Xóm Gà, 'trường gà oách nhất' chỉ còn mỗi... cái ngã tư
Nơi này trước đây ít người sinh sống, dân chủ yếu chăn nuôi gia súc, gia cầm, đặc biệt là gà các loại... lâu dần người dân gọi khu vực này là Xóm Gà.
Trong cuốn Đại Nam nhất thống chí, phần Lục tỉnh Nam Việt, đời vua Tự Đức năm 1882, có ghi: “Tỉnh Gia Định năm đó có 3 phủ và 9 huyện. Phủ Tân Bình có H.Bình Dương, có xã Bình Hòa”.
Theo đó, khu vực Xóm Gà rộng khoảng 3 - 4km2, thuộc xã Bình Hòa, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc hai quận là Gò Vấp và Bình Thạnh, TP.HCM).
00:02:10
VIDEO: Xóm Gà ở Sài Gòn: Một thời trường gà nở rộ
|
“Xóm Gà là quanh khu ngã tư này đây, ngay khúc Lê Quang Định giao với Nguyễn Văn Đậu, đường này trước giải phóng là Ngô Tùng Châu.
Tên Xóm Gà nghe đâu là do người dân tự đặt theo đặc điểm ngành nghề, văn hóa sinh sống ở đây chứ không phải do chính quyền đặt.
Khu này trước đây đồng ruộng, đất đai rộng thênh thang mà người ở thì ít lắm. Người ta chăn nuôi, mà chủ yếu là nuôi gà, bán gà, có thể coi đây là chợ đầu mối gà đầu tiên của Sài Gòn cũng đúng”, ông Nguyễn Văn Giảng (73 tuổi, Tổ trưởng tổ 14, phường 11, quận Bình Thạnh) giải đáp khi chúng tôi hỏi về nguồn gốc cái tên Xóm Gà.
Cũng theo lời ông Giảng, ngoài việc nuôi và bán gà lấy thịt thì người dân nơi đây còn nuôi thêm nhiều giống gà như: gà tre, gà nòi… để đá độ: “Tôi nghe ông bà ngày xưa kể lại thôi, như là hồi đó ở đây chuyên gà thịt, gà đá nên nhiều người ở tận Hóc Môn, Bình Chánh biết tiếng rồi cũng tự kéo đến thách đấu với gà của dân nuôi. Khoảng tầm những năm 1910 - 1945 thì khu này phải gọi là “trường đá gà” oách nhất”.
Song song với việc nổi tiếng về “võ gà”, xung quanh ngã tư này còn được nhiều người biết đến như một khu ẩm thực với nhiều món như: hủ tiếu mì, cơm tấm, bánh bao, bánh mì, xôi gà… “Đặc biệt là giá rẻ với nhiều đồ ăn lắm, ăn một phần là no căng bụng rồi”, ông Nguyễn Thành Minh (54 tuổi) cho biết.
Qua trí nhớ của ông Minh, chúng tôi còn biết thêm khu vực Xóm Gà này chính là nơi đầu tiên làm ra món bơ trộn hột gà và pa tê để ăn kèm với bánh mì tại Sài Gòn.
“Có một cái đặc biệt nữa là trước giải phóng, khu này có tiệm bán thịt dơi ngon lắm. Rồi không biết sao người ta nghỉ, dẹp tiệm mất tiêu. Giờ tìm khắp Sài Gòn chắc cũng không có nơi đâu bán món thịt dơi này”, ông Minh tiết lộ.
Giang hồ tốt, giang hồ xấu
Cũng từ những trường đá gà này mà nhiều tay anh chị, “du côn” đâm thuê chém mướn cũng ngày một nhiều hơn ở Xóm Gà.
Bà Nguyễn Thị Mỹ (59 tuổi, ở Xóm Gà từ năm 1972) cho biết: “Thời tôi ở thì tệ nạn đã thuyên giảm nhiều rồi, lâu lâu mới có một vụ chứ thời ông cụ ông kỵ thì nhiều à. Hồi còn nhỏ đó thì tôi có nghe bà ngoại kể, khu xóm này ngày trước đa phần là dân ngoại tỉnh tới ở, đi làm thuê này kia, thêm việc ăn thua mỗi lần đá gà, cá độ nữa nên cứ ngày, hai ngày là xảy ra một vụ đánh đấm ghê lắm”.
Bà Mỹ cũng nói thêm, “dân anh chị”, giang hồ thì cứ hở tí là đâm, là chém. Song, bên cạnh đó vẫn còn những “anh hùng nghĩa hiệp” không bắt nạt hay đâm thuê chém mướn dân lao động, “ra đường thấy việc chướng tai gai mắt, thấy kẻ mạnh hiếp yếu là họ giúp đỡ ngay”.
“Đây, như chuyện ông Ba Giáp là chuyện mà ngày xưa là tôi với mấy đứa nhỏ trong xóm thích nghe nhất. Ổng quê đâu ở miền ngoài, lưu lạc vô đây rồi ở ngay Xóm Gà luôn. Ông Ba Giáp không vợ, con, sống bằng nghề dạy võ. Du côn khét tiếng ở khu Chợ Lớn ngày đó như Tư Mắt, Năm Liễu hay Sáu Thắm mà nghe danh Ba Giáp đều bái phục. Có lần chùa Ông làm đám chay mà bị bọn du côn ở Hóc Môn kéo xuống phá, mình ông Ba Giáp đấu với hơn 10 tên, ổng thắng, nguyên đám người đó chạy nháo nhào luôn. Sau đó thì không ai dám tới Xóm Gà gây sự nữa. Cả đời ổng cũng đánh đấm vậy chứ rồi quy y cửa Phật, đi tu từ rất sớm.”…
Kể một thôi một hồi, bà Mỹ chốt lại câu: “Thì nói chung nghe kể vậy, chứ thời đó tôi cũng đã đẻ ra đâu mà biết rõ thực hư như thế nào”.
Vốn là khu của dân lao động, giá cả sinh hoạt không cao như khu trung tâm Sài Gòn nên Xóm Gà cũng từng là nơi ở của khá nhiều văn nghệ sĩ. Khi chúng tôi hỏi có biết nghệ sĩ nào từng ở Xóm Gà không, ông Thanh Minh liền nói một lèo vanh vách: “Có chứ, nếu hỏi ngày xa xưa quá thì tôi không biết, nhưng cái thời nghệ sĩ như Trang Thanh Lan, Tùng Lâm, Hùng Cường thì tôi biết rõ. Mấy người đó ở khúc dưới này nè, đi qua khỏi ngã tư chừng mấy chục mét là tới”.
Nói đoạn, ông Minh im lặng như nén tiếng thở dài: “Tự dưng nhắc cái thời xưa làm tôi nhớ ông bà, cha mẹ quá. Hồi đó còn nhỏ được nghe kể bao nhiêu chuyện, cứ nghĩ chỉ có trong sách vở thôi. Xóm Gà ngày trước ít người, nhà cửa thưa thớt, tệ nạn không hề ít nhưng nó là một phần trong ký ức, trong cuộc đời tôi".
Cũng theo ông Minh, bây giờ xã hội phát triển nên Xóm Gà cũng tiến bộ hơn nhiều, nhà cửa cao tầng, san sát nhau, nhưng cũng từ đó mà ai cũng nhà cao cửa rộng, kín cổng cao tường, không có sự thân thương như bà con lối xóm ngày xưa nữa. Việc nhà ai nhà nấy lo, cũng chẳng còn ai buôn bán gà ở khu này. Cuối cùng thì chỉ còn sót lại mỗi cái ngã tư tên Xóm Gà...
Xóm 'Âm Phủ' cũng thức thời iPhone, ô tô, SH...
Sài Gòn phồn hoa đô hội và là mảnh đất tiềm năng để… làm giàu. Song, len lỏi trong cái 'phố' của Sài Gòn vẫn còn những 'Sài Gòn xóm' với bao câu chuyện đời, chuyện nghề gắn liền với một thời xưa cũ của chốn này.
Khu vực đường Nguyễn Duy, đường Ba Đình (phường 10, quận 8 TP.HCM) có một xóm nhỏ và được người dân ở đấy quen gọi bằng cái tên thân thuộc là xóm "Âm Phủ". Cái tên mà chỉ vừa nghe thôi đã khiến người ta rợn lên cái cảm giác lành lạnh nơi sống lưng, vì nghĩ đến một thế giới cũng đang song hành cùng nhưng “hiếm có ai tận mắt nhìn thấy được”.
Gọi là xóm "Âm Phủ" bởi lẽ nó liên quan đến đặc thù công việc kiếm sống của người dân nơi đây - sản xuất đồ vàng mã. “Thực tình mà nói, cái tên xóm này chẳng có trên văn bản giấy tờ nào cả, do dân sống, dân làm việc, dân thấy hợp tình hợp lý thì dân đặt ra mà thôi”, bà Thu Hường (66 tuổi, người dân trong sống tại khu vực) lý giải.
Vàng mã cũng theo thời
Mặc dù “mang tiếng” là xóm làm vàng mã, nhưng những gì chúng tôi được tận mắt chứng kiến lại chỉ là cảnh tượng một con đường vắng, đìu hiu, còn sót lại vài ba nhà làm nghề này.
Giải đáp thắc mắc đó, anh Lâm Hữu Hoàng (50 tuổi) cho biết: “Ngày trước thì nhiều người làm nghề này lắm. Người ta làm toàn bộ bằng tay, làm thủ công thôi. Bây giờ thì nghỉ bớt rồi, chỉ còn vài nhà nhưng hầu hết đều mở cơ sở và sản xuất bằng máy móc. Chỉ cần thuê thợ chứ không phải tốn sức như ngày xưa”.
Với ba đời theo nghề làm vàng mã, anh Hoàng chia sẻ thêm: “Giấy tiền và đồ vàng mã ngày xưa đơn giản lắm, chủ yếu là mấy món nhỏ nhỏ như áo quần, mũ quan, tiền bạc…
Còn bây giờ thì nghề này cũng như bao nhiêu nghề khác, chạy theo thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Người ta giờ thích tiền phải là tiền kích cỡ như thật, in màu như thật, điện thoại iphone, xe tay ga, rồi cả nhà cửa cũng muốn làm theo kích cỡ lớn để hóa cho người thân đã khuất”.
Theo lời anh, đồ vàng mã ngày trước “giá có vài nghìn, vài chục nghìn thì giờ có thể đẩy lên tới tiền trăm, tiền triệu”. Nhưng cũng chính vì lẽ đó, “tiền nhiều thì chất lượng cũng như mẫu mã phải tốt và đa dạng người ta mới mua, nhiều nhà bỏ nghề này cũng vì không đủ vốn cải tiến lên máy móc để mở xưởng. Thêm nữa là người dân giờ có đốt thì họ đốt cho lớn luôn, không thì cũng hạn chế đốt vàng mã rồi”.
Một trong số những sản phẩm vàng mã được người dân ưa chuộng nhất là điện thoại, xe máy và hình nhân. “Điện thoại thì phải là smartphone như iphone, samsung, còn có cả ipad nữa. Xe máy thì nhiều nhất là xe SH, xe Lead, xe Ecxiter… Giá cho những loại này từ 300.000 - 500.000 đồng/sản phẩm tùy mẫu, kích cỡ, màu sắc.
Còn riêng mấy cặp hình nhân thì giới nhà giàu, đại gia rất thích, họ mua để đốt theo xuống làm người hầu cho người thân đã mất của họ. Giá cặp hình nhân này cũng nhiều mức lắm, thường là từ 250.000 - 300.000/cặp”, một người cũng kinh doanh vàng mã trong Xóm "Âm Phủ" tiết lộ.
Khi chúng tôi hỏi làm nghề này đủ sống không, anh Hữu Hoàng vừa cười vừa nói: “Không thể khẳng định là đủ hay thiếu, nhưng làm nghề này thì thấy “chua” lắm.
Khu này không có mồ mả gì hết, chỉ vì dân ngày xưa làm nghề này nhiều quá mà rồi bao nhiêu chuyện ma, chuyện quỷ cứ được người này người kia truyền tai nhau”.
Nghe anh Hoàng nói đến đoạn này, chị Huệ Uyên (35 tuổi, thợ làm công việc cắt giấy tiền tại xưởng của anh) cũng “hùa” theo: “Đây nè, ngày trước tôi mới tới xin làm công cũng nghe người ta đồn ở đây ma nhiều lắm. Mà toàn là ma đói, thiếu thốn vì không có người thân cúng kiếng gì. Có đợt mà cứ khuya lại là nghe tiếng khóc than của mấy vong hồn nữ, dân ở đây phải thay nhau đốt đồ cúng mới được làm ăn phát đạt đó”.
Những ước mơ chưa kịp lớn… đã già
Kể hết cho chúng tôi nghe mấy câu chuyện "liêu trai chí dị", chị Uyên lại tự gật gù, tự nói: “Mà biết sao không, hồi đầu nghe thì tôi sợ dữ lắm. Tính nghỉ làm luôn chứ, mà rồi nghe thì nghe chứ đã có ai trong khu này gặp ma gì đâu. Chẳng qua ở đây là dân tứ xứ tới mưu sinh, rồi làm nghề vàng mã nên người ta thêu dệt, phần là dọa cho nít cho tụi nó khỏi phá bĩnh, phần là làm cho người mua thấy linh thiêng quá mà kéo tới mua đông hơn chứ ma với quỷ gì đâu”.
Dân ở đây chủ yếu là ở miền Tây lên, có người quê An Giang, Tiền Giang có người thì tận Kiên Giang. Con nít trong xóm, đứa thì được đi học đàng hoàng, thường là con cái của mấy chủ sản xuất giấy vàng mã lớn. Còn lại, con của người làm thuê, làm mướn, không ít đứa chẳng được đi học, mới tí tuổi đầu đã theo ba mẹ tối ngày cắt giấy vàng mã.
Bọn nhỏ tụ tập nhau chơi mấy trò như búng thun, bắn bi, thổi bong bóng được pha từ xà phòng với hoa dâm bụt cắt nhuyễn… khác hẳn đám trẻ con có điều kiện với thú vui duy nhất là internet.
Hỏi một đứa trong đám nhóc mặt mũi lấm lem đang chơi ngoài kia, sau này lớn lên thích làm gì, nó đáp gọn ơ: “Dạ con làm nghề giống cha mẹ, ngồi cắt giấy tiền vàng mã cho người ta, người ta chết rồi người ta thấy mình thành tâm thì phù hộ độ trì cho mau giàu có”.
Tự dưng tôi thấy mắt mình cay cay, hóa ra nơi cái xóm nhỏ này còn có những ước mơ chưa kịp lớn đã già…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét