Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

THEO DẤU THÀNH LŨY CỤ PHAN

Hoang sơ nơi “tụ binh dấy nghĩa”

Khu căn cứ Vũ Quang là nơi đóng đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX nằm trong dãy rừng nguyên sinh thuộc xã Hương Quang, huyện Vũ Quang (Hà Tĩnh).
Khu căn cứ địa của nghĩa quân Phan Đình Phùng nằm cách trung tâm thị trấn Vũ Quang và đường mòn Hồ Chí Minh khoảng 25km theo tuyến tỉnh lộ 5 hướng về phía biên giới Việt Nam - Lào. Trước đây, có thể chạy xe dọc theo những cánh rừng nguyên sinh vào “đồn tiền tiêu” của căn cứ. Từ sau khi Dự án thủy lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang được triển khai xây dựng, chỉ còn con đường độc đạo di chuyển bằng thuyền, sau đó tăng - bo bằng xe máy đi sâu vào bên trong.
Phan Đình Phùng sinh năm 1947, quê ở làng Đông Thái, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1876, ông đậu cử nhân. Một năm sau, ông đậu Đình nguyên Tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình), sau đó được đổi về Kinh đô Huế, giữ chức Ngự sử Đô sát viện. Cụ Phan nổi tiếng về tính cương trực và khẳng khái. Năm 1883, khi thấy Tôn Thất Thuyết phế Dục Đức, lập vua Hiệp Hoà, cụ đứng lên phản đối và bị Tôn Thất Thuyết đuổi về quê. Năm 1885, hưởng ứng Chiếu Cần Vương, Phan Đình Phùng đã đứng ra chiêu tập quân sĩ chống Pháp, xây dựng căn cứ tại vùng núi rừng Hương Sơn, Hương Khê (thuộc huyện Vũ Quang ngày nay).
Bia kỷ niệm khởi nghĩa Hương Khê và chiến thắng Vũ Quang
Từ bến đò, tăng-bo bằng xe máy khoảng 20km qua những con đường đèo dốc khúc khuỷu sẽ đến “đồn tiền tiêu” - nơi đặt nhà bia tưởng niệm Phan Đình Phùng và nghĩa quân, mà người dân địa phương thường gọi là “miếu thờ cụ Phan”. Ngay lối vào miếu thờ có hai cây cổ thụ mọc đối xứng nhau sum suê, xanh tốt như chí khí lẫm liệt của cụ.
Chúng tôi dừng xe thắp hương tại nhà bia tưởng niệm trước khi vào thành. Nhà bia được xây xong tháng 7 năm 2002, nằm cạnh tỉnh lộ 5 và cách chân thành hơn hai cây số về phía đông, tức là cách thị trấn Hương Đại gần bốn chục cây số, cách bản Kim Quang hơn một cây số về phía tây. Tương truyền nơi đây là đồn tiền tiêu của chiến khu Vụ Quang.
Người dân ở đây vẫn gọi nhà bia là đền thờ Phan Đình Phùng, và ngay trên tấm biển chỉ dẫn giao thông cắm gần điểm giao nhau giữa đường Hồ Chí Minh và tỉnh lộ 5 ở thị trấn Hương Đại vẫn đề như thế. Thực ra đây chỉ là một nhà bia tưởng niệm, chỉ “thờ” độc nhất một chiếc “Bia kỷ niệm khởi nghĩa Hương Khê và chiến thắng Vũ Quang” do giáo sư Đinh Xuân Lâm soạn thảo nội dung, một mặt khắc Việt ngữ, một mặt khắc Pháp ngữ khá sắc nét.
Nội dung ghi trên bia nêu bật ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Hương Khê và công trạng của các vị lãnh tụ với lời kết: “Tinh thần yêu nước chống xâm lược của Phan Đình Phùng, Cao Thắng và nghĩa quân Hương Khê đời đời sống mãi!”.
Nơi đèo heo hút gió này, nhà bia tưởng niệm gây một cảm giác vừa linh thiêng, vừa u uẩn, và có phần hoang sơ như một cái miếu hoang do thiếu hơi ấm dấu chân người.
Sau khi thắp hương, chiếc xe máy tiếp tục đưa chúng tôi tiến sâu hơn về phía đại ngàn. Càng đi núi rừng càng hun hút, mênh mang. Đi tiếp chừng hai cây số, chúng tôi gặp dãy núi đá dựng đứng kéo dài theo hướng đông-nam. Đây chính là dãy núi mà nghĩa quân đã chọn để đóng quân, dân địa phương gọi là chân thành cụ Phan.
Giấu xe vào một hốc cây ven đường, chúng tôi nhanh chóng mất hút giữa rừng già.
Tôi như bị lạc giữa mê hồn trận, thực sự choáng ngợp trước vẻ nguyên sơ của các tầng thảm thực vật nguyên sinh. Chắn ngang lối đi là những gốc cây cổ thụ mấy người ôm không xuể. Tầng thấp hơn là chằng chịt cây dây leo đan kín trên đầu. Phía bên phải lối đi là vách đá dựng đứng đen sì hàng ngàn năm tuổi, là một trong hai dãy núi mà tướng quân Cao Thắng đã chọn để xây dựng Khu căn cứ Vụ Quang.
Đa dạng thảm thực vật nguyên sinh dọc lối vào thành cụ Phan
Chúng tôi lọt dần vào “gọng kìm” của hai bức tường thành nằm ở hai phía tả ngạn và hữu ngạn sông Rò Vền. Con sông này chảy ở phía tây thành gặp con sông Cà Tỏ chảy từ phía đông thành hợp lưu tạo nên đầu nguồn sông Ngàn Trươi.
Nằm cách ngã ba sông hơn một cây số về phía Nam là bãi Cà Tỏ. Tương truyền, đây chính là nơi Phan Đình Phùng và Cao Thắng tập luyện nghĩa quân bắn súng, cưỡi ngựa và các kỹ năng chiến đấu trước khi được phân về các đồn quân.
Theo các nhà nghiên cứu, bãi Cà Tỏ cũng nằm trong khu vực diễn ra trận đánh nổi tiếng nhất của nghĩa quân – trận “sa nang úng thủy”. Bãi tập ấy hôm nay trước mắt tôi chỉ là bạt ngàn lau lách, lau phất cờ xám ngả nghiêng trong cơn gió khoáng đạt chốn biên thùy.
Bãi Cà Tỏ - tương truyền là một trong những nơi diễn ra trận "Sa nang úng thuỷ" nổi tiếng của nghĩa quân Phan Đình Phùng
Cuộc hành trình của chúng tôi vẫn tiếp diễn. Non một giờ tầm nhìn bị tán lá rừng che lấp, mắt tôi bỗng vỡ òa khi chân bước chông chênh bên lưu vực sông Rò Vền. Chỉ còn cách cổng thành 300 mét – người dẫn đường cho biết. Chúng tôi leo lên hai phiến đá lớn nằm ở phía tả ngạn ngay chân dãy tây thành chắn ngang lối đi. Tôi ném một hòn đá xuống vực, bọt tăm sủi lên mấy phút mới thôi. Mặt nước gợn sóng lăn tăn kích thích lũ cá mát nhảy lên đớp mồi lao xao.
Tương truyền, hai phiến đá này là vị trí canh gác của nghĩa quân, nên người dân thường gọi là “hai phiến đá canh phòng”. Từ đây có thể phóng tầm mắt quán xuyến hết lối vào cổng thành, cả dãy tây và đông thành. Đảo mắt nhìn quanh một lượt, bất giác như có một luồng điện chạy dọc sống lưng tôi. Vẻ huyền bí của núi rừng càng trở nên bí hiểm hơn trong một không gian hẹp, với sự hội tụ của núi cao, vực sâu và cảnh hoang dã nguyên thủy của thảm thực vật.
Hai "phiến đá canh phòng" phía hữu ngạn sông Rò Vền, từ đây lên đến cổng thành chừng 300m
Sông Rò Vền chảy giữa dãy Đông và Tây thành, tạo nên thế trận hiểm yếu cho thành cụ Phan
Sau ít phút nghỉ chân, tôi lại ngoan ngoan lần theo dấu chân của người dẫn đường tiến sâu vào phía cửa thành. Những phiến đá mồ côi nhẵn thín do sự bào mòn của dòng chảy tạo cho ta cảm giác chống chếnh khi đặt chân lên. Gần ba mươi phút sau thì bàn tay tôi chạm được vào vách đá cổng chính của thành. Cảm xúc dâng trào làm cay cay sống mũi. Cổng thành rộng chừng chục mét, là điểm nối giữa dãy đông và tây thành. Cả một rừng cây choán hết lối vào thành. Phía sau cổng thành là mặt thành, là căn cứ của nghĩa quân. Tương truyền, đây là nơi tướng quân Cao Thắng đã xây dựng sở chỉ huy, nhà hậu cần và hệ thống kho quân lương.., dấu tích hiện nay còn lại là... một rừng cây cổ thụ.
Trong đầu tôi lúc này đã hiện rõ dáng vóc một Khu căn cứ địa nằm chon von trên hai dãy núi đá hiểm hóc, lưng tựa vào dãy Giăng Màn hùng vĩ, xung quanh là dòng chảy của hai con sông, tạo nên một thế chiến lược đắc địa “vừa có thế công, vừa lợi thế thủ”.

Số phận mộ phần và nhà thờ cụ Phan

Theo sử sách, mộ phần của Đình nguyên tiến sĩ Phan Đình Phùng đã bị bọn thực dân khai quật, thi thể bị đốt lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La trước sự chứng kiến của đông đảo mọi người để thị uy.
Chân dung nhà yêu nước Phan Đình Phùng
Phút lâm chung bi tráng
Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo diễn ra trong 10 năm trời (1885-1895) là đỉnh cao nhất của phong trào Cần Vương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây có thể ví như một trong những trang sử bi hùng của dân tộc.
Lo sợ trước sự lớn mạnh của nghĩa quân, tháng 7/1895, thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn sai Nguyễn Thân - một kẻ nổi tiếng về cơ mưu và tàn bạo làm Khâm sai đại thần dẫn 3.000 quân vào đàn áp, dồn nghĩa quân vào con đường cùng.
Lúc này, vị tướng tài ba Cao Thắng cũng không còn nữa, lương thực lại thiếu trầm trọng. Trước những khó khăn đó, nhưng chủ tướng Phan Đình Phùng vẫn làm nên chiến thắng Vũ Quang nổi tiếng (26/10/1894) tại sông Ngàn Sâu (Vũ Quang, Hà Tĩnh) dùng kế “sa nang úng thuỷ” của Hàn Tín tiêu diệt hàng trăm tên giặc.
Ngày 28/12/1895, Phan Đình Phùng qua đời, hưởng dương 49 tuổi. Sự hi sinh của cụ Phan diễn ra trong khi cuộc chiến giữa nghĩa quân và giặc Pháp còn hết sức cam go, nhiều tướng lĩnh không chịu nổi đã ra đầu hàng triều đình, số khác chạy sang Xiêm và một số khác tiếp tục chiến đấu cho đến chết. 
    
Lối lên mộ cụ Phan
Theo nhà nghiên cứu Đào Trinh Nhất, trước khi mất, cụ Phan Đình Phùng đã sắp đặt mọi việc, dặn dò các tướng sau khi cụ qua đời không được tiếp tục chiến đấu mà phải đầu hàng để trở về cuộc sống bình thường, và để lại một bài thơ tuyệt mệnh với những câu chứa chan cảm khái: 
Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ.
Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng. 
Trách vọng càng cao càng gánh nặng. 
Tướng môn riêng thẹn với anh hùng” 
(Nguyên văn chữ Hán-Bản dịch của GS Lê Thước).
Trước khi cụ nhắm mắt, tiếng khóc vang trời, hàng chục tướng sĩ tự vẫn theo chủ tướng, một số người quá xúc động đã kiệt sức chết theo. Mặc dù kẻ thù vây hãm rất gắt gao, song các tướng sĩ vẫn tổ chức một tang lễ trang trọng. Để uy hiếp Phan Đình Phùng, kẻ thù đã bắt giam anh trai và quật mồ mả tổ tiên lên, song Phan Đình Phùng không hề khuất phục nên chúng đã sát hại anh trai cụ là Phan Đình Thông và huỷ hoại hài cốt tổ tiên cụ.                                                   
Chính sử của ta, lúc đó hầu như dựa vào các tài liệu do thực dân Pháp cung cấp, chép rằng, 10 ngày sau khi Phan Đình Phùng mất, quân của Nguyễn Thân bắt được một nghĩa quân cải trang thành dân thường có nhiệm vụ xuống đồng bằng để mua lương thực.
Bị tra tấn dã man, người lính ấy đã khai báo về cái chết của lãnh tụ Phan Đình Phùng và dẫn quân của Nguyễn Thân đi tìm mộ. Đêm hôm trước, cụ Phan Đình Phùng đã hiển linh cho người vợ biết: “Ngày mai ta thử ra trước mặt quân Pháp, xem chúng làm gì ta!”. Nguyễn Thân đã sai người đào mồ lên, bắt Tuần phủ Hà Tĩnh Phan Huy Quán làm biên bản khám nghiệm, sai người nhà ra nhận mặt rồi đốt thi thể, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La trước sự chứng kiến của đông đảo mọi người để thị uy.
Bến Tam Soa - nơi thực dân Pháp cho bắn tro cốt Phan Đình Phùng xuống sông La
Số phận thăng trầm nhà thờ cụ Phan
Chúng tôi về làng Đông Thái, xã Tùng ảnh, một vùng quê khoa bảng có tiếng từ lâu, là quê hương của Đình nguyên tiến sỹ Phan Đình Phùng.
Ông Phan Tiến Ủy – phó chủ tịch Hội đồng gia tộc họ Phan Đình làng Đông Thái, dẫn tôi đi thăm nhà thờ cụ Phan. Có thể nói rằng, về độ cơ bản của hệ thống giao thông nông thôn, chưa có xã nào trong tỉnh Hà Tĩnh vượt qua được Tùng Ảnh. Một số trục đường nhựa được làm từ nguồn dự án đầu tư nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh cố Tổng Bí thư Trần Phú, còn lại đường liên thôn được bê tông hóa 100% nhờ sức dân đóng góp. 
Nhà thờ cụ Phan Đình Phùng ở làng Đông Thái, Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Nằm ở cuối đoạn đường bê tông cách trục đường liên xã khoảng 300 mét, nhà thờ cụ Phan khiêm nhường náu mình trong một khuôn viên nguyên là đất vườn của một gia đình trong dòng tộc họ Phan Đình bị ly tán đã khá lâu. 
Ngôi nhà ba gian kết cấu theo lối kiến trúc nhà cổ, đây là nhà của cụ Phan lúc sinh thời. Khi cụ mất và gia đình gặp nạn, ngôi nhà này dùng làm nhà thờ, do một người cháu nội của cụ trông coi việc đèn nhang. Thời kỳ thực dân Pháp đánh phá vùng Linh Cảm, nhà thờ bị trúng bom và người cháu nội đã bán cho hợp tác xã Đức Long làm trụ sở.
Và sau thời gian lưu lạc hơn bốn mươi năm, trong một cuộc hội thảo khoa học ở Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày mất của Phan Đình Phùng, ý kiến về việc tôn tạo nhà thờ cụ Phan đã được nêu ra.
Mất khá nhiều thời gian dò hỏi, đến năm 2000, gia tộc họ Phan đã phát hiện được ngôi nhà này ở Đức Nhân. Thì ra, khi hợp tác xã Đức Long giải thể, nhà thờ đã qua tay bốn hộ gia đình, lúc đầu họ mua về làm nhà ở nhưng sau đó đều phải bán tháo vì... ở không được, và chuyển mục đích sử dụng làm chuồng nuôi gia súc. Thế nhưng khi biết rõ nguồn gốc của ngôi nhà, lòng tham của con người lại nổi lên, và sau nhiều lần kỳ kèo ngã giá, đến năm 2004, Sở Văn hóa – Thông tin Hà Tĩnh phải bỏ ra 45 triệu mới chuộc lại được bộ sườn nhà gồm bốn vì kèo cột đã bị đục đẽo nham nhở.
Phương án của tỉnh là tôn tạo nhà thờ ngay trong khuôn viên phần mộ cụ Phan, nhưng họ Phan Đình kiến nghị xin được đưa về dựng trên phần đất của dòng tộc.
Từ khu mộ TBT Trần Phú nhìn ra bến Tam Soa
Nguyện vọng của dòng tộc họ Phan được chấp nhận và con cháu trong họ đã quyên góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước tôn tạo lại nhà thờ như hôm nay.
Chân dung cụ Phan hiện được thờ mặc áo dài, chít khăn đóng như ta thường thấy trong các sách giáo khoa, kích cỡ 40cmx60cm, đặt trên hương án ở gian giữa nhà thờ. Năm 2006, nhà thờ này đã được xếp hạng Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia.

Truyền thuyết ly kỳ về phần mộ cụ Phan

Theo sử sách, thi hài cụ Phan đã bị thực dân Pháp trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông La để thị uy, nhưng người dân và sĩ phu Nghệ -Tĩnh vẫn vững tin rằng, đâu đó trên sông núi quê hương, ngôi mộ của cụ Phan vẫn còn nhưng chưa xác định được vị trí…
Mộ cụ Phan Đình Phùng
Tạm biệt làng Đông Thái, chúng tôi ngược quốc lộ 8A đến thăm Khu mộ Phan Đình Phùng. Mộ cụ Phan tọa lạc trên một quả đồi hình chóp nón, nằm sát cạnh quốc lộ 8A. Cách mộ cụ Phan về phía Bắc non hai cây số là Khu mộ cố Tổng Bí thư Trần Phú, và cách hai cây số về phía Tây Nam là chùa Am. Ba di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia này tọa lạc trên ba quả đồi gần nhau, và trên bản đồ du lịch của Đức Thọ đến nay chúng vẫn đang ở dạng tiềm năng.
Trong quần thể di tích Khu mộ cụ Phan được tôn tạo năm 2006, ngoài phần mộ cụ còn có mộ của ông bà nội nằm ở phía trên bên phải và một ngôi mộ chếch về hướng đông không có văn bia.
 Khu tưởng nệm Phan Đình Phùng và Nghĩa quân ở Vũ Quang
Nâng nhẹ bước chân trên những bậc tam cấp màu xám bạc, mỗi bước chân đi lòng thêm trĩu nặng như lời thơ cụ để lại trước lúc lâm chung: Việc quân vâng mệnh trải mười đông/ Chiến sự nay còn tính chửa xong!.. Tuy sự nghiệp chưa hoàn thành, nhưng tấm lòng son yêu nước thương nòi của người anh hùng vẫn rì rầm hòa quyện vào dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc đến tận hôm nay. 
Dừng chân bên văn bia ghi công “Nhà đại ái quốc”, tôi lục tìm lại những truyền thuyết ly kỳ về cuộc đời và số phận của một nhà chí sĩ yêu nước.
Từ lâu trong làng quê Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ (quê hương Phan Đình Phùng) vẫn lưu truyền câu chuyện về bí mật mộ cụ Phan, tiết lộ một sự thực khác hẳn so với những thông tin mà sách vở cung cấp. Những chuyến điền dã của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá đã cho thấy những nhận thức mới mẻ về cuộc khởi nghĩa, về các tướng lĩnh nghĩa quân. Nhiều giả thiết cho rằng, các tướng lĩnh và người thân đã đánh tráo thi hài Phan Đình Phùng khi lâm chung, âm thầm đưa về quê an táng. Tuy nhiên, do thời gian qua lâu ngày nên đến nay vẫn chưa xác định chính xác vị trí của ngôi mộ.
Tượng đài Phan Đình Phùng và nghĩa quân ở thị trấn Vũ Quang
Theo nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh, nhân dân Tùng Ảnh và nhiều vùng khác xung quanh từ lâu vẫn cho rằng, Nguyễn Thân đã bị một vố đau khi mà cái xác mà hắn huỷ hoại không phải là xác cụ Phan Đình Phùng, còn thi hài cụ được người dân Đông Thái, Tùng Ảnh đang đêm lẻn đến đánh tráo được về chôn ở rú Son (Châu Phong) thuộc địa phận của xã Tùng Ảnh. Hiện nay ngôi mộ ấy vẫn còn…
Tuy nhiên, vì các nhân chứng đã qua đời quá lâu, nên cho đến nay, tung tích của ngôi mộ vẫn đang bao bọc trong một làn sương khói huyền ảo. Các nhà nghiên cứu cho rằng, những sử sách trước đây chỉ dựa vào tài liệu do thực dân Pháp cung cấp, nên bao giờ cũng chỉ cung cấp những thông tin có lợi cho họ. Còn theo những tài liệu của Giáo sư Lê Thước (1891 - 1976) quê ở làng Trung Lễ là cháu cụ Phan Đình Phùng cũng không hề nói đến chi tiết xác cụ Phan bị hoả thiêu, do đó khả năng mộ cụ Phan còn là rất lớn.
Làng Đông Thái - quê hương Phan Đình Phùng hôm nay
Tài liệu “Hà Tĩnh Ất Dậu ký”, sử liệu chép tay bằng chữ quốc ngữ của dòng họ Lê ở Trung Lễ do Giáo sư Phan Quang mới sưu tầm được, có độ tin cậy cao cũng không thấy nói đến chi tiết thi hài cụ Phan bị hoả thiêu. 
Có ý kiến cho rằng, việc tung tin xác cụ Phan đã bị hoả thiêu để gia tộc cụ được yên ổn là chủ ý của Hoàng Cao Khải, con người có những mối quan hệ thân thiết và vốn có lòng kính trọng cụ Phan. Phải chăng, nghĩa quân đã lập kế “ve sầu thoát xác” và người nghĩa quân khai ra ngôi mộ kia chỉ giả vờ bị bắt mà thôi.
Nhân dân cho rằng, người nghĩa sĩ kia tên là Cố Nhàn quê ở Hương Thọ, Hương Khê (nay thuộc huyện Vũ Quang), một người mưu trí, cam đảm, đã đảm nhận trọng trách trá hàng theo “khổ nhục kế” của Hoàng Cái thời Tam quốc để dẫn kẻ thù đi đào một ngôi mộ khác.
Lúc ấy, những tướng lĩnh tài ba, đầy mưu trí và tuyệt đối trung thành như Nguyễn Mục, Nguyễn Quýnh (Tán Quýnh), Nguyễn Khai, Cao Đạt… chắc chắn đã có sự chuẩn bị chu đáo, không thể để cho kẻ thù tìm được mộ một cách dễ dàng như vậy. Núi Quạt là vùng núi cao hiểm trở, nghĩa quân có nhiều người hi sinh, việc lập kế càng dễ dàng.
Một luồng ý kiến khác lại cho rằng, dù sao Nguyễn Thân cũng là một nhà nho, từng học qua đạo lí thánh hiền và vẫn kiêng nể uy danh Phan Đình Phùng (khi kéo quân ra đàn áp nghĩa quân, trong nửa năm, Nguyễn Thân không hề triển khai một trận giao chiến trực diện nào) và chắc hẳn còn chưa quên hết đạo nghĩa, nên dù biết thi hài tìm được không phải là của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thân cứ giả vờ như không biết, vẫn tổ chức thiêu huỷ để làm vừa ý quan thầy, coi như giữ lại một chút âm đức về sau.   
Một sử liệu khá nổi tiếng là cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim cũng cung cấp một thông tin khá phù hợp với những truyền thuyết dân gian. Theo đó, Trần Trọng Kim viết: “Ông Phan Đình Phùng lúc bấy giờ tuổi đã già, mà thế lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà Tĩnh, thì ông đã phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh tìm thấy mả, đào lấy xác về xin người Pháp cho đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi.
Tùng Ảnh - quê hương Phan Đình Phùng là xã tiên của Hà Tĩnh hoàn thành 5 tiêu chí xây dựng NTM
Có người nói rằng, việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, vì muốn để làm cái tang chứng cho đảng phản đối với chính phủ Bảo hộ là quan Đình Nguyên đã mất rồi. Từ đó đảng văn thân tan vỡ; ai trốn mất thì thôi, ai ra thú thì phải về kinh chịu tội”. 
Có thể nói, Phan Đình Phùng là người đã góp phần quyết định sự tồn tại và lớn mạnh của khu căn cứ Vũ Quang - Ngàn Trươi nói riêng cũng như phong trào Cần Vương nói chung. Cuộc đời và sự nghiệp của Phan Đình Phùng đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, cổ vũ tinh thần yêu nước chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sử sách và truyền thuyết về ngôi mộ cụ Phan rõ ràng còn nhiều điều cần nghiên cứu làm rõ.
Văn Nguyễn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét