Giữa một vùng đồng bằng mênh mông sông nước, một dãy núi nổi lên lô xô với những cái tên thật gợi cảm, đó là dẫy Thiên Thai thuộc địa phận xã Đông Cứu (Gia Bình), nơi đây không chỉ là một danh lam sơn thủy hữu tình với một tiểu vùng khí hậu trong lành mà còn là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị của Bắc Ninh như đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh và có tới 11 ngôi đình, chùa, đền khác, chen giữa những xóm làng ẩn khuất ven sườn núi rợp mát bóng cây. Cảm giác về một miền sơn cước giữa vùng đồng trũng quả thực là một cảm giác lạ lùng khiến chi chân người như bị níu kéo dùng dằng để rồi bất chợt gặp gỡ, ồn ào náo nhiệt nhưng ngay sau đó lại bất chợt chìm vào nỗi cô quạnh của núi non.
Về núi Thiên Thai, đến cầu Hồ nhìn về phía đông đã thấy một vệt xanh mờ nhấp nhô của núi, những ngọn núi hiền lành như một bàn tay vẫy ngang tầm mắt. Qua cầu Hồ rẽ tay trái đi theo bờ đê bây giờ đã được xây con trạch bê tông chống tràn, mặt đê cũng đã đổ bê tông, xe chạy thật bon chừng gần 10km là tới chợ Núi, qua một con dốc nhỏ là đến đất Đông Cứu. Đỉnh dốc chẳng biết tự bao giờ đã là nơi dừng chân của du khách và trở thành một con phố nho nhỏ đìu hưu với những quán hàng đơn sơ mái tre, mái ngói, một vài người sửa xe đạp, xe máy, quán nước chè xanh, hiệu cắt tóc và mấy cửa hàng bầy bán vài thứ đồ gia dụng rẻ tiền. Thi thoảng con phố như bừng tỉnh bởi tiếng ồn của một chiếc xe công nông chở cát chạy qua nhưng sau đó chỉ còn lại tiếng ve sầu rền rĩ.“Trèo lên trên núi Thiên Thai, thấy chim Loan Phượng ăn Xoài biển đông”. Đó là một câu trong lời ca Quan họ của người Bắc Ninh. Cho đến giờ đôi khi người ta vẫn thấy những con chim lạ có sải cánh dài hay về đậu trên núi, đó có phải là chim Loan Phượng hay không thì không dám chắc nhưng chuyện đó như nhắc lại một thời xa xưa, Thiên Thai còn là một hòn đảo nhỏ nằm trên biển đông như một lá chắn dòng phù sa của các con sông bắt nguồn từ núi đồi vùng Đông Bắc chảy ra biển, cứ thế lâu rồi phù sa bồi lắng cũng nhờ có Thiên Thai mà tạo thành cả một vùng đồng bằng như hiện nay. Loài chim Loan Phượng bay vào từ phía biển cũng chọn Thiên Thai làm nơi đất lành. Con người từ xa xưa cũng đã chọn đây làm nơi an cư lạc nghiệp. Bởi dựa vào núi cao họ có thể tránh được bão lụt, lại có một vùng sông nước giầu tôm cá, một vùng đất màu mỡ để canh nông, trồng trọt, chăn nuôi duy trì cuộc sống của mình.Gia Bình, Lương Tài ngày xưa là một vùng đất rộng người thưa, đất đai mầu mỡ với những giống lúa gạo thơm ngon nức tiếng nhưng bây giờ đã khác, dân số ngày một đông hơn. Xã Đông Cứu có 6 thôn hiện nay có 8.000 nhân khẩu trong khi ruộng đất cấy lúa chỉ có 359 ha cộng thêm 10 ha ao hồ và 30 ha đất đồi rừng. Năm 1992 khi giao ruộng ổn định lâu dài cho nông dân, mỗi nhân khẩu của Đông Cứu được giao hơn 1 sào ruộng, nếu theo nhân khẩu hiện nay thì diện tích bình quân đầu người chỉ còn vài thước ruộng. Hiện nay thu nhập cho người làm ruộng rất thấp so với mặt bằng thu nhập xã hội, ruộng đất ít như vậy thì đời sống của người dân ở đây lại càng khó khăn. Ông Trần Hữu Lân, Chủ tịch UBND xã Đông Cứu cho biết xã có 8.000 dân thì thường xuyên có khoảng 1.000 người đi làm ăn xa, ông Lân cho biết thêm họ đi xa làm đủ nghề, từ lao động thủ công trên công trường xây dựng, buôn bán nhỏ ở thành phố lớn, làm cửu vạn ở chợ đường biên, đông nhất là làm thợ may ở các tỉnh phía Nam. Nhà nào cũng có người đi làm ăn ở nơi khác, người ở gần thì vẫn cấy lúa sau đó bỏ lại cho người khác trông nom, đến vụ thu hoạch mới về, người đi xa nữa thì bỏ ruộng cho người khác, số đông là độ tuổi không có ruộng, họ đi hàng năm mới về, có khi đem cả gia đình đi theo, nhập cư lâu dài ở nơi đất khách. Thu nhập của họ có thể là để ra vài chục triệu một năm, nhiều người may mắn đổi đời giầu lên nhanh chóng lại có tiền giúp anh em ở nhà xây nhà xây cửa khang trang, có người sau vài năm kiếm được cả tiền tỷ trở về quê làm cho cả làng trầm trồ thán phục, rồi họ lại giúp cho nhiều người khác con đường ra ngoài kiếm sống, làn sóng di cư làm ăn làm cho cả vùng sơn cước càng thêm quạnh quẽ đìu hiu.Nói như vậy không có nghĩa người Đông Cứu đã ngoảnh mặt lại phía quê hương của mình, quê hương vẫn là một điều thiêng liêng trong sâu thẳm của tâm hồn họ, hàng nghìn con người vẫn đang ngày đêm bám trụ trên vùng đất nghèo khó với một quyết tâm xóa đói giảm nghèo bằng trí tuệ và sức lực của mình. Theo chân chị Sáng Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Đông cứu đến thăm xưởng may của vợ chồng anh Duật ở thôn Yên Việt, gặp khách lạ, anh Duật ban đầu có vẻ bối rối nhưng sau ít phút anh kể cho chúng tôi biết về công việc của mình, về cái nghề thợ may mà anh tự học từ nhiều năm trước khi ấy đó là sự lựa chọn duy nhất có thể để duy trì cuộc sống cho bản thân và gia đình, khó khăn hơn cả là cái nghề may ở nơi phố núi, khách hàng cũng đều là người nghèo, may được bộ quần áo thì đồng chịu, đồng trả nên anh chị làm mãi cũng chẳng thoát nghèo, đã có lúc định đi làm ăn xa cùng với mấy người trong xóm nhưng cơ may đến với anh đó là việc may hàng công nghiệp xuất khẩu được mở mang, thế là anh chị mạnh dạn bỏ tiền mua thiết bị, lúc đầu may hàng chợ để bán, sau đó là nhận hợp đồng may gia công cho các cơ sở may lớn, công việc mỗi ngày một nhiều hơn, đòi hỏi phải phấn đấu cả về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất và mở mang nhà xưởng, anh chị trở thành ông chủ bà chủ từ lúc nào không biết, với gần 20 công nhân chủ yếu là con em trong gia đình, hàng xóm phi nội tắc ngoại, thu nhập của họ mỗi tháng cũng đã tiến đến con số xấp xỉ 1 triệu đồng. Chị Sáng cho biết thêm hiện nay toàn xã có 11 cơ sở may công nghiệp như của nhà anh Duật, các cơ sở này đã tạo việc làm cho gần 300 lao động địa phương.Đất đai không nhiều lại chia làm 3 loại thổ nhưỡng khác nhau, vấn đề làm giầu từ đất với Đông Cứu quả là nan giải, mấy năm rồi việc chuyển đổi mô hình trang trại cũng đã được triển khai, một số diện tích được cải tạo để thả cá và nuôi các loại vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, với 24 ha ao hồ, các trang trại của Đông Cứu đã tạo việc làm tại chỗ cho hơn 200 lao động nông nhàn. Trong các gia đình việc chăn nuôi theo hướng công nghiệp khá phát triển, nhất là nuôi gia cầm. Từ khâu ấp trứng cho đến nuôi gà, vịt thương phẩm đều cho thu hoạch đạt hiệu quả kinh tế cao, nhiều gia đình đã ổn định cuộc sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp theo phương thức mới.Về Đông Cứu hôm nay, trên những cánh đồng của Yên Việt, Hiệp Sơn, Đông Cao, Nghĩa Thắng, Cứu Sơn, Bảo Tháp là một màu xanh mướt, trong những căn nhà thường xuyên vắng chủ nay cũng xôn xao tiếng nói cười, đi dưới tán của rừng cây keo mới trồng, ngồi nghỉ bên bậc thềm của đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, thả hồn liên tưởng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của cả một vùng đất, nghe đâu một dự án đầu tư khu du lịch sinh thái gắn với văn hóa đang được tỉnh triển khai với dự toán nhiều tỷ đồng cho những hạng mục như đường giao thông, nhà nghỉ cuối tuần, hồ nước, trùng tu tôn tạo lại 12 di tích lịch sử. Đó là những thông tin vui ban đầu đối với người dân Đông Cứu nói riêng và cả Bắc Ninh nói chung. Tua du lịch sinh thái Thiên Thai mai đây sẽ hình thành, du khách sẽ có cơ hội hoà mình vào không khí yên bình của miền sơn cước, lắng nghe dòng sông Đuống thì thầm kể chuyện ngày xưa, về một vị Doãn Công giúp hai bà Trưng đánh giặc, về vị trạng nguyên tài thao lược mà cuộc đời bẩy nổi ba chìm và để hòa mình vào sự đổi mới của vùng đất Gia Bình.Đó là một viễn cảnh không xa, còn bây giờ, ngoài kia sông Đuống vẫn miệt mài mang đi những lời than thở của phù sa.
Núi thiên thai và những oan khuất...
Tôi vẫn hay thắc mắc, là tại một vùng quê tươi đẹp. Xung quanh một dãy núi có cái tên đẹp đẽ: Thiên Thai, tại sao lại liên quan đến tới ba vụ án oan khuất thiên cổ ngàn năm lưu truyền vậy! Tại sao?
“Trèo lên trái núi Thiên Thai
Thấy đôi chim loan phượng đang ăn xoài...”
Đó là một câu ca trong bài dân ca quan họ cổ mà chắc nhiều bạn đã nghe. Tôi đã nhiều lần trèo lên các đỉnh núi này. Nhưng không thấy chim loan phượng, cũng chả thấy cây xoài nào mà chỉ có thông. Trong sách xưa ghi lại chỉ nói đến thông...
Núi Thiên Thai ở vùng quê tôi thực ra là một dãy núi nhỏ nằm ngay cạnh bờ sông Đuống (sông Thiên Đức). Gồm chín ngọn nằm liền kề nhau, uốn lượn như hình dáng một con rồng đang vươn mình về phía biển. Cả nam Kinh Bắc chỉ có duy nhất một dãy núi này, làm thành điểm nhấn phong cảnh tuyệt đẹp giữa cả một vùng bát ngát đồng lúa, bãi ngô dâu quanh năm xanh ngát. Tương truyền rằng thời xa xưa lắm, ở trên đỉnh núi Thiên Thai có một ngôi chùa cổ. Tại đó có một cái vườn, trồng loài hoa hồng đào đặc biệt. Vườn Hồng Đào. Mỗi mùa xuân về nở hoa rực rỡ thành chùm buông xuống như đuôi cáo. Nhưng núi Thiên Thai không chỉ là danh lam thắng cảnh, mà nó hình như còn là ngọn núi thiêng trong tâm thức dân cả vùng. Quê tôi có tục lưu truyền trong dân gian là khi đặt mộ cho các cụ, hay để hướng mặt về phía núi Thiên Thai thì như thế linh hồn các cụ sẽ được vân du tiên cảnh. Cõi thiên thai chẳng phải là miền cực lạc của đạo tu tiên đó sao?
Thế nhưng núi Thiên Thai lại gắn liền với ba vụ án oan khuất lừng danh lịch sử đất Việt.
Vụ trạng nguyên khai khoa nước Việt, ngài Lê Văn Thịnh bị vu hóa hổ mưu giết vua ở hồ Dâm Đàm (Hồ Tây bây giờ). Nhà ngài Lê Văn Thịnh ngay dưới chân núi, nay đã biến gia vi tự. Đền thờ còn lại một bảo vật vô giá là pho tượng cổ con rồng tạc bằng đá khối, miệng cắn thân chân xé mình, mắt nhắm mắt mở, tai thông tai điếc. Lê Văn Thịnh đỗ đầu kỳ thi Minh Kinh Bác Học đầu tiên của nước ta năm 1075. Ngài làm quan trong triều vua Lý Nhân Tông đến năm 1095 thì xảy ra vụ án oan kia. Công lao học thức của Lê Văn Thịnh sử sách còn ghi chép đầy đủ. Bức tượng con rồng kia phải chăng là một nghệ nhân dân gian nào đó đã gửi những thông điệp về nỗi oan khuất thấu trời xanh của một con người hết lòng phụng sự quốc gia. Những nỗi oan khuất ấy khó nói nên thành lời trong đêm dài phong kiến hà khắc. Chỉ buồn nỗi thời nay, có nhà soạn kịch nào đó, do kiến văn hạn hẹp lại không rành sử sách nên đã vu oan cho ngài thêm một lần nữa. Nhưng nhân dân vùng quê tôi vẫn hương khói ngài chu đáo. Các cháu học sinh trong vùng, mỗi khi vào năm học mới, đi thi cử vẫn đến thắp hương ngài cầu mong phù hộ độ trì. Rất linh.
Dịch theo chân núi về phía đông khoảng ba ki lô mét là Lệ Chi Viên (vườn vải), nguyên là hành cung của các vua từ triều Trần sang triều Lê vẫn còn sử dụng. Năm 1442 ông vua Lê Thái Tông đi tuần du đông bắc, ghé thăm khai quốc công thần Nguyễn Trãi đang nghỉ hưu ở núi Côn Sơn gần đó. Rồi đem theo nàng thiếp yêu của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ về “hầu” ở hành cung Lệ Chi Viên đêm 04/8/1442. Và đêm ấy vua chết tại đó. Bằng con mắt khoa học và lịch sử bây giờ chúng ta phân tích thì thấy rằng Lê Thái Tông là một ông vua nổi tiếng chơi bời ham mê tửu sắc, có nhiều khả năng ngài đã bị chứng “thượng mã phong” làm cho đột tử.
Thế nhưng với những cái đầu đầy đố kị và ganh ghét với Ức Trai tiên sinh, lại cộng hưởng thêm những cuộc đấu đá cung đình tranh giành quyền lực thì việc nhà vua chết khi đang ở cùng bà Nguyễn Thị Lộ là một cái cớ bằng vàng, để cho những kẻ thâm thù đổ hết mọi sự lên đầu Nguyễn Trãi. Và ngày 16/8/1442, vừa qua rằm tháng 8 một ngày, ba họ nhà Ức Trai tiên sinh cùng nàng Lễ Nghi Học Sĩ Thị Lộ đã phải rơi đầu...
Tàn tích bốt Pháp xây đỉnh núi Thiên Thai
Đã rất nhiều năm nay, cứ đến ngày này là chiều tối tôi thắp một nén hương bái vọng, rồi ra đầu đê nhìn về núi Thiên Thai. Tương truyền rằng ba họ nhà Nguyễn Trãi bị hành hình vào lúc nhập nhoạng tối như thế. Bởi họ oan khuất quá, ngay những kẻ chủ mưu cũng biết, không dám đem ra xử giữa thanh thiên bạch nhật như lệ thường. Chúng lén lút giết hại công thần và người ngay. Trăng mười sáu mới nhô lên đỉnh núi Thiên Thai năm nào cũng đỏ rực. Trong giây lát cả dãy núi dường như nhuốm màu máu đỏ...
Chếch theo hướng tây theo đường chim bay cũng độ ba ki lô mét là nơi sinh ra và nơi thờ tự của trạng nguyên Nguyễn Quang Bật, thôn Thượng Vũ, xã An Bình. Ông đỗ trạng nguyên năm 1484 đời vua Lê Thánh Tông. Là thành viên của “Tao đàn nhị thập bát tú”. Làm quan thanh liêm cương trực nổi tiếng. Và ông chết vì tính tình cương trực của mình: Kiên quyết theo mệnh tiên vương, không lập Lê Uy Mục làm vua. Đến khi tên “Quỷ Vương” (tên dân gian đương thời và cả sứ giả nhà Minh gọi ông vua này bởi sự độc ác và tàn bạo) này chiếm được ngôi vua đã trả thù. Uy Mục bức tử Nguyễn Quang Bật trên đường đi trấn thủ Quảng Nam tại sông Phúc Giang. Trước khi chết vị trạng nguyên này còn làm một bài thơ. Bài thơ này còn lưu truyền đến ngày nay...
Tôi vẫn hay thắc mắc, là tại một vùng quê tươi đẹp. Xung quanh một dãy núi có cái tên đẹp đẽ: Thiên Thai, tại sao lại liên quan đến tới ba vụ án oan khuất thiên cổ ngàn năm lưu truyền vậy! Tại sao?
Nhưng muốn tại sao thì tại, núi Thiên Thai vẫn xanh tươi bên dòng Thiên Đức. Dân vùng tôi khi lập mộ cho người đã khuất vẫn luôn để mặt họ nhìn về núi Thiên Thai. Phải chăng đó cũng là ước vọng của muôn đời về một cuộc sống như chốn thiên thai cực lạc trong những câu chuyện lưu truyền vẫn rì rầm đêm đêm nơi thôn xóm...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét