Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019

Những giai thoại tình ái ly kỳ của Hồ Quý Ly

(Kiến Thức) - Cuộc đời Hồ Quý Ly còn quá nhiều điều cần khảo cứu để làm sáng tỏ thêm; những giai thoại về tình ái của ông dưới đây phần nào cung cấp thêm thông tin dưới góc độ đời tư của vị vua đặc biệt này.

Gặp may mà trở thành phò mã triều Trần
Theo chính sử vào tháng 5 năm Tân Hợi (1371), vua Trần Nghệ Tông phong chức rồi gả em gái cho Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 5, lấy người họ ngoại là Lê Quý Ly làm Khu mật viện đại sứ. Hai chị em bà cô của Quý Ly, Minh Tông đều lấy làm cung nhân. Một bà sinh ra vua [Nghệ Tông], đó là bà Minh Từ. Một bà sinh ra Duệ Tông, đó là bà Đôn Từ. Cho nên vua khi mới lên ngôi rất tín nhiệm Quý Ly. Lại đem em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh gả cho ông ta (Huy Ninh trước là vợ của tôn thất Nhân Vinh, Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết hại)”.
Nhung giai thoai tinh ai ly ky cua Ho Quy Ly
 Trần Nghệ Tông và em gái – công chúa Huy Ninh. Hình minh họa – Nguồn: truyentranh. 
Trước đó, vào tháng 9 năm Canh Tuất (1370), một người hoàng thất giữ chức Phó ký lang, tước Thượng vị hầu tên là Trần Tung tự là Nhân Vinh (sử thường chép là Trần Nhân Vinh) cùng một số hoàng thân quốc thích, đại thần mưu lật đổ Dương Nhật Lễ nhưng không thành nên bị giết.
Sau khi dẹp được loạn cung đình, Trần Nghệ Tông lên ngôi đã đem em gái góa chồng gả cho Hồ Quý Ly; hai người sống rất hòa hợp, hạnh phúc. Kết quả của mối duyên tình này là công chúa Huy Ninh đã sinh cho Hồ Quý Ly hai người con, con gái là Thánh Ngâu sau trở thành Khâm Thánh hoàng hậu của vua Trần Thuận Tông. Còn người con trai tên là Hán Thương, khi Quý Ly lập ra nhà Hồ, làm vua gần một năm thì nhường ngôi cho người con này, Hán Thương ở ngôi hơn 6 năm, đặt hai niên hiệu là Thiệu Thành, Khai Đại.
Chính sử thì ghi chép như vậy, nhưng dã sử và truyền tụng dân gian lại cho biết câu chuyện ly kỳ về mối duyên tình của Hồ Quý Ly với nàng công chúa nhà Trần có hiệu là Nhất Chi Mai.
Tương truyền, Hồ Quý Ly lúc hàn vi thường theo người cha đi buôn bán bằng đường biển. Một lần thuyền chở hàng ghé vào bờ, Quý Ly thấy trên bãi biển có ai vạch lên cát dòng chữ: “Quảng Hàn cung lý nhất chi mai” (trong cung Quảng Hàn có một cành mai). Thấy lạ, lại hay nên Quý Ly nhẩm thuộc lòng lấy câu thơ đó. Đến khi Quý Ly đã làm quan, một hôm hộ giá vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, thấy trước điện rất nhiều cây quế, vua tức cảnh liền ra câu đối:
- Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế.
Các quan hầu cận cùng đi bất ngờ trước tình huống đó, ai nấy đều lúng túng chưa kịp ứng đối lại thì quan Ngự sử Quý Ly bỗng nhớ lại câu thơ trên bãi biến năm xưa, bèn đọc luôn:
- Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai.
Cả hai câu ghép lại thành hai vế đối nhau rất chỉnh với nghĩa là:
Thanh Thử điện kia ngàn gốc quế,
Quảng Hàn cung nọ một cành mai.
Nghe xong các quan đều phục tài Quý Ly, còn vua Trần giật mình kinh ngạc hơn bởi nhà vua có một công chúa đặt hiệu là Nhất Chi Mai vô cùng xinh đẹp, nàng ở trong cung cấm không ra đến ngoài. Vua mới hỏi Quý Ly rằng :
- Nhà ngươi làm sao biết được việc trong cung của ta có công chúa tên Nhất Chi Mai, nơi ở của công chúa là cung Quảng Hàn do chính ta đặt tên?
Quý Ly cứ thực tình tâu lại việc tình cờ bắt gặp câu thơ trên bãi biển dạo trước, vua Trần cho là chuyện kỳ lạ, chắc duyên trời đã định bèn gả công chúa Nhất Chi Mai cho Quý Ly. Công chúa xinh đẹp như nhành hoa mai trắng, duyên dáng thanh tao nên dân gian lấy tên nàng đặt cho mai trắng (bạch mai) và ghép tên nàng cùng chức vụ chồng, cũng từ đó loài mai này được gọi là Mai ngự sử hay Nhất chi mai.
Vậy là nhờ câu thơ trên bãi biển năm xưa đáp lại vế đối của vua Trần, Hồ Quý Ly bất ngờ có được "người tình trăm năm" dòng dõi hoàng tộc - công chúa Nhất Chi Mai, để rồi từ cuộc hôn nhân đó đã mở ra con đường sự nghiệp thênh thang cho ông đến khi thực hiện được mưu đồ thâu tóm thiên hạ. Nàng công chúa Nhất Chi Mai ấy theo sử sách chính là công chúa Huy Ninh.
Bị người đẹp thử thách trong đêm tân hôn
Hồ Quý Ly không chỉ là một nhà cải cách lớn với tầm nhìn sâu rộng, bao quát mà còn là người có trình độc học vấn khá uyên bác. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Quý Ly đã dịch thiên Vô dật trong cuốn Thượng Thư của Chu Công; dịch và bình giải cuốn Kinh Thi của Khổng Tử, phê phán một số quan điểm của sách Luận Ngữ…Ông còn soạn ra sách Minh Đạo gồm 14 chương để cho vua, hoàng hậu, cung phi học tập. Ngoài ra Hồ Quý Ly còn viết khá nhiều thơ chữ Hán, chữ Nôm với nội dung chủ yếu để khuyên vua, dạy bảo con cháu, nhắc nhở quần thần…
Văn chương giỏi, lại biết võ thuật, đọc sách binh thư, từng nhiều lần tham gia chiến trận, do đó ở một góc độ nào đó có thể nói Hồ Quý Ly văn võ song toàn. Không phải không có lý khi vào tháng 3 năm Đinh Mão (1387), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phong cho Hồ Quý Ly làm Đồng bình chương sự, ban cho một thanh gươm, một lá cờ đề 8 chữ: “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”.
Ấy vậy mà Hồ Quý Ly đã bất ngờ gặp thử thách văn thơ ngay trong đêm tân hôn với nàng công chúa Trần triều, một câu chuyện ít người được rõ. Chuyện kể rằng, sau khi lễ cưới đã hoàn tất các thủ tục, đến giờ tân lang vào động phòng hoa chúc, lúc Hồ Quý Ly đến bên giường, tân nương không chịu làm lễ hợp cẩn mà bắt chồng đứng bên ngoài màn đối đáp văn chương, thơ phú với mình, nếu hay khiến nàng vừa ý mới cho động phòng. Đầu tiên Nhất Chi Mai ra vế đối rằng:
- Ai đấy phải nâng niu, chiều chuộng
Quý Ly đáp lại:
- Đây xin thề gìn giữ, chăm nom
Nhất Chi Mai lại xướng rằng:
- Đôi trái đào tiên chỉ dành cho người quân tử
Quý Ly đối lại trong niềm hạnh phúc:
- Một tấm thân ngà trong màn trướng duy mỹ nữ
Nàng công chúa tài sắc lại ra một câu đối nữa:
- Nơi ấy thiêng liêng, dành riêng cho chí sĩ
Trước câu đối này, Hồ Quý Ly thấy bối rối, nghĩ mãi không ra câu từ thích hợp để đối lại, đến khi đã quá nửa đêm mới đáp lại được:
- Chốn đó trắng trinh, xin hưởng lộc giai nhân
Bấy giờ công chúa Nhất Chi Mai mới dừng việc thử tài, cùng Quý Ly uống chén rượu giao bôi, động phòng hoa chúc.
Nhung giai thoai tinh ai ly ky cua Ho Quy Ly-Hinh-2
 Đối đáp thơ văn. Hình minh họa – Nguồn: vnthuquan.
Lấy vợ người làm vợ mình, nhận con người làm con mình
Hồ Quý Ly có bao nhiêu vợ, bao nhiêu con, đó là điều khó mà biết rõ tường tận được, tuy nhiên nguồn tư liệu dân gian địa phương phần nào bổ sung thêm một số thông tin hữu ích, như tại xã Thanh Thủy (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) hiện có ngôi đền thờ bà Nguyễn Thị Dầm, một phi tần của Hồ Quý Ly được triều đại sau này sắc phong là Bảo Long Thánh Mẫu, Hoàng hậu đệ tam trinh tiết.
Tương truyền bà Dầm là một thôn nữ, xinh đẹp một hôm đi cắt cỏ ven sông Đáy vừa làm vừa hát:
Tay cầm bán nguyệt đưa ngang,
Em là phận gái sửa sang cõi bờ.
Nửa vành trăng sáng đơn sơ,
Trăm ngàn ngọn cỏ ngẩn ngơ quy hàng.
Bấy giờ Hồ Quý Ly đang chỉ huy quân lính tập trận tại thôn Ô Cách, cách đó không xa. Tình cờ nghe tiếng hát trong trẻo, thánh thót của cô gái lấy làm yêu mến bèn ghé thuyền lên bờ hỏi chuyện rồi cho võng kiệu đón vào cung làm vợ, sau này bà Dầm sinh được hai người con gái.
Về khía cạnh tuyển lựa người vào hậu cung, trừ những phụ nữ kết duyên với vua khi họ còn hàn vi, chưa có được danh vị cao sang làm nên sự nghiệp, bước lên trên ngôi báu; hoặc tình cờ gặp gỡ với vua mà trở thành vợ chồng, còn lại muốn được nên danh phận thì phải trải qua đợt tuyển tú nữ từ dân gian. Trong quan niệm của giai cấp thống trị, hoàng đế là thiên tử nên họ có quyền sở hữu tất cả những gì họ muốn, tất cả những gì trong thiên hạ đều là của vua vì thế, việc tuyển chọn phi tần cho nhà vua được tiến hành trên quy mô rộng lớn nhằm lựa ra những người con gái tài sắc vẹn toàn vào cung. Thế nhưng ngoài công chúa Huy Ninh (Nhất Chi Mai) và phi tần Nguyễn Thị Dầm, Hồ Quý Ly còn một người vợ nữa và điều lạ lùng là người này cũng từng trải qua một đời chồng.
Nhung giai thoai tinh ai ly ky cua Ho Quy Ly-Hinh-3
Tranh vẽ chân dung Hồ Quý Ly. Hình minh họa. Nguồn: mythuat.  
Trường hợp công chúa Huy Ninh lấy Hồ Quý Ly là do sự định đoạt đơn phương của anh trai nàng là vua Trần Nghệ Tông, do đó sự kiện này đã bị sử sách phê phán. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép lời bình của sử thần Ngô Sĩ Liên như sau: “Nhân Vinh chết vì thù nước, Huy Ninh để tang chồng mới được 6 tháng mà vua đã đem gả cho Quý Ly. Thế là làm hỏng nhân luân bắt đầu từ vua, mà kẻ làm chồng, người làm vợ cũng không có nhân tâm. Phá bỏ lẽ chồng vợ, đảo loạn đạo tam cương, thì làm sao mà chẳng sinh loạn?”.
Công chúa Huy Ninh có một người con gái với chồng trước Hồ Quý Ly đã nhận làm con nuôi và phong làm công chúa Hoàng Trung, sau đem gả cho Trần Mộng Dữ, con trai của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Ngoài ra Hồ Quý Ly còn lấy vợ góa của Thượng vị hầu Trần Tông (còn gọi là Trần Tung), vốn có một người con là Trần Đỗ, sau được làm Cung lệnh, đổi thành họ Hồ, phong làm tướng cầm quân. Sử chép rằng: “Năm Mậu Thìn (1388), mùa hạ, tháng 5, lấy Trần Đỗ làm cung lệnh. Đỗ là con Thượng vị hầu Tông, mẹ Đỗ cải giá lấy Quý Ly, cho nên có lệnh này. Sau Đỗ đổi làm họ Hồ” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Trên đây là một số giai thoại tình ái ly kỳ, thú vị vừa hư vừa thực của Hồ Quý Ly, một con người không thể thực hiện được ước mơ xây dựng một đất nước hùng mạnh, phú cường, để lại mối hận nghìn thu, như trong bài thơ của Nguyễn Trãi nói về Hồ Quý Ly có câu: “Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Anh hùng để hận đến nghìn năm). Cuối cùng vị vua tài ba ấy phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách, trước khi mất ông thổ lộ tâm tình xót xa, sự tủi thẹn của mình qua bài thơ “Cảm hoài”, trong đó có câu:
Cứu nước, tài hèn, thua Lý Bật,
Dời đô, kế vụng, khóc Bàn Canh.
Bình vàng đã mẻ làm sao gắn,
Đợi giá, ngọc vàng chẳng dám khinh.
Lê Thái Dũng

Điều ít biết về các vụ mưu sát Hồ Quý Ly


Nhờ có 2 người cô họ lấy vua Trần mà trở thành ngoại thích, sau lại trở thành phò mã nhà Trần và dần dần giữ chức lớn trong triều cho đến khi thế lực đã mạnh, Hồ Qúy Ly lật đổ nhà Trần lập ra nhà Hồ.
Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến một số vụ mưu sát nhằm vào ông cả trong khoảng thời gian trước và sau khi lên ngôi...
Bảng nhãn họ Lê trừ “nghịch tặc”
Hồ Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, là một nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Tổ tiên vốn họ Hồ, nguyên quán ở vùng Bào Đột đất Diễn Châu (nay thuộc Nghệ An), đến đời thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, đất Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa), làm con nuôi quan Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình gọi là Lê Liêm. Quý Ly là cháu bốn đời của Lê Liêm (Hồ Liêm) nên trước khi làm vua có tên là Lê Qúy Ly.
Thích khách rút đao hành động (Hình minh họa). 
Có hai người cô ruột đều là cung phi của vua Trần Minh Tông, từ quan hệ ngoại thích, Lê Quý Ly dần được các vua Trần tin dùng, chức vụ ngày một thăng tiến, từ Chi hậu tứ cục chánh chưởng lên Khu mật diện đại sứ, rồi được phong thêm chức Trung tuyên quốc thượng hầu... Năm Kỷ Mùi (1379), thêm chức Tiểu tư không và Nguyên nhung hành Hải tây đô thống chế, tới năm Đinh Mão (1387) được phong Đồng bình chương sự, được ban cho một thanh gươm và một lá cờ đề chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”... Năm Ất Hợi (1395), Qúy Ly giữ chức Nhập nội phụ chính Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc đại vương, đeo lân phù bằng vàng...
Thế lực của Lê Qúy Ly ngày càng lớn, quyền thế khuynh đảo triều đình, một số đại thần dũng cảm công khai phản ứng. Bảng nhãn Lê Hiến Giản (đỗ năm 1374) lúc ấy đang giữ chức Đại học sĩ, Tri thẩm hình viện, thấy Hồ Quý Ly chuyên quyền, thường ngày đến làm việc ở nhà chính sự đường vẫn ngồi trên một chiếc ghế sơn đen tức lắm liền nói: “- Nay ông dám ngồi ghế đen, rồi nữa, ngai vàng ông cũng ngồi à?” Qúy Ly giật mình nhưng vẫn đe lại: “- Xin ông hãy đổi cái bụng dạ ấy đi!” Giản không hề sợ, cứng cỏi trả lời rằng: “- Bụng dạ trời sinh, sao có thể đổi được!”. Nói xong ông ngâm mấy câu thơ:
Ngã tâm phỉ tịch,
Bất khả quyển dã.
Ngã lâm phỉ thạch,
Bất khả chuyển dã.
Nghĩa là:
Lòng ta chẳng phải chiếc chiếu,
Không thể cuốn tròn được.
Lòng ta chẳng phải hòn đá,
Không thể chuyển vần được.
Lê Qúy Ly nghe xong giận lắm, nhưng để bụng, lẳng lặng không nói gì. Biết Giản trung thành, có khí tiết nên vua Trần Xương Phù (còn gọi là Giản Hoàng) rất tin dùng và bàn mưu với ông tìm cách loại trừ Qúy Ly. Sách Nam Định tỉnh địa dư chí khi viết về Lê Hiến Giản có đoạn chép như sau: “Hồ Qúy Ly chuyên quyền làm ngang, ông cùng Giản Hoàng lo mưu giết Qúy Ly. Gặp khi Qúy Ly đi vào phủ công, ông sai môn khách cầm dao đâm Qúy Ly, bị Qúy Ly bắt được, ông ngửa mặt lên trời mà than rằng:
Thốn nhận trừ gian thiên địa bạch,
Nhất tâm báo quốc quỷ thần tri.
(Tấc kiếm trừ gian trời đất biết,
Một lòng báo quốc quỷ thần hay).
Rồi bị Qúy Ly giết chết. Giản Hoàng ban cho áo quan bằng đồng, quách bằng đá và lễ vật rất hậu để chôn cất”.
Dã sử thì cho hay, em Lê Hiến Giản là Lê Hiến Tứ cùng dự mưu giết Hồ Quý Ly nên cũng bị sát hại, cùng bị hành hình ngày 12/12 năm Kỷ Mão – 1399 (thần tích thì ghi là năm Canh Ngọ 1390), thi hài hai người được đưa về chôn cất tại trang Thượng Lao, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định).
Việc mưu sát Qúy Ly do Lê Hiến Giản chủ trương theo lệnh của vua Trần cũng được ghi lại trên nội dung tấm bia đá “Tứ xã miếu từ” dựng ở xã Xối Thượng (nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định): “… Giận Qúy Ly tiếm quyền vua ngai đen đã lấn có khi ngai vàng. Lòng vương thất gian nan bao quản, chẳng đá vần chiêu cuốn được sao, ngày đêm lo tính ra vào, vốn người trung trực cường hào xem không. Sai một khách dấu trong thỉ thủ, quyết mũi này với kẻ ruột tà. Nào ngờ việc lại xảy ra, Ly thì chưa chết người đà quyên sinh. Câu báo quốc rành rành còn để, chữ trừ gian thế thế bất di…”.
Mưu giết đại thần thất bại, hoàng đế phải lìa đời
Sau khi sai Lê Hiến Giản tìm cách giết Lê Qúy Ly nhưng không thành, vua Trần Xương Phù rất lo lắng, nhất là sau đó em trai Qúy Ly là Lê Qúy Tỳ được cử làm Phán thủ, Tri tả Hữu ban sự (là một chức hầu cận vua) danh nghĩa là phục dịch nhưng thực tế là giám sát, theo dõi mọi hoạt động của hoàng đế.
Vào tháng 8 năm Mậu Thìn (1388) vua Trần Xương Phù lại tiếp tục tìm cách diệt trừ Qúy Ly, sử chép: “Mùa thu, tháng 8, sao Chổi hiện ở phương tây. Vua bàn mưu với Thái úy Ngạc rằng: “- Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì làm, nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự.”
Con Vương Nhữ Chu là Nhữ Mai hầu vua học, nhân tiết lộ mưu đó. Quý Ly biết được. Đa Phương khuyên Quý Ly lánh ra núi Đại Lại để đợi biến động. Phạm Cự Luận nói: “- Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn”. Quý Ly nói: “- Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết mình”.
Cự Luận nói: “- Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan Phục Đại vương [Trần] Húc, vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con" may ra Thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định Vương. Nếu Thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn”. Quý Ly nghe theo, bí mật tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng cho là phải” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Mặc dù có ý phế ngôi và trừng trị vua Xương Phù nhưng đến ngày mồng 6/12 năm ấy Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mới hành động, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Thượng hoàng giả vờ đi chơi đất An Sinh, cho bầy tôi trong nội điện triệu nhà vua. Khi nhà vua đã đến, Thượng hoàng nói: "Đại vương lại đây!", rồi liền sai người dẫn nhà vua ra giam ở chùa Tư Phúc, rồi ban tờ nội chiếu nói: "Trước đây Duệ Tông vào đánh trong Nam, không trở về, cho nên dùng người cháu trưởng nối ngôi vua là theo đạo đời cổ. Nhưng từ ngày quan gia lên ngôi đến nay, chưa bỏ hết tính nết trẻ con, chưa giữ được đức độ vững chắc, thân cận với bọn tiểu nhân như bọn Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị, lập tâm hãm hại người bầy tôi có công, làm dao động cả xã tắc. Vậy cho giáng làm Linh Đức đại vương. Lại xét: Nhà nước không thể không có người chủ trương, ngôi vua không thể để trống mãi được, chuẩn y cho rước Chiêu Định vương là Ngung vào triều, nối giữ đại thống. Vậy ban bố chiếu thư cho trong kinh thành, ngoài các lộ ai nấy đều biết".
Chiêu Định vương Trần Ngung là con út của Thượng hoàng Nghệ Tông được lập làm vua (tức Trần Thuận Tông), không lâu sau sự kiện này Linh Đức Đại vương (tức vua Xương Phù – sử gọi là Trần Phế Đế) bị thắt cổ chết, các quan tướng có liên quan là Tri thẩm hình viện Lê Á Phu, tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách… đều bị giết cả.
Như vậy Trần Phế Đế ngay từ đầu không phải không nhận ra tham vọng của Lê Qúy Ly, hoặc ít nhất cũng thấy nguy cơ việc một ngoại thích nắm quyền lớn trong triều có thể gây ra mối đe dọa cho chính sự đương thời. Chính vì vậy vua đã có ý định diệt mầm họa ấy, thế nhưng sự việc không thành, trái lại số mạng vị vua này cùng một số quan tướng khác đã lâm vào kết cục bi thảm. Đánh giá về ông, sách Việt sử tiêu án chê vua “là người hôn ám, hèm kém không làm được việc, để quyền về tay kẻ dưới, làm cho xã tắc nghiêng đổ, đến thân cũng không giữ được”.
Thất bại của vua tôi Trần Xương Phù cũng được chính sử bình phẩm như sau: “Vua là người ngu hèn, chẳng biết làm gì, uy quyền ngày một về tay người dưới, xã tắc nghiêng đổ, đến thân mình cũng chẳng giữ được. Thương thay!... Giản Hoàng nhút nhát phải tự lập quyền bính có chủ, mệnh lệnh từ trên ban ra, thì lòng tham của họ Hồ tự phải dẹp đi. Trang Định không tính đến việc ấy; Á Phu cũng không hiểu là vua không có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Qúy Ly mà cơ mưu không cẩn thận, để cho nó biết trước. Trang Định lại không quyết đoán sớm, làm lỡ cơ hội, đến nỗi việc hỏng mình chết” (Đại Việt sử ký toàn thư)…
Theo Lê Thái Dũng/Báo Pháp Luật

Vụ thanh trừng dã man của Hồ Quý Ly gây căm phẫn


Trước khi soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã thao túng quyền lực trong triều đình nhà Trần suốt nhiều năm.
Trước khi soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã thao túng quyền lực trong triều đình nhà Trần suốt nhiều năm, gây ra nhiều hận thù, oán thán. Trong đó đặc biệt phải kể đến những vụ thanh trừng dã man các đối thủ chính trị cản bước mình, độc ác không kém gì màn trả thù Tây Sơn của Gia Long Nguyễn Ánh sau này.
Sát hại quần thần đời Trần Phế Đế
Ảnh minh họa. 
Trong những ngày trị vì cuối đời của Trần Phế Đế, không ít quý tộc và quan lại của triều đình tỏ ra căm ghét Hồ Quý Ly. Họ muốn trừ khử Hồ Quý Ly nhưng lại không biết chung lưng sát cánh để bàn mưu tính kế với nhau, bởi vậy, tất cả đều bị Hồ Quý Ly lần lượt thủ tiêu. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 8, tờ 12-a) chép rằng:
“Trước đó, theo lệ cũ ở các đài, sảnh, chỉ các quan từ chức Đồng bình chương sự trở lên mới được ngồi ghế sơn đen có tựa. Bấy giờ, Trang Định Đại vương Trần Ngạc làm Thái úy, Lê Quý Ly (tên gọi trước của Hồ Quý Ly) làm Đồng bình chương sự.
Quan trị thẩm hình viện là Lê Á Phu nói với Ngạc bỏ ghế của Quý Ly đi, không cho ngồi cùng nữa. Ông lại bí mật tâu vua giết Quý Ly. Cơ mưu bị lộ mà thất bại, bọn Lê Á Phu, Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Nguyễn Bát Sách, Lê Lặc, và người học sinh được tin yêu là Lưu Thường đều lần lượt bị giết cả”.
Trong số những người chống đối, chỉ có Lê Dữ Nghị là được Hồ Quý Ly tạm cho tha chết, bắt phải tội đi đày, sau cũng vờ cho phục chức, nhưng rồi lại bị Hồ Quý Ly khép vào tội kết bè kết cánh mà giết đi.
Nguyễn Bát Sách thì hoảng sợ mà bỏ trốn, Hồ Quý Ly không thèm đuổi mà cho người bắt giam mẹ của ông. Vì thương mẹ già bị tù tội mà Nguyễn Bát Sách phải ra hàng, rốt cuộc cũng bị Hồ Quý Ly giết nốt.
Trong hoàng tộc lúc ấy, chỉ có Trang Định Đại vương Trần Ngạc (con của Thượng hoàng Nghệ Tông) là người tỏ vẻ căm ghét Hồ Quý Ly ra mặt. Trước đó, chính Trang Định Đại vương đã mật bàn với nhà vua Trần Phế Đế về việc giết Hồ Quý Ly, nhưng Hồ Quý Ly không bị giết, ngược lại nhà vua bị Thượng hoàng giết chết.
Trang Định Đại vương Trần Ngạc chỉ được tạm yên thân một thời gian ngắn. Đến tháng 6 năm Tân Mùi (1391) ông cũng bị Hồ Quý Ly lập mưu giết chết.
Bức tử Vua Trần Thuận Tông
Ngày 15 tháng 3 năm Mậu Dần (1398), Hồ Quý Ly bức vua Trần Thuận Tông (con rể Hồ Quý Ly) phải nhường ngôi cho con là Thái tử An, để rồi ngay sau đó đã tạm bố thí cho Thuận Tông một tước hiệu thật hài hước là Thái thượng nguyên quân Hoàng đế ! Song, để tiện trong giao tiếp thường ngày, Quý Ly cứ gọi tắt là Nguyên Quân.
Năm ấy, Trần Thuận Tông mới 20 tuổi. Đến tháng 4 năm sau (Kỉ Mão, 1399), Hồ Quý Ly lại cưỡng bức Thuận Tông phải rời kinh thành Tây Đô mà ra tận Quảng Ninh để tu luyện phép thuật của Đạo giáo. Chuyến đi Quảng Ninh năm ấy cũng là chuyến đi vào cõi vĩnh hằng của vị vua trẻ tuổi này. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 8, tờ 33-b) viết:
"Mùa hạ, tháng 4, Quý Ly cưỡng bức Vua phải xuất gia thờ Đạo giáo, ra ở quán Ngọc Thanh thuộc thôn Đạm Thủy (nay thuộc Đông Triều, Quảng Ninh), lại còn mật sai Nội tẩm học sinh là Nguyễn Cẩn đi theo để trông coi.
Vua hỏi rằng : "Ngươi theo hầu ta là muốn làm gì chăng?". Cẩn không nỡ trả lời. Quý Ly làm bài thơ bảo Cẩn rằng : "Nguyên Quân (chỉ Nhà vua) không chết thì nhà ngươi phải chết".
Nguyễn Cẩn bèn dâng thuốc độc. Vua không chết. Lại dâng nước dừa và không cho ăn mà Vua vẫn không chết. Đến đây, sai Xa kị vệ thượng tướng quân là Phạm Khá Vĩnh thắt cổ cho chết".
Vụ tru di lớn nhất thế kỷ XIV
Trần Thuận Tông bị giết rồi, triều thần chán nản, ai cũng căm ghét Hồ Quý Ly, kể cả những người từng có mối quan hệ chí thiết với Hồ Quý Ly. Bởi sự căm ghét đó, họ đã cùng nhau bàn mưu tính kế để giết Hồ Quý Ly.
Tiếc thay, mưu lớn không thành, để đến nỗi tất cả đều phải chết một cách thê thảm trong vụ tru di diễn ra vào năm Kỉ Mão (1399). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 8, tờ 34 a-b) đã ghi lại sự kiện này như sau:
“Sự việc bị phát giác. Bọn tôn thất Trần Hãng, Trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, Hành khiển Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bưu, Phạm ông Thiện, Phạm Ngưu Tất... và các liêu thuộc, thân thích, gồm hơn 370 người đều bị giết và tịch thu tài sản.
Con cái họ, gái bị bắt làm nô tì, trai từ một tuổi trở lên thì hoặc bị chôn sống, hoặc bị dìm nước. Quý Ly sai lùng bắt dư đảng liền mấy năm không ngớt.
Người quen biết nhau chỉ đưa mắt ra hiệu chứ không dám nói chuyện với nhau. Nhà dân không được chứa người đi đường xin ngủ trọ, hễ có người ngủ trọ thì phải báo nhà láng giềng để cùng nhau xét hỏi giấy tờ, hành lí và lí do đi qua để làm chứng cứ bảo lãnh. Các xã đều đặt điếm tuần canh, ngày đêm tuần tra canh giữ. Lễ minh thệ từ đó không cử hành nữa.
Khát Chân người Hà Lãng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), ba đời làm tướng quân. Người đời truyền rằng, Khát Chân khi sắp bị hành hình, lên núi Đốn Sơn gào thét ba tiếng, chết qua ba ngày mà sắc mặt vần như khi sống, ruồi nhặng không dám bâu. Sau, nếu có hạn hán, cầu mưa là được ứng nghiệm ngay.
Theo PV /Vntinnhanh

Ly kỳ tìm mộ vua Hồ Quý Ly nơi đất khách

600 năm sau khi Hồ Quý Ly mất, con cháu tại Việt Nam vẫn luôn mong mỏi tìm được mộ chí của ông nơi đất khách quê người…

Năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Đến năm 1406, quân Minh do Trương Phụ, Mộc Thạnh chỉ huy lấy danh nghĩa “phò Trần diệt Hồ” kéo sang xâm lược. Đến năm 1407 quân Minh đã diệt nhà Hồ, bắt Hồ Quý Ly và các con Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương cùng nhiều quần thần và thợ giỏi, sư sãi… đưa về phương Bắc. Sau này Lê Lợi khởi nghĩa thành công, lập nên nhà Hậu Lê, số phận của những người bị quân Minh bắt vẫn rất mờ mịt, hầu như không có thông tin gì. Con cháu nhà Hồ còn sống sót ở Việt Nam những năm sau này đều mong mỏi biết về số phận và mồ mả tổ tiên nhưng bặt vô âm tín. Cho đến đầu những năm 2000, họ biết được có một nhà khảo cổ người Việt đã nhiều năm nghiên cứu và có ý định đi tìm ngôi mộ của Hồ Quý Ly, đó là ông Đỗ Đình Truật.
Một người khao khát tìm mộ vua Hồ
Ông Đỗ Đình Truật sinh năm 1931, mất năm 2013, là người đã có hơn 50 năm làm việc trong ngành khảo cổ. Ông đã được ghi nhận là người khai quật mộ cổ nhiều nhất Việt Nam với hơn 100 ngôi mộ. Từ nhỏ ông đã rất hâm mộ Hồ Quý Ly cùng những cải cách của nhà Hồ. Năm 1955, ông được cử sang Trung Quốc làm chủ nhiệm một số lớp ở khu học xá Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tại đây, ông may mắn gặp được học giả Trần Văn Giáp, từng du học Pháp và làm việc ở Viện Viễn Đông Bác cổ. Ông Giáp được nhiều học giả Trung Quốc khâm phục, thậm chí gọi ông là “Quách Mạt Nhược thứ hai” (nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với những nghiên cứu về văn tự cổ).
Thật bất ngờ khi ông Giáp cũng rất quan tâm đến Hồ Quý Ly và cung cấp cho ông Truật nhiều thông tin về các tài liệu quý giá liên quan đến nhà Hồ ở các thư viện Trung Quốc. Trong quá trình ở Quảng Tây tìm mộ Hồ Quý Ly thì ông Truật lại tình cờ phát hiện ra mộ của chí sĩ Nguyễn Thiện Thuật, người anh hùng của khởi nghĩa Bãi Sậy. Do điều kiện công việc lúc bấy giờ, ông Truật không có cơ hội để tiếp tục đi tìm mộ, sau này khi cách mạng văn hóa nổ ra, ông Truật phải về nước. Từ đó ông chỉ đi tìm dấu tích về nhà Hồ ở trong nước, nhất là sau khi xảy ra chiến tranh biên giới, ông càng không hy vọng có cơ hội sang Trung Quốc tìm mộ vua Hồ.
Hơn 70 tuổi, sức khỏe giảm sút, ông Truật rất vui mừng khi con cháu họ Hồ đã tài trợ chi phí để ông sang Trung Quốc tìm mộ. Xác định đây là chuyến đi lớn cuối đời, ông nghiên cứu tư liệu, chuẩn bị cho hành trình. Năm 2004, tôi may mắn được gặp ông Đỗ Đình Truật sau khi ông đi Trung Quốc về, được ông kể cho nghe nhiều chuyện thú vị. Gần đây lại gặp được người học trò cùng đi với ông nên có thể bổ sung khá đầy đủ về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly nơi xứ người.
Ly ky tim mo vua Ho Quy Ly noi dat khach
Nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật (trái) và ông Nguyễn Thiện Đức trong chuyến đi tìm mộ Hồ Quý Ly. Ảnh do gia đình cung cấp 
Tung tích của Hồ Quý Ly trên đất Minh
Các cuốn sử của Việt Nam chỉ ghi nhận việc cha con Hồ Quý Ly bị giải về Trung Quốc là hết. Phần còn lại được ghi chép khá rõ ở các cuốn Minh sử, Minh cảo sử, Minh thực lục, Minh thông giám, Quốc triều hiến chính… của nhà Minh. Sau khi bị giải đến kinh đô, ba cha con Hồ Quý Ly chỉ bị xử rất nhẹ; Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương được phong quan làm việc cho nhà Minh. Riêng Hồ Quý Ly, một số tài liệu cho rằng bị đày làm lính thú ở Quảng Tây, rồi bị giết bí mật. Tuy nhiên, ông Truật không tin vào thuyết này vì khi quân Minh đưa quân qua xâm lược nước ta đã vu cho Hồ Quý Ly hơn 20 tội, toàn tội đại nghịch như tiếm ngôi, giết vua, chém sứ, lấn đất thiên triều… nên nếu muốn giết thì có thể chém ngay giữa điện Phụng Thiên luôn để ra uy, không cần phải dùng cách tiểu nhân. Bản thân Hồ Quý Ly khi bị bắt đã hơn 70 tuổi, già yếu, khó có khả năng trốn thoát về đất Việt và cũng không còn lực lượng, nhất là bị dân chúng căm ghét, cho là cướp ngôi nhà Trần.
Ngoài ra, do Hồ Nguyên Trừng được trọng dụng để chế vũ khí nên nhà Minh cũng muốn giữ mạng Hồ Quý Ly để các con yên tâm phụng sự, có thể đó là lý do tại sao nhiều pho sử nhà Minh ghi lại rằng sau khi bị hài tội thì Hồ Quý Ly chỉ bị giam vào ngục chờ phán quyết, mà sau đó cũng không thấy có phán quyết gì với ông, tức là ông đã bị giam hoặc giam lỏng đến khi chết.
Một tài liệu khác thời Minh ghi chép lại trò chuyện với con cháu Hồ Quý Ly cho biết Hồ Quý Ly chết khi hơn 80 tuổi, chôn ở kinh đô. Sau đó con cháu cải táng, chôn ở núi Chung Sơn cách đó hơn chục dặm. Ông Truật tin là tài liệu này đúng hơn cả. Và ông cho rằng nơi chôn cất Hồ Quý Ly ở núi Chung Sơn là núi Lão Tử hiện tại, thuộc TP Nam Kinh, tỉnh Giang Tô
Sử sách đều ghi ba cha con Hồ Quý Ly bị dẫn giải về Kim Lăng. Kim Lăng (Nam Kinh) chính là kinh đô của nhà Minh trước khi dời về Bắc Kinh. Núi Lão Tử thuộc thôn Kim Lăng, cách Nam Kinh gần 20 km vốn là nơi chôn người chết bao đời, trên núi có vô số ngôi mộ. Ngay cả hai vị vua đầu tiên của nhà Minh cũng được đặt lăng mộ ở Lão Tử Sơn, sau này dời đô mới mang về Bắc Kinh, đặt trong Thập tam lăng như hiện nay. Vấn đề còn lại là làm sao tìm được mộ Hồ Quý Ly giữa muôn vàn nấm mộ ở nơi này.
Những chuyện ngẫu nhiên trên Lão Tử Sơn
Xuống sân bay Bắc Kinh, nhóm ông Truật được một cô gái tên Thu Vân ra đón. Cô là người gốc Việt, qua người quen, biết ông Truật đi tìm mộ Hồ Quý Ly nên tình nguyện làm người dẫn đường. Một chuyện khá ngẫu nhiên là khi trên chuyến tàu đi Nam Kinh, tình cờ một thanh niên ngồi gần đó nghe được câu chuyện của nhóm đã tới làm quen. Anh giới thiệu là công nhân mỏ, họ Hồ, sống ở Giang Tô, biết rõ địa thế vùng này. Anh đã vẽ bản đồ chỉ dẫn cách đi đến thôn Kim Lăng trên Lão Tử Sơn.
Khi đến Kim Lăng, đoàn đã đến đồn cảnh sát địa phương để trình báo sự việc và hỏi thăm, được cảnh sát cho biết trên Lão Tử Sơn có rất đông người họ Hồ, có cả một khu mộ nghe nói của dòng họ người Việt ở đó từ rất lâu rồi. Họ còn nhiệt tình cử một sĩ quan cảnh sát lấy ô tô dẫn đoàn đến đó. Những sự kiện ngẫu nhiên nối tiếp khiến ông Truật tin rằng ông đã gần đến đích.
Ông Nguyễn Thiện Đức, năm nay 68 tuổi, vốn là một sĩ quan quân đội nhưng rất đam mê khảo cổ nên đã theo làm học trò ông Truật hơn 16 năm. Ông kể lại: “LãoTử Sơn là vùng rừng núi rất mênh mông rộng lớn, ít người, mộ chí rất nhiều. Chúng tôi đi tìm từ sáng tới trưa chưa thấy dấu tích mộ dòng họ Hồ, cả đoàn ai cũng hết sức mệt mỏi. Khi đang đi, bỗng nhiên tôi bị một cành gai quấn vào gấu quần kéo lại. Tôi cúi xuống gỡ cây gai và nhân tiện cột lại dây giày thì thấy có một con đường mòn nhỏ bên cạnh. Linh tính mách tôi thử tách đoàn đi theo con đường mòn nhỏ một đoạn xa thì phát hiện ra một ngôi mộ ghi tên Hồ Văn Hải, chết đã rất lâu rồi. Tôi gọi cả đoàn lại, ai cũng mừng rỡ. Cụ Truật gieo thử một quẻ Kinh dịch, hỏi xem có phải nhà vua không thì được biết chỉ là mộ một người hậu thế. Tuy nhiên, đây là cơ sở để chúng tôi vững tâm, bắt đầu đi tìm các gia đình có người họ Hồ gần đó để dò hỏi thêm”...
Một cụ già cho biết bà cũng nghe kể lại dòng họ Hồ của bà có gốc Việt Nam rất lâu trước đây. Xưa kia trên đỉnh Lão Tử Sơn còn có ngôi mộ của tổ dòng họ Hồ ở đây. Trên đó còn có cả nhà giam cũ từ xưa. Trong khi mọi người đang mừng rỡ thì bà cụ khiến không khí chùng lại khi nói rằng theo các bô lão trong thôn, hồi Thế chiến thứ II, quân Nhật kéo đến chiếm Nam Kinh, chúng đã chọn đỉnh Lão Tử Sơn làm nơi đặt trận địa pháo. Nhà giam cùng nhiều ngôi mộ cổ trên đó, trong đó có lăng mộ tổ họ Hồ đều đã bị san ủi.
Đứng trên đỉnh núi nay chỉ còn là bãi đất hoang cây cỏ mọc đầy, ông Truật thắp hương gieo quẻ Kinh dịch, hỏi di hài nhà vua còn ở đây không thì quẻ trả lời còn nhưng không tìm được nữa. Ông Truật bốc lấy hai nắm đất trên đỉnh, gói lại vào tấm vải mang về. Khi tới Bắc Kinh mở ra, thật kỳ lạ khi nắm đất nhìn giống như hình đầu người. Hai nắm đất đó sau này đã được đưa về đặt trên bàn thờ của dòng họ Hồ ở Việt Nam.
Theo Pháp luật TP HCM



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét