Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019

Tiến sĩ Thượng thư Nguyễn Thiên Tích

Nguyễn Thiên Tích tự là Huyền Khê, hiệu là Tiên Sơn, người xã Nội Duệ, huyện Tiên Du. Ông đỗ khoa Hoành từ năm Tân Hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 4 đời Lê Thái Tổ (1431). Theo sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa thực lục “thì khoa này, cả nước chỉ có 5 người đỗ.
Trong thời kỳ  vua Lê Thái Tông trị vì đất nước, Nguyễn Thiên Tích 2 lần được cử đi sứ phương Bắc. Kết quả của 2 lần đi sứ này, ngoài hoàn thành xuất sắc công việc của một sứ thần được triều đình giao, ông còn để lại cho đời sau 4 tập thơ “Tiên Sơn tập”.
Sau khi đi sứ về, Nguyễn Thiên Tích được thăng lên chức Hàn lâm Thị thư. Sau đó, ông và Nguyễn Thiên Túng được nhà vua giao cho làm chức Gián quan. Khi Nguyễn Trãi dâng sách “Dư địa chí” lên nhà vua, Nguyễn Thiên Tích được vua Lê Thái Tông giao cho viết “cẩn án”.
Thời vua Lê Nhân Tông (1443-1459), Nguyễn Thiên Tích được thăng lên chức Nội mật viện, kiêm Phó sứ.
Sau đó, ông bị kẻ xấu vu oan nên bị cách hết chức tước. Một thời gian sau, Nguyễn Thiên Tích lại được phục hồi chức tước cũ.
Thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), Nguyễn Thiên Tích được thăng lên chức Thượng thư bộ Binh, Phủ sự tử triều, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông thường được nhà vua ban khen là người “gặp việc dám nói”.
Nguyễn Thiên Tích, chẳng những là một trí thức Nho học lớn, một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm mà ông còn là một thà thơ tài hoa. Đọc thơ ông, người ta thấy ở đó có cả họa, cả nhạc, và bao trùm lên tất cả là tình yêu quê hương đất nước thật sâu sắc. Bài “Làm trong thuyền” được sáng tác trong dịp đi sứ phương Bắc là một thí dụ:
Dạ tịch nguyệt như họa,
Thiên hàn, tuyết tác hoa.
Cô chu thiên lý khách,
Thập mộng cửu hoàn gia.
Tạm dich vu seo:
Đêm lặng, trăng như vẽ,
Trời lạnh, tuyết thành hoa.
Thuyền đơn, khách nghìn dặm,
Đêm đêm mơ về nhà.
Là người nếm trải đủ cả vui buồn trên chính trường, thơ là nơi để  Nguyễn Thiên Tích giãi bày nỗi lòng. Bài “Cuối xuân ở Diễn Châu” của ông là một trong những bài tiêu biểu về việc đó:
Giá cô đề xứ lục âm đa,
Vọng đoạn hành vân bất kiến gia.
Tùng cúc tam niên, sương mẫn cải,
Hải môn vạn lý khách trình xa.
Hoạn trình dĩ tự triêm nê nhứ,
Thân sự hồn như lạc phẩn hoa.
Tỏa tuế ngộ vi danh ẩn lụy,
Đông môn tu sát Thiệu bình qua (1).
Tạm dịch:
Đa đa đậu gáy nhiều bóng mát,
Trông hết mây bay chẳng thấy quê.
Tù ngục ba năm bạc cả tóc,
Cửa khơi muôn dặm đâu đường về.
Hoạn trình giống hệt vết bùn lấm,
Thân thể như hoa nát dưới đường.
Tuổi trẻ đã lầm, danh phải lụy,
Thẹn với Thiệu Bình ở cửa Đông.
Thơ Nguyễn Thiên Tích hiện nay chỉ còn lại 20 bài chữ Hán được chép trong tập “Toàn Việt thi lục”.
Có thông tin cho rằng mộ Nguyễn Thiên Tích vẫn còn trên núi Lim thuộc thị trấn Lim huyện Tiên Du.

1: Câu thơ nhắc lại tích: Thiệu Bình làm quan đời Tấn. Khi nhà Tấn mất, ông về trồng dưa ở cửa Đông môn thành Tràng An để sống.  
Nguồn: Nguyễn Quang Khải

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét