Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

Ngôi mộ đá bí ẩn trên dãy Đại Huệ: Có phải là của con trai vua Quang Trung?

Ngôi mộ đá bí ẩn trên dãy Đại Huệ: Có phải là của con trai vua Quang Trung?

GiadinhNet - Ngôi mộ đá bí ẩn trên dãy Đại Huệ ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn (Nghệ An)) đang thu hút sự quan tâm của dân chúng.

Theo phả liệu ghi chép lại của dòng họ Hồ, nhiều người, trong đó có cả các nhà lịch sử đều nghi vấn rằng, đây chính là mộ vua Cảnh Thịnh, con trai của người anh hùng áo vải Quang Trung.
Vật linh xuất hiện
Ông Bình bên ngôi mộ cổ.
Sau lưng chùa Đại Tuệ có một hang động, trong đó các phiến đá được xếp như bàn cờ, gọi là động Thăng Thiên. Cách chùa không xa còn có một cái giếng, dù ở trên đỉnh cao nhất của núi Đại Huệ nhưng nước quanh năm trong suốt, không cạn. Nằm cách giếng khoảng chừng 30m là ao sen, rộng chừng 800m². Xung quanh khu vực chùa còn có nhiều mảnh vỡ của khánh đá, ngai đá, phiến đá hình mõ. Điều đặc biệt hơn là 5 quyển sách chữ Hán mà ông Hoàng Nghĩa Bình (trụ trì chùa) vẫn lưu giữ được. Nội dung của cuốn sách này viết gì, còn đang chờ các nhà nghiên cứu tìm hiểu.
Ông Nguyễn Nghĩa Bình, một trong những người đầu tiên phát hiện và có công tu tạo ngôi chùa Đại Tuệ từ 15 năm qua kể lại: Khoảng thời gian vào năm 2001, trong một lần đang thắp hương, ông bỗng nghe nghe tiếng khua nước. Lúc trở ra, bỗng thấy một con rắn hổ trâu to màu đen trũi, nặng chừng khoảng 6kg. Sau này người dân Nam Anh nhiều lần lên núi cũng trông thấy rắn đen, lúc thì đang tắm ở đầm nước gần Mõ Đá, lúc thì ở cổng chùa rồi tự trườn đi. Cách đây vài tháng (ngày 23/9/2009), khoảng 8 giờ sáng, trong khi đang quét dọn, ông Bình lại bất ngờ phát hiện hai "cụ" rùa nằm im lìm phía sau chùa, mỗi "cụ" nặng tới 15kg. Ông đã thắp hương, xin được "bế hai cụ" vào trong chùa. Tiếp đó ông đã điện thoại cho UBND xã Nam Anh và Lâm trường Phù Mát (Con Cuông) để tìm hiểu cách thức chăm sóc các "cụ". Nhiều người dân tin rằng, sự xuất hiện của hai "cụ" rùa là điềm linh.
Phế tích thành Hồ

Đỉnh Thăng Thiên, cao nhất dãy núi Đại Huệ (hơn 800m so với mực nước biển) được người xưa ví như quả chuông úp. Ngoài phong cảnh ở đây rất đẹp, nó còn ẩn chứa những giá trị lịch sử - văn hoá liên quan đến hai triều đại đặc biệt: Nhà Hồ và nhà Tây Sơn.

Theo Tiến sỹ sử học Nguyễn Quang Hồng (Trường ĐH Vinh), hiện các nhà khoa học chưa có đủ chứng cứ để phục dựng toàn bộ diện mạo thành Hồ Vương trên đỉnh núi Đại Huệ và dưới chân núi. Nhưng, qua phế tích và các sử liệu (như Nghệ An ký, Đại Nam Nhất thống chí...) cho thấy sự tồn tại của tòa thành là không có gì phải bàn cãi. Đầu thế kỷ XV, cha con vua Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương đã huy động người dân xứ Nghệ xây dựng cả một hệ thống thành luỹ từ dưới chân núi Đại Huệ lên trên núi, nhằm mục đích chống lại nguy cơ xâm lược từ phương Bắc. Sau khi xong việc, Hồ Quý Ly cho xây chùa Đại Tuệ để cảm ơn công đức của Đức Phật.

Sau khi thành hoàn thành một thời gian ngắn, dân tộc đã phải đối mặt với cuộc chiến tranh xâm lược của phương Bắc. Triều đại nhà Hồ bị diệt vong, đất nước rơi vào cảnh nô lệ. Hồ Vương thành cùng một số toà thành khác bị san phẳng, hàng ngàn voi, ngựa, súng ống, thuyền bè, sách vở, di sản văn hoá... bị đem về phương Bắc hoặc bị tiêu huỷ. Điều này đã được Ngô Sỹ Liên chép trong Đại Việt Sử ký toàn thư.

Hiện tại, dấu tích của tòa thành vẫn còn trên đỉnh núi, cách chùa Đại Tuệ khoảng 100m. Qua dấu tích cho thấy thành được xây, ghép bằng đất, đá, phía tây dựa vào động Thăng Thiên, mặt nam chạy theo sườn dọc của dãy Đại Huệ...

Chứng tích triều đại Tây Sơn 
Ngôi chùa cổ giờ chỉ còn lại phế tích.
Từ những giả thuyết, các TS Nguyễn Quang Hồng, Hồ Bá Quỳnh và những cộng sự trong nhóm nghiên cứu đã kiến nghị cần nghiên cứu, xác minh lai lịch của ngôi mộ đá. Nếu đó đúng mộ của vua Cảnh Thịnh thì phải có phương án trùng tu, tôn tạo.
Năm 1788, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung tại núi Bân Sơn (Huế), sau đó ra lệnh cho ba quân tướng sĩ thẳng tiến ra Bắc đối trận với 29 vạn quân Thanh (cả dân phu). Khi đến Nghệ An, vua Quang Trung dừng chân tại núi Lam Thành- Phù Thạch, lệnh tuyển thêm quân. Hàng vạn thanh niên, trai tráng dọc lưu vực sông Lam nô nức tòng quân giết giặc. Tại đây, vua Quang Trung đã có bài hịch nổi tiếng trước ba quân tướng sĩ, trong đó có đoạn: "Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho nó sở tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ".  (tạm dịch: Đánh để giữ được tập quán răng đen, tóc dài, đánh cho giặc không còn xe, không còn mảnh giáp về nước, đánh cho giặc biết nước Nam là có chủ).

Sau cuộc duyệt binh lịch sử ấy, Quang Trung cho đại quân vượt núi Đại Huệ, thần tốc ra Bắc, hội quân tại Tam Điệp (Ninh Bình). Trước đó Vua đã trồng một cây đa ở lưng chừng núi Đại Huệ và thề sẽ quét sạch quân Thanh (cây đa này tồn tại mãi tới những năm 70 - 80 của thế kỉ trước, nay chỉ còn dấu tích). Khi lên đỉnh núi, vua Quang Trung vào chùa Đại Tuệ dâng hương, cầu xin Đức Phật phù hộ cho ba quân tướng sĩ nhanh chóng quét sạch ngoại xâm. Các nhà sư trong chùa Đại Tuệ  đã chỉ cho nhà vua con đường thượng đạo Nộn Băng (nghĩa là qua trôn băng) tránh được quân địch, tới Thăng Long nhanh hơn. Sau khi quân Thanh đại bại, trên đường trở về Phú Xuân, vua Quang Trung lại lên chùa Đại Tuệ cảm tạ Đức phật. Ông xuống chiếu, cắt 30 mẫu ruộng (thuộc một số xóm của xã Nam Anh- Nam Đàn ngày nay) cấp cho chùa. Từ đó, chùa Đại Tuệ còn được người dân gọi là chùa Đại Huệ - gắn với tên của người anh hùng áo vải năm xưa.

Người dưới mộ là ai?

Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột từ trần, Thái tử Cảnh Thịnh nối nghiệp cha. Năm 1801, nhà Tây Sơn bị diệt, vua Cảnh Thịnh cùng thân tộc phải chạy ra Bắc. Theo tài liệu ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn và một số tư liệu khác thì vua Cảnh Thịnh bị bắt tại Lạng Sơn, bị đóng cũi giải về kinh Phú Xuân, sau đó bị hành quyết. Tuy nhiên, theo tài liệu của dòng họ Hồ ở Hưng Nguyên, Nam Đàn (Nghệ An) thì người bị hành quyết không phải là Cảnh Thịnh thật. Khi chạy đến Nghệ An, Cảnh Thịnh đã bí mật cho người đóng giả mình, cùng bề tôi trung thành tiếp tục ra Bắc. Còn Cảnh Thịnh đã xuống tóc, lặng lẽ vào tu tại chùa Đại Tuệ và sống nốt phần đời còn lại ở đây. Chứng cứ là đến nay, cứ đến ngày 20/10 Âm lịch hàng năm, tăng ni phật tử trong vùng và con cháu họ Hồ ở Hưng Nguyên, Nam Đàn vẫn thường xuyên lên núi làm giỗ cho vua Cảnh Thịnh. Hiện khu mộ đá có chiều rộng trên 8m, chiều dài trên 12m  vẫn được các cụ cao niên quanh vùng khẳng định đó là phần mộ của vua Cảnh Thịnh.

Đặc biệt tại khu vực chùa có ngôi mộ cổ bằng đá, mà nhiều người, trong đó có cả các nhà nghiên cứu cho rằng, đó là mộ vua Cảnh Thịnh. Theo TS sử học Nguyễn Quang Hồng và TS Hồ Bá Quỳnh thì tên gọi chùa Đại Huệ chứng tỏ chùa có mối quan hệ thân thiết với Quang Trung - Nguyễn Huệ. Thứ nữa, trong sự nghiệp ngắn ngủi của mình, vua Quang Trung và kế vị là vua Cảnh Thịnh đều đã từng cho người đóng giả mỗi khi sang bang giao với nhà Thanh. Từ những nghi vấn đó, TS Hồng đặt giả thiết: "Trong bối cảnh bị  kẻ thù truy đuổi, Cảnh Thịnh rất có thể phải sử dụng người đóng thế để thoát thân, Gia Long đã hành quyết một Cảnh Thịnh... giả".

Có hay không việc vua Cảnh Thịnh từng đi tu tại chùa Đại Tuệ từ năm 1801 cho đến cuối đời? Người nằm dưới ngôi mộ đá kia là ai? Đó là những câu hỏi mà hậu thế rất muốn biết lời giải!
UBND tỉnh Nghệ An đã quyết định phục dựng, tôn tạo lại chùa Đại Tuệ. Theo đó, chùa sẽ được phục dựng trên diện tích 10.000m² với 12 hạng mục chính: Khu nhà Tam bảo, nhà chuông, tượng Bà Đại Tuệ, tượng Quan âm Bồ tát, tượng các vị La Hán, khuôn viên cây cảnh....Dự kiến đến năm 2013 hoàn thành.

Ngôi mộ đá bí ẩn trên dãy Đại Huệ có phải của con trai vua Quang Trung?: Các nhà khoa học nên vào cuộc

Ngôi mộ đá bí ẩn trên dãy Đại Huệ có phải của con trai vua Quang Trung?: Các nhà khoa học nên vào cuộc

GiadinhNet - Sau bài viết "Ngôi mộ bí ấn trên dãy núi Đại Huệ có phải là của con trai vua Quang Trung?" trên Báo GĐ&XH, rất nhiều độc giả đã gọi điện về tòa soạn và cá nhân tác giả bài viết với mong muốn bày tỏ cảm xúc của mình.

Để giúp độc giả tìm hiểu sâu hơn xung quanh di tích chùa Đại Tuệ cũng như ngôi mộ cổ trên, PV Báo GĐ&XH đã tìm đến một số nhà khoa học và lãnh đạo ngành văn hóa địa phương... để nghe những quan điểm của họ.
Di tích chùa Đại Tuệ.
Tiến sỹ sử học Nguyễn Quang Hồng: Thêm một bí ẩn lịch sử dân tộc

Theo Quốc Sử Quán triều Nguyễn và một số tư liệu của các cha cố người Pháp có mặt tại Phú Xuân đầu thế kỷ XIX, Hoàng đế Cảnh Thịnh bị bắt tại Lạng Sơn và đóng cũi giải về kinh đô Phú Xuân, sau đó bị hành quyết. Tuy nhiên, nguồn tài liệu địa phương, nhất là nguồn tài liệu do con cháu họ Hồ ở Hưng Nguyên, Nam Đàn cung cấp lại khẳng định người bị Hoàng đế Gia Long hành quyết tại Phú Xuân (nhiều người chép là Hoàng đế Cảnh Thịnh) không phải là Hoàng đế Cảnh Thịnh thật mà chỉ là người đóng giả Cảnh Thịnh. Theo nguồn tài liệu địa phương, khi chạy đến Nghệ An, Hoàng đế Cảnh Thịnh bí mật cho người đóng giả mình, cùng quyến thuộc và những bề tôi trung thành tiếp tục chạy ra Bắc. Bề tôi của Nguyễn Ánh là Nguyễn Văn Thành đưa quân cấp tốc rượt đuổi và bắt được người đóng giả Cảnh Thịnh đem về Phú Xuân như sử sách ghi chép. Còn Hoàng đế Cảnh Thịnh thật xuống tóc, lặng lẽ lên núi Đại Huệ và chùa Đại Tuệ đi tu, sống nốt phần đời còn lại ở đây. Chứng cứ là đến ngày 20/10 Âm lịch hằng năm, tăng ni phật tử trong vùng và con cháu họ Hồ ở Nam Đàn vẫn thường xuyên lên núi Đại Huệ làm giỗ cho Hoàng đế Cảnh Thịnh.

Gần đây, một số nhà ngoại cảm khi lên chùa dâng hương cũng khẳng định ngôi mộ đá cạnh chùa chính là phần mộ của Hoàng đế Cảnh Thịnh. Như vậy, theo tôi, nghiên cứu, thẩm định nguồn tài liệu lịch sử địa phương để đi đến kết luận khoa học có hay không việc Hoàng đế Cảnh Thịnh từng lên núi Đại Huệ và đi tu tại chùa Đại Tuệ từ 1801 cho đến cuối đời, cũng như chủ nhân ngôi mộ đá kia có phải là Hoàng đế Cảnh Thịnh thật hay không cần có sự vào cuộc của các nhà chuyên gia khảo cổ và dân tộc học, các nhà sử học trong và ngoài nước. Nếu điều này sớm được khẳng định thì đó là một trong những điều thú vị và thêm một bí ẩn lịch sử dân tộc cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 được làm sáng tỏ.
Ông Trần Minh Siêu - nhà nghiên cứu lịch sử: Những trầm tích văn hóa cần được chứng minh

Những dấu tích liên quan đến 2 triều đại nhà Hồ và nhà Tây Sơn trên Đại Huệ nay vẫn còn như: những kè đá rộng từ 1,2-1,5m, bãi đất trống (được gọi là đất tập), dấu tích của cây đa cổ thụ hàng trăm năm tuổi, một số tảng đá được xếp theo hình kiềng ba chân, khắc chữ Hán. Đặc biệt, nằm cách chùa khoảng 30m về hướng Đông - Bắc có ngôi mộ đắp bằng đá núi tự nhiên. Nhân dân địa phương và một số nhà ngoại cảm cho rằng đây là mộ thật của vua Cảnh Thịnh. Con cháu họ Hồ ở Nam Đàn và Hưng Nguyên cùng tăng ni, phật tử của chùa đã mai táng ông trên núi, hương khói phụng thờ. 20/10 âm lịch hàng năm là ngày giỗ của vua Cảnh Thịnh, được nhà chùa và con cháu họ Hồ tổ chức trọng thể. 

Hiện trong chùa vẫn còn một tấm bia đá cổ, bát gốm cổ, chuông đồng và 5 bộ sách kinh phật. Bia đá được khắc chữ Nho cả 2 mặt. Trên trán bia có 4 chữ "Đại Huệ tự bi". 2 dòng bên trái có nội dung: Anh đô phủ, Nam Đường huyện, Nọn Hồ, Nọn liễu. Cung phụng - Nguyễn Quang Toản Mậu thân niên. Hàng lạc khoảng dòng cuối cùng còn đọc được mấy chữ: "Cảnh Trị lục niên". Mặt sau còn được trang trí hoa văn lá đề, dây cúc, hoa sen. Theo tôi, cần nghiên cứu, xác minh để làm sáng tỏ một số tồn nghi lịch sử xung quanh các dấu tích ở núi Đại Huệ và chùa Đại Tuệ như: về Hồ Vương thành, lịch sử ra đời của ngôi chùa, về các sự kiện liên quan đến triều Tây Sơn. Đặc biệt về ngôi mộ của vua Cảnh Thịnh.
Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng - Nguyên Tư lệnh QK4, Trưởng ban vận động bảo tồn và tôn tạo di tích chùa Đại Tuệ: Cần có hội thảo khoa học

Theo tôi, trước hết cần tôn tạo, trùng tu chùa Đại Tuệ vì 2 lý do. Thứ nhất, theo sử sách ghi lại, chùa Đại Tuệ có trước khởi nghĩa Mai Thúc Loan, sau này đến thế kỷ XV, lại có dấu ấn triều đại nhà Hồ rồi đến triều Tây Sơn. Thứ hai, chùa này thờ Phật Bà - một vị Bồ tát đại giác, đại trí, đại minh, đại dũng, vô ngã, vị tha, hy sinh tất cả để đem lòng bác ái từ bi vô hạn, cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Nếu tôn tạo lại sẽ có nhiều ý nghĩa. Nơi đây sẽ là quần thể du lịch nhiều di tích lịch sử quan trọng trên dãy Đại Huệ gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của quê hương xứ Nghệ, của dân tộc Việt Nam. Và đặc biệt là sự tiếp biến văn hoá Phật giáo đến văn hoá giữ nước của dân tộc Việt Nam xưa và nay.

Về những thuyết dân gian lưu truyền đến ngày nay về ngôi mộ cổ trên chùa Đại Tuệ là mộ phần vua Cảnh Thịnh, theo tôi, chúng ta cần trân trọng, bởi đây là sự tín ngưỡng, tri ân được truyền tụng vì vậy cần có cuộc hội thảo mang tầm quốc gia với sự tham gia của các nhà sử học, các nhà khảo cổ học, các nhà khoa học để làm rõ và xác định có hay không mộ phần vua Cảnh Thịnh.
Ông Nguyễn Công Nhuần - Phó Giám đốc sở VH,TT&DL Nghệ An: Xác định phần mộ vua Cảnh Thịnh là nguyện vọng của nhân dân
Xung quanh chùa Đại Tuệ trên núi Đại Huệ và những nghi vấn xung quanh ngôi mộ cổ là mộ phần vua Cảnh Thịnh là có thật. Sự truyền khẩu của nhân gian cũng là sự tri ân của người dân đối với cội nguồn và những gì thuộc về quá khứ. Hiện những phế tích còn được lưu giữ đã phần nào khẳng định sự tồn tại liên quan đến vương triều Hồ và vương triều Tây Sơn. Để khẳng định có phải thi hài vua Cảnh Thịnh hay không, rõ ràng rất cần sự vào cuộc tiếp tục nghiên cứu của các nhà khoa học, sự đánh giá của các nhà khảo cổ học. Điều quan trọng cần có sự tiến hành đánh giá khẳng định, và tôi nghĩ đây cũng là nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
 
Hồ Hà (Ghi)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét