Tồn tại từ lâu trong văn hóa dân gian của một số nước Á Đông, Tết Đoan Ngọ (Tết Đoan Dương) diễn ra vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, cũng là một trong những Tết quan trọng trong sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam.
Về nguồn gốc của Tết này, ngoài sự tích Khuất Nguyên của Trung Quốc thì ở mỗi quốc gia đều có cách giải thích khác nhau, nhưng điểm chung là gắn liền với sự tuần hoàn của thời tiết trong năm. Vì Đoan Ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa); còn Dương là mặt trời, là khí dương, Đoan Dương có nghĩa là bắt đầu khí dương đang thịnh, như vậy, ngày Đoan Ngọ là cột mốc quan trọng của chu kỳ tuần hoàn thời tiết trong năm, là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, con người ở gần trời đất nhất. Ở Việt Nam, Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết diệt sâu bọ để tưởng nhớ đến việc ông lão Đôi Truân giúp dân chúng trị sâu bọ phá hoại mùa màng.
Dưới triều Nguyễn, tiết Đoan Dương cùng với Nguyên Đán, Vạn Thọ là ba tiết lớn nhất trong năm. Vì vậy, các vua sẽ ấn định thời gian nghỉ Tết và những nghi lễ cần thực hiện.
Tùy theo tính chất công việc, thời gian nghỉ Tết Đoan Ngọ đối với các nha, sở sẽ được quy định khác nhau. Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 67, mặt khắc 5, cho biết vào thời vua Minh Mệnh thì trước tết Đoan Dương một ngày, sắc cho những công tác thổ mộc ở Kinh nghỉ việc 2 ngày (mùng 4 và mồng 5); những công sở Nội tạo, Nội vụ, Vũ khố nghỉ việc 1 ngày (mùng 5). Còn dưới thời vua Tự Đức thì các sở thợ ở Kinh chỉ được nghỉ duy nhất một ngày là mùng 5.
Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 67, mặt khắc 5.
Các nghi lễ thực hiện ở trong Kinh, ngoài thành, dinh, trấn cũng được quy định cụ thể với các mức kinh phí khác nhau. Năm 1805, vua Gia Long ban hành quy định về việc tổ chức các ngày lễ trong năm ở các thành, dinh, trấn như sau: Ở Miếu cũ Gia Định, 2 lễ Nguyên Đán và Đoan Dương mỗi năm chi tiền hơn 48 quan. Ở Gia Định và Bắc Thành, lễ duyệt binh đầu năm đều được chi tiền 100 quan; ở Hành cung 3 lễ là Nguyên Đán, Vạn Thọ, Đoan Dương, mỗi lễ, mỗi thành đều chi tiền hơn 125 quan, các dinh, trấn thì đều chi tiền hơn 26 quan; duy 6 ngoại trấn ở Bắc Thành thì đều chi tiền 20 quan; lễ Tạ trường thì đều chi tiền hơn 12 quan.
Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 27, mặt khắc 3.
Các loại vật phẩm dùng để cúng cho ngày tết Đoan Ngọ là vật phẩm từ các địa phương dâng tiến.
Trong dịp Tết này, vua còn cho treo cờ ở kỳ đài. Vua Minh Mạng cho định lệ treo cờ ở kỳ đài. Ở Kinh thành, vào các tiết Thánh Thọ, Vạn Thọ, Nguyên Đán, Đoan Dương cùng ngày Mùng 1, ngày Rằm lúc đại giá ra vào, đều treo cờ lớn bằng trừu lông sắc vàng; ngày thường thì treo cờ nhỏ bằng vải vàng. Nếu gặp ngày mưa gió to cùng ngày kỵ thì miễn treo. Các thành, dinh, trấn, đạo, phủ, huyện, các đài Trấn Hải, Điện Hải, Định Hải, gặp các tiết lớn cùng khi xa giá đi tuần đến, đều treo cờ lớn bằng trừu nam sắc vàng. Và cho tấu các bản nhạc để tế ở các miếu, khi rước thần thì tấu bài Hàm hòa, tuần rượu đầu (sơ hiến) tấu bài Thọ hòa (sau đổi làm Tường hòa), tuần rượu thứ hai (á hiến) tấu bài Dự hòa, tuần rượu sau cùng (chung hiến) tấu bài Ninh hòa, từ tạ thần thì tấu bài An hòa, lễ xong thì tấu bài Ung hòa, được dùng trong tiết Nguyên đán, Đoan Dương (1).
Các nghi thức của Tết Đoan Ngọ trong hoàng cung được thực hiện nghiêm trang và chỉnh chu, các vua ngự mũ cửu long, áo hoàng bào, đai ngọc cúng ở Thái Miếu hoặc Thế Miếu, rồi sau đó thay thường phục đến chầu cung Từ Thọ làm lễ để tỏ lòng thành của một người con. Ngay trong ngày chính tiết, ở đại điện Thái Hòa, hoàng thân và trăm quan đứng ở sân điện dâng biểu chúc mừng; các quan địa phương ở ngoài đều theo ban đứng chầu ở hành cung. Tuy nhiên vào ngày tết Đoan Dương năm 1841, vì quốc tang nên vua Thiệu trị cho bãi miễn việc dâng biểu mừng, bắn súng và đứng chầu theo ban.
Tết Đoan Dương năm 1846, vua Thiệu Trị cùng các quan đến chầu ở cung Từ Thọ. Khi làm lễ xong, vua ngự điện Thái Hòa, nhận lễ mừng, ban cho hoàng tử, hoàng tôn, hoàng thân, văn từ chánh ngũ phẩm, võ từ chánh tứ phẩm trở lên, ăn yến ở điện Cần Chính và hành lang 2 bên tả hữu. Con các thân phiên công đã phong đình hầu cùng là văn tòng ngũ phẩm, võ tòng tứ phẩm, cùng các viên được điểm vào chầu và các viên giải nộp vật hạng; hoặc diễn tập ở Kinh đều được dự. Sứ thần nước ngoài, thổ ty các hạt cũng cho ăn yến ở viện Đãi lậu bên tả. Gia thưởng cho sứ thần 2 nước Thủy xá, Hỏa xá là Sơn Thí, Kiệu Mộc, và thổ ty Trấn Tây là bọn Mộc Tức: các thứ chè, hoa quả, quạt, khăn tay.
Bản dập mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ tam kỷ”, quyển 57, mặt khắc 2.
Từ công tác chuẩn bị, đến việc định lệ các nghi thức và cách thức tổ chức trong ngày lễ chính được ghi chép trong tài liệu Mộc bản, chúng ta thấy sự quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn dành cho ngày tết Đoan Ngọ. Thông qua đó, có thể hiểu được phần nào ý nghĩa của ngày tết này trong tâm thức của người Việt Nam.
Chú thích:
1.. Bản dịch sách “Đại Nam thực lục” của Viện Khoa học xã hội, Viện Sử học, NXB Giáo dục, 2007 và Mộc bản sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 14.
……………
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ sơ H21/28, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
2. Hồ sơ H22/68, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV;
3. Hồ sơ H23/58, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Hoàng Thị Ánh Phượng (Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)
Vua triều Nguyễn ban gì cho các quan trong ngày Tết Đoan ngọ?
Tiết Đoan dương (hay Đoan ngọ) là một lễ lớn trong triều đình nhà Nguyễn. Vào ngày này, nhà vua thường có quà tặng đặc biệt cho văn võ bá quan.
Các triều đại phong kiến ở nước ta đều lấy các ngày chính đán (Tết Nguyên đán), Đoan dương và Vạn thọ (ngày sinh nhật vua) là ngày lễ lớn trong năm. Ở triều Nguyễn, vào các dịp lễ này, nhà vua đều đặt nghi lễ đại triều ở điện Thái Hòa, hoàng thân và trăm quan đều đứng vào ban ở sân điện, dâng biểu chúc mừng, sau đó được nhà vua cho ăn yến và ban thưởng. Các quan địa phương ở bên ngoài đều theo ban, đứng chầu và lạy mừng ở hành cung dựng ở mỗi tỉnh.
Quà mà vua triều Nguyễn ban cho tôn thất và các quan bao gồm quạt, khăn tay, chè và hoa quả.
Vào Tết Đoan ngọ, vua nhà Nguyễn thường thiết đại triều, trăm quan vào lạy mừng, sau đó được ban yến và quà tặng. Ảnh: Tư liệu.
Từ triều Minh Mạng đã quy định tiết Đoan dương là ngày lễ lớn, nhưng sử chỉ ghi "cho các quan cùng sứ thần Hỏa Xá, Trấn Tây, thổ ty Tân Cương dự ăn yến và ban thưởng" mà chưa ghi chi tiết các món ban thưởng cho các quan.
Bộ sử Đại Nam thực lục, Chính biên, đệ tam kỷ (thực lục về Hiến tổ Chương hoàng đế, tức vua Thiệu Trị), viết chi tiết về nghi lễ này vào năm Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), như sau:
“Mùa hạ, ngày tiết Đoan dương, vua dẫn quần thần đến cung Từ Thọ (nơi ở của hoàng thái hậu) làm lễ khánh hạ. Lễ xong, vua về ngự điện Văn Minh, các hoàng tử, hoàng thân, quan văn từ ngũ phẩm, quan võ từ tứ phẩm trở lên đều mặc đồ đẹp, đến sân điện chiêm bái”.
Vua Thiệu Trị sinh ngày 11/5, nên tháng 5 sẽ có hai đại lễ là tiết Đoan dương và Vạn thọ. Khi bộ Lễ tâu bày vào hai tiết này, xin thiết triều để cho các quan lạy mừng vì vua Thiệu Trị vừa mới lên ngôi, đang còn trong thời hạn để tang vua cha là vua Minh Mạng, nên nhà vua dụ rằng:
“Đến hai ngày tiết này, trẫm sẽ ngự ra điện thường, hoàng thân và các quan mặc đồ đẹp, vào tham bái, đủ tỏ lòng thành khẩn; trên kỳ đài chỉ kéo cờ vàng suốt ngày. Trước một ngày và chính ngày tiết, các quan chức ở điện đình đều mặc áo khăn màu lam, màu đen để theo hầu. Còn lễ triều hạ và bắn súng mừng, treo cờ mừng đều bãi cả”.
Vua cũng dụ các quan nội các: “Đoan ngọ là một tiết tốt giữa năm, nay tuy đình việc triều hạ, cũng nên ban thưởng để đón tiếp phước lành. Vậy thưởng cho hoàng tử, hoàng thân, văn từ chánh ngũ phẩm, võ từ chánh tứ phẩm trở lên các thứ quạt, khăn tay, chè, quả, theo như lệ”.
Trước đó, năm Thiệu Trị thứ nhất, khi nhà vua vừa lên ngôi, đã phán rằng: “Đoan dương và Vạn thọ đều là tiết lớn trong một năm, tỏ lời chúc mừng, đều bởi lòng thành của tôi con. Nhưng vì ta đang có tang, ngày hôm ấy ta thân đến làm lễ trước ban thờ Hoàng khảo, thương khóc không ngớt, mà lại lấy ngày ấy đặt ban chầu, chúc mừng, so với tình và lễ, trong lòng cảm thấy không yên”.
Năm đó, nhà vua chỉ yêu cầu vào chính ngày tiết Đoan dương và một ngày trước chính nhật tiết Vạn thọ, ở trên kỳ đài trong Kinh đều treo cờ vàng, các quan viên lớn nhỏ chầu hầu; ở bên ngoài, từ các quan địa phương đến các thuộc viên văn võ làm việc ở công đường đều mặc cát phục. Còn các việc dâng biểu mừng, bắn súng mừng và việc các quan địa phương ở ngoài đứng chầu theo ban đều bãi hết.
Cũng bộ sử này, chép nghi lễ Tết Đoan dương vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) đầy đủ hơn, với các chi tiết như sau:
“Tiết Đoan dương, vua đem các quan đến chầu ở cung Từ Thọ. Khi làm lễ xong, vua ngự điện Thái Hoà, nhận lễ mừng, ban cho hoàng tử, hoàng tôn, hoàng thân, văn từ chánh ngũ phẩm, võ từ chánh tứ phẩm trở lên, ăn yến ở điện Cần Chính và hành lang 2 bên tả hữu. Vua ban cho các tôn thất và các quan quạt, khăn tay, chè, hoa quả có từng bậc”.
Nghi lễ này tiếp tục được thực hiện trong các đời vua nhà Nguyễn tiếp theo.
Riêng năm Tự Đức thứ 12 (1859), sử có viết một số chi tiết rõ ràng hơn về các món quà tặng của nhà vua: “Tết Đoan dương, vua ban quạt tre hoa, hà bao gấm cho các thân phiên, hoàng thân, đình thần và các quan, các viên tùy phái ở quân thứ Quảng Nam, Gia Định, cùng viên biền trú phòng cửa biển Thuận An, Tư Hiền, đều có thứ bậc khác nhau”.
Đến năm sau, Tự Đức năm thứ 13 (1860), nhà vua mới cho đổi đặt lại nghi vệ tiết Đoan dương từ đại triều sang thường triều. Lệ trước, tiết Đoan dương vẫn đặt đại triều để chúc mừng, còn ngày tiết Đông chí đặt thường triều. Tháng 4 năm ấy, vua cho là tiết Đông chí khí đương ngày lớn dần lên, nên yêu cầu bộ Lễ kê cứu đổi tiết Đoan dương làm thường triều, tiết Đông chí làm đại triều hạ. Lệ này được quy định từ đó về sau.
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép về phong tục nhân dân thời ấy như sau: “Tết Đoan ngọ chuẩn bị đầy đủ rượu và hoa quả lễ tổ tiên từ sáng sớm. Mọi người đều uống rượu, ăn hoa quả, gọi là giết sâu bọ. Hôm ấy người ta hái các loại thuốc cất giữ để sử dụng, hái lá ngải tùy theo năm mà bó thành hình con vật tượng trưng của năm đó…”.
news.zing.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét