Nạn tham nhũng ở nước Việt được ghi chép từ thời Hùng vương
Nạn tham ô, nhũng lạm gần như hiện diện trong tất cả các triều đại, như một "nội nạn". Tuy nhiên, do vấn đề tư liệu, nên mức độ đề cập của sử sách đến vấn nạn này nhiều hay ít tuỳ vào từng triều đại.
Thời nào cũng có
Nạn tham ô, nhũng lạm, hay tham nhũng là “quốc nạn”, “nội nạn” của bất kỳ một triều đại, một thiết chế chính trị nào. “Quốc nạn” này, còn gọi là nạn sâu dân, mọt nước đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh suy của triều đại mà nó can dự. Đồng thời, vấn nạn tham nhũng phản ánh sự thịnh đạt hoặc suy thoái của triều đại nào đó trong từng thời điểm lịch sử, cũng như hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, tính răn đe của pháp luật ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.
Xét trong lịch sử dân tộc ta, các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ… hầu như triều đại nào cũng có nạn sâu dân, mọt nước. Vấn đề là, nạn tham nhũng có sự hiện diện ở mức độ khác nhau làm suy yếu tiềm lực của quốc gia, dân tộc, xuống cấp đạo đức xã hội, thể chế chính trị cũng theo đó bị gãy đổ nền móng… Cũng bởi mối nguy hại ấy mà bất kỳ thể chế, triều đại nào cũng đều muốn bài trừ, tận diệt loại giặc nội xâm cực kỳ nguy hiểm này.
Vậy, người xưa nhìn nhận về tham nhũng như thế nào? Tham nhũng là gì? Theo quan điểm của người xưa, thì “tham nhũng” được hiểu là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đã có để nhũng nhiễu, hạch sách tiền của của nhân dân, tham ô, bòn rút của công nhà nước (“biếm công vi tư”). Những hành động ấy nhằm mục đích làm giàu cho cá nhân, vun vén lợi ích cho bản thân một cách không chính đáng.
Khi tìm hiểu qua những chiếu chỉ của vua, những tấu sớ của quan lại, những vụ tham nhũng cụ thể thời xưa, cùng với những điển chế, luật pháp có liên quan, chúng ta thấy tham nhũng diễn ra chủ yếu ở đối tượng là những người có quyền hành, mà thường là những người “quyền cao chức trọng”. Thế nên Bãng nhan Lê Quý Đôn trong phần “Châm cảnh” (Khuyên răn) của Kiến văn tiểu lục mới có câu rằng : “giữ chức cao thì việc đầu tiên là ăn của đút”. Những trường hợp cụ thể trong sử cũ có thể minh chứng như việc tham ô của Hành khiển Đỗ Tử Bình, An phủ sứ Hồ Tông Thốc… đời Trần, Thái phó Lê Văn Linh, Quốc lão Nguyễn Xí… đời Lê sơ là những người lợi dụng chức tước, vị thế mình có trong quan trường, trong xã hội để thực hiện hành vi làm giàu bất chính thông qua việc ăn hối lộ, mua quan bán tước, tham ô tài sản nhà nước. Hành vi tham ô, nhũng lạm của họ còn được thể hiện ở cả việc tư lợi về thời gian của kẻ dưới quyền để phục vụ lợi ích của mình, hoặc dùng nhân lực công của Nhà nước để làm lợi riêng…
Ta có thể điểm xét qua tác phẩm Từ thụ yếu quy của Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) thời Nguyễn, với cái nhìn của một vị quan thuộc ý thức hệ phong kiến, chúng ta ghi nhận được cái nhìn của người xưa về nạn tham nhũng có một phạm vi bao quát lớn. Theo đó có 104 điều hối lộ không thể nhận (từ), nếu nhận sẽ trở thành kẻ tham nhũng. Có 5 trường hợp có thể nhận (thụ) mà không sợ là tham nhũng. Những điều nhận và không nhận này là đa phần dành cho kẻ làm quan, là những người đại diện cho Nhà nước, cho vua để cai trị dân. Họ đều là những kẻ nằm trong bộ máy công quyền cả.
Tổng quan tham nhũng thời Bắc thuộc
Là “nội nạn” của hầu hết vương triều, chế độ nào, nên hiện trạng tham ô, nhũng lạm gần như đều hiện diện trong các triều đại. Tuy nhiên, do vấn đề tư liệu, nên mức độ đề cập của sử sách đến vấn nạn này nhiều hay ít tuỳ vào từng triều đại.
Ở thời dựng nước đầu tiên, tức thời Văn Lang – Âu Lạc, hay còn gọi là văn minh sông Hồng, theo ghi nhận của Đại Việt sử ký toàn thư, và xa hơn nữa là cuốn sử được xem xưa nhất còn giữ lại được đến nay là Việt sử lược, ta không ghi nhận trường hợp tham nhũng cũng như ý kiến, quan điểm nào về tham nhũng, hối lộ của thời này (thế kỷ VII TCN - II TCN). Bởi, như ghi chép về thời Hùng Vương dựng nước, Việt giám thông khảo tổng luận có đánh giá là: “chăm ban đức huệ để vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, không lo can qua chinh chiến”… “buộc nút dây mà làm chính sự, dân không gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy”.
Sau khi nước Âu Lạc của An Dương Vương bị rơi vào tay Triệu Đà năm Nhâm Tuất (179 TCN), dân tộc ta đã trải qua thời gian hơn 1.000 năm phong kiến Trung Hoa đô hộ. Với mưu đồ thống trị, đồng hóa, các quan lại phương Bắc đã dùng quyền uy của kẻ cai trị để vơ vét của cải tư lợi cho bản thân. Theo ghi chép của sử cũ, hành vi tham ô của quan lại cai trị phương Bắc nhiều trường hợp được thực hiện lộ liễu tới mức độ cao hơn nữa là cướp bóc, chiếm đoạt, như Việt sử thông lãm có ghi:
Trên tham nhũng dưới càng tham nhũng,
Lớn gian tà, bé cũng gian tà.
Thầy buông tớ chẳng đành tha,
Quan trên thít một, sai nha thặng mười.
Thời Bắc thuộc, hành động tham nhũng được ghi nhận với đối tượng chủ đạo tham ô, nhũng lạm vơ vét tiền tài, vật lực của dân ta không ai khác, chính là những tên quan đô hộ đứng đầu nước ta cùng những kẻ dưới quyền.
Về những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nạn tham nhũng của những quan cai trị phương Bắc đối với dân Việt, đó là từ chức vụ cao của họ, lại ở cách xa chính quyền trung ương nên quyền hành lớn, cùng với đó là sự dồi dào tài nguyên của nước Việt, mà Đại Việt sử ký toàn thư đã dẫn chứng: “Trước đây những người làm Thứ sử thấy đất châu có các thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt, nhiều người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi”. Về việc này, nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận xét: “Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ, Bắc Kinh đường xa, không biết kêu vào đâu”. Ngay đến cả Thứ sử Giao Châu là Chu Thặng khi đến nước ta nhận chức, theo An Nam chí lược cho biết, khi nhìn thấy thực trạng này, đã phải viết thư về Trung Hoa với đại ý là đất Giao Châu là nơi xa xôi, tập tục phổ biến có sự tham ô, bọn cường hào, trưởng sử thì bạo ngược, hà hiếp bóc lột muôn dân.
Trần Đình Ba
Kéo dài hơn 1.000 năm, thời Bắc thuộc là một thời kỳ nhân dân ta liên tục nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, phản kháng lại mọi sự áp chế, bóc lột, thống trị của ngoại bang. Còn kẻ cai trị, thì dùng trăm phương nghìn kế không chỉ để đồng hóa dân Việt, không chỉ để nhập bản đồ nước Nam vào bản đồ phương Bắc, mà còn làm sao vơ vét cho đầy túi tham nhân tài, vật lực của dân ta.
Tham nhũng thời thuộc Hán
Ở đây chỉ cả thời Tây Hán (202 tr.CN – 9 s.CN) và Đông Hán (23 - 220). Thời Tây Hán chia nước ta làm châu, quận, đặt quan Thứ sử, Thái thú trấn trị. Chúng tham ô, nhũng lạm dân ta không kể xiết nên thời Hán Vũ đế (141 - 87 TCN) đã phải đặt ra 6 điều trong chiếu thư để kiểm soát hành vi tham nhũng của Thứ sử. Việt sử cương mục tiết yếu cho hay, 6 điều đó là: “1. Cường tộc, hào hữu, ruộng đất vượt quy chế; 2. Quan thái thú không biết vâng theo chiếu thư, vơ vét gian trá; 3. Quan thái thú không tra án ngờ, giết hại người; 4. Quan thái thú chọn lựa, tiến cử người không công bằng, chỉ lấy người mình ưa thích; 5. Con em quan thái thú cậy thế vênh vang, xin xỏ, thỉnh thác; 6. Quan thái thú vào hùa với bọn cường hào, thông đồng biếu xén đút lót”.
Thời Đông Hán, sử ghi nhận đầu tiên là trường hợp Thái thú Giao Chỉ Tô Định khi cai trị dân Việt thì “tính tham lam mà hung dữ” (Trích An Nam chí lược), “Hiếp dân lấy của đem binh hại người” (Trích Thiên Nam ngữ lục). Từ đó góp phần mà khởi phát nên cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Canh Tý (40). Ngoài trường hợp trên, nhiều viên quan đô hộ phương Bắc cũng bị lên án về sự tham ô, nhũng nhiễu. Theo ghi nhận của Việt Nam sử lược, trong thời Đông Hán “những quan lại sang cai trị Giao Chỉ thường có lắm người tàn ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu”.
Ở đời vua Hán Hiển Tông (57 - 75), Lê Tắc trong An Nam chí lược cho hay, có Trương Khôi “làm Thái thú Giao Chỉ, vì ăn hối lộ bị tội, của bị tịch thu vào kho”. Không chỉ quan viên lớn của châu, quận tham nhũng, mà những người đứng đầu các địa phương như huyện lệnh cũng “vét đầy túi tham”. Hậu Hán thư có cho hay: “Trước kia, huyện lệnh Cư Phong là người tham lam, tàn bạo, không biết thế nào là chán. Người trong huyện là bọn Chu Đạt họp nhau với dân Man đánh giết huyện lệnh”. Năm Canh Tý (160), nhà Hán phải sai Hạ Phương làm Thứ sử mới yên được.
Thời Hán Hiến đế năm Kiến An thứ năm (200), Chu Phù được cử làm Thứ sử nhưng lại “phần nhiều cho người làng như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng thu thóc một hộc. Trăm học oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận” (Trích Toàn thư). Sau hắn phải trốn chạy vì bị dân đánh đuổi.
Tham nhũng thời thuộc Ngô, Lương, Tùy, Đường
Thời Tam quốc (220 - 280), nhà Đông Ngô cai trị dân ta, hàng ngũ quan lại cai trị cũng một bọn tham lam tàn bạo như Việt Nam sử lược ghi: “những quan lại nhà Ngô thì thường là người tham tàn, vơ vét của dân”, đến nỗi đời sau khi tìm hiểu về thời Bắc thuộc, đã phải than oán rằng:
Quan lại Ngô cũng bầy lang sói,
Cũng tham ô, cũng thói dâm tàn.
Trường hợp Tôn Tư làm Thái thú Giao Chỉ của Đông Ngô là một dẫn chứng, hắn vì “tham bạo, làm hại dân chúng”, tự tiện bắt dân phải cống nộp nặng nề, lại bắt hàng nghìn thợ thủ công giỏi tay nghề sang Kiến Nghiệp (tức Nam Kinh) của nhà Ngô đến nỗi năm Quý Mùi (263) dân oán giận nổi dậy mà giết đi.
Thời nhà Tống cai trị, có Hoàn Hoằng làm Thứ sử Giao Châu mà tiền của kể đến hàng vạn. Sang thời nhà Lương, cái tệ đục khoét vẫn tiếp diễn:
Quan lại Lương cũng dòng khu khoét,
Cũng túi tham vơ vét cho đầy.
Chẳng từ áo rách khố dây,
Moi xương móc tuỷ đọa đầy Giao dân.
Theo Việt sử yếu, thời Lương có Thứ sử Tiêu Tư là người tham lam, bạo ngược vô cùng, làm cho “dân ta lao khổ lầm than lâu ngày” (Trích Việt sử diễn nghĩa), đến nỗi một lực lượng lớn nhân dân do Lý Bí cầm đầu nổi dậy khởi nghĩa chống lại, còn Tiêu Tư phải đem vàng bạc đút lót rồi chạy về châu Quảng.
Sang thời nhà Tùy đời vua Tùy Dạng đế (605 - 616), Khâu Hòa làm Thái thú Giao Chỉ như miêu tả của Toàn thư: “cậy uy thế nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước tặng cho Hòa những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như vương giả”.
Thời nhà Đường cai trị nước ta, nhà sử học Trần Trọng Kim đánh giá là “Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả”. Bởi thế chăng mà sử ghi lại có nhiều trường hợp tham nhũng nhất ở triều đại này đối với dân Việt ta. Trong đó có Lý Thọ khi làm Đô đốc Giao Châu, vì tham ô mà bị xử tội năm Mậu Tý (628). Lại lúc Khúc Lãm làm đô hộ ở đời Đường Trung Tông (705 - 710) vì tham lam, bạo ngược mất lòng dân mà bị giết.
Khi Cao Chính Bình làm Đô hộ, đánh thuế rất nặng, làm cho dân ta rơi vào cảnh lầm than khổ cực, từ đó mà dẫn tới khởi nghĩa Phùng Hưng đến nỗi Cao Chính Bình lo sợ mà phát bệnh chết trong thành Tống Bình năm Tân Mùi (791). Tiếp đó là Lý Tượng Cổ làm An Nam Đô hộ, bị Toàn thư phê là: “tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng”, bị Dương Thanh khởi binh giết chết năm Kỷ Hợi (819).
Về cuối đời nhà Đường, quan lại phương Bắc phần nhiều chỉ vì tư lợi bản thân mà ức hiếp nhân dân, chẳng hạn có quan Đô hộ Lý Trác đời vua Đường Tuyên Tông (847 - 859) bị Đại Việt sử ký tiền biên phê phán là “hà khắc tham lam tự tư tự lợi, cưỡng mua của người Man một con bò chỉ trả cho họ một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn Thành”, đến nỗi người Mường, người Mán không chịu nổi liên kết với người Nam Chiếu đánh vào An Nam phủ. Thời Thôi Lập Tín làm An Nam Đô hộ, con rể hắn làm quyền nhiếp chức Thứ sử Hoan Châu, được biết đến là kẻ tham lam quá độ.
Suốt thời Bắc thuộc, ghi nhận nhiều trường hợp quan cai trị phương Bắc, nhất là thời nhà Đường đã tham nhũng, vơ vét của cải, là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc nổi dậy, hoặc khởi nghĩa của nhân dân ta do Hai Bà Trưng, Lý Bí, Dương Thanh, Phùng Hưng… lãnh đạo. Như nhận định của Lê Tắc: “Đương thời ấy ở đất Giao Châu có nhiều của báu, các quan Thứ sử bổ tới, lớp trước cũng như lớp sau, không ai giữ được nết trong sạch, nên lại thuộc và nhân dân đều oán mà làm phản”. Tất nhiên, nhiều cuộc khởi nghĩa có mục đích chính trị rõ ràng chứ không chỉ mang tính địa phương từ nguyên nhân trực tiếp là bọn tham quan ô lại. Điều này, trong Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GS Trần Văn Giàu cũng nhận xét về các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc, ngoài tính chất dân tộc với mục đích lớn nhất là đánh đổ bọn thống trị giành lại độc lập, thì nguyên cớ trực tiếp để khởi nghĩa là chống tham quan ô lại, chống thuế nặng sưu cao từ chính bọn đại diện cho chính quyền đô hộ đang tâm cướp bóc, chiếm đoạt của dân lành.
Trần Đình Ba
Ảnh: Nhân vật Tô Định trên sân khấu
Bước qua đêm dài Bắc thuộc, thế kỷ X tính ra, là thế kỷ mà các triều đại nối tiếp nhau ra sức củng cố nền độc lập, nhất thống mới giành được. Điểm mặt tham nhũng thời này, sử liệu không cho ta được bằng chứng gì cho sự hiện diện của nạn sâu dân, mọt nước.
Điểm này, xuất phát từ những thực tế lịch sử của hiện tình bấy giờ. Bởi buổi ấy nào nhà Ngô (938 - 965), tiếp nhà Đinh (968 - 980), lại nối nhà Tiền Lê (981 - 1009), các triều đại này ta thấy có thời gian tồn tại không được dài. Nhà Ngô trải 3 vua, mới lập nền tự chủ, nhà Đinh thì dẹp loạn 12 sứ quân đang lo ổn định quốc gia, nhà Tiền Lê thì lo cho sự an nguy quốc gia từ mối đe dọa nơi phương Bắc của nhà Tống, thế nên việc củng cố nền độc lập, củng cố chính quyền trung ương là mối quan tâm hàng đầu lúc bấy giờ.
Ta lại thấy như thời nhà Đinh trị nước, vua Đinh Tiên Hoàng khi trị dân thì theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, đã “đặt vạc dầu lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: “Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt”. Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp”. Biện pháp cứng rắn này đã góp phần làm cho tính răn đe, áp chế các trọng tội có tác dụng lớn, mà Việt sử diễn nghĩa có ghi là:
Trị thiên hạ, muốn lấy oai,
Nuôi hùm, bày vạc răn loài tội nhân.
Nhà Hậu Lý (1009 - 1225) bước lên vũ đài chính trị, ghi tên mình vào sử nước kế tiếp nhà Tiền Lê, hiện tình tham nhũng đã được ghi nhận trong một số đời vua Lý. Và mức độ ảnh hưởng của nạn sâu dân mọt nước là to lớn khi ảnh hưởng tới cả sự suy vi của triều đại đất Cổ Pháp vào cuối thời Lý. Cư điểm xét qua một số vụ tham nhũng dưới đây hẳn rõ.
Tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), vua Lý Thần Tông (1127 - 1138) mang bệnh sắp mất. Trước đó, tháng 5 năm Nhâm Tý (1132), hoàng thứ trưởng tử Lý Thiên Lộc được sinh ra, dù là con của một người thiếp nhưng do các bà hoàng hậu khác chưa sinh con trai, nên Thiên Lộc được chọn làm người kế vị. Nhưng đến tháng 4 năm Bính Thìn (1136), hoàng trưởng tử là Lý Thiên Tộ được Lê Hoàng hậu sinh.
Khi Thần Tông bệnh nặng, theo Đại Việt sử ký toàn thư cho hay, ba bà vợ của vua là “Cảm Thánh, Nhật Phụng, và Phụng Thánh muốn đổi lập thái tử khác, mới sai người đem của đút cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di chiếu thì chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời”. Lúc này, vua Thần Tông biết mình ốm nặng khó qua khỏi, sai Văn Thông soạn di chiếu để chọn người kế vị, nhưng Văn Thông đã nhận của đút, cầm bút mà lưỡng lự không viết. Ba vị phu nhân kia thừa dịp đến bên long sàng của vua mà dùng nước mắt đàn bà, khóc lóc cùng cái lẽ rằng xưa nay, lập người kế vị ngai vàng phải lấy con trai trưởng chứ không thể lấy con thứ… Vua mủi lòng liền xuống chiếu rằng “Thiên Tộ tuy còn nhỏ nhưng là con đích. Hãy để Thiên Tộ nối ngôi của Trẫm”, liền lập Thiên Tộ làm Thái tử” (Trích Việt sử cương mục tiết yếu). Vậy là tham nhũng đã dự phần cho cuộc thay đổi ngôi vua thứ sáu của nhà Lý. Thế nên trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vua Tự Đức mới phê phán:
Huống lúc truyền hiền đương tựa ghế,
Văn Thông dừng bút chẳng ghi danh.
Thời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175), khi vua còn nhỏ tuổi, Đỗ Anh Vũ là em của Đỗ Thái hậu cậy thế lực của chị nên lên giữ chức cao, trở thành kẻ quyền thân lũng đoạn triều chính, uy quyền che lấp cả vua. Hắn và Lê Thái hậu lại lá gió cành trăng với nhau làm việc mèo mả gà đồng. Năm Canh Ngọ (1150), Điện tiền đô Chỉ huy sứ Vũ Đái, Hỏa đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Phò mã lang Dương Tự Minh… để cứu nguy cho chế độ mình phụng sự, bèn cùng hợp lực bắt giam Đỗ Anh Vũ để xử tội. Lê Thái hậu thương xót người tình, bèn giấu vàng trong cơm đút lót cho Vũ Đái, nhờ đó Anh Vũ giữ được mạng. Nhưng sau này hầu hêt những quan lại bắt hắn đều bị hắn ra tay trả thù, kẻ chết, người bị đi đày. Trong Việt sử mông học, đã chê trách rằng:
Mẹ vua là Lê thị,
Dâm đãng đáng chê cười.
Thông dâm với Anh Vũ,
Thực trái đạo làm người.
Đem đày xa phò mã,
Vàng bạc mua chuộc người.
Bất nhân và đại ác,
Tiếng xấu để muôn đời.
Đỉnh điểm cho nguy cơ nạn sâu dân, mọt nước làm suy vong nhà Lý chính là thời vua Lý Cao Tông (1175 – 1210). Khi vua Anh Tông băng hà năm Ất Mùi (1175), Long Trát lên ngôi vua, có sự giúp rập của Thái úy Tô Hiến Thành lúc này quyền bính lớn nhất triều. Việt sử lược cho biết, Chiêu Linh Hoàng Thái hậu đã đút lót cả mâm bạc cho vợ lẽ của Tô Hiến Thành là bà Lã Thị hòng mong cho Lý Long Xưởng (con cả bị phế vì tội thông dâm) được lên làm vua thay Lý Cao Tông. Nhưng việc ấy không thành, bởi tính thanh liêm và sự cương nghị của quan họ Tô, thể hiện ngay ở lời nói của ông với vợ mình, được Lịch triều hiến chương loại chí ghi là: “Ta là bậc đại thần, chịu mệnh vua ký thác giúp ấu chúa; nay nhận hối lộ mà bỏ người nọ dựng người kia, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng?”.
Biết mưu của mình không thành, Thái hậu lại vời ông đến trực tiếp lấy danh lợi mà dụ dỗ, mua chuộc. Lấy cái lẽ là:
- Ông đối với nước đáng gọi là trung đấy. Song tuổi ông cũng đã về chiều, mà lại thờ vua non tuổi, những việc ông làm thì ai biết cho? Chi bằng lập trưởng quân, thì người đó sẽ mang ơn ông, mà cho ông giàu sang lâu dài, há có phải hay không?
Nhưng lời mật ngọt mà trái đạo nào dễ lọt tai, ông cũng khẳng khái nói:
- Bất nghĩa mà được giàu sang, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống hồ di chúc của tiên vương, lời nói còn văng vẳng bên tai thì đối với công nghị sẽ làm sao? Thần không dám phụng chiếu.
Nhờ có sự cứng cỏi của ông, mà mối nguy việc hối lộ, tham nhũng thay quyền, đoạt vị chưa làm suy yếu nhà Lý. Ngai vàng suýt một phen đổi chủ. Thế nên, trong Sử Nam bốn chữ khi nhắc đến ông là nói đến đức liêm không tham “hơi đồng”:
Hiến Thành nhận chiếu,
Phò dựng ngôi trời.
Khinh vàng trọng ngãi (nghĩa).
Phụ chánh một người.
Tuy nhiên, khi quan họ Tô mất, vua Cao Tông thiếu người đỡ đần, và rồi… Việt sử tiêu án nhận định nhà Lý suy vong từ thời điểm Cao Tông, bởi “vua thì chỉ chăm về tiền của, ngày ngày cùng bọn cung nữ dong chơi, quần thần đều công nhiên hối lộ”, nên nạn tham nhũng theo đó mà hoành hành, làm cho nhà Lý ngày một đi xuống, đúng như lời ca thán trong Đại Nam quốc sử diễn ca:
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính hình lỗi tiết du quan quá thường.
Lại thêm thổ mộc cung tường,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
Cuối thời Cao Tông, đất nước bị loạn lạc, một phần bởi tham nhũng mà nên khi năm Đinh Mão (1207) Đoàn Thượng, Đoàn Chủ làm phản, vua sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di và các tướng đi dẹp. Việt sử lược cho hay Đoàn Thượng “ngầm sai người đến đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, xin đem đồ đảng theo Du”. Nhờ đó mà Đoàn Thượng được sống. Mối họa nội loạn của Đoàn Thượng vì sự nhúng tay của hối lộ, tham nhũng mà chưa dẹp được. Năm sau, Phạm Du được cử làm quan coi châu Nghệ An nhưng lại làm phản, vua Cao Tông phải sai Phạm Bỉnh Di đi đánh.
Năm Kỷ Tỵ (1209), Bỉnh Di dẫn quân đánh Phạm Du, rồi tịch thu gia sản nhà Du đốt hết, Du căm tưc lắm, nên như Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Phạm Du mới ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc đút lót cho người trong nội, nói rõ Bỉnh Di tàn khốc, giết hại những người vô tội”. Bọn quan lại thân cận bởi tham hơi đồng nên thay đổi sự thật, người có công trở thành kẻ có tội. Khi Phạm Bỉnh Di về triều, lập tức bị bắt và sau đó bị giết. Từ ấy mà loạn Quách Bốc trả thù cho chủ diễn ra. Rồi nạn Đoàn Thượng sau đó hoành hành khiến cho vua Lý Cao Tông phải chạy loạn khắp nơi. Biến loạn thời Cao Tông chính là cơ hội để anh em họ Trần hưng khởi và dần xác lập vị trí của mình để sau này lập triều đại mới thay triều Lý.
Xét ra, hậu quả tham nhũng thời Hậu Lý thật to lớn. Thực trạng tham nhũng ấy chứng tỏ sự đi xuống trầm trọng không chỉ về đạo đức, cương thường cuối thời Lý, mà một phần nguyên nhân góp vào sự suy vi của triều đại do Lý Thái Tổ sáng lập từ cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII chính do sự dự phần của nạn sâu dân mọt nước. “Tham nhũng, ăn chơi trác táng và phung phí là những nét quen thuộc ở mọi cấp bậc của triều đình” – Nhận định trên của GS Lê Thành Khôi trong Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX khi viết về thời này, thực chẳng ngoa chút nào.
Trần Đình Ba
Nạn tham ô, nhũng lạm, hay tham nhũng là “quốc nạn”, “nội nạn” của bất kỳ một triều đại, một thiết chế chính trị nào. “Quốc nạn” này, còn gọi là nạn sâu dân, mọt nước đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh suy của triều đại mà nó can dự. Đồng thời, vấn nạn tham nhũng phản ánh sự thịnh đạt hoặc suy thoái của triều đại nào đó trong từng thời điểm lịch sử, cũng như hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, tính răn đe của pháp luật ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.
Xét trong lịch sử dân tộc ta, các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ… hầu như triều đại nào cũng có nạn sâu dân, mọt nước. Vấn đề là, nạn tham nhũng có sự hiện diện ở mức độ khác nhau làm suy yếu tiềm lực của quốc gia, dân tộc, xuống cấp đạo đức xã hội, thể chế chính trị cũng theo đó bị gãy đổ nền móng… Cũng bởi mối nguy hại ấy mà bất kỳ thể chế, triều đại nào cũng đều muốn bài trừ, tận diệt loại giặc nội xâm cực kỳ nguy hiểm này.
Vậy, người xưa nhìn nhận về tham nhũng như thế nào? Tham nhũng là gì? Theo quan điểm của người xưa, thì “tham nhũng” được hiểu là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đã có để nhũng nhiễu, hạch sách tiền của của nhân dân, tham ô, bòn rút của công nhà nước (“biếm công vi tư”). Những hành động ấy nhằm mục đích làm giàu cho cá nhân, vun vén lợi ích cho bản thân một cách không chính đáng.
Khi tìm hiểu qua những chiếu chỉ của vua, những tấu sớ của quan lại, những vụ tham nhũng cụ thể thời xưa, cùng với những điển chế, luật pháp có liên quan, chúng ta thấy tham nhũng diễn ra chủ yếu ở đối tượng là những người có quyền hành, mà thường là những người “quyền cao chức trọng”. Thế nên Bãng nhan Lê Quý Đôn trong phần “Châm cảnh” (Khuyên răn) của Kiến văn tiểu lục mới có câu rằng : “giữ chức cao thì việc đầu tiên là ăn của đút”. Những trường hợp cụ thể trong sử cũ có thể minh chứng như việc tham ô của Hành khiển Đỗ Tử Bình, An phủ sứ Hồ Tông Thốc… đời Trần, Thái phó Lê Văn Linh, Quốc lão Nguyễn Xí… đời Lê sơ là những người lợi dụng chức tước, vị thế mình có trong quan trường, trong xã hội để thực hiện hành vi làm giàu bất chính thông qua việc ăn hối lộ, mua quan bán tước, tham ô tài sản nhà nước. Hành vi tham ô, nhũng lạm của họ còn được thể hiện ở cả việc tư lợi về thời gian của kẻ dưới quyền để phục vụ lợi ích của mình, hoặc dùng nhân lực công của Nhà nước để làm lợi riêng…
Ta có thể điểm xét qua tác phẩm Từ thụ yếu quy của Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) thời Nguyễn, với cái nhìn của một vị quan thuộc ý thức hệ phong kiến, chúng ta ghi nhận được cái nhìn của người xưa về nạn tham nhũng có một phạm vi bao quát lớn. Theo đó có 104 điều hối lộ không thể nhận (từ), nếu nhận sẽ trở thành kẻ tham nhũng. Có 5 trường hợp có thể nhận (thụ) mà không sợ là tham nhũng. Những điều nhận và không nhận này là đa phần dành cho kẻ làm quan, là những người đại diện cho Nhà nước, cho vua để cai trị dân. Họ đều là những kẻ nằm trong bộ máy công quyền cả.
Tổng quan tham nhũng thời Bắc thuộc
Là “nội nạn” của hầu hết vương triều, chế độ nào, nên hiện trạng tham ô, nhũng lạm gần như đều hiện diện trong các triều đại. Tuy nhiên, do vấn đề tư liệu, nên mức độ đề cập của sử sách đến vấn nạn này nhiều hay ít tuỳ vào từng triều đại.
Ở thời dựng nước đầu tiên, tức thời Văn Lang – Âu Lạc, hay còn gọi là văn minh sông Hồng, theo ghi nhận của Đại Việt sử ký toàn thư, và xa hơn nữa là cuốn sử được xem xưa nhất còn giữ lại được đến nay là Việt sử lược, ta không ghi nhận trường hợp tham nhũng cũng như ý kiến, quan điểm nào về tham nhũng, hối lộ của thời này (thế kỷ VII TCN - II TCN). Bởi, như ghi chép về thời Hùng Vương dựng nước, Việt giám thông khảo tổng luận có đánh giá là: “chăm ban đức huệ để vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, không lo can qua chinh chiến”… “buộc nút dây mà làm chính sự, dân không gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy”.
Sau khi nước Âu Lạc của An Dương Vương bị rơi vào tay Triệu Đà năm Nhâm Tuất (179 TCN), dân tộc ta đã trải qua thời gian hơn 1.000 năm phong kiến Trung Hoa đô hộ. Với mưu đồ thống trị, đồng hóa, các quan lại phương Bắc đã dùng quyền uy của kẻ cai trị để vơ vét của cải tư lợi cho bản thân. Theo ghi chép của sử cũ, hành vi tham ô của quan lại cai trị phương Bắc nhiều trường hợp được thực hiện lộ liễu tới mức độ cao hơn nữa là cướp bóc, chiếm đoạt, như Việt sử thông lãm có ghi:
Trên tham nhũng dưới càng tham nhũng,
Lớn gian tà, bé cũng gian tà.
Thầy buông tớ chẳng đành tha,
Quan trên thít một, sai nha thặng mười.
Thời Bắc thuộc, hành động tham nhũng được ghi nhận với đối tượng chủ đạo tham ô, nhũng lạm vơ vét tiền tài, vật lực của dân ta không ai khác, chính là những tên quan đô hộ đứng đầu nước ta cùng những kẻ dưới quyền.
Về những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nạn tham nhũng của những quan cai trị phương Bắc đối với dân Việt, đó là từ chức vụ cao của họ, lại ở cách xa chính quyền trung ương nên quyền hành lớn, cùng với đó là sự dồi dào tài nguyên của nước Việt, mà Đại Việt sử ký toàn thư đã dẫn chứng: “Trước đây những người làm Thứ sử thấy đất châu có các thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt, nhiều người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi”. Về việc này, nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận xét: “Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ, Bắc Kinh đường xa, không biết kêu vào đâu”. Ngay đến cả Thứ sử Giao Châu là Chu Thặng khi đến nước ta nhận chức, theo An Nam chí lược cho biết, khi nhìn thấy thực trạng này, đã phải viết thư về Trung Hoa với đại ý là đất Giao Châu là nơi xa xôi, tập tục phổ biến có sự tham ô, bọn cường hào, trưởng sử thì bạo ngược, hà hiếp bóc lột muôn dân.
Trần Đình Ba
Các quan thái thú tham nhũng hút máu người dân Việt
Đời sau khi tìm hiểu về thời Bắc thuộc, đã phải than oán rằng: Quan lại Ngô cũng bầy lang sói/Cũng tham ô, cũng thói dâm tàn".
Kéo dài hơn 1.000 năm, thời Bắc thuộc là một thời kỳ nhân dân ta liên tục nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, phản kháng lại mọi sự áp chế, bóc lột, thống trị của ngoại bang. Còn kẻ cai trị, thì dùng trăm phương nghìn kế không chỉ để đồng hóa dân Việt, không chỉ để nhập bản đồ nước Nam vào bản đồ phương Bắc, mà còn làm sao vơ vét cho đầy túi tham nhân tài, vật lực của dân ta.
Tham nhũng thời thuộc Hán
Ở đây chỉ cả thời Tây Hán (202 tr.CN – 9 s.CN) và Đông Hán (23 - 220). Thời Tây Hán chia nước ta làm châu, quận, đặt quan Thứ sử, Thái thú trấn trị. Chúng tham ô, nhũng lạm dân ta không kể xiết nên thời Hán Vũ đế (141 - 87 TCN) đã phải đặt ra 6 điều trong chiếu thư để kiểm soát hành vi tham nhũng của Thứ sử. Việt sử cương mục tiết yếu cho hay, 6 điều đó là: “1. Cường tộc, hào hữu, ruộng đất vượt quy chế; 2. Quan thái thú không biết vâng theo chiếu thư, vơ vét gian trá; 3. Quan thái thú không tra án ngờ, giết hại người; 4. Quan thái thú chọn lựa, tiến cử người không công bằng, chỉ lấy người mình ưa thích; 5. Con em quan thái thú cậy thế vênh vang, xin xỏ, thỉnh thác; 6. Quan thái thú vào hùa với bọn cường hào, thông đồng biếu xén đút lót”.
Thời Đông Hán, sử ghi nhận đầu tiên là trường hợp Thái thú Giao Chỉ Tô Định khi cai trị dân Việt thì “tính tham lam mà hung dữ” (Trích An Nam chí lược), “Hiếp dân lấy của đem binh hại người” (Trích Thiên Nam ngữ lục). Từ đó góp phần mà khởi phát nên cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Canh Tý (40). Ngoài trường hợp trên, nhiều viên quan đô hộ phương Bắc cũng bị lên án về sự tham ô, nhũng nhiễu. Theo ghi nhận của Việt Nam sử lược, trong thời Đông Hán “những quan lại sang cai trị Giao Chỉ thường có lắm người tàn ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu”.
Ở đời vua Hán Hiển Tông (57 - 75), Lê Tắc trong An Nam chí lược cho hay, có Trương Khôi “làm Thái thú Giao Chỉ, vì ăn hối lộ bị tội, của bị tịch thu vào kho”. Không chỉ quan viên lớn của châu, quận tham nhũng, mà những người đứng đầu các địa phương như huyện lệnh cũng “vét đầy túi tham”. Hậu Hán thư có cho hay: “Trước kia, huyện lệnh Cư Phong là người tham lam, tàn bạo, không biết thế nào là chán. Người trong huyện là bọn Chu Đạt họp nhau với dân Man đánh giết huyện lệnh”. Năm Canh Tý (160), nhà Hán phải sai Hạ Phương làm Thứ sử mới yên được.
Thời Hán Hiến đế năm Kiến An thứ năm (200), Chu Phù được cử làm Thứ sử nhưng lại “phần nhiều cho người làng như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng thu thóc một hộc. Trăm học oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận” (Trích Toàn thư). Sau hắn phải trốn chạy vì bị dân đánh đuổi.
Tham nhũng thời thuộc Ngô, Lương, Tùy, Đường
Thời Tam quốc (220 - 280), nhà Đông Ngô cai trị dân ta, hàng ngũ quan lại cai trị cũng một bọn tham lam tàn bạo như Việt Nam sử lược ghi: “những quan lại nhà Ngô thì thường là người tham tàn, vơ vét của dân”, đến nỗi đời sau khi tìm hiểu về thời Bắc thuộc, đã phải than oán rằng:
Quan lại Ngô cũng bầy lang sói,
Cũng tham ô, cũng thói dâm tàn.
Trường hợp Tôn Tư làm Thái thú Giao Chỉ của Đông Ngô là một dẫn chứng, hắn vì “tham bạo, làm hại dân chúng”, tự tiện bắt dân phải cống nộp nặng nề, lại bắt hàng nghìn thợ thủ công giỏi tay nghề sang Kiến Nghiệp (tức Nam Kinh) của nhà Ngô đến nỗi năm Quý Mùi (263) dân oán giận nổi dậy mà giết đi.
Thời nhà Tống cai trị, có Hoàn Hoằng làm Thứ sử Giao Châu mà tiền của kể đến hàng vạn. Sang thời nhà Lương, cái tệ đục khoét vẫn tiếp diễn:
Quan lại Lương cũng dòng khu khoét,
Cũng túi tham vơ vét cho đầy.
Chẳng từ áo rách khố dây,
Moi xương móc tuỷ đọa đầy Giao dân.
Theo Việt sử yếu, thời Lương có Thứ sử Tiêu Tư là người tham lam, bạo ngược vô cùng, làm cho “dân ta lao khổ lầm than lâu ngày” (Trích Việt sử diễn nghĩa), đến nỗi một lực lượng lớn nhân dân do Lý Bí cầm đầu nổi dậy khởi nghĩa chống lại, còn Tiêu Tư phải đem vàng bạc đút lót rồi chạy về châu Quảng.
Sang thời nhà Tùy đời vua Tùy Dạng đế (605 - 616), Khâu Hòa làm Thái thú Giao Chỉ như miêu tả của Toàn thư: “cậy uy thế nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước tặng cho Hòa những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như vương giả”.
Thời nhà Đường cai trị nước ta, nhà sử học Trần Trọng Kim đánh giá là “Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả”. Bởi thế chăng mà sử ghi lại có nhiều trường hợp tham nhũng nhất ở triều đại này đối với dân Việt ta. Trong đó có Lý Thọ khi làm Đô đốc Giao Châu, vì tham ô mà bị xử tội năm Mậu Tý (628). Lại lúc Khúc Lãm làm đô hộ ở đời Đường Trung Tông (705 - 710) vì tham lam, bạo ngược mất lòng dân mà bị giết.
Khi Cao Chính Bình làm Đô hộ, đánh thuế rất nặng, làm cho dân ta rơi vào cảnh lầm than khổ cực, từ đó mà dẫn tới khởi nghĩa Phùng Hưng đến nỗi Cao Chính Bình lo sợ mà phát bệnh chết trong thành Tống Bình năm Tân Mùi (791). Tiếp đó là Lý Tượng Cổ làm An Nam Đô hộ, bị Toàn thư phê là: “tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng”, bị Dương Thanh khởi binh giết chết năm Kỷ Hợi (819).
Về cuối đời nhà Đường, quan lại phương Bắc phần nhiều chỉ vì tư lợi bản thân mà ức hiếp nhân dân, chẳng hạn có quan Đô hộ Lý Trác đời vua Đường Tuyên Tông (847 - 859) bị Đại Việt sử ký tiền biên phê phán là “hà khắc tham lam tự tư tự lợi, cưỡng mua của người Man một con bò chỉ trả cho họ một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn Thành”, đến nỗi người Mường, người Mán không chịu nổi liên kết với người Nam Chiếu đánh vào An Nam phủ. Thời Thôi Lập Tín làm An Nam Đô hộ, con rể hắn làm quyền nhiếp chức Thứ sử Hoan Châu, được biết đến là kẻ tham lam quá độ.
Suốt thời Bắc thuộc, ghi nhận nhiều trường hợp quan cai trị phương Bắc, nhất là thời nhà Đường đã tham nhũng, vơ vét của cải, là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc nổi dậy, hoặc khởi nghĩa của nhân dân ta do Hai Bà Trưng, Lý Bí, Dương Thanh, Phùng Hưng… lãnh đạo. Như nhận định của Lê Tắc: “Đương thời ấy ở đất Giao Châu có nhiều của báu, các quan Thứ sử bổ tới, lớp trước cũng như lớp sau, không ai giữ được nết trong sạch, nên lại thuộc và nhân dân đều oán mà làm phản”. Tất nhiên, nhiều cuộc khởi nghĩa có mục đích chính trị rõ ràng chứ không chỉ mang tính địa phương từ nguyên nhân trực tiếp là bọn tham quan ô lại. Điều này, trong Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GS Trần Văn Giàu cũng nhận xét về các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc, ngoài tính chất dân tộc với mục đích lớn nhất là đánh đổ bọn thống trị giành lại độc lập, thì nguyên cớ trực tiếp để khởi nghĩa là chống tham quan ô lại, chống thuế nặng sưu cao từ chính bọn đại diện cho chính quyền đô hộ đang tâm cướp bóc, chiếm đoạt của dân lành.
Trần Đình Ba
Ảnh: Nhân vật Tô Định trên sân khấu
Nhà Lý oai hùng thắng Tống nhưng lại chịu thua trước 'sâu mọt'
Nhà Hậu Lý (1009 - 1225) bước lên vũ đài chính trị, ghi tên mình vào sử nước kế tiếp nhà Tiền Lê, hiện tình tham nhũng đã được ghi nhận trong một số đời vua Lý. Và mức độ ảnh hưởng của nạn sâu dân mọt nước là to lớn khi ảnh hưởng tới cả sự suy vi của triều đại đất Cổ Pháp vào cuối thời Lý.
Bước qua đêm dài Bắc thuộc, thế kỷ X tính ra, là thế kỷ mà các triều đại nối tiếp nhau ra sức củng cố nền độc lập, nhất thống mới giành được. Điểm mặt tham nhũng thời này, sử liệu không cho ta được bằng chứng gì cho sự hiện diện của nạn sâu dân, mọt nước.
Điểm này, xuất phát từ những thực tế lịch sử của hiện tình bấy giờ. Bởi buổi ấy nào nhà Ngô (938 - 965), tiếp nhà Đinh (968 - 980), lại nối nhà Tiền Lê (981 - 1009), các triều đại này ta thấy có thời gian tồn tại không được dài. Nhà Ngô trải 3 vua, mới lập nền tự chủ, nhà Đinh thì dẹp loạn 12 sứ quân đang lo ổn định quốc gia, nhà Tiền Lê thì lo cho sự an nguy quốc gia từ mối đe dọa nơi phương Bắc của nhà Tống, thế nên việc củng cố nền độc lập, củng cố chính quyền trung ương là mối quan tâm hàng đầu lúc bấy giờ.
Ta lại thấy như thời nhà Đinh trị nước, vua Đinh Tiên Hoàng khi trị dân thì theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, đã “đặt vạc dầu lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: “Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt”. Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp”. Biện pháp cứng rắn này đã góp phần làm cho tính răn đe, áp chế các trọng tội có tác dụng lớn, mà Việt sử diễn nghĩa có ghi là:
Trị thiên hạ, muốn lấy oai,
Nuôi hùm, bày vạc răn loài tội nhân.
Nhà Hậu Lý (1009 - 1225) bước lên vũ đài chính trị, ghi tên mình vào sử nước kế tiếp nhà Tiền Lê, hiện tình tham nhũng đã được ghi nhận trong một số đời vua Lý. Và mức độ ảnh hưởng của nạn sâu dân mọt nước là to lớn khi ảnh hưởng tới cả sự suy vi của triều đại đất Cổ Pháp vào cuối thời Lý. Cư điểm xét qua một số vụ tham nhũng dưới đây hẳn rõ.
Tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), vua Lý Thần Tông (1127 - 1138) mang bệnh sắp mất. Trước đó, tháng 5 năm Nhâm Tý (1132), hoàng thứ trưởng tử Lý Thiên Lộc được sinh ra, dù là con của một người thiếp nhưng do các bà hoàng hậu khác chưa sinh con trai, nên Thiên Lộc được chọn làm người kế vị. Nhưng đến tháng 4 năm Bính Thìn (1136), hoàng trưởng tử là Lý Thiên Tộ được Lê Hoàng hậu sinh.
Khi Thần Tông bệnh nặng, theo Đại Việt sử ký toàn thư cho hay, ba bà vợ của vua là “Cảm Thánh, Nhật Phụng, và Phụng Thánh muốn đổi lập thái tử khác, mới sai người đem của đút cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di chiếu thì chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời”. Lúc này, vua Thần Tông biết mình ốm nặng khó qua khỏi, sai Văn Thông soạn di chiếu để chọn người kế vị, nhưng Văn Thông đã nhận của đút, cầm bút mà lưỡng lự không viết. Ba vị phu nhân kia thừa dịp đến bên long sàng của vua mà dùng nước mắt đàn bà, khóc lóc cùng cái lẽ rằng xưa nay, lập người kế vị ngai vàng phải lấy con trai trưởng chứ không thể lấy con thứ… Vua mủi lòng liền xuống chiếu rằng “Thiên Tộ tuy còn nhỏ nhưng là con đích. Hãy để Thiên Tộ nối ngôi của Trẫm”, liền lập Thiên Tộ làm Thái tử” (Trích Việt sử cương mục tiết yếu). Vậy là tham nhũng đã dự phần cho cuộc thay đổi ngôi vua thứ sáu của nhà Lý. Thế nên trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vua Tự Đức mới phê phán:
Huống lúc truyền hiền đương tựa ghế,
Văn Thông dừng bút chẳng ghi danh.
Thời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175), khi vua còn nhỏ tuổi, Đỗ Anh Vũ là em của Đỗ Thái hậu cậy thế lực của chị nên lên giữ chức cao, trở thành kẻ quyền thân lũng đoạn triều chính, uy quyền che lấp cả vua. Hắn và Lê Thái hậu lại lá gió cành trăng với nhau làm việc mèo mả gà đồng. Năm Canh Ngọ (1150), Điện tiền đô Chỉ huy sứ Vũ Đái, Hỏa đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Phò mã lang Dương Tự Minh… để cứu nguy cho chế độ mình phụng sự, bèn cùng hợp lực bắt giam Đỗ Anh Vũ để xử tội. Lê Thái hậu thương xót người tình, bèn giấu vàng trong cơm đút lót cho Vũ Đái, nhờ đó Anh Vũ giữ được mạng. Nhưng sau này hầu hêt những quan lại bắt hắn đều bị hắn ra tay trả thù, kẻ chết, người bị đi đày. Trong Việt sử mông học, đã chê trách rằng:
Mẹ vua là Lê thị,
Dâm đãng đáng chê cười.
Thông dâm với Anh Vũ,
Thực trái đạo làm người.
Đem đày xa phò mã,
Vàng bạc mua chuộc người.
Bất nhân và đại ác,
Tiếng xấu để muôn đời.
Đỉnh điểm cho nguy cơ nạn sâu dân, mọt nước làm suy vong nhà Lý chính là thời vua Lý Cao Tông (1175 – 1210). Khi vua Anh Tông băng hà năm Ất Mùi (1175), Long Trát lên ngôi vua, có sự giúp rập của Thái úy Tô Hiến Thành lúc này quyền bính lớn nhất triều. Việt sử lược cho biết, Chiêu Linh Hoàng Thái hậu đã đút lót cả mâm bạc cho vợ lẽ của Tô Hiến Thành là bà Lã Thị hòng mong cho Lý Long Xưởng (con cả bị phế vì tội thông dâm) được lên làm vua thay Lý Cao Tông. Nhưng việc ấy không thành, bởi tính thanh liêm và sự cương nghị của quan họ Tô, thể hiện ngay ở lời nói của ông với vợ mình, được Lịch triều hiến chương loại chí ghi là: “Ta là bậc đại thần, chịu mệnh vua ký thác giúp ấu chúa; nay nhận hối lộ mà bỏ người nọ dựng người kia, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng?”.
Biết mưu của mình không thành, Thái hậu lại vời ông đến trực tiếp lấy danh lợi mà dụ dỗ, mua chuộc. Lấy cái lẽ là:
- Ông đối với nước đáng gọi là trung đấy. Song tuổi ông cũng đã về chiều, mà lại thờ vua non tuổi, những việc ông làm thì ai biết cho? Chi bằng lập trưởng quân, thì người đó sẽ mang ơn ông, mà cho ông giàu sang lâu dài, há có phải hay không?
Nhưng lời mật ngọt mà trái đạo nào dễ lọt tai, ông cũng khẳng khái nói:
- Bất nghĩa mà được giàu sang, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống hồ di chúc của tiên vương, lời nói còn văng vẳng bên tai thì đối với công nghị sẽ làm sao? Thần không dám phụng chiếu.
Nhờ có sự cứng cỏi của ông, mà mối nguy việc hối lộ, tham nhũng thay quyền, đoạt vị chưa làm suy yếu nhà Lý. Ngai vàng suýt một phen đổi chủ. Thế nên, trong Sử Nam bốn chữ khi nhắc đến ông là nói đến đức liêm không tham “hơi đồng”:
Hiến Thành nhận chiếu,
Phò dựng ngôi trời.
Khinh vàng trọng ngãi (nghĩa).
Phụ chánh một người.
Tuy nhiên, khi quan họ Tô mất, vua Cao Tông thiếu người đỡ đần, và rồi… Việt sử tiêu án nhận định nhà Lý suy vong từ thời điểm Cao Tông, bởi “vua thì chỉ chăm về tiền của, ngày ngày cùng bọn cung nữ dong chơi, quần thần đều công nhiên hối lộ”, nên nạn tham nhũng theo đó mà hoành hành, làm cho nhà Lý ngày một đi xuống, đúng như lời ca thán trong Đại Nam quốc sử diễn ca:
Dấu xe quanh khắp giang san,
Chính hình lỗi tiết du quan quá thường.
Lại thêm thổ mộc cung tường,
Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.
Cuối thời Cao Tông, đất nước bị loạn lạc, một phần bởi tham nhũng mà nên khi năm Đinh Mão (1207) Đoàn Thượng, Đoàn Chủ làm phản, vua sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di và các tướng đi dẹp. Việt sử lược cho hay Đoàn Thượng “ngầm sai người đến đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, xin đem đồ đảng theo Du”. Nhờ đó mà Đoàn Thượng được sống. Mối họa nội loạn của Đoàn Thượng vì sự nhúng tay của hối lộ, tham nhũng mà chưa dẹp được. Năm sau, Phạm Du được cử làm quan coi châu Nghệ An nhưng lại làm phản, vua Cao Tông phải sai Phạm Bỉnh Di đi đánh.
Năm Kỷ Tỵ (1209), Bỉnh Di dẫn quân đánh Phạm Du, rồi tịch thu gia sản nhà Du đốt hết, Du căm tưc lắm, nên như Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Phạm Du mới ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc đút lót cho người trong nội, nói rõ Bỉnh Di tàn khốc, giết hại những người vô tội”. Bọn quan lại thân cận bởi tham hơi đồng nên thay đổi sự thật, người có công trở thành kẻ có tội. Khi Phạm Bỉnh Di về triều, lập tức bị bắt và sau đó bị giết. Từ ấy mà loạn Quách Bốc trả thù cho chủ diễn ra. Rồi nạn Đoàn Thượng sau đó hoành hành khiến cho vua Lý Cao Tông phải chạy loạn khắp nơi. Biến loạn thời Cao Tông chính là cơ hội để anh em họ Trần hưng khởi và dần xác lập vị trí của mình để sau này lập triều đại mới thay triều Lý.
Xét ra, hậu quả tham nhũng thời Hậu Lý thật to lớn. Thực trạng tham nhũng ấy chứng tỏ sự đi xuống trầm trọng không chỉ về đạo đức, cương thường cuối thời Lý, mà một phần nguyên nhân góp vào sự suy vi của triều đại do Lý Thái Tổ sáng lập từ cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII chính do sự dự phần của nạn sâu dân mọt nước. “Tham nhũng, ăn chơi trác táng và phung phí là những nét quen thuộc ở mọi cấp bậc của triều đình” – Nhận định trên của GS Lê Thành Khôi trong Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX khi viết về thời này, thực chẳng ngoa chút nào.
Trần Đình Ba
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét