Làng Bờ Hôồng bên sông Kôn hoang sơ nở nụ cười đón người. Con đường 80km từ Hội An lên sông Kôn qua những đồi chè ngát xanh, thấp thoáng nhà gươl, nhà moong, trang trí bằng rất nhiều sừng trâu và những nhà mồ ping blâng cổ chạm khắc hoa văn, họa tiết tinh tế… Sau chuyến dạo quanh làng, lội suối, qua ruộng cạn và ngâm chân bên suối nước nóng là bữa trưa đủ món đặc sản, bày biện đẹp mắt giữa nụ cười hồn nhiên chân chất của dân làng Cơ Tu. Măng rừng xào, rau dớn, cá suối, gà kho, thịt lợn thả rông… ăn cùng gạo nếp nương hạt to, tròn, dẻo lấy từ những ruộng cạn sau thôn nấu trong ống tre gọi là cơm lam. Với một chút “buoh tà vạt” - đặc sản mà người Cơ Tu đã phải băng rừng tìm cây có buồng nhiều trái “lấy nước”, “đập cây” rất nhiều lần để “nhử nước” làm rượu, đắng nhẹ, tê tê đầu lưỡi đầu bữa ăn – khách đã thấy lòng lâng lâng.
Mặt trời khuất núi, bên đống lửa giữa làng, sơn nữ duyên dáng trong áo váy dân tộc, cổ choàng cườm mã não, xuyến chỉ và những chàng trai đóng khố, ở trần… bước ra từ những căn nhà ẩn mình đâu đó trên những cánh rừng, mở điệu tung tung da dá, cất tiếng gọi người yêu từ những bài hát dân gian.
Đêm trôi qua trong tiếng cười nói rộn rã, trong ánh lửa bập bùng sưởi ấm căn nhà sàn. Nhưng đằng sau cuộc vui kia còn vướng vất chút nỗi buồn, khi trang phục truyền thống của dân làng ít được sử dụng; những điệu múa hay dụng cụ truyền thống, cả những truyền thuyết mà người Cơ Tu thường truyền miệng bên bếp lửa nhà moong có nguy cơ thất truyền. Làm sao để giữ lại? Câu hỏi đau đáu đó đuổi theo chân những người đang thực hiện ý tưởng phục dựng đời sống và cải thiện sinh kế cho làng, những tình nguyện viên dự án Tăng cường hoạt động du lịch của ILO, tại Quảng Nam.
HUYỀN NGUYÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét