Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019

Đình Xuân Dục- Đình thờ Thần Nam Phổ và Lý Tam Lang

Đình ở làng Xuân ổ, tổng Yên Thường, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Xuân Dục, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

1. Đình Xuân Dục thờ ai

Đình thờ 2 vị thần là Nam Phổ và Lý Tam Lang. Nam Phổ là một trong 50 người con của Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, đã theo cha là Lạc Long Quân xuống khai phá đồng bằng ở làng Xuân Ô, trang Yên Thường. Vào năm 40 sau công nguyên, khi Hai Bà Trưng đứng lên khởi nghĩa dừng chân nghỉ ở vùng Xuân Ô, đêm nằm mộng thấy một người hiện lên xưng là thủy thần Nam Phổ là con của Lạc Long Quân muốn giúp Hai Bà dẹp giặc.
Đình Xuân Dục hà nội
Đình Xuân Dục ngày nay
Trận đó Hai Bà Trưng đã chiến thắng trận. Sau khi lên ngôi, Hai Bà nhớ đến công ơn của Nam Phổ, đã cho dân làng Xuân Ô dựng đình thờ thần và phong cho là Tuyên Linh đại vương. Thần Lý Tam Lang nguyên là vị quan phó chỉ huy sứ thời Lý, đã có công mộ hương binh và gia thần đi đánh Chiêm Thành ở phía Nam. Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, ông được vua Lý ban lộc điền ở huyện Đông Ngàn nhưng ông xin về trí sĩ, mở trường dạy học cho con em trong vùng. Khi ông mất được dân chúng phụng thờ, được triều đình ban sắc phong là Thượng đẳng phúc thần.

2. Thiết kế tại Đình Xuân Dục

Đình Xuân Dục đã được xây dựng từ lâu, đến đời Lê Trung Hưng , được triều đình sắc phong, tiếp đời Cảnh Trị (1633 – 1671), Dương Đức (1672 – 1673), Chính Hòa (1680 – 1705). Đình đã được tu sửa nhiều lần, lần cuối cùng vào năm 1934. Lần sửa chữa này được ghi chép trên câu đầu và các chân tảng kê ở cột hiên. Đình được dựng trên một khu đất cao, rộng phía trước có hồ vuông và hồ bán nguyệt. Đình quay mặt về hướng Nam, gồm nhà đại đình, nhà cầu và hậu cung.
Về thiết kế Đại đình là một tòa nhà rộng có 4 mái với các góc đầu đao cong, đắp hình rồng quay về nóc. Bờ nóc và bờ dải được đắp kiểu chữ “công”. Bờ dải đắp tượng rồng nghê bằng các mảnh sứ, gồm 5 gian, 2 chái, có 6 bộ vì chính bằng gỗ lim rất chắc chắn, mỗi bộ vì có 6 hàng chân, các cột có kích thước lớn, chu vi cột cái là 185cm, cột quân là 160cm, cột hiên là 150cm. Các bộ vì được làm kiểu “chồng giường, giá chiêng”. Các bộ vì và kết cấu đầu hồi được liên kết chặt chẽ bằng những xà dài thượng, hạ. Đáng chú ý là trên 12 cột quân, phần dưới xà thượng đều được chắp với nhau bởi các mảng gỗ chạm trổ và xoè rộng ra hai bên cột, vừa có giá trị mĩ thuật vừa là kĩ thuật liên kết cố định. Các cấu kiện gỗ trong đại đình đều được chạm khắc các hình rồng ổ, người có cánh, cưỡi ngựa rồng và cảnh chuốc rượu… các bức cốn nách cũng được chạm các hình rùa chở lạc thư, long mã chở hà đồ và các vân hoa, lá mây, lửa…
Nhà cầu nối đại đình và hậu cung gồm 3 gian xây dọc. Mái được làm 2 tầng, vì trên được làm theo kiểu “thượng gịường, hạ bẩy”, hai mái dưới chồng giường nách kết hợp với kẻ hiên, giữa hai mái được bưng bằng ván gỗ để mưa không hắt vào.
Hậu cung là một tòa nhà 3 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì được làm theo kiểu “chồng giường giá chiêng hạ kẻ”. Gian giữa hậu cung có sàn gỗ cao 120cm để đặt long ngai, có chạm rồng chầu. Hai mặt ngoài của tường hồi có đắp đôi rồng chầu mặt hổ phù.
Nhìn chung, kiến trúc và điêu khắc của đình mang phong đậm cách thế kỉ 18 và 19. Đình còn lưu giữ được 33 đạo sắc phong của các đời Lê, Tây Sơn và Nguyễn, đạo sắc phong cổ nhất có niên hiệu Cảnh Trị (1633-1671).
Trải qua những năm tháng kháng chiến chống Pháp, rất nhiều đình quanh Hà Nội bị tàn phá, đình Xuân Dục rất may mắn còn giữ được nguyên vẹn. Đình đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật ngày 5.2.1994.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét