Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018

Trần Khánh Dư dùng khổ nhục kế trong cuộc đấu trí với Ô Mã Nhi


Trận chiến chống quân Nguyên thời nhà Trần
Tướng giỏi như Trần Khánh Dư thừa hiểu Vân Đồn là nơi sẽ bị quân Nguyên tấn công đầu tiên trong chiến lược dọn đường cho quân tải lương vào. Với số quân và thuyền ít ỏi, Khánh Dư dù có cái dũng đi chăng nữa mà đem toàn bộ vốn liếng dốc sức vào cuộc chiến thì sẽ thất bại mà không đạt được mục tiêu là "đánh vào dạ dày" quân địch

Trong thời gian gần đây, từ khóa Trần Khánh Dư có vẻ rất "hot" và được nhiều người tìm kiếm. Trong số các bài viết về vị danh tướng này, có một bài rất đáng chú ý của tác giả Dũng Phan được đăng trên Ipick.vn. Trong đó tác giả khẳng định để có được chiến thắng tại Vân Đồn tạo bước ngoặt trong cuộc chiến, Trần Khánh Dư đã “nướng quân” già yếu lần 1 với Ô Mã Nhi và để dồn chủ lực mà tiêu diệt Trương Văn Hổ.
Những phân tích trên có vẻ khác với chính sử được ghi chép nhưng chúng tôi cho rằng phân tích của tác giả là hợp lý. Tuy nhiên, chúng tôi không đồng ý với cụm từ "nướng quân" vì nướng quân thường được hiểu là uổng phí quân lính một cách vô ích và vô cảm. Bằng tất cả sự tôn trọng, chúng tôi nghĩ nên hiểu rằng Trần Khánh Dư đã chấp nhận hy sinh một phần lực lượng trong cuộc đấu trí với Ô Mã Nhi để giành chiến thắng cả ván cờ.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ngày 30.12.1287, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi gồm 650 chiến thuyền đánh vào Vân Đồn. Trần Khánh Dư chỉ có 100 chiến thuyền nên không chống đỡ nổi địch, thất bại nhanh chóng. Tin đến tai triều đình, vua Trần sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói: "Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn. Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền tải lương tất đi theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát sau, quả nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên bị thua to...”.
Thế nhưng ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư chỉ là sự kiện, chứ khó tả được cái tài tình trong chiến tranh. Dù vậy, qua cách viết đó, ta có thể thấy sự tự tin của Trần Khánh Dư khi ông chủ động điều khiển cuộc chơi chứ không phải là đánh liều thắng may.
Tướng giỏi như Trần Khánh Dư thừa hiểu Vân Đồn là nơi sẽ bị quân Nguyên tấn công đầu tiên trong chiến lược dọn đường cho quân tải lương vào. Với số quân và thuyền ít ỏi, Khánh Dư dù có cái dũng đi chăng nữa mà đem toàn bộ vốn liếng dốc sức vào cuộc chiến thì sẽ thất bại mà không đạt được mục tiêu là đánh vào dạ dày địch. Nhưng nếu án binh bất động thì giặc Nguyên với số lượng áp đảo cũng sẽ chủ động vô hiệu hóa Vân Đồn.
Do vậy, Trần Khánh Dư cần phải cho Ô Mã Nhi tin rằng Vân Đồn bị thua thảm hại, không còn khả năng gượng dậy khi đối đầu với thủy quân Nguyên theo kiểu "khổ nhục kế". Khổ nhục kế không phải kế dễ dùng, dễ diễn mà phải trả cái giá cũng rất đắt. Trong mấy truyện kiểu Tam quốc thì hay nói kiểu vờ thua để dụ địch chủ quan rơi vào mai phục nhưng trên thực địa thì vờ thua rất đau đớn. Trước một tướng nhiều kinh nghiệm như Ô Mã Nhi mà để vờ thua thì Trần Khánh Dư đâu chỉ diễn qua loa thiệt hại vài trăm người cùng mấy chiếc thuyền bị đắm được. Có lẽ Trần Khánh Dư chấp nhận mất một lượng quân khá lớn nhưng không phải tinh binh để lừa Ô Mã Nhi hoàn toàn tin tưởng rằng thủy quân Trần ở Vân Đồn đã bị quét sạch. Chỉ tiếc là sử ta không mô tả trận này bao nhiêu binh sĩ nhà Trần đã chết hay bao nhiêu chiến thuyền bị đắm, sử nước ta nói chung không đề cập nhiều đến thiệt hại của quân mình.
Màn khổ nhục kế phải diễn cỡ như Tôn Tẫn giả điên lừa Bàng Quyên thời Chiến quốc thì mới qua mặt được Ô Mã Nhi lão luyện trên chiến trường. Nó đạt tới độ thật đến mức tin tức chấn động đến nơi khiến vua Trần phải cử sứ giả đến bắt giải Trần Khánh Dư (hoặc cũng có thể vua Trần nắm được mưu này cho sứ giả đến trách tội Trần Khánh Dư để vở kịch càng thêm đạt). Nói tóm lại, khổ nhục kế đầy máu và bi ai của Trần Khánh Dư đã qua mặt được Ô Mã Nhi khiến y chủ quan thúc Trương Văn Hổ đưa thuyền lương đến nhanh mà không biết là đưa thuyền lương nộp cho tinh binh của Trần Khánh Dư.
Đến đây có thể tin đúng là Trần Khánh Dư diễn khổ nhục kế trong lần thua đầu tiên. Giả sử Trần Khánh Dư đã thua tan hoang trong lần chạm trán thủy quân Ô Mã Nhi, binh sĩ tháo chạy thì làm sao ông có thể tập hợp lại lực lượng tinh nhuệ trong thời gian ngắn. Hơn nữa, dù có binh sĩ tập trung về mà không có thuyền bè trang bị tốt sẵn thì làm sao đánh được đoàn binh lương của Trương Văn Hổ dễ dàng được. Nên nhớ đánh thủy thì phải có thuyền chứ không phải đánh trên bộ chỉ cần sức người là đủ. Trần Khánh Dư phải chuẩn bị rất kỹ tàu bè cho trận đánh Trương Văn Hổ chứ không thể nào vừa thua mà đã đóng thuyền ngay tắp lự trong thời gian ngắn được.
Thời Chiến quốc, Tôn Tẫn không chỉ dùng khổ nhục kế qua mặt Bàng Quyên mà còn dùng kế này để qua mặt Tề Uy vương trong cuộc đua ngựa: lấy ngựa hạng ba thua ngựa hạng nhất nhưng dùng ngựa hạng nhất thắng ngựa hạng nhì, dùng ngựa hạng nhì thắng ngựa hạng ba*. Ở đây, Trần Khánh Dư trong khổ nhục kế của mình đã chấp nhận dùng quân hạng thường của mình thua tinh binh của Ô Mã Nhi và rồi dùng tinh binh của mình đánh bại quân lương của Trương Văn Hồ. Và khi đánh bại được Trương Văn Hổ thì Trần Khánh Dư coi như đã cắt toàn bộ nguồn lương thảo của quân Nguyên, làm phá sản hoàn toàn chiến lược của quân Nguyên, tạo bước ngoặt trong cả cuộc chiến. Sử chép: Quân Nguyên từ đấy thiếu lương ăn; mỗi ngày một quẫn bách thêm, quân sĩ ai cũng muốn về, không ai có lòng chiến đấu, cho nên năm bấy giờ quân Nguyên lại kéo sang mà dân ta bị hại không đến nỗi thảm khốc như năm trước, Khánh Dư thực đã dự một phần công lao.
Điều đáng nói nữa là khi đón nhận tin Khánh Dư chiến thắng, vua Trần có vẻ điềm nhiên như biết trước kết quả và lên kế hoạch triển khai mưu kế tiếp theo luôn. Khâm định Việt sử thông giám cương mụcchép: Khánh Dư cho người phi báo tin về hành tại, thượng hoàng tha cho tội trước không hỏi nữa và nói "Quân Nguyên chỉ nhờ lương thảo, khí giới, nay đã bị ta bắt được, nếu chúng chưa biết rõ việc ấy, hoặc còn hung hăng quấy nhiễu chăng?". Nói rồi bèn thả những người mà ta đã bắt được đến thẳng dinh quân Nguyên để nói rõ sự thể cho chúng biết.
Trần Khánh Dư là người chịu khổ nhục bán than bao năm dài để chờ được trọng dụng trở lại thì không ai hơn ông trong việc biết cách dùng kế khổ nhục khi cầm quân. Và cũng qua bài phân tích vẫn còn sơ sài này, chúng tôi muốn độc giả hiểu rằng để có được chiến thắng trong các cuộc chiến chống ngoại xâm, cha ông ta chịu nhiều đau khổ và tốn không ít xương máu chứ không thể có chiến thắng vang dội mà chẳng thiệt hại mấy.
Người đời sau có thơ khen Trần Khánh Dư (cũng có thuyết nói đó là thơ Khánh Dư tự vịnh mình) rằng:
Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn
Hỏi rằng chi đó? Gửi rằng: than
ít nhiều miễn được đồng tiền tốt
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác
Nhưng lệ trời kia lắm kẻ hàn.
Anh Tú
* Khổ nhục kế của Tôn Tẫn
Tôn Tẫn sinh ở giữa đất A và đất Quyến. Tẫn là con cháu của Tôn Tử. Tôn Tẫn xưa cùng Bàng Quyên học binh pháp. Sau đó, Bàng Quyên làm quan nước Ngụy, được làm tướng quân của Huệ Vương, nhưng vẫn tự cho rằng mình không tài giỏi bằng Tôn Tẫn, cho nên ngầm sai người mời Tôn Tẫn đến. Khi Tẫn đến, Bàng Quyên sợ và ghét Tẫn hơn mình, bèn mượn pháp luật mà trị tội chặt hai chân và chàm vào mặt để cho ông ta giấu mình không xuất đầu lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương, Tôn Tẫn mang thân đã bị hình phạt lén gặp, thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ mang trộm lên xe cùng về nước Tề. Tướng nước Tề là Điền Kỵ phục tài, đối đãi như là khách.
Kỵ nhiều lần đua ngựa đánh cuộc nhiều tiền với các công tử nước Tề. Tôn Tẫn thấy chân ngựa không hơn nhau lắm, ngựa có ba thứ giỏi, vừa và kém. Do đó, Tôn Tẫn nói với Điền Kỵ :
- Ngài cứ đặt cọc thật nhiều tiền đi, tôi có thể làm cho ngài thắng.
Điền Kỵ tin theo, đặt cọc với các công tử nghìn vàng. Đến khi ra trường đua, Tôn Tử nói :
- Nay ngài lấy con ngựa kém của ngài thi với ngựa giỏi của họ, lấy con ngựa giỏi của ngài thi với con ngựa vừa của họ, lấy con ngựa vừa của ngài thi với con ngựa kém của họ.
Sau khi đã đua ngựa ba lần, Điền Kỵ thua một, mà thắng hai, cuối cùng được nghìn vàng. Vì vậy, Kỵ tiến Tôn Tử với Uy Vương. Uy Vương hỏi về binh pháp, rồi tôn làm bậc thầy.
(theo Sử ký Tư Mã Thiên

Từ chuyện bậy bạ của Trần Khánh Dư đến cái đức của Hưng Đạo Vương

Chiến thắng Vân Đồn tạo bước ngoặt trong cuộc chiến - Ảnh: Internet
Trần Khánh Dư là danh tướng hàng đầu thời nhà Trần và có công lớn trong việc đánh bại quân Nguyên. Nhưng nếu Hưng Đạo vương là người chấp nhặt thì Khánh Dư không có cơ hội lập công.

Câu chuyện tình éo le của Khánh Dư và công chúa Thiên Thụy rất nổi tiếng. Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép: Lúc đầu năm Nguyên Phong (niên hiệu vua Trần Thái Tông 1251-1258), Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư từng có công đánh giặc, được phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân rồi thăng đến tử phục thượng vị hầu; sau vì tư thông với Thiên Thụy công chúa, phải tội cách hết quan tước và tịch thu tài sản
Tội tư thông đó rất nặng nề vì thời điểm đó, Khánh Dư là con nuôi của Thánh Tông mà Thiên Thụy là con gái của Thánh Tông. Do đó, có thể coi Khánh Dư và Thiên Thụy là hai anh em mà làm chuyện vậy thì rất khó coi. Hơn nữa, vì Thiên Thụy công chúa vốn được Thượng hoàng Trần Thánh Tông ban hôn cho vợ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn nên việc làm của Khánh Dư trên thì phạm tội khinh quân, dưới thì đắc tội với Hưng đạo vương.
Có giai thoại đáng tin nói trong phiên tòa xử tội ông, Trần Thánh Tông sợ phật ý Hưng Đạo vương mà đã phạt tội đánh đến chết, nhưng Thánh Tông lại ngầm hạ lệnh cho lính đánh chúc đầu gậy xuống (lực đánh vào nền đất hết cả), nhờ thế mà qua 100 gậy Trần Khánh Dư vẫn sống. Theo luật thời đó, qua 100 gậy mà không chết nghĩa là trời tha, nhờ vậy mà ông đã được miễn tội chết.
Với một người thông minh thấu hiểu mọi chuyện như Hưng Đạo vương thì sao không hiểu được việc Khánh Dư được ngầm tha tội nên mới sống. Nếu như là người bình thường thì sẽ ghi sổ món nợ của Khánh Dư. Tuy nhiên, điều hay của Hưng Đạo vương là ông không để bụng món nợ của Khánh Dư. Chứ Hưng Đạo vương mà cảm thấy giận chuyện đó thì chỉ cần cho gia tướng đến tìm Khánh Dư lúc hết binh quyền thì cái mạng nhỏ xíu của Khánh Dư khi đó không còn.
Sau khi Khánh Dư bị phế truất binh quyền, tịch thu gia sản phải trở về Chí Linh làm nghề bán than. Nhưng năm 1282, vua Trần Nhân Tông khôi phục chức cho Khánh Dư. Sử chép: " Lúc ấy Khánh Dư chở thuyền qua bến Bình Than, người chân sào đều đội nón cói, mặc áo cánh bằng vải gai. Nhà vua trông thấy, trỏ vào thuyền Khánh Dư bảo với các quan hầu cận rằng: "Người kia chả phải Nhân Huệ vương đấy ư?". Nói xong liền cho quân sĩ bơi chiếc thuyền nhỏ đuổi theo. Khi quân sĩ theo kịp, hô lên rằng: "Có mệnh lệnh vua cho triệu ông đấy!". Khánh Dư nói: "Lão già này là người bán than, có việc chi mà vua triệu?". Quân sĩ đem câu nói ấy về tâu. Nhà vua nói: "Đúng là Nhân Huệ vương rồi, người thường chắc không dám nói thế". Lại sai nội thị đến triệu. Khi Khánh Dư đến, mặc áo cánh bằng vải gai và đội nón cói vào yết kiến. Nhà vua nói: "Không ngờ người nam nhi như thế mà lưu lạc đến như thế?", liền hạ chiếu tha tội cho. Khánh Dư tiến lên thuyền vua vái tạ. Vua ban cho áo của vua thường mặc và cho ngồi ở dưới hàng các tước vương. Những lời nghị luận của Khánh Dư đều hợp ý vua. Nhà vua cho phục chức và phong làm Phó đô tướng quân".
Những chi tiết vừa khéo khi vua Trần Nhân Tông "tình cờ" gặp Trần Khánh Dư tại Bình Than dường như là một vở kịch để hợp thức hóa cho triều đình nhà Trần dùng lại Khánh Dư mà không làm mếch lòng của Hưng Đạo vương khi ấy. Hưng Đạo vương cũng không hề để bụng việc làm xấu của Khánh Dư trước đây với con trai ông mà hoàn toàn tin tưởng giao binh quyền ở trọng điểm Vân Đồn cho Khánh Dư. Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép: "Khánh Dư làm phó tướng ở Vân Đồn, Hưng Đạo vương giao phó cho giữ hết công việc ngoài biên giới".
Chính nhờ tin tưởng và đặt trọng trách lên đúng Khánh Dư, quân nhà Trần đã đánh tan đoàn quân tải lương của tướng Trương Văn Hổ. Bị Khánh Dư tung đòn vào mạng mỡ, quân Nguyên hoảng loạn vì thiếu lương và xuống tinh thần nhanh chóng. Quân ta xoay chuyển ngược cục diện và giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông là nhờ công của Khánh Dư và tài dùng người của Hưng Đạo vương.
Có thể tin rằng Hưng Đạo vương đã nhìn đúng tài của Khánh Dư và cũng có sự thông cảm nhất định cho viên tướng này bởi Hưng Đạo vương cũng từng có thời như vậy. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm 1251, vua Trần Thái Tông gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn.
Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành là lễ kết tóc với Trung Thành Vương.
Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông dâm với nàng.
Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn làm con) liền đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì, Thụy Bà trả lời: "Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành, Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu".
Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng, bèn vào chỗ Thiên Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện.
Hôm sau, Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: "Vì vội vàng nên không sắm được đủ lễ vật". Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh ruộng ở phủ Ứng Thiên để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương".
Có thể thấy chuyện của Hưng Đạo vương thời trẻ và của Khánh Dư về cơ bản là tương đồng. Một điều nữa để Hưng Đạo vương quyết tâm trọng dụng Khánh Dư là do các "tướng quốc" thời kỳ đầu Trần đều công tư phân minh, coi việc nước lên trên việc nhà.
Khi Hưng đạo vương còn trẻ, chính Trần Thủ Độ đã tạo điều kiện để cho ông được giữ binh quyền, thể hiện tài năng mà không hề sợ nguy cơ sau này.
Cần nhớ, Trần Quốc Tuấn chính là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, người đã bị Trần Thủ Độ ép bỏ vợ là Thuận Thiên công chúa để... nhường cho Trần Thái Tông. Trần Liễu rất căm hận chuyện này nên đã từng dấy binh làm phản nhưng thất bại. Năm 1251, lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăn trối rằng: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được"
Nếu Trần Thủ Độ mà e ngại Trần Quốc Tuấn về sau nắm quyền báo thù thì ông thừa đủ quyền lực để trù dập. Nhưng năm 1257, Trần Quốc Tuấn đã được nắm trọng trách trong cuộc kháng Nguyên lần nhất. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 9 (1257), (Trần Thái Tông) xuống chiếu, lệnh cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (phía Bắc) theo sự tiết chế của Quốc Tuấn".
Mãi đến năm 1264, Trần Thủ Độ mới qua đời. Nếu Trần Thủ Độ là người ích kỷ hẹp hòi chỉ biết dùng người thân tạo vây cánh thì e rằng Đại Việt khó có Trần Hưng Đạo và 2 cuộc kháng Nguyên rực rỡ sau này.
Đến lượt mình, Hưng Đạo vương tỏ ra vô cùng độ lượng với Khánh Dư để có chiến thắng ngoạn mục tại Vân Đồn góp phần tạo ra chiến thắng thần thánh chống quân Nguyên xâm lược.

Cuối năm Thiệu Bảo thứ 4 (1282), vua Trần Nhân Tông thăng chức Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, nắm cả quyền quân sự lẫn hành chính. Tuy vậy, trước tình hình áp lực nhà Nguyên gia tăng, cuối năm Thiệu Bảo thứ 5 (1283), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc. Như vậy, về thực quyền quân sự, Hưng Đạo Vương trở thành cấp trên của Chiêu Minh Đại vương.
Mối bất hòa giữa 2 chi họ cũng như bất hòa cá nhân giữa 2 người trở thành một hiểm họa sâu sắc. Nhận ra điều này, Hưng Đạo vương chủ động tìm cách giải hòa. Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải:
"Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói:
"Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Quang Khải cũng nói:
"Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho".
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.
Anh Tú)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét