Lê Văn Duyệt là con của Lê Văn Toại, sinh quán là Mỹ Tho (Tiền Giang) nhưng tổ tiên vốn người Quảng Ngãi. Lê Văn Toại có tất cả bốn người con trai, Lê Văn Duyệt là con trưởng. Sử cũ mô tả rằng Lê Văn Duyệt người thấp bé nhưng lại có sức mạnh hơn người.
Ông được coi là hoạn quan nhưng ngay khi mới sinh ra, ông đã là người thuộc loại ái nam ái nữ chứ không phải là chịu hoạn khi làm quan. Năm 1780, khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương ở Gia Định. Lê Văn Duyệt (lúc này mới 16 tuổi) được chọn làm quan Thái giám. Từ đó trở đi, cuộc đời của Lê Văn Duyệt gắn bó chặt chẽ với Nguyễn Phúc Ánh. Nhờ có biệt tài cầm quân, Lê Văn Duyệt dần dần trở thành một võ tướng xuất sắc. Điều này, chính Nguyễn Phúc Ánh cũng không ngờ. Lê Văn Duyệt được Nguyễn Phúc Ánh tin cậy mà giao việc chỉ huy Tả quân, đồng thời, nhiều phen trao quyền Tiết chế, điều khiển cả các danh tướng như Nguyễn Văn Thành, Lê Chất... Khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long. Lê Văn Duyệt được trao phó rất nhiều trọng trách, trong đó, trọng trách mà Lê Văn Duyệt đảm nhận lâu dài nhất là Tổng trấn Gia Định, tức đứng đầu toàn bộ hệ thống chính quyền của triều Nguyễn ở vùng Nam Bộ ngày nay. Sau khi Lê Văn Duyệt mất (30 - 7 - 1832), chức Tổng trấn Gia Định bị bãi bỏ, Gia Định được chia làm sáu tỉnh (gọi là Nam Kì lục tỉnh), mỗi tỉnh có một tổ chức chính quyền trực thuộc hẳn vào triều đình trung ương.
Suốt một đời làm quan, hẳn nhiên là cũng có lúc Lê Văn Duyệt bị phạm lỗi, nhưng mức độ nặng nhất thì cũng chỉ là phê bình, nhưng khi đã nhắm mắt xuôi tay, Lê Văn Duyệt lại bị xét xử với một bản án hết sức nặng nề. Vụ án Lê Văn Duyệt có nguồn gốc trực tiếp từ cuộc khởi binh của con nuôi Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi tại Gia Định, sau khi Lê Văn Duyệt đã qua đời. Mặc dù không hề can dự, và mặc dù việc Lê Văn Khôi khởi binh cũng có phần vì những hành vi ngang ngược của các quan lại do triều đình phái đến, nhưng Lê Văn Duyệt vẫn bị coi như là thủ phạm chính. Sau nhiều phen bàn nghị, Lê Văn Duyệt bị xử với 7 tội đáng chém, hai tội đáng đem đi treo cổ, ngoài ra, còn nhiều hình phạt khác nữa. Bản án Lê Văn Duyệt được sách Đại Nam chính biên liệu truyện (Sơ tập, quyển 3) chép lại như sau:
“Đình thần nghị án để dâng lên, chỉ rõ những lời nói và việc làm bội nghịch (của Lê Văn Duyệt), buộc bảy tội đáng xử chém là:
01 - Dám sai người của mình, tự tiện đi Miến Điện để làm các việc ngoại giao (vốn là chức trách của triều đình).
02 - Xin được đưa tiễn thuyền của nước Anh Cát Lợi (tức nước Anh - NKT) về đến thành (Gia Định) để tỏ rõ là có quyền.
03 - Xin giết Thị vệ là Trần Văn Tình để khóa miệng người.
04 - Kháng sớ tâu xin giữ người đã được (triều đình) triệu về để bổ làm quan.
05 - Chứa riêng khống chỉ có đóng sẵn ấn của vua.
06 - Cậy bè đảng riêng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
07 - Gọi mồ cha của mình là lăng, đồng thời, khi nói chuyện với mọi người dám tự xưng mình là cô.
(Lê Văn Duyệt) còn bị xử phải đem treo cổ vì hai tội sau:
01 - Cố xin dung nạp bọn người Miến Điện để làm chuyện bất minh. 02 - Dám nói với mọi người rằng mình từng xin được thơ tiên, trong đó có câu nhắc chuyện hoàng bào ở Trần Kiều.
Xử tội phải bắt làm lính vì đã tự tiện sai binh sĩ đi đóng thuyền cho mình.
Xử tội phải đem xẻo thịt cho chết bởi (Lê Văn) Duyệt là kẻ đầu sỏ, là cội nguồn của cuộc biến loạn ở Phiên An (chỉ việc khởi binh của Lê Văn Khôi - NKT) nhưng vì hắn đã bị Diêm Vương bắt đi rồi (ý nói đã chết - NKT ) nên xin thu hết bằng sắc rồi đào mả; lấy quan tài ra chém xác để làm gương răn đời. Tất cả những sắc phong cho ông bà tổ tiên hắn đều phải thu lại. Mồ mả tổ tiên hắn, nếu có tiếm xây trái phép đều phải đập phá đi. Những thê thiếp và con cháu gọi hắn bằng chú hoặc bằng bác đều theo thứ tự thân sơ mà xử tội. Tài sản của hắn thì tịch thu hết.
Án dâng lên, những người xin xử chém (Lê Văn Duyệt) đều xin giảm xuống hình phạt bắt giam để sau đem chém và những ai ở hàng thân thuộc từ mười lăm tuổi trở xuống thì chỉ xin tạm bắt giam, bé quá chưa biết thì thôi, không bắt. Mười ba người đàn bà lúc đầu bị phạt bắt làm nô tì, sau cũng xin cho thả cả. Việc đào mồ lấy quan tài lên để chém xác cũng không thi hành.
Vua sai bộ Hình sao bản án này gởi xuống tận các tỉnh, cho phép các quan Đốc và quan Phủ được quyền dâng ý kiến riêng của mình lên. Kết quả như sau:
- Lạng Bình Hộ phủ là Trần Huy Phác xin chém ngay thê thiếp và con cháu của (Lê Văn) Duyệt, còn thì xin theo lời đình nghị.
- Quảng Yên Hộ phủ là Dục Đức tâu xin chém những kẻ phạm tội từ mười sáu tuổi trở lên, còn thì xin theo lời đình nghị.
- Bình Phú Tổng đốc là Vũ Xuân Cẩn và Ninh Thái Tổng đốc là Hoàng Văn Trạm nói đại để là xin theo lời đình nghị, tuy nhiên cũng có thể cho lấy công bù tội, hoặc giả là châm chước thêm bớt thế nào thì xin nhờ ở ơn trời.
Vua (đọc những ý kiến trên) dụ rằng : như vậy là lẽ trời không sai, đạo chung ở lòng người, thật khó mà che được. Kẻ quen gieo ác, thiên hạ cùng giận, muôn lời cùng dâng về đây. Tất cả cùng một ý, tỏ rằng án này đúng mãi với muôn đời. Tội ác của Lê Văn Duyệt nhiều còn hơn cả tóc, thật khó mà đếm nổi, chỉ nghĩ tới đã đau lòng, giá có đập quan tài, lấy xác ra mà chém cũng chẳng có gì quá đáng. Song, trẫm nghĩ là nó chết cũng đã lâu, trước đã bị Diêm Vương làm tội, lại đã bị (triều đình) lột hết quan chức, còn nắm xương khô trong mồ ta cũng chẳng thèm gia hình. Nay, sai Tổng đốc tỉnh Gia Định đến chỗ mồ hắn, san bằng đi rồi dựng lên đó tấm bia đá khác tám chữ quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ (nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu hình phạt). Làm như thế để tỏ tội danh sau khi chết, đồng thời để phép nước cho đời sau, khiến những kẻ gian ngoan vạn lần lo sợ mà tự răn mình...".
Lời bàn:
Vì sao có vụ án Lê Văn Duyệt và bản án dành cho Lê Vền Duyệt nặng nhẹ hoặc đúng sai thế nào, xin kính nhường lời bàn cho bạn đọc. Điều cần nói thêm ở đây chỉ là : những gì được coi là tội trạng không thể dung thứ của Lê Văn Duyệt, đều xảy ra khi Lê Văn Duyệt còn sống. Bấy giờ, vua chỉ một lần phê bình còn các quan thì không ai coi Lê Văn Duyệt là người có tội cả. Nếu bảo lúc ấy ai ai cũng sợ uy Lê Văn Duyệt nên biết đấy mà chẳng dám nói ra, thì xin tặng mỗi vị một chữ : hèn ! Nếu bảo lúc ấy chưa ai thẩy hết sự nguy hiểm và tính ác độc trong hành vi của Lê Văn Duyệt thì xin tặng hương hồn mỗi vị một chữ : kém !
Còn như xét tội mà tùy theo sở thích nhất thời của một người nào đó, thì trăm lạy các quan, chính trường lẽ đâu lại giống những màn hài kịch đến thế.
NHỮNG ĐIỀU LI KỲ TRƯỚC KHI LÊ VĂN DUYỆT QUA ĐỜI
Bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập) đã dành hẳn cả hai quyển 22 và 23 để chép chuyện Lê Văn Duyệt. Tất nhiên, cũng có vài nhân vật khác được nhắc đến trong hai quyển này, nhưng đó chẳng qua là vì họ có chút ít liên hệ với Lê Văn Duyệt, nhắc đến để làm rõ thêm chuyện về Lê Văn Duyệt mà thôi.
Đoạn cuối của quyển 23 đã chép một số chuyện li kì xảy ra trước lúc Lê Văn Duyệt qua đời như sau:
“Trước khi (Lê Văn) Duyệt bị bệnh, thành Gia Định không hề có gió, vậy mà cán cờ ở trong thành bỗng dưng bị gãy. Hơn một tháng sau, (Lê Văn) Duyệt đi tuần ở biên cảnh, vừa ra ngoài thành thì con voi ông đang cưỡi tự nhiên phục xuống đất rồi gầm lên, đánh mấy nó cũng không chịu dậy, ông bèn phải xuống để lấy ngựa mà đi. Đi được chừng một dặm, ngựa cũng chẳng chịu đi nữa. (Lê Văn) Duyệt lấy làm lạ, bèn nói với người nhà rằng có lẽ ta sắp bị bệnh.
Một hôm (Lê Văn Duyệt) chuẩn bị thưởng cấp cho tướng sĩ, sai người nhà đem 50 quan tiền để sẵn ra đấy, chẳng dè, vừa chợp mắt được một lúc thì tiền đã không cánh mà bay. Ông ngờ là có kẻ trộm, ra lệnh tìm bắt rất gấp. Bỗng ông thấy trên nóc nhà mình có người đang ngồi giữ đống tiền, thoạt trông giống như mô đất, bèn sai người bắc thang trèo lên bắt, nhưng lên đến nơi thì người giữ tiền ấy đã biến mất mà đống tiền thì vẫn còn y nguyên.
Hôm khác, có ông già vai đeo bầu, ăn mặc ra vẻ dân quê, đến nói với người canh cửa rằng:
- Hãy vào báo với Lê tướng quân, rằng có ta là cố nhân đến.
Người canh cửa lấy làm lạ, chạy vào báo với (Lê Văn) Duyệt. (Lê Văn) Duyệt liền cho người ra. Đến bờ sông (sông Sài Gòn, vì thành Gia Định, nơi Lê Văn Duyệt đóng, ở sát sông Sài Gòn - NKT), thấy ông già ấy đang rửa bầu và nói rằng:
- Ta muốn đón tướng quân của mày đi tu tiên, nhưng mà tướng quân của mày không thể tu tiên được.
Nói rồi thì phấp phới bay đi, không biết về đâu. Người canh cửa về báo lại. (Lê Văn) Duyệt nói rằng:
- Tiên thật à ? Hay là ma muốn làm hại ta đấy ?
Vài ngày sau (Lê Văn Duyệt) bị bệnh nhẹ rồi mất".
Lời bàn:
Lê Văn Duyệt vốn dĩ là hoạn quan, nhưng lại cũng là hổ tướng, bao phen vào sinh ra tử để theo phò Nguyễn Phúc Ánh, sau là đại thần trải thờ hai đời vua đầu triều Nguyễn, danh vọng lừng lẫy một thời, thế thì nếu ông có chút gì đó khác thường so với tất cả những người thường, ấy cũng là lẽ tự nhiên. Khi ông còn sống, những chuyện khác thường ấy sẽ được thiên hạ háo hức kẻ cho nhau nghe. Vẫn biết người xưa thích kể cho nhau nghe những chuyện li kì, nhưng nào phải bất cứ ai cũng được người xưa hào phóng tặng cho nhiều chuyện li kì như Lê Văn Duyệt đâu.
Cán lá cờ hiệu của ông đã gãy, con voi chiến và con ngựa chiến một đời gắn bó đã quay mặt với ông, kẻ trộm thì vào tận nhà, còn bậc có thể rước ông đi tu tiên thì chối từ mà bay mất … phút cuối cuộc đời của Lê Văn Duyệt là vậy !
PHÍA SAU VỤ ÁN TRẦN NHẬT VĨNH
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 23), nhân chép chuyện Lê Văn Duyệt, đã chép chuyện quan dưới quyền của Lê Văn Duyệt là Trần Nhật Vĩnh nhưng không cho biết Trần Nhật Vĩnh quê quán ở đâu, sinh và mất năm nào.
Theo sách nói trên thì vào năm Minh Mạng thứ tám (1827). khi Lê Văn Duyệt đang làm Tổng trấn Gia Định thì Trần Nhật Vĩnh được cử giữ chức Tham tri Tào Hộ ở Gia Định thành. Nhưng cũng năm ấy, Trần Nhật Vĩnh bị Trung sứ của triều đình đến bắt giải về kinh đô Huế và bị tống giam. Chuyện được chép vắn tắt như sau:
“Quan giữ chức Tham tri ở Tào Hộ của Gia Định thành là Trần Nhật Vĩnh, xử việc nhanh nhẹn, được (Lê Văn) Duyệt rất tin dùng. Nhưng, (Trần) Nhật Vĩnh là kẻ gian xảo và hiểm độc, đã thế lại còn tham ăn của đút lót và cậy thế để kiếm lợi riêng, thậm chí, chiếm tài sản, dỡ nhà và cướp vợ của người ta. Mọi người biết nhưng vì sợ sự hiểm độc của hắn nên không dám tố cáo.
Vua sai Trung sứ đến bí mật khảo xét mọi điều mà (Lê Văn) Duyệt vẫn không hay biết gì. Sau, (Trần Nhật) Vĩnh bị triệu về kinh đô, hắn đi chưa đầy một tháng thì dân trong hạt đã thi nhau nạp đơn kiện. Bấy giờ, (Lê Văn) Duyệt mới biết là (Trần Nhật) Vĩnh làm lỡ việc, bèn đem việc tâu lên, tự nhận tội đã dùng người một cách bừa bãi. Vua lập tức sai tống giam (Trần Nhật) Vĩnh và xuống dụ cho (Lê Văn) Duyệt rằng:
- Trước đây, ngươi từng nghe lời bất chính của (Trần) Nhật Vĩnh nên làm nhiều việc sai trái, chứng cớ tâu lên kể cũng đã nhiều, nhưng trẫm nghĩ công lao to lớn của ngươi nên không trách mắng. Nay, tuổi ngươi đã cao, biết hối lỗi mà đem việc Trần Nhật Vĩnh ra xin nghiêm trị, dâng lời biểu nhận lỗi rất chân tình. Trẫm đã biết rõ lòng thành của ngươi. Có lỗi mà biết hối lỗi thì thánh nhân còn tha cho, huống chi là trẫm với ngươi ? Tất cả những lời tự xin triều đình nghị bàn xét xử, trẫm đều tạm gia ân mà tha cho. Vậy, trẫm ân cần chỉ bảo và mở lối cho ngươi để ngươi được yên tâm. Từ nay, ngươi phải dốc lòng giữ tiết của bậc tôi trung, chọn người (cho thận trọng) mà dùng, chọn lời (cho kĩ lưỡng) mà nghe, chớ vội vã mà đắc tội, có thế mới giữ được tiếng tốt và danh thơm xứng đáng với ý tốt của ta trong việc bảo vệ các công thần".
Lời bàn:
Nếu niềm tin của triều đình đối với Lê Văn Duyệt mà vẫn còn, ắt chẳng bao giờ có việc bí mật sai Trung sứ đến khảo xét và bắt luôn quan Tham tri Tào Hộ là Trần Nhật Vĩn mà giải về kinh đô. Lê Văn Duyệt là người hoàn toàn vô tội chăng ? Xem việc ông dâng lời tâu, tự nhận lỗi dùng người một cách tùy tiện, đồng thời xác nhận những hành vi sai trái của Trần Nhật Vĩnh cũng đủ thấy là ông không hoàn toàn vô can.
Triều đình xử án, chỉ nói tội danh mà không nói tội trạng, cho nên, thật khó mà quả quyết Trần Nhật Vĩnh đáng kết án ra sao. Với những tội đã nêu mà Trần Nhật Vĩnh chỉ bị tống giam, thì chỉ có hai khả năng, một là triều đình giơ cao đánh khẽ, hai là triều đình chỉ cốt mượn việc xử Trần Nhật Vĩnh để cảnh cáo Lê Văn Duyệt đó thôi.
Phía sau vụ án Trần Nhật Vĩnh, cứ đọc tiếp sử cũ thì sẽ rõ, đó chẳng qua chỉ là khúc dạo đầu cho màn bi kịch mà triều đình sắp sửa dành cho quan Tổng trấn Gia Định thành là Lê Văn Duyệt đấy thôi. Sử sách đoạn này đầy những chuyện vu khống và hãm hại lẫn nhau. Hỡi ôi, khi chưa được làm quan, ai cũng tâm niệm rằng quan nhất thời ... vậy mà khi đã được làm quan rồi, hình như chẳng còn ai chịu nhớ tới câu quan nhất thời... nữa... Buồn thay !
(Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Cần )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét