Thứ Tư, 31 tháng 8, 2011

Đường Thiên Lý giữa Sài Gòn

“Đó là một trong những con đường xưa nhất của Sài Gòn, của thành Gia Định. Lịch sử thành phố đã cuộn qua nó rất sôi động, rất khốc liệt. Con đường này cũng không mấy thay đổi qua nhiều biến động, nhiều thời kỳ”, NNC Nguyễn Đình Đầu nói về trục đường Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Kỳ vọng Thiên Lý
Trong tấm bản đồ Sài Gòn năm 1815 so sánh với những con đường hiện tại, hiện rõ mồn một đường Nguyễn Thị Minh Khai ở hai phía của thành Gia Định hình bát giác (còn gọi là thành Quy) là trục đường đi về phía bắc và phía tây. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép: “Năm Mậu Thìn Thế Tông thứ 11 (1748), quan điều khiển Nguyễn Phúc Doãn cho chăng dây mà mở thẳng đường này, gặp ngòi suối thì bắc cầu, chỗ bùn lầy xếp xây đắp đất. Từ cửa Cấn Chỉ của thành đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm...
Năm Ất Hợi Gia Long 14 (1815), tổng trấn thành Gia Định đo từ cửa Đoài Duyệt phía tây thành đắp đường đi đến tận nước Cao Miên (Campuchia ngày nay), dài 439 dặm... Gọi là đường Thiên Lý, mặt đường rộng 6 tầm, thực là đường bình an cho người, ngựa”.
Đường Nguyễn Thị Minh Khai - Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Như vậy, tuổi của con đường này chỉ ít hơn thành Gia Định có vài chục năm, “lối xưa xe ngựa” đến nay vẫn ngày càng nườm nượp. Người xưa khi đắp đường, định chức năng quan lộ, gọi tên Thiên Lý chắc cũng đã nuôi những kỳ vọng cho trăm năm.
Thời tiết, điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, Gia Định - Sài Gòn đã nhanh chóng trở thành nơi tập trung giao thương lớn nhất miền Nam. Chợ Thị Nghè là một trong những khu chợ hình thành sớm nhất thời bấy giờ. Ngày ấy rạch Thị Nghè rộng, nước trong xanh “hây hây như tờ quyến trải” thông suốt ra dòng Bến Nghé. Nhiều cụ bà người Sài Gòn hôm nay vẫn còn nhớ câu thơ cũ của Ngô Nhân Tịnh: Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn/ Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.
Lần lại lịch sử hình thành và phát triển của thành phố, nhiều người Sài Gòn, kể cả nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng phải gật đầu thú vị với những phát hiện về con đường này. Không chỉ có chợ, trên đường còn có những nơi vui chơi giải trí, những tụ điểm văn hóa giáo dục đầu tiên của Sài Gòn. Trước nhất là Sở thú được khởi công đầu tiên từ tháng 3-1864.
Với diện tích trên 20ha, nhà thực vật học người Pháp J.B. Louis Pierre đã sưu tập về đây hàng ngàn loài thực vật, chim thú quý hiếm. Trải qua hàng trăm năm, bao nhiêu biến động của thời cuộc, những cây gỗ quý trong Thảo cầm viên vẫn nấn từng vòng nhựa một để lớn lên, chim thú từ khắp thế giới vẫn tụ về phục vụ nhu cầu của người dân thành phố. Thật thú vị khi trong cuốn Việc từng ngày hai mươi năm qua ghi chép từ năm 1945-1964, giữa những biến động lịch sử ngồn ngộn, tác giả Đoàn Thêm vẫn cẩn trọng ghi: “Ngày 3-1-1962, từ giờ vào Sở thú phải mua vé 2 đồng/người. Ngày 23-7-1963, cọp ở Thảo cầm viên sinh ba cọp con”.
Đến năm 1869, đường Thiên Lý có tên là Chasseloup Laubat và có thêm vườn Maurice Long (tên toàn quyền Đông Dương bấy giờ, hiện là công viên Tao Đàn) được tách ra khỏi dinh toàn quyền, người dân gọi là vườn Ông Thượng. Lập tức, vườn Ông Thượng trở thành một điểm hẹn văn hóa của người dân thành phố, nơi cuộc đấu xảo đầu tiên diễn ra, năm nào lễ giỗ Tổ Hùng Vương cũng được trang trọng tổ chức để những người di dân xứ Bắc hướng về cội nguồn. Và vườn Ông Thượng sẽ còn là nơi lịch sử thành phố ghi nhiều dấu son đáng nhớ.
Năm 1874, Trường Chasseloup Laubat (nay là THPT Lê Quý Đôn), trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, nổi trống khai trường. Ngoài con em của các quan Pháp, những học sinh xuất sắc nhất của đất Nam kỳ cũng được tuyển chọn theo học. Sau mỗi kỳ thi, kết quả học tập của từng người còn được đăng trên Gia Định Báo. Có lẽ chính vậy mà học sinh VN nào cũng gắng để được nhận xét “Học tốt lắm”. Từ đây, nhiều học sinh của trường sẽ ghi tên mình vào lịch sử trên nhiều lĩnh vực, kể cả làm cách mạng chống chế độ thực dân, điều mà trường Tây không hề dạy họ: Trần Văn Giàu, Phan Văn Hùm, Vương Hồng Sển...
Trăm năm đã đi qua, những cuộc dời đổi cũng đã đi qua, nhưng Thảo cầm viên, công viên Tao Đàn, Trường THPT Lê Quý Đôn thì vẫn đó, vẫn miệt mài làm chức năng từ ngày khai sinh của mình cho cả trăm năm.
Vườn Maurice Long 1948 (công viên Tao Đàn ngày nay).

Cây cầu tình thương
Câu chuyện về cây cầu Thị Nghè bắt đầu rất thú vị từ một tính cách rất đặc trưng của người Sài Gòn mà ai gặp rồi cũng sẽ nhớ mãi. Các sách địa chí văn hóa Sài Gòn đều ghi lại về sự hào sảng của bà Nguyễn Thị Khánh, con gái quan thống suất Nguyễn Cửu Vân. Từ thế kỷ 18, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, bà lấy chồng và cùng chồng đến sinh sống, khai khẩn vùng đất ven sông Bình Trị. Chồng bà là một quan nghè làm thư lại trong thành Gia Định, mỗi ngày đi về bốn lượt đều phải đợi đò để băng qua con rạch. Thương chồng và thương dân làng vất vả, bà bỏ tiền huy động dân công bắc cây cầu gỗ qua rạch. Từ ấy, cầu được gọi là cầu Thị Nghè, con rạch cũng được dân thương mà gọi rạch Thị Nghè.
George Finlayson, một nhà ngoại giao, cũng là nhà khoa học Anh đến Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 19, đã mô tả: “Nhà cửa rộng lớn, thích hợp với phong thổ. Mái lợp ngói, cột điều mộc, vách thì trét đất sét bên sườn tre rồi tô hồ lên. Nhiều nhà cao cẳng sàn bằng ván xếp hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái quang đãng. Phố xá ngay hàng thẳng lối hơn là ở nhiều kinh thành châu Âu”.
Bài Gia Định phong cảnh vịnh kể quang cảnh chợ Thị Nghè thời ấy: “Dưới sông tàu lửa đậu liền/ Từ đồn Giao Thủy sấp lên Bà Nghè/ Lưu thông các nước bộn bề/ Có tàu Đông Việt, có ghe Bắc kỳ/ Bán buôn vật nọ hàng kia/ Lao xao thương khách xiết gì là đông/ Chiếc qua chiếc lại đầy sông/ Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu...”.
Những câu chuyện về sự khởi đầu bao giờ cũng vui, nhưng có chuyện vui ắt có chuyện buồn. Hơn 200 năm khốc liệt nhất của lịch sử đi qua, con đường này, cây cầu này đã thấm mồ hôi, nước mắt của nhiều thế hệ. Bắt đầu từ chính cây cầu Thị Nghè được bắc lên từ tình thương yêu.
“Cha tôi, chú tôi đều đã có thời tuổi trẻ hào hùng ở đây”, ngồi ở cửa hàng bán sáo trúc, đàn tranh của mình, ông Trần Thanh Trung nhìn ra cây cầu Thị Nghè trước mặt mà nhớ những ngày ác liệt, khi ông còn chưa ra đời...
Theo Tuổi Trẻ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét