lúc bỏ ngựa trèo non. Đến ngày thứ ba thì lên đỉnh núi Yên Tử, vào chùa thăm quốc sư Trúc Lâm. Gặp nhau, vị sư già mừng rỡ và ân cần hỏi han có điều gì mà đến chốn này. Ta bày tỏ lòng mình chỉ mong cầu Phật chứ không cầu gì khác. Quốc sư trả lời: Trong núi vốn không có Phật, chỉ có trong lòng thôi, lòng lặng mà biết chính là Phật vậy”.
Vi sao Tran Thai Tong dau dau uoc nguyen bo ngai vang di tu?-Hinh-2
Trang sách Thiền tông chỉ nam. Ảnh: chuaadida.com. 
Hôm sau Trần Thủ Độ dẫn bá quan tìm ép vua phải trở lại ngôi báu và ông đành trở về địa vị quân vương. Về chuyện này, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết như sau: “Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy để làm chổ dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn.
Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân (quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó. Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".
Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó". Thế rồi [Thủ Độ] cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng: "Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử". Vua bèn trở về kinh đô”.
Vị Hoàng đế uyên thâm Phật pháp
Ngoài thời gian điều hành chính sự, Trần Thái Tông để tâm nghiên cứu, tìm hiểu Phật pháp, quyển luận thuyết triết lý Thiền tông chỉ nam (viết khoảng năm 1256 – 1258) đã được vua chiêm nghiệm, suy ngẫm mà viết ra. Cũng trong lời tựa của sách, Trần Thái Tông kể chuyện lý do mình định bỏ ngôi đi tu là từ thuở ấu thơ đã mến mộ đạo Phật. Rồi năm 16 tuổi mẹ mất, nỗi đau mất mẹ chưa nguôi thì cha tiếp tục qua đời, nhà vua buồn, đau khổ nên quyết chí tìm đường giải thoát.
Ông không nêu rõ lý do thực sự là vì chuyện vợ chồng chia ly, bởi đây là vấn đề tế nhị và cũng là thiếu sót có chủ ý khi không muốn nhắc lại một chuyện cũ đau lòng, đầy tâm tình bí ẩn, một câu chuyện khó nói liên quan tới nhiều người. Gọi là lời tựa cho sách Thiền tông chỉ nam nhưng các nhà nghiên cứu đánh giá nó là một áng văn kể chuyện tâm tình có giá trị nghệ thuật, có sức thuyết phục trong kho tàng văn chương đời Trần.
Thực ra Trần Thái Tông khi còn trẻ đã rất quan tâm tìm hiểu Phật giáo, ông là vị vua Trần đầu tiên đích thân tu hành theo lời Phật dạy, lấy từ bi làm tông chỉ trị quốc, đem Phật pháp giáo hoá cho dân chúng thực hành theo, là bậc đại sĩ giác ngộ, uyên thâm Phật pháp. Đời sau coi ông xứng đáng là Đại sư tông Tịnh độ bởi vì tất cả những yếu chỉ cốt lõi của pháp môn niệm Phật đều không ra ngoài pháp ngữ của ông trong Niệm Phật luận: “Niệm Phật có thể dập tắt ba nghiệp là cớ sao? Lúc niệm Phật thân ngồi ngay thẳng, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp của thân. Miệng tụng lời chân chính (niệm hồng danh Phật), không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, là tắt được nghiệp của ý”.
Vi sao Tran Thai Tong dau dau uoc nguyen bo ngai vang di tu?-Hinh-3
 Vị hoàng đế uyên thâm Phật pháp. Ảnh: trithucvn.net. 
Lên làm vua khi mới 8 tuổi, học vấn chưa đầy đủ lại chưa biết đến Phật giáo, thế mà đến năm 40 tuổi, khi làm Thái thượng hoàng, ông đã có nhiều tác phẩm về tôn giáo này, đó là Kim cương tam muội kinh tự (Bài tựa viết về Kimh Kim Cương, cho biết lịch sử truyền đạo Phật từ Ấn Độ sang Trung Quốc, nêu tư tưởng chính của Phật giáo là tư tưởng Vô sinh); Lục thì sám hối khoa nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày); Thiền tông chỉ nam ca; Thiền tông chỉ nam tự (Bài tựa Thiền tông chỉ nam ca, trình bày quá trình học Thiền tông của Ngài); Niệm tụng kệ (nếu 43 vấn đề đưới hình thức vấn đáp, đặt vấn đề rồi đáp án và đáp án bằng thơ) và Khóa hư lục (đề cập nội dung phong phú, đa dạng của Phật giáo).
Các tác phẩm của Trần Thái Tông tuy đề cập đến Phật giáo nhưng lại sử dụng cả các khái niệm, nhân vật, tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo thể hiện quan điểm Tam giáo đồng nguyên mà thứ tự ưu tiên là Phật – Nho – Đạo. Điều đó cho thấy Trần Nhân Tông lý giải kinh Phật và các vấn đề liên quan của Phật giáo trên cơ sở tư duy độc lập, có nhiều điểm khác với tiền nhân, chứng tỏ ông có tư duy độc lập; nhiều quan điểm, cách đánh giá, phê phán đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trần Thái Tông là một vị vua tài giỏi, nhân đức, được sử sách khen ngợi nhưng đồng thời cũng cũng phê phán những điểm hạn chế nhất định của ông dưới nhãn quan Nho giáo, nhất là chuyện gả vợ cho người khác, lấy chị dâu làm vợ, thậm chí còn chê trách có việc mộ đạo của ông…, như sách Việt sử tiêu án có viết: “Vua là người khoan nhân, có độ lượng đế vương, lập ra chế độ, điển chương đã văn minh đáng khen, nhưng chỉ vì tam cương lộn bậy, nhiều sự xấu xa trong chốn buồng khuê… Mấy năm đầu vua Thái Tôn có tính tà dâm, đều do Thủ Độ xui bảo cả; đến mấy năm sau để ý học vấn, tấn tới được nhiều, lại càng nghiên cứu điển cố trong kinh sách, có làm ra sách "Khóa Hư lục" mến cảnh sơn lâm, coi sinh tử như nhau, tuy ý hơi giống đạo Phật không hư, nhưng mà ý chí thì khoáng đạt, sâu xa cho nên bỏ ngôi báu coi như trút giầy rách thôi”.
Đàm luận với Quốc sư nước Tống và đoán đúng ngày giờ mình chết
Trong sách Đại Việt sử ký tiền biên cho biết vua Trần Thái Tông từng đàm luận với vị Quốc sư của nước Tống về đạo pháp như sau: “Khi vua Thái Tông đã đi tu thì việc thờ Phật càng chu đáo. Tất cả những chùa ở kinh sư và các chùa Quỳnh Lâm, Hoa Yên đều mở đàn chay, các sư thường có tới 600 người.
Quốc sư nước Tống là Tống Đức Thành thường đi thuyền vượt bể mà đến. Vua dạo chơi chùa Chân Giáo, mời vào nói chuyện, Đức Thành hỏi về lễ Phật Thích Ca tế độ người, vua xem câu kệ rằng:
Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.
(Nghìn sông có nước thì nghìn sông có trăng,
Vạn dặm không có mây thì vạn dặm thấy trời).
Đức Thành lại đem việc Thế Tôn đắc đạo và tu hành chứng lý có hay không, cùng nhau biện luận, vua bèn trả lời nhanh như tiếng vang, đều thành vần thơ nhã như những câu:
Xuân vũ vô cao hạ,
Hoa chi tự đoản trường.
(Mưa xuân không kể chỗ cao, chỗ thấp,
Cành hoa tự nhiên có cành dài, cành ngắn).
Và câu:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo,
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(Đừng bảo vô tâm tức là đạo,
Vô tâm còn cách một lần cửa nữa mới tới đạo).
Đức Thành lại bảo: “Các bậc đế vương khi đã giác ngộ đạo thì được nhân duyên gì?”. Vua nói: “Ta và người như dậu mộc cùng có tính hỏa, hơn nữa đạo chỉ có một mà thôi, phóng ra thì như trời đất vô cùng, thu lại thì dầu cái lông có thể chứa được. Người ta ai cũng có chất sáng suốt trong mình, như mùa xuân đến thì hoa tự nhiên nở”. Đức Thành phục vua là người giác ngộ, bái tạ rồi xin về”.
Vi sao Tran Thai Tong dau dau uoc nguyen bo ngai vang di tu?-Hinh-4
Cuộc đối thoại về Phật pháp. Ảnh: trithucvn.net.  
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (1277) Trần Thái Tông băng hà, theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trước đó một năm vị vua khai sáng vương triều Trần đã đoán trúng thời điểm mình sẽ qua đời, khi ấy ông đã rời ngôi báu để làm Thái Thượng hoàng đã được 18 năm: “Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh. Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lão tâu: "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ Nguyệt, trên hòm có một cái kim, một chiếc lược". Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ "nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi". Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại đoán: "Thế là ngày mồng 1 ta chết".
Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu: "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Đến nay quả như vậy”.
Chép về chuyện lạ này, sách Đại Việt sử ký tiền biên viết: “Hoặc giả vua Thái Tông đến cuối đời Phật học tiến tới, tinh vi, cho nên khi mất ngẫu nhiên có sự biết trước được, chỉ mượn việc chiêm nghiệm mà nói ra thôi. Còn về tư chất cao, học thức sáng qua đó cũng có thể thấy được”.
Cũng trong sách này, sử thần triều Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên có lời bàn như sau: “Điềm lành hay điềm gở chỉ có người thành tâm mới có thể biết trước được. Cho nên Đại truyện Kinh Dịch có nói: “Tượng sự tri khí, chiêm sự tri lai hư” (Hình dung được sự vật thì biết chế tạo ra khí cụ, chiêm đoán được sự việc thì biết tương lai), nhưng tất cả phải sau khi suy nghĩ, nghiền ngẫm trong lòng mình, Thái Tông đoán biết những ngày sau là chiêm nghiệm được sự việc đấy. Nếu không phải là người biết rõ lễ, lòng thành kính, chỉ nhân sự việc mà đoán để khẳng định thì chưa có ai không chuốc tai họa về sau. Đó là sự khác nhau giữa cái học về sấm, ký, thuật số với cái học của thánh hiền đấy chăng?”.
Lê Thái Dũng

Chuyện "hoán đổi vợ chồng" của anh em Vua Trần Thái Tông


Chuyện Hoàng đế Trần Thái Tông quyết định "cướp" người vợ đang mang thai của anh ruột để có người "nối dõi" đã vấp phải nhiều ý kiến dị nghị.
Hoàng đế Trần Thái Tông (16/6/1218 - 1/4/1277) là vị Hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Trần trong lịch sử nước ta. Ông tên thật là Trần Cảnh, xuất thân là cháu họ của Trung Vũ Đại vương Trần Thủ Độ.
Vốn thân thiết với Nữ hoàng nhà Lý thời đó là Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh sau này, theo sự sắp đặt của chú mình là Trần Thủ Độ, đã được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi sau khi 2 người kết hôn, đánh dấu sự ra đời của triều đại nhà Trần (1255).
Chuyen hoan doi vo chong cua anh em Vua Tran Thai Tong
Tranh minh họa chân dung ba vị Vua đầu tiên của nhà Trần. 
Lấy cớ Lý Hoàng hậu (tức Lý Chiêu Hoàng) không thể sinh con, năm 1237, Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông lập Thuận thiên Công chúa, vốn là chị gái của Lý Hoàng hậu, đồng thời là vợ của Hoài vương Trần Liễu, anh ruột Vua, lên thay. Éo le ở chỗ, Công chúa Thuận Thiên khi đó lại đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng.
Sự kiện này sau đó đã dẫn đến những biến loạn trong những năm tháng đầu của triều đại nhà Trần, khiến đời sau dị nghị.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 9b và tờ 10 a-b) có chép lại câu chuyện trên như sau:
Bấy giờ, Chiêu Thánh (Hoàng hậu của Thái Tông) thì không có con mà Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh, vợ của Trần Liễu là anh ruột vua Trần Thái Tông) thì đã có thai Quốc Khang được ba tháng. Trần Thủ Độ và Công chúa Thiên Cực (nguyên Hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, sau gả cho Trần Thủ Độ) bàn kín với Vua là nên mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau.
Vua làm theo, vì thế, Liễu hợp quân ra sông Cái làm loạn. Vua lấy làm áy náy trong lòng, ban đêm ra khỏi kinh thành, chạy đến chỗ Quốc sư Phù Vân là bạn cũ, trên núi Yên Tử rồi ở luôn tại đó. Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời Vua trở về kinh sư. Vua nói :
- Trẫm vì non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ (chỉ việc Trần Thừa mất năm 1234 - ND), sớm mất chỗ trông cậy nên không dám giữ ngôi vua, sợ làm nhục đến xã tắc.
Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được, mới bảo với mọi người rằng:
- Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó.
Nói rồi, cắm nêu trong núi, chỉ chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là Đoan Minh Các, sai người xây dựng. Quốc sư thấy thế liền tâu rằng :
- Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tử.
Vua bèn trở về kinh đô. Được hai tuần, Liễu tự lượng thế cô khó lòng địch nổi, bèn ngầm đi thuyền độc mộc, giả làm người đi đánh cá để đến chỗ Vua xin hàng. Anh em nhìn nhau, khóc lóc.
Thủ Độ nghe tin đến thẳng thuyền Vua, rút gươm thét lớn :
- Giết thằng giặc Liễu!
Vua giấu Liễu trong thuyền rồi vội bảo Thủ Độ :
- Phụng Càn Vương (tước hiệu cũ của Trần Liễu, khi Trần Liễu còn làm quan cho nhà Lý) đến hàng đấy.
Nói rồi, lấy thân mình che chở cho Liễu. Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông mà nói rằng :
- Ta chỉ là con chó săn thôi, biết anh em các người thuận nghịch thế nào mà lường được.
Vua nói anh em hòa giải và bảo Thủ Độ rút quân về. Vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang ( nay là đất hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh - ND) để cấp cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân tên đất được phong mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh Vương (cũng đọc là An Sinh Vương - ND).
Phan Phu Tiên nói : "Tam cương ngũ thường là luân lí lớn của loài người. Thái Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để truyền lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh làm Hoàng hậu, chẳng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn đó ư? Liễu từ đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, ấy là bởi Thái Tông nuôi nên tội ác cho Liễu vậy".
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : "Thái Tông mạo nhận con của anh làm con mình. Sau này Dụ Tông và Hiến Từ (Hoàng hậu) đều cho (Dương) Nhật Lễ làm con của Cung Túc Vương, đến nỗi cơ nghiệp nhà Trần suýt nữa sụp đổ, há chẳng phải là không có ngọn nguồn của nó hay sao ?".
Lời bàn: Chiêu Thánh mới mười chín tuổi mà đã bị cho là không có con, đó là một sự lạ. Dân thường còn không được, huống chi đường đường là Hoàng đế một nước mà cướp vợ của anh, đó là hai sự lạ. Chuyện hoán vợ đổi chồng này đã để di hại rất lớn về sau, nếu không có con Trần Liễu là Trần Hưng Đạo sáng suốt hơn người thì mối nguy thật khó mà lường trước được. Mới hay, luân thường không giữ, khó mà giữ an nguy cho xã tắc
Theo VnTinnhanh

Kỳ bí chuyện “yểm mạch đế vương” của vua Trần Thái Tông


Nhà Trần khai mở bắt đầu từ vua Trần Thái Tông, để từ đó truyền nối 175 năm (1225 - 1400). Quanh vị vua đầu tiên của nhà Trần, còn đôi điều thú vị để nói...
Lâu nay, sử sách đa phần nhận định, nhà Trần có được ngai vàng qua cuộc chuyển giao quyền lực mềm, nghĩa là không có đổ máu khi sắp xếp để nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng làm bạn trăm năm với Trần Cảnh rồi sau trao quyền trị nước cho chồng.
Yểm mạch đế vương
Trước thời Trần, việc trấn yểm mạch đế vương không hiếm. Khi Cao Biền làm Tiết độ sứ ở nước ta là một tay phong thủy có hạng, từng yểm mạch đế vương để triệt dòng phát vận của người Nam, nhưng hắn từng hết hồn hết vía vì thần Long Đỗ, để dân gian sau này dè bỉu là “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”. Còn ở đất Trung Hoa trước đó, khi lên làm Tần Thủy Hoàng đế mở nghiệp nhà Tần, Doanh Chính cũng sai người yểm mạch đế vương mong dòng dõi nhà Tần truyền mãi.
Vua Trần Thái Tông, trong giai đoạn chuyển tiếp triều đại, có lẽ lo nơi nào đó của nước có người nổi dậy chiếm ngôi, nên cũng mượn tới thuật trấn yểm. “Đại Việt sử ký toàn thư” cho hay, vua “Sai các nhà phong thủy đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế vương thì dùng phép thuật để trấn yểm, như các việc đào sông Bà Lễ, đục núi Chiêu Bạc ở Thanh Hóa; còn lấp các khe ở kênh mở đường ngang dọc thì nhiều không kể xiết. Đó là làm theo lời Trần Thủ Độ”.
Theo “Việt sử địa dư” việc này xảy ra năm Mậu Thân (1248): “(Trần Thái Tông) niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc, không kể xiết. Núi Chiêu Bạc, ngờ rằng tức núi Chiếu Sơn, huyện Nga Sơn. Sông Bà, tại địa giới huyện Đông Sơn. Sông Lễ, còn có tên là sông Mã, phát nguyên từ Lão Qua, hợp lưu với sông Lương, cùng chảy ra biển”.
Dù đào, đục hay lấp, nhưng khắp cõi Nam, vận đế vương ở mọi nơi, yểm làm sao hết được. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không?”. Còn “Đại Nam quốc sử diễn ca” thì chê trách việc này:
Tin lời phong thủy khi tà.
Đào sông đục núi cũng là nhọc thay!
Mở triều đại không có miếu hiệu Thái Tổ
Thông thường các vua đầu tiên của một triều đại khi mất miếu hiệu đặt sau khi mất là Thái Tổ. Ví như: Lý Thái Tổ, Lê Thái Tổ… hoặc đặt là Tiên Hoàng (Đinh Tiên Hoàng)… nhưng với vua đầu tiên của triều Trần thì không phải thế. Vì sao vậy?
Ky bi chuyen "yem mach de vuong" cua vua Tran Thai Tong
Trần Thái Tông làm Thái thượng hoàng. 
Trần Cảnh là vua mở nghiệp nhà Trần, cha là Thái Thượng hoàng Trần Thừa mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1234), thọ 51 tuổi. Sau khi cha mất, vua lấy miếu hiệu cho cha là Huy Tôn, mà theo “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi “Thụy là: Khai vận lập cực hoằng nhân ứng đạo thuần chân chí đức thần vũ thánh văn thùy dụ chí hiếu hoàng đế”. Đến tháng Giêng năm Mậu Thân (1248) vua lại đổi miếu hiệu cho cha mình từ Huy Tôn thành Thái Tổ. Như vậy Trần Thừa dù chưa một ngày ở ngôi vua đã được phong là Thái Tổ. Nơi “An Nam chí lược” khi viết về Trần Thừa, cũng xác nhận miếu hiệu Thái Tổ được truy phong cho ông khi viết: “Đời thứ nhất (tức Trần Thừa). Người Giao Chỉ, ngoại thích của nhà Lý. Cuối cuộc loạn đời Lý, Trần Thừa cùng em là Kiến Quốc đánh giặc có công, được phong chức Thái úy; Kiến Quốc được làm đại tướng quân. Con trai lấy con gái của Lý Huệ vương là Chiêu Thánh, nhân đó được truyền ngôi (Thừa chết, truy tặng Thái Tổ)”.
Bàn về nguyên do của cớ sự này, sử gia nhà Nguyễn trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có lời bình đáng lưu ý: “Họ Trần lấy được nước, đều là nhờ công sức Thủ Độ, cũng như vua Thuận Trị nhà Thanh với Đa Nhĩ Cổn, chứ Trần Thái Tông có gì đáng khen đâu? Cho nên nhà Trần không có miếu hiệu là Thái Tổ. Cái cớ làm cho nhà Trần được hưởng nước lâu dài là nhờ công đức Thánh Tông và Nhân Tông đấy chăng”.
Còn Trần Cảnh sau truyền ngôi cho con, lên làm Thái Thượng hoàng. Đến năm Đinh Sửu (1277) ông mất, và mùng 4 tháng 10 cùng năm, ông được táng ở Chiêu Lăng, phong miếu hiệu là Thái Tông. Cha là Thái Tổ, con là Thái Tông. Về miếu hiệu Thái Tổ của Trần Thừa, sử thần nhà Nguyễn cho điều đó là không đúng khi nhận xét: “Truy tôn không xứng đáng, dầu có cũng như không”.
Bói được ngày chết của mình
Xưa, những lời sấm ký, chiêm đoán thường được các nhà chiêm tinh, lý số vận vào những sự kiện lớn, những nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử, và nhiều câu sấm truyền ứng với việc thật làm người đời sau phải ngỡ ngàng về độ chính xác. Thế nên, những điềm như nhà Lý truyền được 9 đời thì dứt bóng, Trần Cảnh được xem tướng biết trước sẽ làm vua làm cho thật giả nhiều khi đan xen nhau, truyền thuyết, giai thoại nhiều khi không phân biệt rõ.
Nhà Trần với vị vua đầu tiên là Trần Thái Tông, dù xuất thân từ con nhà ngư phủ, nhưng cũng có chữ nghĩa, làm vua trăm họ, mở nghiệp nhà Trần, lại là người hâm mộ đạo Phật, nên tuổi càng cao thì việc xét đoán việc càng sâu. Và bản thân Thái Tông cũng từng có sự chiêm đoán rất chính xác về một vấn đề liên quan tới bản thân mình. Đó là ngày cuối cùng ở dương thế. Việc này được “Đại Việt sử ký tiền biên” thuật lại.
Một lần Trần Thái Tông lúc này đã làm Thái thượng hoàng, đến ngự đường chợt thấy một con rết bò trên áo ngự, sợ quá ông lấy tay phủi đi, con rết rơi xuống đất phát ra tiếng kêu, nhìn lại thì hóa ra một chiếc đinh sắt. Ông bói thử thì biết sẽ có điềm gì đó sẽ xảy ra vào năm Đinh. Có lần Thượng hoàng đùa, nói Minh Tự Nguyễn Mặc Lão chiêm đoán xem điềm lành hay dữ cho mình. Khi Mặc Lão dùng phép chiêm đoán thấy có một cái hòm vuông, bốn mặt đều có chữ “nguyệt”, trên hòm vuông có một cái kim, một cái lược, Trần Thái Tông mới suy ra rằng: “- Cái hòm đó là quan tài, bốn mặt chữ “nguyệt” tức là tháng tư, nguyệt cũng là mệnh âm (trái với nhật tức mặt trời là mệnh dương). Cái kim trên hòm có thể xâu vật gì đó tương ứng với đòn xóc khiêng quan tài. Chữ “sơ” là cái lược, đồng âm với chữ “sơ” là xa, tức là sẽ xa rời cõi sống”. Đương lúc đó Thượng hoàng xem múa rối, tiết mục đó hay có câu cửa miệng: “Chóng đến ngày mùng Một thay phiên”. Thượng hoàng lại đoán rằng: “- Thế là ngày mùng Một ta chết.”
Về sau lời chiêm đoán của Thái thượng hoàng không sai chút nào. Đúng mùng Một tháng tư năm Đinh Sửu (1277), ông băng ở cung Vạn Thọ, đó là sự ra đi dường như đã được báo trước. Trần Thái Tông đón nhận cái chết một cách nhẹ nhàng, bình thản. Tương truyền vào năm Bính Tý (1276), có lần ông bảo trước với người hầu cận: “Đến tháng tư sang năm ta tất chết”, quả ứng nghiệm. Trong “Việt sử diễn âm” thì ghi:
Trị vì ba mươi bốn thu,
Thái Tông hoàng đế tiên đô chầu trời.
Việc ấy, được sử thần Ngô Sĩ Liên ghi là: Điềm lành hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới biết trước được. Vì thế, Đại truyện trong Kinh dịch có nói: “Hình dung sự vật thì biết được vật thực, chiêm đoán sự vật thì mới biết được tương lai”. Nhưng tất là phải sau khi đã suy xét trong lòng, nghiền ngẫm trong óc, Thái Tông biết được việc tương lai là chiêm đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là người lý sáng, lòng thành, mà cứ thấy việc là phỏng đoán mò để rồi khẳng định, thì chưa bao giờ không chuốc lấy tai họa về sau. Đó là chỗ khác nhau giữa cái học sấm ký thuật số với cái học thánh hiền chăng?
Ngày Thượng hoàng Thái Tông băng hà, Thiều Dương công chúa - con gái thứ của ngài - vừa ở cữ chợt nghe tiếng chuông liên thanh ở điện đình. Theo thể lệ nhà Lý, nhà Trần, gặp lúc vua mất, thì chuông ở triều đình khua vang lên để báo hiệu. Công chúa biết cha đã rời cõi trần tục, thương xót lắm nên khóc mãi không thôi, rồi cũng mất theo cha...
Theo Trần Đình Ba/Báo Pháp Luật


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét